Tông Huấn

Saturday, 04 April 2020 16:03

Tông Huấn Ecclesia In Asia (Giáo Hội Tại Á Châu) Của ĐGH Gioan Phaolô II (Ngày 06-11-1999) – (1) Featured

TÔNG HUẤN ECCLESIA IN ASIA

(GIÁO HỘI TẠI Á CHÂU)

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

GỞI CÁC GIÁM MỤC, LINH MỤC VÀ PHÓ TẾ,

CÁC NGƯỜI NAM NỮ SỐNG ĐỜI THÁNH HIẾN,

VÀ TẤT CẢ GIÁO DÂN

HẬU THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC

NGÀY 6 THÁNG 11 NĂM 1999

***

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

***

ĐỨC GIÊSU KITÔ

ĐẤNG CỨU ĐỘ VỀ SỨ VỤ TÌNH YÊU VÀ PHỤC VỤ CỦA NGƯỜI TẠI Á CHÂU:

“ĐỂ CHO CHÚNG ĐƯỢC SỐNG VÀ SỐNG DỒI DÀO” (Ga 10,10).

 

DẪN NHẬP

 

Vẻ kỳ diệu trong kế hoạch của Thiên Chúa tại Á Châu

1. Giáo Hội tại Á Châu hát lời ngợi khen “Thiên Chúa cứu độ” (Tv 68,20) vì Người đã chọn khởi sự kế hoạch cứu độ của Người tại phần đất Á Châu, qua những người nam nữ của lục địa này. Quả thế, chính tại Á Châu mà Thiên Chúa đã mạc khải và hoàn thành ý định cứu độ của Người ngay từ đầu. Người hướng dẫn các tổ phụ (x. St 12) và kêu gọi ông Môsê giải thoát dân Người (x. Xh 3,10). Người nói với Dân được tuyển chọn qua nhiều ngôn sứ, quan án, vua chúa và những phụ nữ dũng cảm đầy lòng tin. Vào “thời viên mãn” (Gl 4,4), Người sai Con Một của Người, Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ, mặc lấy xác phàm làm người Á Châu! Hoan hỷ vì những điều thiện hảo nơi các dân tộc, các nền văn hóa và sức sống tôn giáo của lục địa, và đồng thời ý thức đến quà tặng duy nhất là đức tin mà mình đã lãnh nhận vì thiện ích mọi người, Giáo Hội tại Á Châu không ngừng loan báo: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118,1).

Vì Đức Giêsu sinh ra, sống, chết và chỗi dậy từ cõi chết nơi Đất Thánh, vùng đất bé nhỏ ấy ở Tây Á đã trở nên mảnh đất đầy hứa hẹn và hy vọng cho cả loài người. Đức Giêsu đã biết đến và yêu mến mảnh đất này. Người gắn bó với lịch sử, những đau khổ và hy vọng của dân miền này. Người thương yêu dân miền này và đi theo truyền thống và di sản Do Thái. Quả thực từ lâu trước, Thiên Chúa đã chọn dân này và mạc khải chính mình cho họ để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến. Và từ mảnh đất này, nhờ lời rao giảng Tin Mừng trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội đã ra đi để làm cho “muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Cùng với Giáo Hội hoàn cầu, Giáo Hội tại Á Châu sẽ bước qua ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, vừa kinh ngạc trước những gì Thiên Chúa đã thực hiện từ những bước đầu ấy cho tới ngày nay, vừa hiểu rõ rằng “cũng như trong ngàn năm thứ nhất, Thánh Giá đã được cắm trên miền đất Âu Châu, rồi trong ngàn năm thứ hai được cắm trên miền đất Mỹ Châu và Phi Châu, thì chúng ta có thể cầu ước nguyện rằng, trong ngàn năm thứ ba Kitô giáo, một mùa gặt lớn về đức tin sẽ được thu hoạch tại lục địa rộng lớn và đầy sức sống này”.[1]

Bối Cảnh Của Hội Nghị Đặc Biệt

2. Trong Tông Thư Tertio Millennio Adveniente, tôi có đưa ra một chương trình để Giáo Hội đón mừng ngàn năm thứ ba Kitô giáo, một chương trình tập trung vào những thách đố của công cuộc Phúc Âm hóa mới. Một nét quan trọng của chương trình này là họp Thượng Hội Đồng các lục địa, để các Giám Mục có thể đề cập vấn đề Phúc Âm hóa tùy theo hoàn cảnh riêng và nhu cầu của mỗi lục địa. Những kỳ họp Thượng Hội Đồng này, liên kết bằng một chủ đề chung là công cuộc Phúc Âm hóa mới, đã tỏ ra là một phần quan yếu trong việc Giáo Hội chuẩn bị mừng Đại Năm Thánh 2000.

