Trải qua thời gian, sự can thiệp của giáo quyền đã mang nhiều hình thức khác nhau, và trong hai thế kỷ vừa qua, xem ra khá sâu đậm.
Trong Hội Thánh, tất cả mọi người đều được mời gọi nên thánh, như thánh Tông đồ đã nói: “Điều Thiên Chúa muốn là anh chị em hãy nên thánh” (1Tx 4, 3).
Những chỉ thị cơ bản về những quan hệ giữa các Giám Mục và các tu sĩ trong Giáo Hội: Mutuae Relationes, ngày 14 tháng 5 năm 1978, của Thánh bộ về các Giám mục cùng với Thánh bộ các Tu sĩ và các Tu hội đời.
Để dễ xác định chỗ đứng của toàn thể các Dòng tu, Tu hội và Tu đoàn trong Pháp chế của Giáo Hội, chứng tôi xin nhắc lại đây sơ đồ của quyển II của Bộ Giáo Luật:
Trong tiếng Việt, “đời sống thánh hiến” dần dần đã trở nên quen thuộc. Đây là một thuật ngữ được du nhập vào Bộ Giáo luật 1983 và được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II dùng làm tựa đề cho tông huấn hậu thượng hội đồng 1996.
Thực ra không thiếu những sách “chú giải Bộ Giáo luật về Đời sống Thánh hiến”, nhưng chúng tôi muốn đi theo lối trình bày dưới dạng thức của những câu hỏi, dựa theo tập sách “Directoire canonique”.
Quyển I có tựa đề : “Những qui tắc tổng quát”, gồm 203 điều đề cập đến những qui tắc căn bản để có thể hiểu các từ ngữ pháp lý, cách thức giải thích và áp dụng.
Điều 96 này xét đến người Kitô hữu theo phương diện Giáo luật. Giáo luật đưa ra khái niệm Giáo luật về thể nhân, tức nhân cách pháp lý, nghĩa là nhân vị một con người với các bổn phận và quyền lợi trong Giáo hội.
Một nhiệm vụ, gồm những chức năng (nghĩa vụ) và quyền lợi tương ứng nhằm phục vụ cộng đoàn, bởi vì chức vụ thường mang tính chất cộng đoàn.
Quyển II là quyển quan trọng nhất về độ dài, với 543 điều, chiếm gần 1/3 bộ luật, và về tầm giá trị, có nhiều thay đổi diễn tả tinh thần và đường hướng canh tân của công đồng Vaticanô II.