Tông Huấn

Saturday, 04 April 2020 16:03

Tông Huấn Ecclesia In Asia (Giáo Hội Tại Á Châu) Của ĐGH Gioan Phaolô II (Ngày 06-11-1999) – (2) Featured

TÔNG HUẤN ECCLESIA IN ASIA

(GIÁO HỘI TẠI Á CHÂU)

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

GỞI CÁC GIÁM MỤC, LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ,

CÁC NGƯỜI NAM NỮ SỐNG ĐỜI THÁNH HIẾN,

VÀ TẤT CẢ GIÁO DÂN

HẬU THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC

NGÀY 6 THÁNG 11 NĂM 1999

***

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

***

CHƯƠNG V

HIỆP THÔNG VÀ ĐỐI THOẠI ĐỂ TRUYỀN GIÁO

 

Hiệp Thông và Truyền Giáo Đi Đôi Với Nhau

24. Theo kế hoạch đời đời của Chúa Cha, Giáo Hội, được tiên báo từ lúc khởi đầu thế giới, được chuẩn bị trong Cựu Ước, được Đức Giêsu thiết lập và được Chúa Thánh Thần làm cho hiện diện trong thế gian vào ngày lễ Ngũ Tuần, “lữ hành giữa cơn bách hại của thế gian và trong niềm an ủi của Thiên Chúa”,[1] đang khi tiến đến sự trọn lành trong vinh quang thiên quốc. Bởi vì Thiên Chúa muốn “toàn thể nhân loại trở nên một Dân của Thiên Chúa, làm thành một Thân Thể của Đức Kitô, và được xây dựng thành một đền thờ của Chúa Thánh Thần”,[2] nên Giáo Hội là “kế hoạch hữu hình của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại, là bí tích cứu rỗi”[3] trong trần gian. Do đó Giáo Hội không thể được hiểu thuần tuý như là một tổ chức xã hội hay là cơ quan trợ cấp cho con người. Mặc dầu gồm những con người nam và nữ tội lỗi, Giáo Hội phải được xem như là một nơi dành riêng cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người, nơi Thiên Chúa chọn để mạc khải mầu nhiệm sự sống bên trong của Người và thi hành kế hoạch cứu rỗi cho thế gian.

Mầu nhiệm kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa được làm cho hiện diện và sinh động trong cộng đồng những người nam và người nữ là những kẻ được mai táng trong cái chết với Đức Kitô qua bí tích Rửa Tội, để như Đức Kitô đã chỗi dậy từ kẻ chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha thì họ có thể bước đi trong đời sống mới (x. Rm 6,4). Tại trung tâm của mầu nhiệm Giáo Hội, là sợi dây hiệp thông nối kết Đức Kitô, vị Tân Lang, với tất cả những người được rửa tội. Nhờ sự hiệp thông sống động và ban sự sống này, “các Kitô hữu không thuộc về mình nữa, mà là những người thuộc riêng về Chúa”.[4] Được hợp nhất với Chúa Con trong sợi dây tình yêu của Chúa Thánh Thần, “các Kitô hữu được hiệp nhất với Chúa Cha, và từ sự hiệp thông này tuôn tràn sự hiệp thông mà các Kitô hữu chia sẻ với nhau nhờ Đức Kitô trong Chúa Thánh Thần”.[5] Như vậy mục đích đầu tiên của Giáo Hội là nên bí tích của sự hợp nhất mật thiết của con người với Thiên Chúa, và bởi vì sự hiệp thông giữa con người với nhau được đâm rễ trong sự hiệp nhất với Thiên Chúa, nên Giáo Hội cũng là bí tích hiệp nhất của loài người.[6] Nơi Giáo Hội, sự hiệp nhất này đã bắt đầu; và đồng thời Giáo Hội là “dấu chỉ và khí cụ” của sự thực hiện trọn vẹn sự hiệp nhất còn phải đạt đến.[7]

Một đòi hỏi thiết yếu của sự sống trong Đức Kitô là bất cứ ai đi vào sự hiệp thông với Chúa, thì cần phải sinh hoa trái: “Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Lời nói đó thật đúng đến nỗi người nào không sinh hoa trái thì không ở trong sự hiệp thông: “Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi” (Ga 15,2). Sự hiệp thông với Đức Giêsu, nguồn gốc của sự hiệp thông giữa các Kitô hữu với nhau, là điều kiện cần thiết để sinh hoa trái; và sự hiệp thông với kẻ khác, một ân huệ của Đức Kitô và Thần khí của Người, là hoa trái tốt đẹp nhất mà các cành có thể cho. Theo nghĩa này, sự hiệp thông và việc truyền giáo liên kết với nhau không thể phân ly. Chúng thâm nhập và bao hàm lẫn nhau, đến nỗi “sự hiệp thông diễn tả vừa là nguồn suối vừa là hoa trái của việc truyền giáo: sự hiệp thông phát sinh việc truyền giáo và sự truyền giáo được hoàn tất trong sự hiệp thông”.[8]

Sử dụng khoa thần học về sự hiệp thông, Công Đồng Vatican II có thể diễn tả Giáo Hội như là dân lữ hành của Thiên Chúa mà tất cả các dân tộc đều có liên hệ theo một cách nào đó.[9] Dựa trên căn bản này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh tới mối liên hệ mầu nhiệm giữa Giáo Hội và những người đi theo các tôn giáo khác tại Á Châu, mà lưu ý rằng họ “liên hệ với Giáo Hội trong những cấp độ và cách thức khác nhau”.[10] Giữa bao nhiêu dân tộc, văn hóa và tôn giáo khác nhau, “đời sống của Giáo Hội như sự hiệp thông có tầm quan trọng lớn nhất”.[11] Quả thực, việc phục vụ hiệp thông của Giáo Hội là việc làm đặc biệt thích đáng tại Á Châu, nơi có nhiều căng thẳng, chia rẽ và xung đột, do những khác biệt chủng tộc, xã hội, văn hóa, ngôn ngữ, kinh tế và tôn giáo. Chính trong bối cảnh này mà các Giáo Hội địa phương tại Á Châu, cùng hiệp thông với Đấng kế vị Thánh Phêrô, cần cổ võ một sự hiệp thông lòng trí sâu xa hơn, bằng cách cộng tác chặt chẽ với nhau. Mối liên hệ với những Giáo Hội và các cộng đồng Giáo Hội Kitô khác, và với những người theo các tôn giáo khác cũng rất quan trọng với việc rao giảng Tin Mừng.[12] Do đó, Thượng Hội Đồng tái xác định sự dấn thân của Giáo Hội tại Á Châu trong công việc cải thiện cả những liên hệ đại kết lẫn sự đối thoại liên tôn, bằng cách nhìn nhận rằng xây dựng sự hiệp nhất, thực hiện sự hòa giải, tạo ra những sợi dây liên đới, cổ võ đối thoại giữa các tôn giáo và các nền văn hóa, loại bỏ những thành kiến và đem lại sự tin tưởng giữa các dân tộc, tất cả những điều đó là thiết yếu cho sứ mạng Phúc Âm hóa của Giáo Hội trên lục địa này. Tất cả những điều đó đòi hỏi cộng đồng Công Giáo phải thành thật xét lại lương tâm, can đảm tìm kiếm sự hòa giải và một sự dấn thân mới mẻ cho việc đối thoại. Tại ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, thật rõ ràng rằng khả năng Phúc Âm hóa của Giáo Hội đòi buộc Giáo Hội phải ra sức phục vụ sự hiệp nhất trong tất cả mọi chiều kích. Sự hiệp thông và truyền giáo đi đôi với nhau.

Hiệp Thông Trong Lòng Giáo Hội

25. Tập họp xung quanh Đấng kế vị Thánh Phêrô, cầu nguyện và làm việc với nhau, các Giám Mục dự Hội Nghị Đặc Biệt về Á Châu, cách nào đó đã nhân cách hoá sự hiệp thông của Giáo Hội, trong tất cả sự khác biệt phong phú của các Giáo Hội địa phương mà các ngài lãnh đạo với tình bác ái. Sự hiện diện của chính tôi trong các Khoá Họp Khoáng Đại Thượng Hội Đồng, là một cơ hội tốt để chia sẻ niềm vui và hy vọng, những khó khăn và âu lo của các Giám Mục, và đồng thời là việc thi hành đầy nhiệt huyết và rất sâu sắc về chính thừa tác vụ của tôi. Trên thực tế, chính trong viễn tượng hiệp thông Giáo Hội mà quyền bính phổ quát của Đấng kế vị Thánh Phêrô toả sáng rõ ràng hơn, không phải chủ yếu như là một quyền tài phán trên các Giáo Hội địa phương, nhưng trước hết như là một quyền ưu tiên mục vụ, để phục vụ sự hiệp nhất đức tin và sự sống của toàn thể Dân Chúa. Ý thức đầy đủ rằng “chức vụ Phêrô có nhiệm vụ duy nhất là bảo đảm và cổ võ sự hiệp nhất của Giáo Hội”[13] nên các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng công nhận sự phục vụ mà các cơ quan của Giáo triều Roma và Bộ Ngoại Giao của Tòa Thánh mang lại cho các Giáo Hội tại địa phương, trong tinh thần hiệp thông và đồng đoàn.[14] Một nét chính yếu của sự phục vụ này là sự kính trọng và nhạy cảm mà các cộng tác viên gần của Đấng kế vị Thánh Phêrô bày tỏ trước sự khác biệt chính đáng của Giáo Hội địa phương và sự đa dạng của các nền văn hóa và dân tộc mà các vị đó tiếp xúc.

Mỗi một Giáo Hội riêng phải được đặt nền móng trên chứng tá của sự hiệp thông Giáo hội, vì sự hiệp thông cấu tạo nên chính bản tính của Giáo Hội. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng muốn diễn tả Giáo phận như là một sự hiệp thông các cộng đoàn bao quanh vị Chủ Chăn, nơi đây hàng giáo sĩ, những người sống đời thánh hiến và giáo dân dấn thân vào một “đối thoại đời sống và con tim” được nâng đỡ nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần.[15] Chính trong Giáo phận mà cái nhìn về sự hiệp thông các cộng đoàn được thực hiện giữa những thực tại xã hội, chính trị, tôn giáo, văn hóa, và kinh tế phức tạp tại Á Châu. Sự hiệp thông Giáo Hội bao hàm rằng mỗi Giáo Hội địa phương phải trở nên điều mà các Nghị phụ Thượng Hội Đồng gọi là “một Giáo Hội tham gia” (participatory Church), có nghĩa là một Giáo Hội trong đó mọi người đều sống ơn gọi của riêng mình và chu toàn vai trò của mình. Để xây dựng “sự hiệp thông để truyền giáo”“sự truyền giáo của sự hiệp thông”, thì ơn đoàn sủng độc nhất của mỗi thành viên phải được nhìn nhận, phát triển và sử dụng cho hữu ích.[16] Cách riêng, cần phải để cho người giáo dân và các người nam nữ sống đời thánh hiến, dấn thân nhiều trong việc đặt kế hoạch mục vụ và đưa ra quyết định, nhờ các cơ cấu tham gia như Hội Đồng Mục Vụ và các Hội Đoàn Giáo Xứ.[17]

Trong mỗi Giáo Phận, Giáo xứ vẫn là nơi bình thường để người tín hữu tập hợp và lớn lên trong đức tin, sống mầu nhiệm hiệp thông Giáo Hội và dự phần trong sứ mạng của Giáo Hội. Cho nên, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng thúc giục các Chủ Chăn tìm ra những phương thế mới và hữu hiệu để chăn dắt người tín hữu, làm thế nào để mỗi người, cách riêng người nghèo, sẽ cảm thấy mình thật sự là một thành phần của Giáo xứ và của toàn thể dân Chúa. Sự tham gia của người giáo dân trong việc lên kế hoạch mục vụ phải là một nét bình thường của tất cả các Giáo xứ.[18] Thượng Hội Đồng chọn riêng giới trẻ làm những người mà “Giáo xứ phải dành cho nhiều cơ hội hơn, để họ sống tình bạn và hiệp thông. như tổ chức hiệp hội tông đồ và câu lạc bộ giới trẻ”.[19] Không một người nào bị loại trừ cách tiên thiên, khỏi sự chia sẻ đầy đủ vào đời sống và sứ mạng của Giáo xứ, chỉ vì quá trình xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa hay giáo dục của họ. Vì mỗi người theo Đức Kitô đều có một quà tặng để trao ban cho cộng đoàn, nên cộng đoàn phải có thiện chí đón nhận và hưởng nhờ tặng vật của mỗi người.

Trong bối cảnh này, và theo kinh nghiệm mục vụ của mình, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh giá trị của những cộng đoàn Giáo Hội cơ bản như là một phương thức hiệu nghiệm để cổ võ sự hiệp thông và tham gia trong các Giáo xứ và Giáo phận, và như là một lực lượng đích thực cho việc rao giảng Tin Mừng.[20] Những nhóm nhỏ này giúp người tín hữu sống thành những cộng đoàn tin, cầu nguyện và yêu thương như các Kitô hữu thời đầu (x. Cv 2,44-47; 4,32-35). Các cộng đoàn này có mục đích là giúp đỡ các thành viên của mình sống Tin Mừng trong một tinh thần yêu thương huynh đệ và phục vụ, và do đó chúng là khởi điểm vững chắc để xây dựng một xã hội mới, một diễn tả của nền văn minh tình thương. Cùng với Thượng Hội Đồng, tôi khuyến khích Giáo Hội tại Á Châu, nơi nào có thể, thì xem những cộng đoàn cơ bản này như là một nét tích cực của hoạt động truyền giáo của Giáo Hội. Đồng thời, các cộng đoàn này chỉ có thể mang lại hiệu quả đích thực nếu - như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI viết - chúng hiệp nhất với Giáo Hội địa phương và Giáo Hội hoàn vũ, trong sự hiệp thông chân tình với các vị Chủ Chăn của Giáo Hội và với Huấn Quyền, biết dấn thân mở rộng việc truyền giáo và không theo chủ nghĩa biệt lập hay sự khai thác ý thức hệ.[21] Sự hiện diện của những cộng đoàn nhỏ này không làm cho vô hiệu những thể chế và cơ cấu đã được thiết lập, vẫn còn cần thiết để Giáo Hội hoàn thành sứ vụ của mình.

Thượng Hội Đồng cũng nhìn nhận vai trò của những phong trào canh tân, để xây dựng sự hiệp thông, để tạo điều kiện thuận lợi giúp có kinh nghiệm thân mật hơn với Thiên Chúa qua đức tin và các Bí Tích, và để cổ võ việc hoán cải đời sống.[22] Trách nhiệm của các Chủ Chăn là hướng dẫn, đồng hành và khích lệ những nhóm đó để họ có thể hội nhập vào đời sống và sứ mạng của Giáo xứ và Giáo phận. Những ai dấn thân vào trong các hiệp hội và phong trào, phải trợ giúp Giáo Hội tại địa phương và đừng có coi mình như là những gì thay thế cho những cơ cấu Giáo phận và đời sống Giáo xứ. Sự hiệp thông lớn mạnh hơn khi các lãnh đạo địa phương của các phong trào này làm việc chung với các vị Chủ Chăn trong tinh thần bác ái vì lợi ích chung (x. 1Cr 1,13).