Trong chính Tông Thư này, khi nhắc tới Hội Nghị đặc biệt Thượng Hội Đồng các Giám Mục Á Châu, tôi đã lưu ý rằng trên phần đất này của thế giới “việc gặp gỡ của Kitô giáo với những nền văn hóa và tôn giáo địa phương có từ lâu đời, phải là một vấn đề cấp bách. Đây là một thách đố lớn đối với việc Phúc Âm hóa, bởi vì những hệ thống tôn giáo như Phật giáo hay Ấn giáo đều có một đặc tính rõ rệt là cứu nhân độ thế”.[2] Quả thực đây là một huyền nhiệm: tại sao Đấng Cứu Thế sinh ra tại Châu Á mà cho đến nay vẫn có nhiều người của lục địa này chưa biết đến Người. Thượng Hội Đồng sẽ là một cơ hội quan phòng đối với Giáo Hội tại Á Châu để suy nghĩ sâu sắc hơn nữa về huyền nhiệm này và tái dấn thân vào sứ mạng làm cho mọi người biết rõ Đức Giêsu Kitô hơn. Hai tháng sau khi công bố Tertio Millennio Adveniente, trong buổi nói chuyện với Hội Nghị khoáng đại lần thứ sáu của Liên Hiệp các Hội Đồng Giám Mục Á Châu tại Manila, Philippines, nhân dịp cử hành ngày Quốc Tế Giới Trẻ lần thứ mười đáng ghi nhớ, tôi đã lưu ý các Giám mục: “Nếu Giáo Hội tại Á Châu phải hoàn thành vận mệnh quan phòng của mình, thì việc Phúc Âm hóa, nghĩa là một sự rao giảng vui tươi, nhẫn nại và tiệm tiến, về cái Chết và Phục sinh cứu độ của Đức Giêsu Kitô, phải là một ưu tiên tuyệt đối của các Hiền Huynh”.[3]

Sự hưởng ứng tích cực của các Giám Mục và của các Giáo Hội địa phương về viễn tượng một Hội nghị đặc biệt về Á Châu của Thượng Hội Đồng Giám Mục thật hiển nhiên qua giai đoạn chuẩn bị. Các Giám Mục đã chia sẻ những mong ước và ý kiến của mình vào mỗi giai đoạn, cách chân tình và hiểu biết sâu sắc về lục địa. Các ngài đã làm điều đó trong thái độ hoàn toàn ý thức đến mối giây hiệp thông mà các ngài chia sẻ với Giáo Hội toàn cầu. Phù hợp với ý tưởng ban đầu của Tông Thư Tertio Millennio Adveniente và theo những đề nghị của Ban Chuẩn bị Thượng Hội Đồng sau khi xem xét các ý kiến của các Giám Mục và các Giáo Hội địa phương tại lục địa Á Châu, tôi đã chọn chủ đề cho Thượng Hội Đồng: Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ với sứ mạng tình yêu và phục vụ của Người tại Á Châu: “để cho chúng được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Qua công thức đặc biệt đó của chủ đề, tôi hy vọng rằng Thượng Hội Đồng có thể “minh họa và giải thích đầy đủ hơn chân lý này: Đức Kitô là Trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người và là Đấng Cứu Chuộc duy nhất của trần gian, bằng cách phân biệt Người cách rõ ràng với những vị sáng lập các tôn giáo lớn khác”.[4] Bởi vì chúng ta tiến gần đến Đại Năm Thánh, Giáo Hội tại Á Châu cần đến khả năng loan báo với một nhiệt tình đổi mới: “Ecce natus est nobis Salvator mundi” (Đây Đấng Cứu Độ trần gian sinh ra cho chúng ta), sinh ra tại Á Châu!