Tình Liên Đới Giữa Các Giáo Hội

26. Sự hiệp thông nội bộ góp phần tạo ra tình liên đới giữa các Giáo Hội địa phương. Việc chú ý tới các nhu cầu địa phương là điều chính đáng và cần thiết, nhưng sự hiệp thông đòi hỏi các Giáo Hội địa phương cởi mở đón tiếp lẫn nhau và cộng tác với nhau, để trong sự khác biệt, họ có thể gìn giữ và tỏ bày rõ ràng mối giây hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ. Sự hiệp thông đòi hỏi phải hiểu biết lẫn nhau và một đường lối truyền giáo có phối hợp, mà không làm tổn hại sự độc lập và các quyền của các Giáo Hội, theo truyền thống thần học, phụng vụ và thiêng liêng của riêng từng Giáo Hội. Tuy nhiên lịch sử cho thấy rằng các mối chia rẽ thường đã làm tổn thương sự hiệp thông của các Giáo Hội tại Á Châu. Suốt bao thế kỷ, các mối liên hệ giữa các Giáo Hội địa phương thuộc các quyền tài phán khác nhau, các truyền thống phụng vụ và các phương cách truyền giáo, nhiều khi căng thẳng và khó khăn. Các Giám Mục hiện diện tại Thượng Hội Đồng nhìn nhận rằng, ngay cả ngày hôm nay, trong nội bộ và giữa các Giáo Hội địa phương tại Á Châu, thỷnh thoảng xảy ra những chia rẽ đáng tiếc, thường liên can đến những khác biệt về nghi lễ, ngôn ngữ, chủng tộc, đẳng cấp và ý thức hệ. Một số vết thương đã được chữa lành phần nào, nhưng chưa lành hẳn. Nhìn nhận rằng nơi nào sự hiệp thông bị suy yếu, thì chứng tá của Giáo Hội và công việc truyền giáo bị thiệt hại, nên các Nghị Phụ đề nghị những bước cụ thể để gia tăng mối liên hệ giữa các Giáo Hội địa phương tại Á Châu. Ngoài những diễn tả cần thiết về mặt thiêng liêng như cổ vũ và khuyến khích, các ngài gợi ý có sự phân bổ đều hơn các linh mục, sự liên đới tài chánh hữu hiệu hơn, những trao đổi văn hóa và thần học, và tăng thêm những dịp thông hiệp giữa các Giáo phận.[23]

Những hiệp hội Giám mục cấp vùng hay cấp lục địa, đáng chú ý là Hội Đồng các Thượng Phụ Giáo Chủ Trung Đông và Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu, đã góp phần cổ võ sự hiệp nhất giữa các Giáo Hội địa phương và đã là nơi gặp gỡ để cộng tác giải quyết những vấn đề mục vụ. Cũng vậy, có nhiều trung tâm thần học, tu đức và hoạt động mục vụ tại Á Châu đã cổ võ sự hiệp thông và hợp tác cụ thể.[24] Tất cả phải quan tâm lo cho các sáng kiến đầy hứa hẹn đó được phát triển hơn nữa vì lợi ích vừa của Giáo Hội vừa của xã hội tại Á Châu.

Những Giáo Hội Công Giáo Đông Phương

27. Hoàn cảnh các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, nhất là ở Trung Đông và Ấn độ đáng lưu ý cách riêng. Từ thời các Tông Đồ, các Giáo Hội đó đã nắm giữ một gia sản thiêng liêng, phụng vụ và thần học quý báu. Những truyền thống và nghi lễ của các Giáo Hội ấy, phát sinh từ việc hội nhập văn hóa sâu xa của đức tin trong phần đất của nhiều quốc gia Á Châu, đáng được sự kính trọng nhất. Cùng với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, tôi kêu gọi mọi người nhìn nhận những tập quán chính đáng và sự tự do chính đáng của các Giáo Hội này trong các vấn đề kỷ luật và phụng vụ, như được qui định trong bộ giáo luật của các Giáo Hội Đông Phương.[25] Theo giáo huấn của Công Đồng Vatican II, có một nhu cầu cấp bách vượt thắng những sợ hãi và hiểu lầm thỷnh thoảng xuất hiện giữa các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương và Giáo Hội La tinh, và giữa các Giáo Hội này với nhau, đặc biệt trong việc chăm sóc mục vụ cho các tín hữu của mình, cả bên ngoài địa hạt của mình.[26] Là con cái của một Giáo Hội duy nhất, được tái sinh vào sự sống mới trong Đức Kitô, các tín hữu được mời gọi gánh vác mọi sự trong sự quan tâm đến mục đích chung, trong một tinh thần tin tưởng và bác ái không lay chuyển. Không nên để những xung đột tạo nên chia rẽ, nhưng ngược lại phải giải quyết trong tinh thần chân lý và kính trọng, bởi vì không có sự thiện hảo nào đến mà không do tình yêu.[27]

Những Giáo Hội đáng kính này đã trực tiếp dấn thân vào cuộc đối thoại đại kết với các Giáo Hội Chính Thống đàn chị, và các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng thúc giục họ tiếp tục con đường đó.[28] Các Giáo Hội ấy cũng đã có kinh nghiệm đáng giá trong việc đối thoại liên tôn, nhất là với Hồi giáo. Điều đó có thể hữu ích cho các Giáo Hội khác tại Á Châu và bất cứ nơi nào khác. Rõ ràng là các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương có một sự phong phú lớn lao về truyền thống và kinh nghiệm có thể đem lại nhiều lợi ích cho toàn thể Giáo Hội.

Chia Sẻ Những Hy Vọng Và Đau Khổ

28. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng ý thức về sự cần thiết giữ một sự hiệp thông và hợp tác hữu hiệu với các Giáo Hội địa phương tại các phần đất Liên Xô cũ ở Á Châu, những Giáo Hội đang tái thiết trong những hoàn cảnh đầy thử thách do thời kỳ khó khăn lịch sử để lại. Giáo Hội đồng hành với họ trong lời cầu nguyện, chia sẻ những đau khổ và hy vọng mới tìm lại được của họ. Tôi khuyến khích toàn thể Giáo Hội nâng đỡ họ về mặt tinh thần, thiêng liêng và vật chất, và cung ứng cho họ các thừa tác viên giáo sĩ hay giáo dân mà họ rất cần, để giúp đỡ những cộng đồng này trong công tác chia sẻ với các dân tộc những vùng đất này tình yêu của Thiên Chúa được mạc khải trong Đức Kitô.[29]

Trong nhiều phần đất Á Châu, anh chị em chúng ta tiếp tục sống đức tin giữa những hạn chế hay là có khi mất hoàn toàn tự do. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng bày tỏ sự quan tâm và lo lắng cách riêng đối với những thành viên đang đau khổ này. Cùng với các Giám Mục Á Châu, tôi tha thiết xin anh chị em của các Giáo Hội đang gặp khó khăn này, biết kết hợp các đau khổ của mình với các đau khổ của Chúa chịu đóng đinh, bởi vì chúng ta và họ đều biết duy chỉ có thánh giá, khi bằng lòng vác trong đức tin và tình yêu, mới là con đường phục sinh và ban sự sống mới cho nhân loại. Tôi khuyến khích các Hội đồng Giám Mục quốc gia tại Á Châu thiết lập một văn phòng để giúp đỡ các Giáo Hội này, và tôi cam kết Tòa Thánh tiếp tục gần gũi và lo lắng cho tất cả những ai đang bị bắt bớ vì niềm tin vào Đức Kitô.[30] Tôi kêu gọi các chính phủ và các vị lãnh đạo quốc gia chấp nhận và thực hiện những chính sách bảo đảm tự do tôn giáo cho tất cả các công dân của mình.

Trong nhiều dịp, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nghĩ tới Giáo Hội Công Giáo tại lục địa Trung Hoa, và cầu nguyện cho sớm tới ngày anh chị em Trung Hoa thân mến của chúng ta được hoàn toàn tự do thực hành đức tin của mình trong sự hiệp thông hoàn toàn với Tòa Thánh Phêrô và Giáo Hội hoàn vũ. Hỡi những anh chị em Trung Hoa thân mến, tôi tha thiết gởi lời nhắn nhủ này với anh chị em: đừng bao giờ để những gian khổ và buồn phiền làm giảm sút lòng sốt mến của anh chị em đối với Đức Kitô và sự dấn thân của anh chị em đối với quê hương vĩ đại của anh chị em.[31] Thượng Hội Đồng cũng bày tỏ sự liên đới chân tình với Giáo Hội Công Giáo tại Triều Tiên, và ủng hộ “những nỗ lực của người Công Giáo nhằm trợ giúp dân chúng Bắc Triều Tiên đang thiếu thốn những phương tiện tối thiểu để sống còn, và mang lại hòa giải giữa hai quốc gia có cùng một chủng tộc, một ngôn ngữ và một gia sản văn hóa”.[32]

Cũng vậy, Thượng Hội Đồng thường nghĩ tới Giáo Hội tại Giêrusalem, một Giáo Hội có chỗ đứng đặc biệt trong con tim của mọi Kitô hữu. Quả vậy, những lời nói của ngôn sứ Isaia vang dội trong con tim hàng triệu người tín hữu khắp thế giới, đối với họ Giêrusalem chiếm một chỗ đứng duy nhất và thân ái: “Hãy vui mừng với Giêrusalem, hãy vì thành Giêrusalem mà hoan hỷ, hỡi tất cả những người yêu mến thành đô!. để được thoả thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ” (66,10-11). Giêrusalem, đô thị của sự hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau, đã nhiều phen là một nơi xung đột và chia rẽ. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng kêu gọi các Giáo Hội địa phương biểu lộ một sự liên đới với Giáo Hội tại Giêrusalem, bằng cách chia sẻ những đau buồn, cầu nguyện và hợp tác với Giáo Hội này nhằm phục vụ hòa bình, công bình và hòa giải giữa hai dân tộc và ba tôn giáo hiện diện trong Thành Thánh này.[33] Tôi lập lại lời kêu gọi mà tôi thường gởi đến các vị lãnh đạo chính trị và tôn giáo và mọi người thiện chí, nhằm tìm kiếm những phương thức bảo đảm hòa bình và sự toàn vẹn cho Giêrusalem. Như tôi đã viết, tôi tha thiết ước mong làm một chuyến hành hương tôn giáo tới đó, như vị Tiền Nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, để cầu nguyện trong thành thánh nơi Đức Giêsu Kitô đã sống, đã chết và đã chổi dậy và viếng nơi mà, trong quyền lực Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã ra đi rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô cho thế giới.[34]

Một Sứ Mạng Đối Thoại

29. Chủ đề chung của các Thượng Hội Đồng “lục địa” khác nhau nhằm chuẩn bị Đại Năm Thánh năm 2000, đó là Tân Phúc Âm hóa. Một thời kỳ mới của việc loan báo Tin Mừng là cần thiết, không những vì, sau hai ngàn năm, một phần lớn gia đình nhân loại còn chưa biết Đức Kitô, nhưng cũng vì hoàn cảnh mà Giáo Hội và thế giới đang sống ở ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, gợi lên những thách đố đặc biệt đối với niềm tin tôn giáo và những chân lý luân lý phát sinh từ đó. Gần như nơi nào cũng có khuynh hướng xây dựng sự tiến bộ và sự thịnh vượng mà không hề qui chiếu về Thiên Chúa, và khuynh hướng thu gọn chiều kích tôn giáo của con người vào lãnh vực riêng tư. Xã hội nào tách biệt khỏi chân lý nền tảng nhất về con người, nghĩa là mối tương quan với Đấng Tạo Hóa và sự cứu chuộc do Đức Kitô thực hiện trong Chúa Thánh Thần thì chỉ có thể càng ngày càng lạc xa nguồn mạch đích thật của sự sống, tình yêu và hạnh phúc. Thế kỷ đầy tàn bạo này, đang đến hồi kết thúc, đưa ra một chứng tá khủng khiếp về cái gì có thể xảy ra khi chân lý và sự thiện bị bỏ qua, để chạy theo sự tham lam quyền lực và mở rộng quyền hành cho mình. Việc Tân Phúc Âm hóa, như là một lời mời gọi hoán cải, hướng về ân sủng và khôn ngoan, là niềm hy vọng đích thực và duy nhất về một thế giới tốt đẹp hơn và một tương lai sáng sủa hơn. Vấn đề không phải là Giáo Hội có điều gì căn bản để nói với những con người nam nữ của thời đại chúng ta, nhưng Giáo Hội có thể nói điều đó cách nào cho rõ ràng và xác tín!

Thời gian họp Công Đồng Vatican II, vị tiền nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, trong Thông điệp Ecclesiam suam, đã tuyên bố rằng vấn đề mối tương quan giữa Giáo Hội và thế giới Tân thời, là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thời đại chúng ta. Ngài viết rằng “sự hiện hữu của nó và sự cấp bách của nó, như thể tạo nên một gánh nặng trên tâm hồn chúng ta, tạo ra một kích thích, một ơn gọi”.[35] Kể từ Công Đồng, Giáo Hội luôn tỏ ra rằng mình muốn theo đuổi mối tương quan đó trong tinh thần đối thoại. Tuy nhiên ước muốn đối thoại không phải đơn thuần là một chiến lược để chung sống hòa bình giữa các dân tộc, nó còn là một phần chủ yếu của sứ mạng Giáo Hội, bởi vì nó bắt nguồn từ sự đối thoại cứu rỗi đầy yêu thương của Chúa Cha với nhân loại qua Chúa Con trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Giáo Hội chỉ có thể hoàn thành sứ mạng mình theo một cách thức phù hợp với cách thức mà Thiên Chúa đã hành động trong Đức Giêsu Kitô: trở nên người phàm, chia sẻ đời sống nhân loại chúng ta và nói bằng ngôn ngữ con người để truyền thông sứ điệp cứu rỗi của Người. Sự đối thoại mà Giáo Hội đề nghị, đặt nền tảng trên cái logic của mầu nhiệm Nhập Thể. Do đó, không gì ngoài tình liên đới nhiệt thành và vô vị lợi thúc giục Giáo Hội đối thoại với những người nam nữ Á Châu, là những người đang tìm kiếm chân lý trong tình yêu.

Là bí tích hiệp nhất toàn thể nhân loại, Giáo Hội không thể không đi vào cuộc đối thoại với các dân tộc, trong mọi lúc và mọi nơi. Đáp trả với sứ mạng đã lãnh nhận, Giáo Hội dám đi gặp các dân tộc trên thế giới, ý thức rằng mình là “một đoàn chiên bé nhỏ” giữa đám đông bao la nhân loại (x. Lc 12,32), nhưng cũng là men trong đấu bột của thế giới (x. Mt 13,33). Trước hết, Giáo Hội cố gắng dấn thân đối thoại với những kẻ chia sẻ niềm tin với mình vào Đức Giêsu Kitô, là Chúa và Đấng Cứu Độ. Sự đối thoại trải rộng ra ngoài thế giới Kitô giáo, tới những kẻ theo mọi truyền thống tôn giáo khác, dựa trên nền tảng là khát vọng tôn giáo có trong tâm hồn mọi người. Đối thoại đại kết và đối thoại liên tôn tạo thành một ơn gọi đích thật của Giáo Hội.

Đối Thoại Đại Kết

30. Đối thoại đại kết là một thách đố và là một lời mời gọi hoán cải đối với toàn thể Giáo Hội, cách riêng đối với Giáo Hội tại Á Châu, nơi mà dân chúng trông chờ nơi người Kitô hữu một dấu chỉ rõ nét hơn về sự hợp nhất. Để cho mọi dân tộc qui tụ lại dưới tác động của ân sủng Chúa, thì cần phải khôi phục sự hiệp thông giữa những kẻ, trong đức tin, đã nhìn nhận Đức Giêsu Kitô là Chúa. Chính Đức Giêsu đã cầu nguyện và không ngừng kêu gọi các môn đệ hợp nhất với nhau, để thế gian có thể tin rằng Chúa Cha đã sai Người (x. Ga 17,21).[36] Nhưng ý của Chúa muốn cho Giáo Hội nên một, còn trông chờ sự đáp trả hoàn toàn và can đảm từ phía các môn đệ của Người.

Tại Á Châu, do số Kitô hữu tương đối ít, nên sự chia rẽ càng làm cho công việc truyền giáo trở nên khó khăn hơn. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhìn nhận rằng “gương xấu của một Kitô giáo chia rẽ, là một ngăn trở lớn cho việc rao giảng Tin Mừng tại Á Châu”.[37] Quả thực, nhiều người tại Á Châu đang đi tìm sự hòa hợp và hiệp nhất qua các tôn giáo và văn hóa của họ, coi sự chia rẽ giữa các Kitô hữu như là một phản chứng với Đức Giêsu Kitô. Do đó Giáo Hội Công Giáo tại Á Châu đặc biệt cảm thấy bị thúc đẩy hợp nhất với các Kitô hữu khác, và nhận thức rằng tìm kiếm sự hòa hợp đầy đủ đòi hỏi mỗi người phải có lòng bác ái, sự biện phân, lòng can đảm và niềm hy vọng. “Muốn trở nên xác thực và mang lại kết quả, phong trào đại kết đòi hỏi một số trạng thái tinh thần cơ bản về phía người tín hữu Công Giáo: trước hết là đức ái, với một cái nhìn đầy thiện cảm và ước muốn hăng say hợp tác, nơi nào có thể được, với tín hữu của các Giáo Hội và của các cộng đoàn Giáo Hội khác; hai là, lòng trung thành với Giáo Hội Công Giáo, không vì thế mà phớt lờ hoặc phủ nhận những khuyết điểm nơi một số thành phần của Giáo Hội; ba là, một tinh thần biết biện phân để thấy giá trị của tất cả những gì là tốt và đáng ngợi khen. Sau cùng, một ước muốn thanh tẩy và đổi mới chân thành cũng là điều cần thiết”.[38]

Đang khi công nhận những khó khăn còn tồn tại trong các liên hệ giữa người Kitô hữu, những khó khăn đó bao gồm không những các thành kiến trong quá khứ, mà còn những phê phán ăn rễ sâu trong các niềm xác tín đụng chạm tới lương tâm,[39] các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng chỉ rõ những dấu chỉ về các liên hệ được cải thiện giữa một số Giáo Hội Kitô giáo và những cộng đồng Giáo Hội tại Á Châu. Những Kitô hữu Công Giáo và Chính thống giáo, chẳng hạn, thường nhìn nhận một sự thống nhất văn hóa với nhau, một cảm thức chia sẻ các yếu tố quan trọng của một truyền thống Giáo Hội chung. Điều đó làm thành một nền tảng vững chắc để tiếp tục cuộc đối thoại đại kết có hiệu quả trong ngàn năm sắp tới. Chúng ta phải hy vọng và cầu nguyện cho ngàn năm sắp tới này chấm dứt mọi chia rẽ của ngàn năm sắp kết thúc.

Trên bình diện thực hành, Thượng Hội Đồng đề nghị các Hội Đồng Giám Mục quốc gia tại Á Châu, mời những Giáo Hội Kitô giáo khác liên kết trong một tiến trình cầu nguyện và trao đổi, để nghiên cứu khả năng hình thành các cơ cấu và hiệp hội đại kết nhằm cổ võ sự hiệp nhất Kitô giáo. Gợi ý của Thượng Hội Đồng muốn cho Tuần lễ Cầu Nguyện cho sự Hiệp Nhất Kitô giáo được cử hành cách có kết quả hơn, cũng là một trợ giúp. Các Giám Mục được khích lệ thiết lập và trông nom các trung tâm đại kết để cầu nguyện và đối thoại; và sự đào tạo thích đáng cho việc đối thoại đại kết cần phải được đem vào chương trình giảng dạy tại các chủng viện, các nhà huấn luyện và những cơ sở giáo dục.

Đối Thoại Liên Tôn

31. Trong Tông Thư Tertio Millenio Adveniente, tôi đã trình bày rằng biến cố ngàn năm mới là một dịp lớn để đối thoại liên tôn và để gặp gỡ các nhà lãnh đạo những tôn giáo lớn thế giới.[40] Tiếp xúc, đối thoại và hợp tác với những người theo các tôn giáo khác, là một trách nhiệm mà Công Đồng Vatican II trối lại cho toàn thể Giáo Hội như là một bổn phận và một thách đố. Những nguyên tắc để tìm kiếm một tương giao tích cực với các truyền thống tôn giáo khác, đã được trình bày trong Tuyên Ngôn Nostra Aetate của Công Đồng, ban hành ngày 28 tháng 10 năm 1965, đó là bản Đại Hiến Chương về đối thoại liên tôn của thời đại chúng ta. Đứng từ quan điểm Kitô giáo, đối thoại kiên tôn còn hơn là một cách thức cổ võ sự hiểu biết và làm giàu cho nhau; đó là thành phần của sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội, một diễn tả của sứ vụ đến với dân ngoại (Ad Gentes).[41] Người Kitô hữu mang đến cho cuộc đối thoại liên tôn niềm xác tín vững chắc rằng ơn cứu độ trọn vẹn chỉ đến từ Đức Kitô và cộng đoàn Giáo Hội mà họ thuộc về, là một phương tiện bình thường của sự cứu rỗi.[42] Ở đây tôi lập lại điều tôi đã viết cho khoá họp khoáng đại lần thứ 5 của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu: “Mặc dầu Giáo Hội vui mừng công nhận bất cứ cái gì là chân thật và thánh thiêng trong các truyền thống đạo Phật, đạo Hindu và đạo Hồi, như là một phản ảnh của chân lý soi sáng muôn dân, điều đó không làm giảm thiểu bổn phận và quyết tâm của Giáo Hội, đó là rao giảng không do dự về Đức Giêsu Kitô, Đấng là “đường, là sự thật và là sự sống”. Sự kiện những kẻ theo các tôn giáo khác có thể nhận lãnh ân sủng của Thiên Chúa và được Đức Kitô cứu độ không bằng những phương tiện bình thường Người đã thiết lập, không vì thế mà hủy bỏ mời gọi lãnh nhận đức tin và phép Thánh tẩy mà Thiên Chúa muốn cho mọi người”.[43]

Trong quá trình đối thoại, như tôi đã viết trong Thông điệp Redemptoris Missio, “không thể loại bỏ các nguyên tắc, cũng không nên chủ trương hòa giải giả tạo (irenicism), nhưng ngược lại, phải làm chứng lẫn cho nhau để cùng nhau tiến bước trên con đường tìm kiếm và sống kinh nghiệm tôn giáo, và đồng thời loại bỏ được những tiên kiến, bất bao dung và hiểu lầm”.[44] Chỉ những người có đức tin Kitô giáo trưởng thành và xác tín, mới có tư cách dấn thân vào việc đối thoại liên tôn chân chính. “Chỉ những Kitô hữu được dìm sâu vào trong mầu nhiệm Đức Kitô và sống hạnh phúc trong cộng đồng đức tin của họ, mới có thể dấn thân vào việc đối thoại liên tôn, mà tránh được sự liều lĩnh không đáng và có hy vọng hái được hoa quả tích cực”.[45] Do đó, điều quan trọng tại Á Châu là cung cấp những kiểu mẫu xứng hợp cho cuộc đối thoại liên tôn - Phúc Âm hóa trong đối thoại và đối thoại để Phúc Âm hóa - và sự đào tạo xứng hợp cho những ai dấn thân vào đó.

Khi đã nhấn mạnh về sự cần thiết của sự đối thoại liên tôn để tiến tới một đức tin vững mạnh trong Đức Kitô, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nói tiếp về sự cần thiết phải đối thoại bằng cuộc sống và con tim (dialogue of life and heart). Môn đệ Đức Kitô phải có tấm lòng hiền lành và khiêm nhượng của Thầy mình, không bao giờ tỏ ra kiêu căng, không bao giờ có thái độ hạ cố, khi gặp những đối tác trong cuộc đối thoại (x. Mt 11,29). “Những liên hệ liên tôn được phát huy tốt nhất trong khung cảnh cởi mở với những tín hữu khác, một thái độ sẵn sàng lắng nghe, ước muốn kính trọng và hiểu biết kẻ khác trong sự khác biệt của họ. Để đạt được tất cả điều đó, cần phải thương yêu kẻ khác. Điều đó phải dẫn đến sự hợp tác, hòa hợp và làm giàu cho nhau”.[46]

Để hướng dẫn những người dấn thân trong tiến trình này, Thượng Hội Đồng gợi ý soạn thảo một cuốn kim chỉ nam về đối thoại liên tôn.[47] Đang khi Giáo Hội thăm dò những thể thức mới để gặp gỡ các tôn giáo khác, tôi nhắc lại một số hình thức đối thoại đã thực hiện được và có kết quả tốt, gồm có những trao đổi nghiên cứu giữa các chuyên viên trong nhiều truyền thống tôn giáo khác nhau hay những đại diện của các truyền thống này, hành động chung nhằm phát triển toàn diện con người và bênh vực các giá trị nhân bản và tôn giáo.[48] Tôi nhắc lại là thật quan trọng biết bao việc làm sinh động lại sự cầu nguyện và chiêm ngưỡng trong quá trình đối thoại. Các người nam và nữ trong đời sống thánh hiến, có thể góp phần rất có ý nghĩa trong việc đối thoại liên tôn, bằng cách làm chứng cho sức mạnh của các truyền thống lớn Kitô giáo, là chủ thuyết khổ chế và thần bí.[49]

Cuộc gặp gỡ đáng ghi nhớ tại Assisi, thành phố của thánh Phanxicô, ngày 27 tháng 10 năm 1986, giữa Giáo Hội Công Giáo và đại biểu các tôn giáo khác trên thế giới, chứng tỏ rằng các người nam nữ có tôn giáo, tuy không bỏ các truyền thống riêng của mình, vẫn còn có thể dấn thân vào việc cầu nguyện và kiến tạo hòa bình thịnh vượng cho nhân loại.[50] Giáo Hội phải tiếp tục cố gắng gìn giữ và cổ võ, ở mọi cấp bậc, tinh thần gặp gỡ và hợp tác giữa các tôn giáo đó.

Sự hiệp thông và đối thoại là hai khía cạnh thiết yếu của sứ mạng Giáo Hội. Sứ mạng đó có một tấm gương vô cùng nổi bật trong mầu nhiệm Ba Ngôi, từ đó phát xuất mọi sứ mạng và từ đó mọi sứ mạng phải hướng tới. Một trong những món quà “sinh nhật” quý báu mà các thành viên của Giáo Hội, và nhất là các vị Chủ chăn của Giáo Hội, có thể dâng lên Đức Chúa của lịch sử nhân dịp kỷ niệm hai ngàn năm của mầu nhiệm Nhập Thể, là tăng cường tinh thần hiệp nhất và hiệp thông ở mọi cấp bậc đời sống Giáo Hội, là sự “hãnh diện thánh thiện” được đổi mới qua sự liên lỉ trung thành của Giáo Hội đối với những sự gì đã được ban cho, và là một sự tin tưởng mới mẻ vào ân sủng và sứ mạng bất biến đã sai Giáo Hội đi giữa các dân tộc trên thế giới để làm chứng cho tình yêu cứu chuộc và lòng thương xót của Thiên Chúa. Chỉ khi nào Dân Chúa nhìn nhận ân huệ là của mình trong Đức Kitô, thì họ mới có khả năng thông truyền ân huệ đó sang cho kẻ khác nhờ sự rao giảng và đối thoại.

***

CHƯƠNG VI

PHỤC VỤ CHO SỰ THĂNG TIẾN CON NGƯỜI

 

Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội

32. Trong việc phục vụ gia đình nhân loại, Giáo Hội tìm cách tiếp cận với mọi người nam nữ không phân biệt, ra sức cùng với họ xây dựng một nền văn minh tình yêu, đặt nền móng trên những giá trị phổ biến của hòa bình, công lý, liên đới và tự do, những giá trị đó tìm thấy sự viên mãn trong Đức Kitô. Như Công Đồng Vatican II đã nói qua những lời đáng ghi nhớ: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Đức Kitô. Quả thực, không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ”.[51] Như vậy, Giáo Hội tại Á Châu, với đám đông dân chúng nghèo khổ và bị áp bức, được kêu gọi sống một sự hiệp thông đời sống. Sự hiệp thông đời sống này biểu lộ cách riêng trong việc phục vụ đầy yêu thương đối với các người nghèo và không được ai bênh đỡ.

Nếu trong thời gian gần đây, Huấn Quyền Giáo Hội càng ngày càng nhấn mạnh đến nhu cầu cổ võ sự phát triển đích thực và toàn vẹn con người,[52] đó là có ý đáp ứng với hoàn cảnh hiện thực của các dân tộc trên thế giới, cũng như với một ý thức càng ngày càng gia tăng về sự kiện này là không chỉ các hành động của từng cá nhân, mà cả các cấu trúc của đời sống xã hội, chính trị và kinh tế, thường thù nghịch với hạnh phúc con người. Tình trạng mất cân bằng do khoảng cách càng ngày càng xa giữa những người hưởng lợi nhờ khả năng tăng trưởng của thế giới trong việc sản xuất của cải, và những người bị bỏ rơi bên lề sự phát triển, đòi hỏi phải sửa đổi tận gốc cả não trạng lẫn các cấu trúc nhắm lợi ích cho con người. Thách đố luân lyù lớn đối với các quốc gia và các cộng đồng quốc tế liên quan đến sự phát triển, là phải can đảm sống tình liên đới mới, có khả năng nghĩ ra và thực hiện những bước vượt thắng cả việc chậm phát triển bất nhân và việc “phát triển quá mức” có khuynh hướng giản lược con người thành một đơn vị kinh tế trong một mạng lưới tiêu thụ càng ngày càng có tính chất áp bức. Trong khi tìm cách cổ võ sự thay đổi đó, “Giáo Hội không có những giải pháp kỹ thuật để cống hiến”, nhưng “cống hiến sự đóng góp đầu tiên của mình cho việc giải quyết vấn đề cấp bách của phát triển, khi Giáo Hội loan báo chân lý về Đức Kitô, về chính mình và về con người, bằng cách áp dụng chân lý đó vào một hoàn cảnh cụ thể”.[53] Rốt cuộc, sự phát triển con người không bao giờ chỉ là một vấn đề thuần kỹ thuật và kinh tế; nhưng cơ bản là một vấn đề nhân bản và luân lý.

Học thuyết xã hội của Giáo Hội, khi đề nghị một loạt những nguyên tắc để suy tư, những tiêu chuẩn để phán đoán và những hướng dẫn để hành động,[54] trước tiên nhắm tới những thành viên của Giáo Hội. Điều thiết yếu là người tín hữu dấn thân trong việc thăng tiến con người, phải nắm chắc toàn bộ học thuyết quý báu này, và xem đó như một phần nguyên vẹn của sứ mạng rao giảng Tin Mừng của mình. Vì thế các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhấn mạnh tầm quan trọng phải trao ban cho người tín hữu - trong tất cả mọi hoạt động giáo dục, và đặc biệt trong các chủng viện và những nơi đào tạo - một nền huấn luyện vững chắc về học thuyết xã hội của Giáo Hội.[55] Các nhà lãnh đạo Kitô hữu trong Giáo Hội và xã hội, và cách riêng các giáo dân nam nữ đang giữ trách nhiệm trong đời sống công cộng, cần được huấn luyện đầy đủ về học thuyết này, để họ có thể gợi hứng và ban sức sống cho xã hội dân sự cũng như các cấu trúc của nó bằng chất men Tin Mừng.[56] Học thuyết xã hội của Giáo Hội không những sẽ nhắc nhở các nhà lãnh đạo Kitô hữu đó về bổn phận của họ, mà còn đem đến cho họ những hướng dẫn để hành động nhằm phát triển con người, và giải thoát họ khỏi những quan niệm dối trá về con người và hoạt động của con người.