Cử Hành Hội Nghị Đặc Biệt

3. Nhờ ơn Chúa, Hội Nghị đặc biệt của Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã diễn ra từ ngày 18/4 đến 14/5 năm 1998 tại Vatican. Hội nghị này tổ chức sau các Hội nghị đặc biệt dành cho Phi Châu (1994) và Mỹ Châu (1997), và được tiếp nối bởi Hội nghị dành cho Đại Dương Châu vào cuối năm (1998). Trong gần một tháng, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng và các tham dự viên, tụ họp quanh Đấng kế vị Thánh Phêrô và chia sẻ ơn thông hiệp phẩm trật, đã đem lại một tiếng nói và một khuôn mặt cụ thể cho Giáo Hội tại Á Châu. Quả thực đó là một thời gian ân sủng đặc biệt!.[5] Những cuộc họp trước đó của các Giám Mục Á Châu, đã góp phần chuẩn bị Thượng Hội Đồng và tạo nên một bầu khí hiệp thông Giáo Hội và huynh đệ sâu sắc. Về phương diện này, có một tầm quan trọng đặc biệt là những Hội Nghị Khoáng Đại và những cuộc Hội Thảo đã được Liên Hiệp các Hội Đồng Giám Mục Á Châu và các Ủy ban tổ chức, đã qui tụ thường xuyên một số lớn Giám Mục Á Châu và đã cổ võ những mối giây liên lạc cá nhân cũng như thừa tác vụ giữa các ngài. Tôi đã có dịp thăm viếng vào một vài kỳ họp đó, đôi khi chủ sự việc cử hành Thánh lễ long trọng dịp khai mạc hay bế mạc. Trong những dịp này, tôi có thể trực tiếp quan sát cuộc gặp gỡ đối thoại giữa các Giáo Hội địa phương, có cả các Giáo Hội Đông Phương, qua các vị chủ chăn của họ. Những cuộc họp này và các cuộc họp khác theo miền của các Giám Mục Á Châu, do Chúa quan phòng, đã giúp chuẩn bị xa cho Thượng Hội Đồng.

Chính việc cử hành Thượng Hội Đồng này xác nhận tầm quan trọng của sự đối thoại như là một phương thức đặc thù của đời sống Giáo Hội tại Á Châu. Một sự chia sẻ chân tình và trung thực các kinh nghiệm, quan điểm và đề nghị, chứng tỏ đó là con đường đưa tới cuộc gặp gỡ đích thật của các tâm hồn, sự hiệp thông trí tuệ và con tim. Đó là một sự hiệp thông tôn trọng và vượt lên trên những khác biệt trong tình yêu. Đặc biệt gây xúc động là cuộc gặp gỡ giữa các Giáo Hội mới và các Giáo Hội cũ có nguồn gốc từ thời các Tông Đồ. Chúng tôi đã cảm nghiệm một niềm vui không gì bằng, khi thấy các Giám Mục các Giáo Hội địa phương tại Myanmar, Việt Nam, Lào, Campuchia, Mông Cổ, Siberia và những nước cộng hòa mới tại Trung Á, ngồi bên các anh em mình, là những người từ lâu ước ao gặp mặt họ và đối thoại với họ. Nhưng cũng có một nỗi buồn vì các Giám Mục lục địa Trung Hoa không thể có mặt được. Sự vắng mặt của các ngài là một sự nhắc nhớ đến những hy sinh và đau khổ anh hùng mà Giáo Hội tiếp tục gánh chịu trong nhiều phần đất Á Châu.