Phẩm Giá Con Người

33. Con người, chứ không phải của cải hay kỹ thuật, là tác nhân chính và mục đích của sự phát triển. Vì thế, loại phát triển mà Giáo hội cổ võ, vượt quá những vấn đề kinh tế và kỹ thuật. Nó bắt đầu và kết thúc với sự nguyên vẹn của con người, được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa và được Thiên Chúa ban cho một phẩm giá và các nhân quyền không thể bị tước bỏ. Những tuyên ngôn quốc tế khác nhau về nhân quyền và về nhiều sáng kiến do các tuyên ngôn đó khởi xướng, là dấu chỉ của sự quan tâm càng ngày càng lớn hơn trên bình diện hoàn cầu tới phẩm giá của con người. Vô phúc thay, những tuyên ngôn đó thường bị vi phạm trong thực hành. Năm mươi năm sau khi long trọng công bố Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, nhiều người còn phải chịu những hình thức bóc lột và lừa bịp đê hèn nhất, biến con người thành những nô lệ thực sự cho những kẻ quyền thế hơn, cho một ý thức hệ, cho những thế lực kinh tế, những hệ thống chính trị đàn áp, cho chủ nghĩa kỹ thuật khoa học hay sự xâm nhập của các phương tiện truyền thông.[57]

Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng biết rõ những vi phạm liên tục về các quyền con người trong nhiều nơi trên thế giới, và cách riêng tại Á Châu, nơi “hàng triệu người đang đau khổ do sự kỳ thị, bóc lột, nghèo đói và loại trừ”.[58] Các ngài khẳng định rằng các dân tộc tại Á Châu cần hiểu rõ thách đố không tránh được và không loại bỏ được, gắn liền với việc bênh vực nhân quyền và cổ võ công lý và hòa bình.

Tình Yêu Ưu Tiên Dành Cho Người Nghèo

34. Khi tìm cách thăng tiến nhân phẩm, Giáo Hội bày tỏ một tình yêu ưu tiên dành cho người nghèo và những kẻ không có tiếng nói, bởi vì Chúa đã đồng hoá với họ một cách đặc biệt (x. Mt 25,40). Tình yêu không loại trừ ai, nhưng có một ưu tiên phục vụ mà toàn thể truyền thống Kitô giáo minh chứng. “Tình yêu ưu tiên dành cho người nghèo đó, cùng với những quyết định mà nó gợi hứng trong ta, không thể không ôm ấp đám đông những người đói khát, thiếu thốn, những người vô gia cư, những kẻ không được chăm sóc thuốc men và, trên hết, những kẻ không hy vọng có được một tương lai tốt đẹp hơn. Không thể không ghi nhận sự hiện hữu những thực tại này. Phớt lờ chúng tức là trở thành giống như người giàu có làm như vẻ không biết đến người nghèo Ladarô đang nằm ngoài cổng nhà mình” (x. Lc 16,19-31).[59] Điều nói trên đúng cách riêng đối với Á Châu, một lục địa đầy dẫy tài nguyên và những nền văn minh lớn, mà cũng là nơi người ta gặp thấy một số nước nghèo nhất thế giới, và cũng là nơi mà một nửa dân số đang chịu cảnh thiếu thốn, nghèo đói và bị bóc lột.[60] Người nghèo Châu Á và thế giới sẽ luôn tìm thấy những lý do tốt nhất để hy vọng, trong giới luật Tin Mừng phải yêu mến nhau như Đức Kitô đã yêu chúng ta (x. Ga 13,34), và Giáo Hội tại Á Châu không thể không ra sức hết mình chu toàn giới luật đối với người nghèo, bằng lời nói và việc làm.

Tình liên đới với kẻ nghèo trở nên dễ tin hơn, nếu chính các Kitô hữu sống giản dị, theo gương Đức Giêsu. Sự đơn giản trong cách sống, đức tin sâu xa và tình yêu không giả dối đối với mọi người, nhất là người nghèo và bị loại trừ, là những dấu chỉ sáng chói của Tin Mừng bằng hành động. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng kêu gọi các người Công Giáo Á Châu có một lối sống phù hợp với giáo huấn Tin Mừng, để có thể phục vụ tốt hơn trong việc truyền giáo của Giáo Hội và để chính Giáo Hội có thể trở nên một Giáo Hội của người nghèo và cho người nghèo.[61]

Trong tình yêu đối người nghèo tại Á Châu, Giáo Hội lưu ý cách riêng đến những kẻ di dân, những người bản xứ và các dân tộc bộ lạc, những phụ nữ và trẻ em, bởi vì họ thường là nạn nhân của những hình thức bóc lột xấu xa nhất. Thêm vào đó, có số người vô danh, bị kỳ thị do văn hóa, màu da, chủng tộc, đẳng cấp, tình trạng kinh tế của họ, hay là do cách họ suy nghĩ. Gồm có cả những người là nạn nhân của sự kỳ thị vì trở lại Kitô giáo.[62] Cùng với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, tôi mời gọi mọi quốc gia nhìn nhận quyền tự do lương tâm và tôn giáo và những quyền căn bản khác của con người.[63]

Vào lúc này tại Á Châu đang diễn ra một làn sóng chưa từng thấy những người tị nạn, những người tìm nơi trú ẩn, những người di cư và những người lao động ở hải ngoại. Tại những quốc gia họ tới, những người này thường không có bạn bè, bị tách biệt về mặt văn hóa, bị bất lợi vì ngôn ngữ và dễ bị tổn hại về mặt kinh tế. Họ cần được nâng đỡ và chăm sóc để bảo toàn được nhân phẩm và gia sản văn hóa cũng như tôn giáo của họ.[64] Mặc dầu tài nguyên eo hẹp, Giáo Hội tại Á Châu quảng đại cố gắng trở nên một ngôi nhà đón tiếp những kẻ khó nhọc và gánh nặng, vì biết rằng trong Thánh Tâm Đức Giêsu, nơi không có ai là người xa lạ, họ sẽ được an nghỉ (x. Mt 11,28-29).

Trong hầu hết mọi miền của Á Châu, có một số lớn dân bản xứ, một số họ sống trong mức kinh tế thấp nhất. Thượng Hội Đồng lặp đi lặp lại rằng dân bản xứ và dân bộ lạc thường cảm thấy được lôi kéo đến với con người Đức Giêsu Kitô và đến với Giáo Hội như một cộng đồng tình yêu và phục vụ.[65] Đây được coi là một lãnh vực bao la cho công tác giáo dục và chăm nom sức khỏe, cũng như cổ võ việc tham gia vào xã hội. Cộng đồng Công Giáo cần tăng cường công tác mục vụ giữa những người dân này, bằng cách chú ý tới những âu lo của họ và tới những vấn đề công bình ảnh hưởng tới đời sống của họ. Điều này bao hàm một thái độ kính trọng sâu xa tôn giáo truyền thống của họ và các giá trị của nó; ngoài ra cũng bao hàm sự cần thiết giúp đỡ họ để họ tự giúp lấy mình, ngõ hầu họ có thể hành động để cải thiện hoàn cảnh của họ và trở nên những nhà rao giảng Tin Mừng cho nền văn hóa và xã hội của họ.[66]

Không một ai có thể thờ ơ với đau khổ của nhiều trẻ em tại Á Châu, nạn nhân của sự bóc lột và bạo lực không thể chấp nhận được, không chỉ do sự dữ các cá nhân gây nên, nhưng thường do những cấu trúc xã hội thối nát. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng xem lao động trẻ em, tình dục với trẻ em và hiện tượng ma tuý là những sự dữ xã hội ảnh hưởng trực tiếp nhất tới trẻ em, và các ngài thấy rõ rằng những sự dữ đó kéo theo những tệ nạn khác như cảnh nghèo đói và các quan niệm lệch lạc về các chương trình phát triển quốc gia.[67] Giáo Hội phải làm tất cả những gì có thể để thắng những sự dữ đó, để hành động nhân danh những kẻ bị bóc lột nhất, và để tìm cách dẫn đưa những người bé mọn tới tình yêu của Đức Giêsu, bởi vì Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ đó (x. Lc 18,16).[68]

Thượng Hội Đồng bày tỏ quan tâm cách riêng đối với phụ nữ, hoàn cảnh của họ vẫn là một vấn đề nghiêm trọng tại Á Châu, nơi mà sự kỳ thị và bạo lực đối với người phụ nữ thường xảy ra trong gia đình, tại nơi làm việc và cả trong hệ thống pháp lý nữa. Nạn mù chữ phổ biến trong giới phụ nữ và nhiều phụ nữ bị đối xử đơn thuần như những món hàng trong nghề mãi dâm, du lịch và công nghệ giải trí.[69] Trong trận chiến chống lại mọi hình thức bất công và kỳ thị, người nữ phải tìm được đồng minh trong cộng đồng Kitô hữu, và vì lẽ đó, Thượng Hội Đồng đề nghị rằng, nơi nào có thể được, các Giáo Hội địa phương tại Á Châu phải cổ võ những hoạt động cho nhân quyền nhân danh người nữ. Mục tiêu phải là mang lại được một sự thay đổi thái độ, nhờ một hiểu biết đúng đắn hơn về vai trò của người nam và người nữ trong gia đình, trong xã hội và trong Giáo Hội, nhờ ý thức mạnh mẽ hơn về sự bổ túc nguyên thuỷ của người nam và người nữ, và nhờ sự đánh giá rõ ràng hơn về tầm quan trọng của chiều kích nữ tính trong mọi lãnh vực con người. Những đóng góp của người nữ cũng thường bị hạ giá hay không được biết tới, và điều này đưa tới kết quả là sự nghèo nàn tinh thần của nhân loại. Giáo Hội tại Á Châu phải đề cao phẩm giá và sự tự do của người nữ, một cách hữu hình và hữu hiệu hơn, bằng cách cổ võ vai trò của họ trong đời sống Giáo Hội, gồm cả đời sống trí thức của họ, và bằng cách mở ra cho họ những cơ hội lớn hơn để hiện diện và hoạt động trong sứ mạng tình yêu và phục vụ của Giáo Hội.[70]

Tin Mừng Sự Sống

35. Việc phục vụ cho sự phát triển con người bắt đầu bằng việc phục vụ chính sự sống. Sự sống là một quà tặng to lớn mà Thiên Chúa giao phó cho chúng ta: người giao phó nó cho chúng ta, như là một dự án và một trách nhiệm. Do đó chúng ta là kẻ giữ gìn sự sống, chứ không phải là sở hữu chủ. Chúng ta nhận lãnh ân huệ cách tự do và, trong sự biết ơn, chúng ta không bao giờ được phép thôi kính trọng và bảo vệ nó, từ lúc nó bắt đầu cho tới lúc nó kết thúc cách tự nhiên. Từ lúc thụ thai, sự sống con người là do hành động sáng tạo của Thiên Chúa và luôn có một mối liên kết đặc biệt với Tạo Hoá, Đấng là nguồn sống và mục đích duy nhất của nó. Không có phát triển thật sự, không có xã hội dân sự thật sự, không có thăng tiến nhân bản thật sự, mà không kính trọng sự sống con người, cách riêng sự sống của những con người không có tiếng nói để bênh vực lấy mình. Sự sống của mỗi người, dù là thai nhi còn trong bụng mẹ hay là kẻ đau liệt, tàn tật hay già cả, là một ân huệ cho tất cả mọi người.

Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng hết lòng khẳng định lại giáo huấn của Công Đồng Vatican II và Huấn quyền tiếp theo sau đó, gồm có Thông điệp Tin Mừng Sự Sống của tôi (Evangelium Vitae), nói về sự thánh thiêng của sự sống con người. Ở đây tôi hiệp ý với các Ngài để kêu gọi các tín hữu đang sống trong những quốc gia, nơi mà vấn đề dân số thường được sử dụng như một lý lẽ để biện minh cho việc phá thai, và những chương trình kiểm soát giả tạo dân số, nhằm chống lại “nền văn hóa sự chết”.[71] Các tín hữu có thể chứng tỏ lòng trung thành với Thiên Chúa và sự dấn thân để thăng tiến con người thật sự, bằng cách ủng hộ và tham gia các chương trình bảo vệ sự sống cho những ai không có khả năng để tự bênh vực lấy mình.

Việc Chăm Sóc Sức khỏe

36. Bước theo vết chân Đức Giêsu Kitô, Đấng tỏ lòng thương xót mọi người và chữa lành “mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 9,35), Giáo Hội tại Á Châu cam kết dấn thân hơn nữa trong việc chăm sóc người bệnh hoạn, bởi vì đây là một phần căn bản của sứ mạng Giáo Hội, là trao tặng ân sủng cứu độ của Đức Kitô cho con người toàn diện. Như người Samaritanô nhân lành trong dụ ngôn (x. Lc 10,29-37), Giáo Hội muốn chăm sóc người bệnh và tàn tật cách cụ thể,[72] đặc biệt tại những nơi dân chúng thiếu sự chăm sóc thuốc men cơ bản, do nạn nghèo đói và bị loại trừ.

Trong nhiều trường hợp khi tôi thăm viếng Giáo Hội tại những miền khác nhau trên thế giới, tôi bị xúc động sâu xa trước chứng tá phi thường của các tu sĩ và người được thánh hiến, các bác sĩ, y tá và những người chăm lo sức khỏe khác, cách riêng những người dang làm việc bên cạnh những người tàn tật hoặc những bệnh nhân trong giai đoạn cuối, hay đang chống lại sự lan tràn của những thứ bệnh mới như Aids. Những Kitô hữu dấn thân lo cho sức khỏe, càng ngày càng được kêu gọi sống quảng đại và hiến mình để săn sóc những nạn nhân nghiện ma tuý và Aids, những kẻ thường bị xã hội khinh chê và loại bỏ.[73] Nhiều tổ chức y tế Công Giáo tại Á Châu phải đương đầu với các áp lực do các chính sách chăm sóc sức khỏe của nhà nước không đặt nền tảng trên các nguyên tắc Kitô giáo, và nhiều tổ chức đó đang gặp khó khăn về mặt tài chính. Dầu có những khó khăn đó, chính tình yêu gương mẫu và vô vị lợi, và trình độ nghiệp vụ quảng đại của những người đang dấn thân vào công việc đó, đem lại một sự phục vụ đáng khâm phục và đáng giá cho cộng đoàn, và nên một dấu chỉ đặc biệt cụ thể và hữu hiệu cho tình yêu không bao giờ vơi của Thiên Chúa. Những người chăm lo sức khỏe đó phải được khích lệ và nâng đỡ trong việc thiện họ làm. Sự dấn thân liên tục và hiệu năng của họ là phương cách dành động tốt nhất để những giá trị và đạo đức Kitô giáo thâm nhập vào những hệ thống chăm lo sức khỏe của lục địa và biến đổi hệ thống đó từ bên trong.[74]

Giáo Dục

37. Trên khắp Á Châu, sự dấn thân của Giáo Hội trong việc giáo dục thật rộng rãi và thấy được rõ ràng, và vì thế là một yếu tố chủ chốt nói lên sự hiện diện của Giáo Hội giữa các dân tộc của lục địa. Trong nhiều quốc gia, các trường học Công Giáo giữ vai trò quan trọng trong việc rao giảng Tin Mừng, hội nhập đức tin vào văn hóa, dạy dỗ sự cởi mở và kính trọng, và cổ võ sự hiểu biết liên tôn. Các trường của Giáo Hội thường cung cấp các cơ hội giáo dục duy nhất cho các thiếu nữ, các dân tộc bộ lạc thiểu số, những trẻ em nhà quê nghèo và ít được ưu đãi. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng xác tín đến nhu cầu mở rộng và phát triển việc tông đồ giáo dục tại Á Châu, với một sự lưu tâm đặc biệt đến những người xấu số, hầu giúp họ có được chỗ đứng chính đáng, như một người công dân trọn vẹn trong xã hội.[75] Như các nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận, điều đó có nghĩa là hệ thống giáo dục Công Giáo phải hướng cách rõ nét hơn tới việc thăng tiến con người, tạo ra một môi trường cho các học sinh không chỉ nhận lấy những yếu tố giáo dục chính thức, nhưng tổng quát hơn, nhận lãnh một sự đào tạo nhân bản toàn vẹn, đặt nền tảng trên giáo huấn của Đức Kitô.[76] Các trường Công Giáo phải tiếp tục là những nơi mà đức tin có thể được trình bày và nhận lãnh cách tự do. Cũng vậy, các đại học Công Giáo, ngoài việc theo đuổi sở trường học thuật mà chúng được nổi tiếng, cần phải giữ lấy một căn tính Kitô hữu rõ rệt, ngõ hầu trở nên men Kitô giáo trong các xã hội Á Châu.[77]

Kiến Tạo Hòa bình

38. Vào cuối thế kỷ XX, thế giới vẫn còn bị đe doạ bởi các vũ lực làm phát sinh những xung đột và chiến tranh, và Á Châu chắc chắn không thoát khỏi những điều đó. Giữa những vũ lực đó có sự bất bao dung và mọi thứ loại trừ - xã hội, văn hóa, chính trị, và cả tôn giáo nữa. Ngày qua ngày bạo lực mới ập xuống trên từng cá nhân và toàn thể dân chúng, và nền văn hóa sự chết được thiết lập bằng việc sử dụng bất chính bạo lực để giải quyết các căng thẳng. Trong hoàn cảnh xung đột khủng khiếp ấy tại nhiều nơi trên thế giới, Giáo Hội được mời gọi dấn thân trong những nỗ lực quốc tế và liên tôn để mang lại hòa bình, công lý và hòa giải. Giáo Hội tiếp tục nhấn mạnh việc thương thuyết và không dùng quân sự để giải quyết các cuộc xung đột, và trông đợi ngày mà các nước sẽ từ bỏ chiến tranh như là một phương thế để đạt các yêu sách hay là phương tiện để giải quyết các khác biệt. Giáo Hội xác tín rằng chiến tranh gây nên nhiều vấn đề hơn là giải quyết chúng, rằng đối thoại là con đường đúng đắn và cao thượng duy nhất để đạt đến thỏa thuận và hòa giải, và cái tài kiên nhẫn và khôn ngoan của việc kiến tạo hòa bình được Thiên Chúa chúc phúc cách riêng.

Điều đặc biệt lo lắng tại Á Châu là sự liên tục chạy đua vũ trang có sức tàn phá hàng loạt, đó là chi phí vô luân và phí phạm ngân sách quốc gia, ngân sách mà trong nhiều trường hợp không đủ thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của dân chúng. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng nói tới số lượng mìn bẫy to lớn tại Á Châu, gây tàn tật và giết chết hàng trăm ngàn kẻ vô tội, còn làm cằn cỗi mảnh đất phì nhiêu có thể dùng để sản xuất ra lương thực.[78] Đó là trách nhiệm của tất cả mọi người, nhất là những nhà lãnh đạo quốc gia, là hành động tích cực hơn nữa để giải giáp vũ khí. Thượng Hội Đồng kêu gọi ngưng sản xuất, bán và sử dụng vũ khí hạt nhân, hóa học và sinh học, và thúc giục những kẻ đặt mìn bẫy phải tiếp tay trong công tác phục hồi và sửa chữa.[79] Trên hết mọi sự, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cầu xin Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lương tâm mỗi người, đặt những tâm tình hòa bình trong con tim những kẻ bị cám dỗ đi theo những con đường bạo lực, ngõ hầu điều mơ thấy trong Kinh Thánh trở nên sự thật: “họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến” (Is 2,4).

Thượng Hội Đồng đã nghe nhiều chứng từ liên can tới những đau khổ của dân Iraq, và về sự kiện là nhiều người dân Iraq, đặc biệt các trẻ em, đã chết vì thiếu thuốc men và những mặt hàng cơ bản do việc cấm vận tiếp diễn. Cùng với các Nghị Phụ của Thượng Hội Đồng, tôi muốn một lần nữa diễn tả sự liên đới của tôi với dân tộc Iraq và tôi đặc biệt gần gũi trong kinh nguyện và hy vọng, với các con cái nam nữ của Giáo Hội tại xứ này. Thượng Hội Đồng cầu xin Chúa soi sáng tâm trí của tất cả những người mang lấy trách nhiệm tìm kiếm một giải pháp chính đáng cho cuộc khủng hoảng, ngõ hầu dân tộc đã bị thử thách cay đắng có thể thoát khỏi đau khổ và ưu phiền hơn nữa.[80]

Toàn Cầu Hóa

39. Khi đề cập đến vấn đề thăng tiến con người tại Á Châu, các Nghị phụ Thượng Hội Đồng công nhận tầm quan trọng của quá trình toàn cầu hóa về mặt kinh tế. Tuy nhìn nhận nhiều kết quả tích cực của nó, các ngài cho thấy rằng việc toàn cầu hóa cũng đã gây thiệt hại cho kẻ nghèo,[81] có khuynh hướng đẩy những nước nghèo ra bên lề những liên hệ kinh tế và chính trị quốc tế. Nhiều nước Á Châu không có khả năng giữ được nền kinh tế của riêng mình trong một nền kinh tế thị trường thế giới. Và có lẽ điều còn có ý nghĩa hơn, là cũng có khía cạnh toàn cầu hóa về mặt văn hóa, thực hiện được là nhờ những phương tiện truyền thông tân thời, mau chóng lôi kéo các xã hội Á Châu vào trong một nền văn hóa toàn cầu về chủ nghĩa tiêu thụ, nền văn hóa chủ trương tục hoá và duy vật. Kết quả là sự xói mòn gia đình truyền thống và các giá trị xã hội mà cho tới ngày nay vẫn nâng đỡ các dân tộc và các xã hội. Tất cả những sự việc đó cho thấy rõ rằng những khía cạnh đạo đức và luân lý của việc toàn cầu hóa cần được các nhà lãnh đạo quốc gia và những tổ chức liên can tới việc thăng tiến con người đề cập đến cách trực tiếp hơn.

Giáo Hội nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc “toàn cầu hóa mà không loại trừ”.[82] Cùng với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, tôi kêu gọi các Giáo Hội địa phương khắp nơi, và cách riêng các Giáo Hội ở các nước Phương Tây, hành động để làm cho học thuyết xã hội của Giáo Hội có tác động thích đáng trong việc soạn thảo các quy tắc đạo đức và pháp lý, để điều hoà các thị trường tự do trên thế giới và các phương tiện truyền thông xã hội. Những nhà lãnh đạo và những nhà chuyên nghiệp Công Giáo phải thúc giục các chính phủ, các cơ quan tài chính và thương mại, nhìn nhận và tôn trọng những quy tắc đó.[83]

Nợ Nước Ngoài

40. Hơn nữa, trong việc tìm kiếm sự công bằng trong một thế giới bị các bất bình đẳng xã hội và kinh tế làm hư hỏng, Giáo Hội không thể không biết đến gánh nặng nợ nần mà các nước đang mở mang tại Á Châu mắc phải, với ảnh hưởng tác động trên hiện tại và tương lai. Trong nhiều trường hợp, những xứ này bị bắt buộc cắt giảm chi tiêu trong những nhu cầu cần thiết để sống như lương thực, sức khỏe, nhà ở, giáo dục, ngõ hầu có thể trả các món nợ cho các cơ quan tài chánh quốc tế và ngân hàng. Điều này có nghĩa là nhiều người dân bị đặt vào trong những điều kiện sống gây nhục nhã đối với nhân phẩm con người. Tuy ý thức những phức tạp về mặt chuyên môn của vấn đề này, Thượng Hội Đồng nhìn nhận rằng sự việc đó là một trắc nghiệm về khả năng của các dân tộc, các xã hội và các chính quyền có biết coi trọng con người và sự sống của hàng triệu con người hơn lợi lộc tài chánh và vật chất không.[84]

Đại năm thánh 2000 gần tới, là một thời gian thuận tiện để các Hội Đồng Giám Mục thế giới, cách riêng ở tại những nước giàu có hơn, khuyến khích các cơ quan tài chánh thế giới và ngân hàng, khảo sát phương cách làm nhẹ bớt hoàn cảnh nợ nần quốc tế. Trong những phương cách hiển nhiên hơn, thấy có sự điều chỉnh lại nợ nần, với việc giảm phần đáng kể hoặc xoá nợ toàn bộ, xem đó như những dự án kinh doanh và đầu tư để giúp nền kinh tế của những nước nghèo hơn.[85] Đồng thời các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng ngõ lời với các nước đang mắc nợ. Các ngài nhấn mạnh đến nhu cầu phát triển ý thức trách nhiệm quốc gia, nhắc họ nhớ tới tầm quan trọng của kế hoạch kinh tế lành mạnh, sự trong sáng và quản lý tốt, và mời gọi họ mở chiến dịch quyết liệt chống tham nhũng.[86] Các Nghị Phụ kêu gọi các Kitô hữu Á Châu lên án mọi hình thức tham nhũng và biển thủ công quĩ, do những kẻ nắm quyền lực chính trị.[87] Các công dân của những quốc gia đang mắc nợ thường là nạn nhân của sự lãng phí và vô hiệu năng tại quốc gia họ, trước khi trở nên nạn nhân của cuộc khủng hoảng nợ nần quốc tế.

Môi Trường

41. Khi mối quan tâm đến sự phát triển kinh tế và kỹ thuật không đi kèm theo mối quan tâm đến sự cân bằng của hệ thống sinh thái, quả đất chúng ta chắc chắn bị hứng chịu những thiệt hại nghiêm trọng về môi trường, với những hậu quả tai hại cho con người. Sự thiếu kính trọng hiển nhiên đối với môi trường sẽ tiếp tục bao lâu mà quả đất và tiềm năng của nó bị coi như những đồ vật để sử dụng và tiêu dùng tức thời, bị thao túng bởi lòng ham muốn vô độ tìm lợi nhuận.[88] Nhiệm vụ của các Kitô hữu và của tất cả những ai nhìn nhận Chúa là Đấng Sáng Tạo, là bảo vệ môi trường, bằng cách phục hồi một cảm thức tôn kính đối với toàn thể thọ tạo của Thiên Chúa. Ý muốn Đấng Tạo Hóa là con người đối đãi với thiên nhiên không như một nhà khai thác tàn nhẫn, nhưng như một nhà quản trị tài trí và có trách nhiệm.[89] Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nài xin cách đặc biệt những nhà lãnh đạo quốc gia, những nhà làm luật, những nhà kinh doanh và tất cả những ai dấn thân trực tiếp trong việc quản trị tài nguyên của trái đất hãy có một tinh thần trách nhiệm lớn hơn.[90] Các ngài nhấn mạnh đến sự cần thiết phải giáo dục dân chúng, cách riêng giới trẻ, có tinh thần trách nhiệm đối với môi trường, bằng cách huấn luyện họ cách thức quản trị thọ tạo mà Thiên Chúa đã giao phó cho nhân loại. Việc bảo vệ môi trường không chỉ là một vấn đề kỹ thuật, nó cũng là và hơn hết là một vấn đề đạo đức. Mọi người đều có bổn phận luân lý phải chăm lo môi trường, không những vì lợi ích cho riêng mình, nhưng cũng vì lợi ích cho các thế hệ mai sau.

Để kết luận, cũng nên nhắc lại rằng, khi kêu gọi các Kitô hữu hành động và hy sinh chính mình để phục vụ việc phát triển con người, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã qui chiếu về một vài giá trị nền tảng của truyền thống Kinh Thánh và Giáo Hội. Dân Israen xưa kia nhấn mạnh đến mối ràng buộc không thể phân rẽ giữa việc thờ phượng Chúa và chăm sóc người yếu đuối, điển hình trong Kinh Thánh là “người góa bụa, người ngoại kiều, và kẻ mồ côi” (x. Xh 22,21-22, Đnl 1018; 27,19), là những người trong các xã hội thời đó, dễ bị đối xử bất công. Nhiều lần trong các sách Ngôn Sứ, chúng ta nghe tiếng kêu gào đến công lý, đến sự tổ chức đúng đắn xã hội con người, mà không có những thứ đó thì không thể có sự thờ phượng Chúa đích thực (x. Is 1,10-17; Am 5,21-24). Trong lời mời gọi của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, chúng ta nghe tiếng vang của các vị ngôn sứ đầy Thần Khí Thiên Chúa, Đấng muốn “lòng thương xót chứ không cần nghi lễ” (Hs 6,6). Đức Giêsu lấy những lời đó làm của mình (x. Mt 9,13), và các thánh trong mọi thời và mọi nơi cũng làm như vậy. Hãy suy nghĩ những lời nói của thánh Gioan Kim Khẩu: “Anh có muốn tôn vinh thân thể Đức Kitô không? Vậy thì đừng phớt lờ Người khi Người trần truồng. Đừng tôn vinh Người trong đền thờ bằng hàng nhung lụa, mà lại để Người ở bên ngoài lạnh cóng và trần truồng. Đấng đã nói: “Này là mình Ta”, cũng là Đấng đã nói, “Anh thấy Ta đói mà không cho Ta ăn”. Ích gì nếu Bàn Tiệc Thánh Thể đầy chén thánh bằng vàng, khi Đức Kitô đang chết đói? Anh hãy khởi sự thỏa mãn cơn đói của Người, rồi với cái gì còn lại, anh hãy lấy đó mà trang hoàng bàn thờ cũng được”.[91] Trong lời mời gọi của Thượng Hội Đồng về việc phát triển con người và thực thi công bình trong các tương quan nhân loại, chúng ta nghe một tiếng nói vừa cũ vừa mới. Cũ vì nó xuất phát từ bề sâu của truyền thống Kitô giáo, mong có sự hòa hợp sâu xa mà Đấng Tạo Hóa muốn; còn mới, vì nó nói về hoàn cảnh hiện thời của vô số dân tộc tại Á Châu ngày hôm nay.

***

CHƯƠNG VII

NHỮNG CHỨNG NHÂN TIN MỪNG

 

Một Giáo Hội Làm Chứng

42. Công Đồng Vatican II đã dạy rõ rằng, toàn thể Giáo Hội phải truyền giáo, và công tác Phúc âm hóa là nhiệm vụ của toàn thể Dân Chúa.[92] Bởi vì toàn Dân Chúa được sai đi để rao giảng Tin Mừng, việc Phúc Âm hóa không bao giờ là một hành động cá nhân hay biệt lập; nó luôn luôn là một nhiệm vụ mang tính Giáo Hội, cần được thực hiện trong sự hiệp thông với toàn thể cộng đồng đức tin. Chỉ có một sứ mạng duy nhất và không thể phân chia, vì chỉ có một nguồn gốc và một cùng đích; nhưng trong nó có nhiều trách nhiệm khác nhau và nhiều thứ hoạt động khác nhau.[93] Trong mọi trường hợp, rõ ràng là không thể có được sự rao giảng Tin Mừng đích thực nếu người Kitô hữu không trao tặng một chứng tá đời sống phù hợp với sứ vụ rao giảng: “Hình thức chứng tá đầu tiên là chính đời sống của vị thừa sai, của gia đình Kitô hữu, và của cộng đồng Giáo Hội, một cộng đồng bày tỏ một nếp sống mới. Mỗi người trong Giáo Hội, khi cố gắng bắt chước Thầy chí thánh, thì có thể và phải làm chứng theo kiểu này; trong nhiều trường hợp, đó là phương cách duy nhất có thể được, để trở thành nhà truyền giáo”.[94] Cách riêng bây giờ, cần chứng tá Kitô hữu chính hiệu, bởi vì “ngày nay dân chúng tin các chứng nhân hơn là các Thầy dạy, tin vào kinh nghiệm hơn là lời giảng dạy, và tin vào đời sống và hành động hơn là vào lý thuyết”.[95] Điều này càng đúng trong bối cảnh Á Châu, nơi mà dân chúng được thuyết phục do đời sống thánh thiện hơn là do lý lẽ trí thức. Như thế, kinh nghiệm về đức tin và về những ân ban của Chúa Thánh Thần, trở thành nền tảng của mọi hoạt động tông đồ, nơi thành thị hay ở thôn quê, trong trường học hay bệnh viện, giữa những kẻ tàn tật, di dân và dân bộ lạc, hay là khi theo đuổi công lý hoặc nhân quyền. Mọi hoàn cảnh đều thuận lợi để người Kitô hữu chứng tỏ quyền năng mà chân lý của Đức Kitô đã hoà nhập trong đời sống của họ. Do đó, được gợi hứng bởi nhiều vị thừa sai đã làm chứng anh dũng cho tình yêu Thiên Chúa giữa các dân tộc của lục địa trong quá khứ, Giáo Hội tại Á Châu bây giờ ra sức làm chứng, không kém sốt sắng hơn, cho Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người. Sứ vụ Kitô giáo đòi hỏi ít nhất điều đó.