Cuộc gặp gỡ trong đối thoại giữa các Giám Mục và Đấng kế vị Thánh Phêrô với nhiệm vụ làm cho anh em mình nên vững mạnh (x. Lc 22,32), thật là một sự củng cố trong đức tin và sứ mạng. Ngày qua ngày, phòng Thượng Hội Đồng và các phòng họp khác tràn ngập những báo cáo về đức tin sâu sắc, về tình yêu quên mình, về niềm hy vọng không hề lay chuyển, về những dấn thân bền bỈ trong đau khổ, về lòng can đảm chịu đựng và về sự tha thứ đầy lòng thương xót, tất cả những điều đó hùng hồn vạch ra sự thật của những lời Đức Giêsu đã nói: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày” (Mt 28, 20). Thượng Hội Đồng là thời gian ân sủng, bởi vì đó là một sự gặp gỡ với Đấng Cứu Độ, Đấng vẫn tiếp tục hiện diện trong Giáo Hội của Người qua quyền lực Chúa Thánh Thần, được cảm nhận qua sự đối thoại huynh đệ về sự sống, sự hiệp thông và sứ mạng.

Chia Sẻ Hoa Quả của Hội Nghị Đặc Biệt

4. Qua Tông huấn Hậu Thượng Hội Đồng này, tôi muốn chia sẻ với Giáo Hội tại Á Châu và khắp thế giới, những hoa quả của Hội Nghị Đặc Biệt này. Văn kiện này muốn chuyển đạt sự phong phú của biến cố thiêng liêng trọng đại đó của sự hiệp thông và tính tập đoàn Giám Mục. Thượng Hội Đồng đã là một cử hành tưởng niệm những nguồn gốc Kitô giáo tại Á Châu. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhắc nhớ lại cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên, Giáo Hội tiên khởi, đoàn chiên bé nhỏ của Đức Giêsu trên lục địa mênh mông này (x. Lc 12,32). Các ngài nhớ lại những gì Giáo Hội đã lãnh nhận và lắng nghe từ lúc khởi đầu (x. Kh 33), và, sau khi nhớ lại, các ngài ngợi ca lòng “nhân ái vô cùng của Chúa” (Tv 154,7), lòng nhân ái không bao giờ vơi. Thượng Hội Đồng cũng là một cơ hội để nhận ra những truyền thống tôn giáo và các nền văn minh cổ xưa, những triết lý thâm sâu và sự khôn ngoan đã làm cho Á Châu trở thành như ngày hôm nay. Trên hết tất cả, đã gợi nhớ rằng chính các dân tộc Á Châu là sự phong phú thật sự của lục địa và là hy vọng cho tương lai. Suốt thời gian Thượng Hội Đồng, những người trong chúng tôi đang hiện diện đều chứng kiến một cuộc gặp gỡ sinh nhiều hoa trái cách lạ thường giữa các nền văn hóa, văn minh cũ và mới của Á Châu. Thật tuyệt diệu khi thấy chúng trong sự khác biệt và đồng nhất, nhất là khi các biểu tượng, các bài ca, các điệu vũ và các màu sắc cùng chung nhau tạo nên sự hòa hợp hài hòa xung quanh một Bàn Thờ Chúa trong các buổi phụng vụ Thánh Thể khai mạc và bế mạc.

Đây không phải là một cuộc cử hành có động cơ là lòng kiêu hãnh nhắm đến các thành công nhân loại, nhưng đây là một cử hành ý thức đến những gì Đấng Toàn năng đã thực hiện cho Giáo Hội tại Á Châu (x. Lc 1,49). Khi nhắc tới tình trạng khiêm tốn của Cộng Đồng Công Giáo, cũng như những yếu đuối của các phần tử mình, Thượng Hội Đồng cũng là một lời kêu gọi hoán cải, ngõ hầu Giáo Hội tại Á Châu có thể trở nên xứng đáng hơn với các ân sủng mà Thiên Chúa tiếp tục ban tặng.

Thượng Hội Đồng không những là một việc tưởng niệm và một cử hành, mà còn là một sự khẳng định mãnh liệt về lòng tin vào Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Độ. Tri ân vì hồng ân đức tin, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng không thấy có cách nào khác tốt hơn để tán dương đức tin cho bằng xác nhận đức tin trong sự toàn vẹn của nó, và suy nghĩ về đức tin trong mối tương quan với bối cảnh nó được loan báo và tuyên xưng tại Á Châu ngày nay. Các Nghị Phụ thường xuyên nhấn mạnh rằng đức tin đã được rao giảng với lòng tín thác và can đảm trên lục địa, cho dầu giữa những khó khăn to lớn. Nhân danh vô vàn người nam nữ tại Á Châu đặt niềm tin không nơi ai khác ngoài Chúa, các Nghị Phụ tuyên xưng: “Chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,69). Đối mặt với nhiều vấn đề nhức nhối do đau khổ, bạo lực, kỳ thị và nghèo đói mà phần đông các dân tộc Á Châu phải gánh chịu, các Nghị Phụ cầu nguyện: “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,24).