Ý thức về đặc tính truyền giáo của Giáo Hội và trông đợi Chúa Thánh Thần lại đổ xuống năng lực mới, đang lúc Giáo Hội đi vào ngàn năm mới, Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng yêu cầu rằng Tông Thư hậu Thượng Hội Đồng nêu lên một số chỉ thị và hướng dẫn cho những ai đang làm việc trong cánh đồng mênh mông của việc Phúc Âm hóa tại Á Châu.

Các Chủ Chăn

43. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng ban cho Giáo Hội khả năng hoàn thành sứ mạng Đức Kitô giao phó. Trước khi sai các môn đệ đi làm chứng nhân, Đức Giêsu ban cho họ Chúa Thánh Thần (x. Ga 20,22), Đấng đã hành động qua họ và đánh động con tim của những kẻ nghe họ (x. Cv 2,37). Cũng xảy ra như vậy đối với những kẻ Người sai đi ngày hôm nay. Một mặt, tất cả những ai đã lãnh bí tích Rửa Tội, do chính ân sủng của bí tích, đã được đề cử dự phần vào việc tiếp tục sứ vụ cứu rỗi của Đức Kitô, và họ có khả năng làm công tác này chính vì tình yêu Thiên Chúa đã được đổ xuống tâm hồn họ nhờ Chúa Thánh Thần mà Người ban cho họ (Rm 5,5). Nhưng mặt khác, sứ vụ chung này được chu toàn nhờ sự đa dạng của nhiều chức năng và đoàn sủng đặc biệt trong Giáo Hội. Trách nhiệm chính yếu để thực hành sứ vụ của Giáo Hội được Đức Kitô giao phó cho các Tông Đồ và những người kế vị các ngài. Do việc truyền chức Giám Mục và do sự hiệp thông phẩm trật với Vị đứng đầu Giám Mục đoàn, các Giám Mục lãnh nhận sự ủy thác và quyền bính để giảng dạy, cai quản và thánh hoá Dân Chúa. Do ý muốn của chính Đức Kitô, Đấng kế vị Thánh Phêrô - tảng đá mà trên đó Giáo Hội được xây dựng (x. Mt 16,18) - thực thi sứ vụ đặc biệt là hiệp nhất bên trong Giám mục đoàn. Do đó, các Giám Mục phải chu toàn thừa tác vụ của mình trong sự hiệp nhất với Đấng Kế Vị Thánh Phêrô, người bảo đảm chân lý của giáo huấn của các ngài và sự hiệp thông trọn vẹn của các ngài trong Giáo Hội.

Liên kết với các Giám Mục trong công việc loan báo Tin Mừng, các Linh mục được kêu gọi, qua việc truyền chức, trở nên mục tử của đoàn chiên, người rao giảng Tin Mừng cứu độ và thừa tác viên các bí tích. Để phục vụ Giáo Hội như Đức Kitô muốn, các Giám Mục và Linh mục cần được đào tạo vững chắc và liên tục, sự đào tạo đó sẽ cung cấp những thuận lợi để canh tân về mặt nhân bản, thiêng liêng và mục vụ, cũng như liệu cho có các khoá thần học, thiêng liêng và các khoa học nhân văn.[96] Dân chúng tại Á Châu cần khám phá nơi hàng giáo sĩ không chỉ là những người chuyên lo việc bác ái hoặc những người quản trị cơ chế, nhưng những con người mà tâm trí hướng về những gì thâm sâu của Thần Khí (x. Rm 8,5). Lòng tôn kính mà các dân tộc Á Châu dành cho những kẻ nắm giữ quyền bính, cần đi đôi với sự liêm chính đạo đức rõ nét nơi những người có trách nhiệm thừa tác trong Giáo Hội. Nhờ có đời sống cầu nguyện, sự nhiệt thành phục vụ và cách sống gương mẫu, hàng giáo sĩ làm chứng hùng hồn cho Tin Mừng trong các cộng đoàn họ chăn dắt nhân danh Đức Kitô. Tôi thiết tha cầu nguyện để những thừa tác viên có chức thánh của Giáo hội tại Á Châu sống và làm việc trong một tinh thần hiệp thông và cộng tác với các Giám mục và mọi tín hữu, bằng cách làm chứng cho tình yêu mà Đức Giêsu đã công bố là dấu chỉ đích thực các môn đệ Người (x. Ga 13,35).

Đặc biệt tôi muốn nhấn mạnh đến quan tâm của Thượng Hội Đồng về việc chuẩn bị những người linh hoạt và dạy dỗ trong các chủng viện và các phân khoa thần học.[97] Sau khi được đào tạo nghiêm chỉnh về các môn khoa học thánh và những môn học liên hệ, các vị đó phải được đào tạo cách đặc biệt về linh đạo linh mục, nghệ thuật linh hướng, và các phương diện khác của công tác khó khăn và tế nhị đang chờ đợi các vị trong việc giáo dục các linh mục tương lai. Đây là một công tác tông đồ quan trọng nhất vì lợi ích và sức sống của Giáo Hội.

Đời Sống Thánh Hiến Và Các Hội Truyền giáo

44. Trong Tông Thư Hậu Thượng Hội Đồng Vita Consecrata, tôi đã nhấn mạnh tới sự liên kết mật thiết giữa đời sống thánh hiến và sứ mạng truyền giáo. Qua ba khía cạnh của nó là tuyên xưng Ba Ngôi, dấu chỉ tình huynh đệ và phục vụ bác ái, đời sống thánh hiến tỏ bày tình yêu Thiên Chúa trong thế giới, qua chứng tá đặc biệt của nó về sứ vụ cứu rỗi mà Đức Giêsu hoàn thành bằng cách hiến thánh mình hoàn toàn cho Chúa Cha. Nhìn nhận rằng mọi hành động trong Giáo Hội tìm được sự nâng đỡ trong kinh nguyện và hiệp thông với Thiên Chúa, với lòng tôn kính và ngưỡng mộ sâu xa, Giáo Hội tại Á Châu xem các cộng đoàn tu trì sống đời chiêm ngưỡng như là nguồn mạch đặc biệt ban sức mạnh và soi sáng. Dựa theo những đề nghị của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, tôi đặc biệt khuyến khích việc thiết lập những cộng đoàn đan tu và chiêm ngưỡng, nơi nào có thể được. Bằng cách thức ấy, như Công Đồng Vatican II nhắc nhở chúng ta, việc xây dựng xã hội trần thế luôn đặt nền móng nơi Chúa và luôn hướng về Người, kẻo những kẻ xây dựng xã hội trần thế lại lao động cách luống công.[98]

Sự tìm kiếm Chúa, một đời sống hiệp thông huynh đệ, và việc phục vụ kẻ khác, là ba đặc tính chủ yếu của đời sống thánh hiến, có khả năng trao tặng một chứng tá Kitô giáo hấp dẫn đối với các dân tộc Á Châu ngày nay. Hội Nghị Đặc Biệt về Á Châu thúc giục những người sống đời thánh hiến trở nên chứng nhân cho lời mời gọi mọi người nên thánh, và nên gương mẫu lôi cuốn những Kitô hữu và không Kitô hữu, về tình yêu quên mình cho mọi người, nhất là những kẻ bé nhỏ nhất trong anh chị em mình. Trong một thế giới mà cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa thường bị giảm sút, những người thánh hiến cần phải nêu lên những chứng tá thuyết phục và có tính ngôn sứ về địa vị tối thượng của Thiên Chúa và của cuộc sống muôn đời. Sống trong cộng đoàn, họ làm chứng cho những giá trị của tình huynh đệ Kitô giáo và quyền năng biến đổi của Tin Mừng.[99] Tất cả những ai dấn thân vào đời sống thánh hiến, đều được kêu gọi trở nên những người hướng dẫn trên con đường tìm kiếm Thiên Chúa, một sự tìm kiếm đã luôn luôn lay động con tim loài người và đặc biệt khả kiến dưới nhiều hình thức tu đức và khổ hạnh tại Á Châu.[100] Trong nhiều truyền thống tôn giáo tại Á Châu, những người nam nữ hiến mình trong đời sống chiêm ngưỡng và khổ tu, rất được kính trọng, và chứng tá của họ có một khả năng thuyết phục đặc biệt. Cuộc đời của họ sống trong cộng đoàn, qua một chứng tá thầm lặng và an bình, có thể gợi hứng cho con người tạo nên một cuộc sống hòa hợp hơn trong xã hội. Người ta không mong chờ ít hơn nơi những người nam nữ thánh hiến trong truyền thống Kitô giáo. Gương âm thầm của họ về sự nghèo khó và bỏ mình, về sự khiết tịnh và chân thành, về sự từ bỏ mình trong vâng phục, có thể trở nên một chứng tá hùng hồn có khả năng đánh động mọi người thiện chí và đưa tới một đối thoại mang lại kết quả với các nền văn hóa và tôn giáo xung quanh, và với người nghèo cùng với kẻ không thể tự vệ. Điều đó làm cho đời sống thánh hiến trở nên một phương tiện đặc biệt để rao giảng Tin Mừng cho hữu hiệu.[101]

Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhìn nhận vai trò sinh động của các Dòng Tu và Tu Hội, của những Hội truyền giáo và những Hội đời sống tông đồ trong việc rao giảng Tin Mừng tại Á Châu các thế kỷ qua. Vì sự đóng góp vĩ đại này của họ, Thượng Hội Đồng tỏ bày với họ lòng biết ơn của Giáo Hội và thúc giục họ không nao núng trong dấn thân truyền giáo của ho.[102] Tôi hiệp ý với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng mà kêu gọi những người sống đời thánh hiến, canh tân sự nhiệt thành của họ trong việc loan báo chân lý cứu độ của Đức Kitô. Tất cả phải được huấn luyện và đào tạo xứng hợp; nền huấn luyện này cần tập trung vào Đức Kitô và trung thành với đoàn sủng nền tảng của họ, nhấn mạnh đến sự thánh thiện và chứng tá cá nhân; tu đức và kiểu sống của họ phải nhạy cảm với gia sản tôn giáo của dân tộc mà họ đang sống và phục vụ.[103] Tuy vẫn tôn trọng đoàn sủng riêng của họ, họ phải hoà nhập trong chương trình mục vụ của Giáo Phận nơi họ làm việc. Về phần mình, các Giáo Hội địa phương cần đẩy mạnh sự hiểu biết về lý tưởng của các tu sĩ và đời sống thánh hiến, và cổ võ những ơn gọi đó. Điều này đòi hỏi mỗi giáo phận phải lập ra một chương trình mục vụ cho ơn gọi, gồm có việc chỉ định các Linh mục và tu sĩ làm việc toàn thời gian giữa giới trẻ để giúp họ lắng nghe và nhận định tiếng gọi của Chúa.[104]

Trong bối cảnh hiệp thông của Giáo Hội toàn cầu, tôi không thể không thúc giục Giáo Hội tại Á Châu cử đi các vị thừa sai, mặc dầu chính họ cũng cần những người thợ làm việc trong vườn nho. Tôi vui mừng thấy trong nhiều nước Á Châu, những hội Thừa sai sống đời sống tông đồ mới được thành lập; điều đó chứng tỏ rằng đặc tính truyền giáo của Giáo Hội được nhìn nhận và các Giáo Hội địa phương tại Á Châu ý thức đến trách nhiệm phải rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới.[105] Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng khuyến khích “trong mỗi Giáo Hội địa phương tại Á Châu nơi nào chưa có, nên thành lập những Hội Thừa Sai sống đời sống tông đồ, với đặc tính là dấn thân cách đặc biệt lo việc truyền giáo Ad gentes, ad exteros và ad vitam”.[106] Một sáng kiến như thế chắc chắn mang lại kết quả phong phú, không những cho các Giáo Hội đón nhận các vị thừa sai, nhưng còn cho những Giáo Hội sai họ đi.

Người Giáo Dân

45. Như Công Đồng Vatican II chỉ rõ, ơn gọi của người giáo dân đặt họ hoàn toàn vào trong thế gian, để họ chu toàn những công tác đa dạng nhất, và chính nơi đây mà họ được mời gọi truyền bá Tin Mừng Đức Giêsu Kitô.[107] Do ân sủng và ơn gọi do bí tích Rửa Tội và Thêm sức, tất cả giáo dân là thừa sai; và sân khấu hoạt động tông đồ của họ là thế giới mênh mông và phức tạp, gồm có chính trị, kinh tế, kỹ nghệ, giáo dục, truyền thông, khoa học, kỹ thuật và thể thao. Trong nhiều nước tại Á Châu, người giáo dân đã phục vụ như những nhà truyền giáo thực thụ, tiếp xúc những người bạn Á Châu, những người có lẽ chưa bao giờ gặp được hàng giáo sĩ và tu sĩ.[108] Tôi thay mặt toàn thể Giáo Hội bày tỏ lòng biết ơn với họ, và tôi khuyến khích tất cả những người giáo dân nhận lấy vai trò riêng của mình trong đời sống và sứ mạng của Dân Chúa, như là những chứng nhân cho Đức Kitô ở bất cứ nơi nào họ hiện diện.

Bổn phận của các vị Chủ Chăn là bảo đảm cho người giáo dân được huấn luyện thành người rao giảng Tin Mừng, có khả năng đương đầu với các thách thức của thế giới ngày nay, không phải với sự khôn ngoan và hiệu năng thế gian, nhưng với tâm hồn được đổi mới và được vững mạnh bằng chân lý Đức Kitô.[109] Khi làm chứng cho Tin Mừng trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội, người giáo dân có thể đóng vai duy nhất trong việc nhổ tận gốc sự bất công và áp bức, và để làm được vậy họ phải được huấn luyện cách thích hợp. Để đạt tới mục đích đó, tôi hiệp ý với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng mà đề nghị thiết lập, ở cấp giáo phận hay quốc gia, những trung tâm huấn luyện người giáo dân, để chuẩn bị người giáo dân thi hành công tác truyền giáo của họ như những chứng nhân cho Đức Kitô tại Á Châu ngày nay.[110]

Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng quan tâm hơn hết đến sự kiện Giáo Hội phải là một Giáo Hội cho mọi người tham gia, nơi đây không một ai bị loại trừ, và các ngài xét rằng sự tham gia rộng rãi hơn của người nữ trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội tại Á Châu, là một nhu cầu thúc bách cách đặc biệt. “Người nữ có khả năng hết sức đặc biệt trong việc chuyển trao đức tin, đến nỗi chính Đức Giêsu kêu gọi tới khả năng đó trong việc rao giảng Tin Mừng. Đó là điều đã xảy ra với người phụ nữ xứ Samari mà Đức Giêsu gặp tại giếng nước Giacóp: Chúa chọn bà để phổ biến, lần đầu tiên, đức tin mới trong vùng đất không phải là Do Thái”.[111] Để nâng cao việc phục vụ của họ trong Giáo Hội, phải tạo ra nhiều điều kiện thuận tiện hơn cho người nữ theo học những khoá thần học và những lãnh vực khác; và người nam trong các chủng viện hay các cơ sở đào tạo cần được dạy cho biết nhìn người nữ như là những người cộng tác trong việc tông đồ.[112] Phải để người nữ tham gia, cách hiệu quả hơn, vào các chương trình mục vụ, những Hội Đồng Mục Vụ cấp giáo phận và giáo xứ, và các Thượng Hội Đồng giáo phận. Những khả năng và phục vụ của người nữ trong lãnh vực chăm sóc sức khỏe, giáo dục, chuẩn bị người tín hữu nhận lãnh các bí tích, xây dựng cộng đồng và kiến tạo hòa bình cần được nhìn nhận đầy đủ hơn. Như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận, sự hiện diện của người nữ trong sứ vụ tình yêu và phục vụ của Giáo Hội, góp phần to lớn để đem Đức Giêsu hay thương xót, Đấng chữa lành và hòa giải, đến với dân Á Châu, đặc biệt là đối với người nghèo và người bị loại trừ.[113]

Gia Đình

46. Gia đình là chỗ bình thường để giới trẻ lớn lên tới độ trưởng thành cá nhân và xã hội. Gia đình còn là nơi mang lấy gia sản nhân loại, bởi vì nhờ gia đình mà sự sống truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Gia đình chiếm một chỗ rất quan trọng trong nền văn hóa Á Châu; và, như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận, các giá trị gia đình như lòng hiếu thảo, tình yêu và sự chăm sóc người già cả và bệnh hoạn, tình yêu đối với trẻ nhỏ và sự hài hòa, rất được quý trọng trong mọi nền văn hóa và truyền thống tôn giáo Á Châu.

Theo cái nhìn Kitô giáo, gia đình là “Giáo Hội tại gia”.[114] Gia đình Kitô hữu, cũng như Giáo Hội xét chung, phải là một nơi mà chân lý Tin Mừng là luật sống và là ân huệ mà các thành viên trong gia đình mang đến cho cộng đồng rộng lớn hơn. Gia đình không đơn thuần là đối tượng chăm sóc mục vụ của Giáo Hội, gia đình còn là một trong những thành viên hữu hiệu nhất của việc rao giảng Tin Mừng. Các gia đình Kitô hữu ngày nay được kêu gọi làm chứng cho Tin Mừng trong những thời gian và hoàn cảnh khó khăn, khi chính gia đình bị một loạt những quyền lực đe dọa.[115] Muốn trở nên tác nhân rao giảng Tin Mừng trong một giai đoạn như thế, gia đình Kitô hữu cần phải trở nên thật sự là “Giáo Hội tại gia”, sống ơn gọi Kitô hữu cách khiêm tốn và trong tình yêu.

Như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng chỉ rõ, điều này có nghĩa là gia đình phải tham gia cách tích cực vào đời sống giáo xứ, chia sẻ các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và bí tích Sám Hối, và dấn thân phục vụ kẻ khác. Điều đó cũng có nghĩa là cha mẹ phải cố gắng làm sao, trong những khi gia đình tụ tập lại, có thời gian để cầu nguyện, đọc và suy niệm Kinh Thánh, cử hành những nghi lễ xứng hợp do cha mẹ chủ sự, và có những giải trí lành mạnh. Điều đó sẽ giúp gia đình Kitô hữu trở nên trung tâm của việc Phúc Âm hóa, nơi mà mỗi thành viên cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa và truyền nó sang cho kẻ khác.[116] Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng nhìn nhận các trẻ em có vai trò trong việc Phúc Âm hóa, vừa ở gia đình của chúng vừa ở trong cộng đồng rộng lớn hơn.[117] Vì xác tín “tương lai thế giới và Giáo Hội thông qua gia đình”,[118] một lần nữa tôi đề nghị nên học hỏi và đem ra áp dụng những gì tôi đã viết về chủ đề gia đình trong Tông Thư Familiaris Consortio, được ban hành sau Đại Hội khoáng đại thường kỳ của Thượng Hội Đồng các Giám Mục năm 1980.

Giới Trẻ

47. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đặc biệt nhạy cảm với chủ đề giới trẻ trong Giáo Hội. Nhiều vấn đề phức tạp mà giới trẻ bây giờ đang đương đầu, trong thế giới Á Châu đang đổi thay, thúc giục Giáo Hội nhắc giới trẻ nhớ đến trách nhiệm đối với tương lai của xã hội và Giáo Hội, khuyến khích và nâng đỡ giới trẻ ở mọi giai đoạn để bảo đảm rằng họ đã sẵn sàng đón nhận trách nhiệm này. Giáo Hội trao ban cho giới trẻ chân lý Tin Mừng như là một mầu nhiệm đem lại niềm vui và giải phóng; mầu nhiệm mà họ phải học hỏi, sống và chia sẻ với niềm xác tín và can đảm.

Nếu giới trẻ phải trở nên những tác nhân hữu hiệu của việc truyền giáo, thì Giáo Hội cần cung ứng cho họ sự chăm sóc mục vụ xứng hợp.[119] Đồng ý với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, tôi khuyên bảo rằng, nơi nào có thể, mỗi giáo phận tại Á Châu phải chỉ định các tuyên úy giới trẻ hay lãnh đạo, để cổ võ việc huấn luyện thiêng liêng và việc tông đồ của giới trẻ. Các trường Công Giáo và các giáo xứ giữ vai trò trọng yếu trong việc cung ứng nền huấn luyện toàn diện cho giới trẻ, bằng cách tìm phương thế hướng dẫn chúng trên con đường làm môn đệ thật sự và làm phát huy nơi chúng những đức tính nhân bản mà sứ vụ đòi hỏi. Những tổ chức tông đồ giới trẻ và những câu lạc bộ giới trẻ có thể là nơi thuận tiện để cảm nghiệm tình bạn Kitô hữu, rất quan trọng đối với người trẻ. Giáo xứ, các hội đoàn và các phong trào có thể giúp người trẻ đối diện tốt hơn với những áp lực xã hội, bằng cách trao tặng cho họ không những khả năng tăng trưởng đến một đời sống Kitô hữu trưởng thành hơn, mà còn giúp họ dưới hình thức hướng nghiệp, đào tạo về ơn gọi và cố vấn cho giới trẻ.

Trong việc huấn luyện Kitô hữu cho giới trẻ tại Á Châu, phải nhìn nhận rằng giới trẻ không những là đối tượng của việc chăm sóc mục vụ của Giáo Hội, mà còn là “những tác nhân và cộng tác viên trong sứ mệnh của Giáo Hội qua các việc tông đồ đa dạng của Giáo Hội nhằm yêu thương và phục vụ”.[120] Do đó, trong các giáo xứ và giáo phận, người trẻ và phụ nữ phải được mời gọi tham gia vào việc tổ chức các hoạt động có liên can tới họ. Sự tươi trẻ và lòng hăng say, tinh thần liên đới và niềm hy vọng của họ, có thể biến họ thành những người kiến tạo hòa bình trong một thế giới chia rẽ; và, trên phương diện này, điều đáng khích lệ là thấy giới trẻ dấn thân vào những chương trình trao đổi giữa các Giáo Hội địa phương và những quốc gia tại Á Châu và bất cứ nơi nào đang cổ võ sự đối thoại liên tôn và liên văn hóa.

Truyền Thông Xã Hội

48. Trong thời đại toàn cầu hóa, “những phương tiện truyền thông xã hội đã trở nên quan trọng đến nỗi đối với nhiều người, nó trở thành những phương tiện chính để thông tin và giáo dục, hướng dẫn và tác động trên cách cư xử cá nhân, gia đình và xã hội. Đặc biệt, giới trẻ đang lớn lên trong một thế giới bị điều kiện hoá bởi truyền thông đại chúng”.[121] Ta thấy xuất hiện trên thế giới một nền văn hóa mới “xuất phát từ sự kiện có những cách thức thông tin mới, với ngôn ngữ mới, kỹ thuật mới và tâm lý mới”.[122] Vai trò đặc biệt mà các phương tiện truyền thông xã hội nắm giữ trong việc hình thành thế giới, các nền văn hóa và những cách suy nghĩ của nó, đã đưa tới những thay đổi mau lẹ và lan rộng trong các xã hội tại Á Châu.

Chắc chắn, sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội cũng chịu ảnh hưởng sâu xa do tác động của truyền thông đại chúng. Bởi vì truyền thông đại chúng có một ảnh hưởng càng ngày càng lớn mạnh tại Á Châu dẫu cả ở những vùng xa xôi, nó có thể góp phần rất lớn vào việc rao giảng Tin Mừng cho mọi hang cùng ngõ hẽm của lục địa. Tuy nhiên, “việc dùng truyền thông để phổ biến sứ điệp Kitô giáo và giáo huấn đích thực của Giáo Hội thì chưa đủ. Cần phải hội nhập sứ điệp này vào trong ‘văn hóa mới’ do những phương tiện truyền thông hiện đại tạo ra”.[123] Để đạt được mục đích này, Giáo Hội cần khám phá những cách thế hội nhập hoàn toàn truyền thông đại chúng vào kế hoạch và hoạt động mục vụ của mình, để nhờ cách dùng hiệu năng của chúng, quyền năng của Tin Mừng có thể tác động tới các cá nhân và toàn bộ các dân tộc, và những giá trị Nước Trời thấm nhập vào các nền văn hóa Á Châu.

Tôi muốn hợp lời tán dương của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng về Đài Phát Thanh Chân lý Á Châu, đài phát thanh duy nhất có tầm lục địa cho Giáo Hội tại Á Châu, đã gần 30 năm phát thanh rao giảng Tin Mừng. Các Hội Đồng Giám Mục và các Giáo phận tại Á Châu cần phải củng cố khí cụ truyền giáo tuyệt hảo này, nhờ việc soạn thảo chương trình theo các ngôn ngữ cho xứng hợp, nhờ sự giúp đỡ nhân sự và tài chánh.[124] Ngoài việc phát thanh, những nhà xuất bản và những cơ quan thông tin Công Giáo có thể giúp phổ biến thông tin và cung ứng việc giáo dục và đào tạo tôn giáo thường xuyên trên khắp lục địa. Ở những nơi người Kitô hữu là thiểu số, những thứ đó có thể là phương tiện quan trọng để nâng đỡ và nuôi dưỡng một cảm thức về căn tính Công Giáo và để phổ biến kiến thức về những nguyên tắc luân lý Công Giáo.[125]

Tôi hiệp ý với lời nhắn nhủ của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng về việc Phúc Âm hóa bằng các phương tiện truyền thông xã hội, là “arêôpagô của thời đại mới”, với hy vọng là chúng có thể giúp thăng tiến con người và loan truyền chân lý Đức Kitô cũng như giáo huấn của Giáo Hội.[126] Thật là hữu ích nếu mỗi Giáo phận có thể thiết lập, nơi nào có thể, một văn phòng truyền thông đại chúng. Việc giáo dục về các phương tiện truyền thông, chứ không chỉ việc lượng giá về các sản phẩm của truyền thông, cần phải là một phần càng ngày càng gia tăng trong việc đào tạo linh mục, chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên, những chuyên viên giáo dân, những học sinh trong các trường Công Giáo và các cộng đoàn giáo xứ. Xét vì ảnh hưởng sâu rộng và kỳ diệu của truyền thông xã hội, nên những người Công Giáo cần làm việc với các thành viên của các Giáo Hội và Cộng Đồng Giáo Hội khác, và với những người theo các tôn giáo khác, để bảo đảm một chỗ đứng cho các giá trị thiêng liêng và luân lý trong các phương tiện truyền thông. Cùng với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, tôi khuyến khích việc phát triển những chương trình mục vụ cho truyền thông ở cấp quốc gia và Giáo phận, tuân theo những chỉ dẫn của Huấn Thị Mục Vụ Aetatis Novae, với những quan tâm phù hợp với hoàn cảnh riêng của Á Châu.

Các Thánh Tử Đạo

49. Dù những chương trình đào tạo và các kế hoạch rao giảng Tin Mừng có quan trọng như thế nào đi nữa, cuối cùng thì việc tử đạo mới mạc khải cho thế giới thấy điều cốt yếu nhất của sứ điệp Kitô giáo. Từ “tử đạo” (martyr), có nghĩa là chứng tá, và những ai đã đổ máu mình vì Đức Kitô đã nêu lên chứng tá tột bực cho giá trị thật của Tin Mừng. Trong Sắc Chỉ ấn định Đại Năm Thánh 2000, Incarnationis Mysterium (Mầu nhiệm Nhập Thể), tôi đã nhấn mạnh sự kiện có tính cách thiết yếu là tưởng nhớ Các Thánh Tử đạo: “Đứng trên quan điểm tâm lý học, việc tử đạo là một bằng chứng hùng hồn nhất của chân lý đức tin, bởi vì đức tin có thể đem lại một gương mặt nhân bản cả cho cái chết tàn bạo nhất, và biểu lộ vẻ đẹp của nó ngay trong những cuộc bách hại khốc liệt nhất”.[127] Qua các thời đại, Á Châu đã cung cấp cho Giáo Hội và thế giới một đoàn đông đảo các vị Anh Hùng Đức Tin, và từ con tim của Á Châu, trổi lên bài ca vĩ đại: Te martyrum candidatus laudat exercitus (đoàn tử đạo quang huy hùng dũng, máu đào đổ ra minh chứng về Ngài). Đó là bài ca của những vị đã chết vì Đức Kitô trên phần đất Á Châu trong các thế kỷ đầu của Giáo Hội, và đó cũng là tiếng kêu đầy vui mừng của những người nam và nữ của các thời gần đây, như Thánh Phaolô Miki và các bạn tử đạo, thánh Lôrensô Ruiz và các bạn tử đạo, thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo, thánh Anrê Kim Taegon và các bạn tử đạo. Xin đoàn đông đảo Các Thánh Tử Đạo Á Châu xưa cũng như nay, không ngừng dạy dỗ Giáo Hội tại Á Châu biết thế nào là làm chứng cho Chiên Con mà các ngài đã giặt trắng áo trong máu của Người (x. Kh 7,14). Ước chi các ngài luôn là những chứng nhân bất khuất cho chân lý này, là các Kitô hữu được kêu gọi, luôn luôn và mọi nơi, loan báo không điều gì khác ngoài quyền lực của Thánh Giá Chúa! Và xin cho máu Các Thánh Tử Đạo Á Châu, bây giờ cũng như mãi mãi, là hạt giống sinh sự sống mới cho Giáo Hội tại mọi hang cùng ngõ hẻm của lục địa!

***

KẾT THÚC

 

Lời Cám Ơn Và Khuyến Khích

50. Các anh chị em Á Châu thân mến, cuối Tông Thư Hậu Thượng Hội Đồng này, với mục đích biện phân Lời Của Thần Khí cho Giáo Hội tại Á Châu (x. Kh 1,11), và nêu lên những hoa quả của Hội Nghị Đặc Biệt về Á Châu của Thượng Hội Đồng các Giám Mục, tôi muốn tỏ bày lòng biết ơn đối với tất cả những người đã góp phần nào đó vào sự thành công của biến cố quan trọng này của Giáo Hội. Trước hết và hơn hết, một lần nữa, chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì sự phong phú của các nền văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống và cảm thức tôn giáo tại đại lục này. Chúc tụng Thiên Chúa vì các dân tộc Á Châu, thật phong phú trong sự đa dạng, nhưng lại hiệp nhất trong niềm khát khao hòa bình và sự sống viên mãn. Cách riêng, ngày hôm nay, khi gần ngày kỷ niệm Sinh Nhật lần thứ 2000 của Đức Giêsu Kitô, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vì đã chọn Á Châu làm nơi trú ngụ trần thế cho Người Con Nhập Thể, Đấng Cứu Độ trần gian.