Năm 1995, tôi đã mời gọi các Giám Mục Á Châu đang tụ họp tại Manila “hãy mở rộng cửa của Á Châu cho Đức Kitô”.[6] Múc lấy sức mạnh từ sự hiệp thông với vô số các vị tử đạo, nhiều khi không tên tuổi, vì đức tin tại Á Châu, và được vững tâm trong niềm hy vọng nhờ sự hiện diện tồn tại mãi mãi của Chúa Thánh Thần, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng can đảm kêu gọi tất cả môn đệ Đức Kitô tại Á Châu tái dấn thân cho việc truyền giáo. Trong kỳ họp Thượng Hội Đồng, các Giám Mục và những tham dự viên đã làm chứng về căn tính, về ngọn lửa thiêng liêng và về lòng hăng say, nhờ đó Á Châu chắc chắc sẽ thành mảnh đất cho mùa gặt dồi dào trong ngàn năm thứ ba sắp tới.

***

CHƯƠNG I

BỐI CẢNH Á CHÂU

 

Á Châu, Nơi sinh của Đức Giêsu và của Giáo Hội

5. Mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa, mà toàn thể Giáo Hội sẽ long trọng mừng kỷ niệm trong Đại Năm Thánh 2000, xảy ra trong bối cảnh lịch sử và địa lý nhất định. Bối cảnh đó gây nên một ảnh hưởng quan trọng trên đời sống và sứ vụ của Đấng Cứu Chuộc trong tư cách một con người: “Trong Đức Giêsu thành Nazareth, Thiên Chúa đã mặc lấy những nét đặc trưng của bản tánh nhân loại, gồm có sự thuộc về một dân tộc nhất định và một lãnh thổ nhất định. Nét đặc thù tự nhiên của phần đất và vị trí địa lý của nó không thể tách rời khỏi chân lý là xác phàm con người được Ngôi Lời mặc lấy”.[7] Do đó việc hiểu biết thế giới mà Đấng Cứu Độ “đã ở giữa chúng ta” (Ga 1,14) là chìa khoá quan trọng giúp hiểu rõ hơn về ý định của Chúa Cha hằng hữu và tình yêu bao la của Người đối với mọi loài thụ tạo: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Cũng vậy, Giáo Hội sống và hoàn thành sứ mạng mình trong hoàn cảnh hiện tại của thời gian và không gian. Sự hiểu biết có phê phán về những thực tại khác biệt và phức tạp của Châu Á là thiết yếu nếu dân Chúa trên lục địa muốn đáp trả lại ý muốn của Thiên Chúa đối với họ trong vấn đề Tân Phúc Âm hóa. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh rằng sứ vụ yêu thương và phục vụ của Giáo Hội tại Á Châu được quy định do hai yếu tố: một bên là sự hiểu biết của Giáo Hội về chính mình như là một cộng đồng môn đệ của Đức Giêsu Kitô, được tập hợp quanh các vị chủ chăn của mình, và bên kia là những thực tại xã hội, chính trị, tôn giáo, văn hóa và kinh tế tại Á Châu.[8] Hoàn cảnh Á Châu được nghiên cứu tỉ mỉ trong Thượng Hội Đồng do những vị đã tiếp xúc hàng ngày với những thực tại rất khác biệt của một lục địa to lớn thế đó. Tiếp theo đây là bản tổng hợp thành quả những suy tư của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng.