Tôi không thể không diễn tả lòng ngưỡng mộ của tôi đối với các Giám Mục Á Châu, vì lòng yêu mến sâu sa của các Ngài đối với Đức Giêsu Kitô, Giáo Hội và các dân tộc Á Châu, và vì chứng tá hiệp thông và dâng hiến quảng đại của các ngài trong công tác rao giảng Tin Mừng. Tôi cám ơn tất cả những ai họp thành đại gia đình của Giáo Hội tại Á Châu: hàng giáo sĩ, các nam nữ tu sĩ và những người được thánh hiến khác, các nhà truyền giáo, các giáo dân, các gia đình, giới trẻ, dân bản xứ, những công nhân, những người nghèo và khốn cực. Tận đáy lòng tôi có một chỗ đặc biệt dành cho những người bị bắt bớ vì lòng tin vào Đức Kitô. Họ là những trụ cột ẩn khuất của Giáo Hội. Chính Đức Giêsu nói những lời đầy an ủi nầy với họ: “Anh em được chúc phúc trong Nước Trời” (x. Mt 5,10).

Những lời nói của Đức Giêsu khích lệ Giáo Hội tại Á Châu: “Hỡi đoàn chiên bé nhỏ, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em” (Lc 12,32). Những kẻ tin vào Đức Kitô vẫn là một thiểu số bé nhỏ trong lục địa mênh mông và đông dân nhất này. Nhưng không phải là một thiểu số nhút nhát, họ có một đức tin sống động, họ tràn đầy hy vọng và sức sống mà duy chỉ tình yêu mới có thể mang lại. Qua lối sống khiêm tốn nhưng can đảm của họ, họ đã gây ảnh hưởng đến các nền văn hóa và các xã hội tại Á Châu, cách riêng đến cuộc sống của kẻ nghèo và không ai giúp đỡ, nhiều người trong số này chưa được chia sẻ đức tin Công Giáo. Họ là gương sáng cho tất cả Kitô hữu khắp nơi về thái độ sẵn sàng chia sẻ kho tàng Tin Mừng “lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tm 4,2). Họ tìm được sức mạnh trong quyền năng vô biên của Chúa Thánh Thần, nhờ Người mà, dẫu con số thành viên của Giáo Hội tại Á Châu chung chung rất nhỏ nhoi, sự hiện diện của Giáo Hội giống như chút men trộn vào khối bột, vẫn làm cho toàn khối dậy men một cách âm thầm và kín đáo (x. Mt 23,33).

Các dân tộc Á Châu cần đến Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người. Á Châu đang khao khát nước hằng sống mà chỉ một mình Đức Giêsu có thể ban phát cho (x. Ga 4,10-15). Vì thế, các môn đệ Đức Kitô tại Á Châu phải quảng đại trong nỗ lực chu toàn sứ mạng họ đã lãnh nhận từ Chúa, Đấng đã hứa ở với họ cho tới tận thế (x. Mt 28,20). Với hết lòng tin tưởng vào Chúa, Đấng không bao giờ bỏ rơi những kẻ Người kêu gọi, Giáo Hội tại Á Châu vui vẻ làm cuộc hành trình tiến vào ngàn năm thư ba. Niềm vui duy nhất của Giáo Hội là niềm vui xuất phát từ sự chia sẻ với đông đảo các dân tộc Á Châu, ân huệ vô biên mà Giáo Hội đã lãnh nhận - tình yêu của Đức Giêsu Cứu Thế. Tham vọng duy nhất của Giáo Hội là tiếp tục sứ mạng phục vụ và yêu thương của mình, để tất cả mọi người Á Châu “có được sự sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Lời Cầu Nguyện Với Mẹ Đức Kitô

51. Đối diện với sứ mạng đầy thách đố như thế, chúng ta hướng về Đức Maria, Đấng mà như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nói, các Kitô hữu Á Châu rất yêu mến và thiết tha, tôn kính Người như là Mẹ mình và là Mẹ Đức Kitô.[128] Khắp nơi tại Á Châu, có hàng trăm thánh đường và đền thờ kính Đức Maria, nơi đó tụ họp không những người Công Giáo, mà còn các người theo các tôn giáo khác nữa.

Trước ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba của kỷ nguyên Kitô giáo, tôi phó thác Giáo Hội tại Á Châu cho Đức Maria, gương mẫu của tất cả các môn đệ và là Ngôi Sao Sáng của việc Phúc Âm hóa, tuyệt đối tin rằng đôi tai của Ngài là đôi tai luôn lắng nghe, quả tim của Ngài là quả tim luôn đón tiếp, và lời cầu của Ngài là lời cầu không bao giờ không được đáp ứng:

Lạy Đức Maria Rất Thánh, Nữ Tử của Thiên Chúa Tối Cao,

Mẹ Đồng Trinh của Đấng Cứu Thế và Mẹ của tất cả chúng con

xin Mẹ âu yếm nhìn đến Giáo Hội của Con Mẹ

được gieo trồng trên mảnh đất Á Châu.

Xin Mẹ làm người hướng dẫn và mẫu gương cho Giáo Hội

khi Giáo hội tiếp tục sứ mạng của Con Mẹ,

sứ mạng tình yêu và phục vụ tại Á Châu.

Mẹ đã chấp nhận cách hoàn toàn và tự do

tiếng gọi của Chúa Cha để làm Mẹ Thiên Chúa;

xin dạy chúng con loại bỏ ra khỏi lòng chúng con

tất cả những gì không thuộc về Chúa,

để chúng con cũng được tràn đầy Chúa Thánh Thần từ trời cao.

Mẹ suy niệm các mầu nhiệm của thánh ý Chúa

trong tĩnh lặng của lòng Mẹ;

xin giúp chúng con trong cuộc hành trình

biết biện biệt những dấu chỉ của bàn tay uy quyền của Chúa.

Mẹ đã mau mắn đi thăm viếng bà Elizabeth

và giúp bà trong những ngày chờ đợi của bà;

xin cầu cho chúng con cũng được một tinh thần sốt mến và phục vụ

trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng của chúng con.

Mẹ đã hát bài ngợi khen Chúa;

xin dẫn dắt chúng con biết hân hoan loan báo niềm tin vào Đức Kitô,

Đấng Cứu Độ chúng con.

Mẹ đã xót thương những kẻ thiếu thốn

và nói với Con Mẹ giùm cho họ;

xin dạy chúng con đừng bao giờ e sợ

phải nói về thế giới cho Đức Giêsu

và phải nói về Đức Giêsu cho thế giới.

Mẹ đứng dưới chân Thánh Giá khi Con Mẹ thở hơi cuối cùng;

xin Mẹ ở với chúng con

khi chúng con tìm cách nên một trong tinh thần và trong phục vụ

với tất cả những ai đau khổ.

Mẹ đã cầu nguyện với các môn đệ trên Lầu Cao;

xin giúp chúng con biết trông chờ Thần Khí

và đi tới nơi nào Thần Khí hướng dẫn chúng con.

Xin bảo vệ Giáo Hội khỏi mọi quyền lực đang đe doạ Giáo Hội.

Xin giúp Giáo Hội trở nên một hình ảnh đích thực của Chúa Ba Ngôi Chí Thánh.

Xin cầu giúp nguyện thay để nhờ tình yêu và phục vụ của Giáo Hội

tất cả các dân tộc Á Châu có thể biết Con của Mẹ,

Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của thế giới,

và hưởng nếm niềm vui sự sống viên mãn.

Ôi Maria, Mẹ của Thọ Tạo Mới và Mẹ của Á Châu,

xin cầu cho chúng con là con cái Mẹ, bây giờ và mãi mãi!

 

 

Ban hành tại New Delhi, Ấn Độ,

ngày 6 tháng 11 năm 1999,

năm thứ 22 Triều Giáo Hoàng của Ta.

+ JOHANNES PAULUS II

Giáo Hoàng

 

 

 


[1]Thánh Augustinô, “De Civitate Dei”, XVIII, 51, 2: PL 41, 614 ; x. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), số 8.

[2] Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad Gentes (Đến Với Muôn Dân), số 7; x. Hiến chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), số 17.

[3]Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, “Diễn văn trước Hồng Y đoàn”, 22.6.1973: AAS 65 (1973), 391.

[4]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christifideles Laici (Người kitô hữu giáo dân), Ngày 30.12.1988, số 18: AAS 81 (1989), 421.

[5] x. Ibid.; Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), số 4.

[6] x. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 775.

[7] x. Ibid.

[8]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Christifideles Laici (Người kitô hữu giáo dân), Ngày 30.12.1988, số 32: AAS 81 (1989), 451t.

[9] x. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), số 16.

[10]Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 13.

[11] Ibidem.

[12] x.Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Tường trình trước khi thảo luận”: L'Osservatore Romano (22.4.1998), 6.

[13]Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 13; x. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), số 22.

[14] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 13.

[15] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 15; Bộ Giáo Lý Đức Tin, “Thư gửi các giám mục Hội Thánh Công Giáo về một số khía cạnh của Giáo Hội, được hiểu như sự hiệp thông theo ‘Ý niệm Hiệp Thông’”, 28.5.1992, số 3-10: AAS 85 (1993), 839-844.

[16] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 15.

[17] x. Ibidem.

[18] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 16.

[19]Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 34.

[20] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 30; x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ Vụ Đấng Cứu Thế), số 51: AAS 83 (1991), 298.

[21] x. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi (Loan báo Tin Mừng), Ngày 08-12-1975, số 58: AAS 68 (1976), 46-49; Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ Vụ Đấng Cứu Thế), số 51: AAS 83 (1991), 299.

[22] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 31.

[23] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 14.

[24] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Tường trình trước khi thảo luận”: L'Osservatore Romano (22-4-1998), 6.

[25] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 50.

[26] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 36 và 50.

[27] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, “Diễn văn tại Thượng Hội Đồng các giám mục Giáo Hội theo nghi lễ Syro-Malabar”, 8.1.1996, số 6: AAS 88 (1996), 41.

[28] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 50.

[29] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 56.

[30] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 51.

[31] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 52.

[32]Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 53.

[33] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 57.

[34] x. “Thư đề cập đến việc hành hương tại các địa điểm có liên quan tới lịch sử cứu độ”, 29-06-1999, số 7: L'Osservatore Romano, (30.06 – 01.07.1999), 9.

[35]AAS 56 (1964), 613.

[36] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 42.

[37] Ibidem.

[38]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, “Diễn văn tại buổi triều yết chung”, Ngày 26-6-1995, số 4: Insegnamenti XVIII, 2 (1995), 138.

[39] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, “Diễn văn tại buổi triều yết chung”, Ngày 20-01-1982, số 2: Insegnamenti V, 1 (1982), 162.

[40] x. Số 53: AAS 83 (1995), 307.

[41] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ Vụ Đấng Cứu Thế), số 55: AAS 87 (1991), 302.

[42] x. Ibid.: loc. cit., 304.

[43]Số 4: AAS 83 (1991), 101f.

[44]Số 56: AAS 83 (1991), 304.

[45]Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 41.

[46] Ibidem.

[47] x. Ibidem.

[48] x.Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ Vụ Đấng Cứu Thế), số 57: AAS 83 (1991), 305.

[49] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Vita Consecrata (Đời sống thánh hiến), Ngày 25-03-1996, số 8: AAS 88 (1996), 383.

[50] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (Quan tâm đến xã hội), Ngày 30-12-1987, số 47: AAS 80 (1988), 582.

[51] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy Vọng), số 1.

[52] Bằng nhiều cách, điểm khởi phát là Thông điệp Rerum Novarum của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII (15/5/1891) đã dẫn tới một loạt tuyên bố chính thức của Giáo Hội về nhiều phương diện khác nhau của vấn đề xã hội. Giữa những tuyên bố này là Thông điệp Populorum Progressio (26/3/1967) mà Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã phổ biến để đáp ứng những giáo huấn của Công Đồng Vatican II và hoàn cảnh thay đổi của thế giới. Để kỷ niệm 20 năm ngày Tông Thư này được ban hành, tôi đã cho ra Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (30/12/1987), tiếp nối Giáo Huấn trước đây, tôi kêu mời tất cả các Kitô hữu hãy xem chính mình như được gọi để lãnh sứ mạng phục vụ, việc này cần thiết để thăng tiến sự phát triển con người toàn diện.

[53]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (Quan tâm đến xã hội), Ngày 30-12-1987, số 41: AAS 80 (1988), 570f.

[54] x. Bộ Giáo Lý Đức Tin, Huấn thị về sự tự do và giải phóng của Kitô Giáo “Libertatis Conscientia” (Ý thức về tự do), Ngày 22.3.1986, số 72: AAS 79 (1987), 586.

[55] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 22.

[56] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 21.

[57] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Christifideles Laici (Người Kitô hữu giáo dân), Ngày 30.12.1988, số 5: AAS 81 (1989), 400-402; Thông điệp Evangelium Vitae (Tin Mừng về sự sống), Ngày 25.03.1995, số 18: AAS 87 (1995), 419t.

[58]Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 22; x. Đề nghị 39.

[59] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (Quan tâm đến xã hội), Ngày 30-12-1987, số 42: AAS 80 (1988), 573; x. Bộ Giáo Lý Đức Tin, Huấn thị về sự tự do và giải phóng của Kitô Giáo “Libertatis Conscientia” (Ý thức về tự do), Ngày 22.3.1986, số 68: AAS 79 (1987), 583.

[60] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 44.

[61] x. Ibidem.

[62] x.Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 39.

[63] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 22.

[64] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 36.

[65] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 38.

[66] x. Ibidem.

[67] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 33.

[68] x. Ibidem.

[69] x.Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 35.

[70] x. Ibidem.

[71]Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 32.

[72] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Salvifici doloris (Đau khổ đem lại ơn cứu độ), Ngày 11.02.1984, số 28-29: AAS 76 (1984), 242-244.

[73] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 20.

[74] x. Ibidem.

[75] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 21.

[76] x. Ibidem.

[77] x. Ibidem.

[78] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 23.

[79] x. Ibidem.

[80] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 55.

[81] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 49.

[82]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Sứ điệp ngày quốc tế cầu nguyện cho hòa bình, Ngày 01.01.1998, số 3: AAS 90 (1998), 50.

[83] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 49.

[84] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 48.

[85] x. Ibid.; Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư “Tiến Tới thiên niên kỷ thứ ba”, số 51: AAS 87 (1995) 36.

[86] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 48.

[87] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 22; Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (Quan tâm đến xã hội), Ngày 30-12-1987, số 44: AAS 80 (1988), 576t.

[88] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptor Hominis (Đấng Cứu Chuộc loài người), số 15: AAS 71 (1979), 287.

[89] x. Ibidem.

[90] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 47.

[91]“Các bài giảng về tin mừng Matthêu”, 50, 3-4: PG 58, 508-509.

[92] x. Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad Gentes (Đến với muôn dân), số 2 và 35.

[93] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế), Ngày 07-12-1990, số 31: AAS 83 (1991), 277.

[94] Ibid. 42: loc. cit., 289.

[95] Ibidem.

[96] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 25.

[97] x. Ibidem.

[98] x. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), số 46.

[99] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 27.

[100] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Vita Consecrata (Đời Sống Thánh Hiến), Ngày 25-03-1996, số 103: AAS 88 (1996), 479.

[101] x. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi (Loan báo Tin Mừng), Ngày 08-12-1975, số 69: AAS 68 (1976), 59.

[102] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 27.

[103] x. Ibidem.

[104] x. Ibidem.

[105] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 28.

[106] Ibidem.

[107] x. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), số 31.

[108] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 29.

[109] x. Ibidem.

[110] x. Ibidem.

[111] John Paul II, Address at the General Audience (13 July 1994), 4: Insegnamenti XVII, 2 (1994), 40.

[112] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 35.

[113] x. Ibidem.

[114] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), số 11.

[115] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Relatio ante disceptationem: L’Osservatore Romano (22 April 1998), 6.

[116] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 32.

[117] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 33.

[118] John Paul II, Address to the Confederation of Family Advisory Bureaus of Christian Inspiration (29 November 1980), 4: Insegnamenti III, 2 (1980), 1454.

[119] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 34.

[120] Ibidem.

[121] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế), Ngày 07-12-1990, số 37: AAS83 (1991), 285.

[122] Ibidem.

[123] Ibidem.

[124] x. Propositio 45.

[125] x. Ibidem.

[126] x. Ibidem.

[127] Số 13: AAS 91 (1999), 142.

[128] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 59.