Những Thực Tại Tôn Giáo và Văn hóa

6. Á Châu là lục địa to lớn nhất trên trái đất, và là nơi cư ngụ của gần hai phần ba dân số thế giới, với hai nước Trung Hoa và Ấn Độ chiếm gần nửa dân số thế giới. Nét nổi bật nhất của lục địa là sự khác biệt về dân tộc, “thừa kế những nền văn hóa, tôn giáo và truyền thống cổ xưa”.[9] Chúng ta không thể không kinh ngạc về nguyên tầm mức dân số Châu Á và sự đan chéo phức tạp của nhiều nền văn hóa, ngôn ngữ, niềm tin và truyền thống, từng đó thứ làm nên một phần đáng kể trong lịch sử và gia sản của gia đình nhân loại.

Á Châu cũng là chiếc nôi của các tôn giáo lớn trên thế giới - Do Thái Giáo, Kitô Giáo, Hồi Giáo và Ấn Giáo. Đó là nơi phát sinh nhiều truyền thống thiêng liêng khác như Phật Giáo, Lão Giáo, Khổng Giáo, Zoroastrianism, Jainism (Ấn Độ), giáo phái Sikh và Thần Đạo (Nhật). Hàng triệu người cũng theo những tôn giáo truyền thống và bộ lạc, với nhiều cấp độ nghi thức và giáo thuyết. Giáo Hội giữ một niềm kính phục sâu xa nhất đối với các truyền thống này và tìm cách chân thành đối thoại với các môn sinh của truyền thống đó. Những giá trị tôn giáo họ truyền dạy, chờ được hoàn thành viên mãn trong Đức Giêsu Kitô.

Dân Á Châu hãnh diện về các giá trị tôn giáo và văn hóa của mình, như yêu mến sự thinh lặng và chiêm ngưỡng, sự đơn sơ, hài hòa, quên mình, bất bạo động, chăm chỉ làm việc, kỷ luật, sống mộc mạc, khao khát hiểu biết và tìm kiếm triết lý.[10] Họ quý trọng những giá trị như tôn trọng sự sống, lòng trắc ẩn đối với mọi sinh vật, gần gũi với thiên nhiên, hiếu thảo với cha mẹ, đàn anh và tổ tiên, và một ý thức cộng đồng cao độ.[11] Đặc biệt, họ coi gia đình là nguồn sống ban sức mạnh, một cộng đồng liên kết chặt chẽ có một cảm thức mạnh mẽ về tình liên đới.[12] Các dân tộc Á Châu nổi tiếng có tinh thần bao dung tôn giáo và sống chung hòa bình. Tuy không phủ nhận rằng còn có những sự căng thẳng chua xót và những xung đội dữ dội, nhưng có thể nói rằng Châu Á thường tỏ ra có một khả năng thích nghi đặc biệt và cởi mở tự nhiên đối với nền phong phú các dân tộc, giữa tình trạng đa nguyên tôn giáo và văn hóa. Hơn nữa, mặc dầu bị ảnh hưởng của hiện đại hoá và trần tục hoá, các tôn giáo ở Châu Á tỏ lộ dấu chỉ của một sức sống mạnh mẽ và một khả năng đổi mới, như thấy nơi các phong trào cải cách bên trong những nhóm tôn giáo khác nhau. Nhiều người, nhất là người trẻ, cảm nghiệm một khát vọng sâu xa đối với những giá trị thiêng liêng, như được chứng tỏ qua sự xuất hiện nhiều phong trào tôn giáo mới.

Tất cả những điều trên chỉ cho thấy một cảm thức thiêng liêng nội tâm và sự khôn ngoan về mặt luân lý trong tâm hồn người Á Châu, và đó là cốt lõi mà xung quanh đó được xây dựng một ý thức đang lớn mạnh về thế nào “là người Á Châu”. Nhận thức “là người Á Châu” này được khám phá và khẳng định cách tốt nhất không phải trong sự chạm trán và đối nghịch nhau, nhưng trong tinh thần bổ sung và hòa hợp. Trong khung cảnh bổ sung và hòa hợp này, Giáo Hội có thể loan truyền Tin Mừng qua một cách thức vừa trung thành với truyền thống của mình và vừa trung thành với tâm hồn Châu Á.

Những Thực Tại Kinh Tế và Xã Hội

7. Về phương diện phát triển kinh tế, những hoàn cảnh trong lục địa Á Châu rất khác biệt nhau, không thể đơn giản phân loại được. Một số vùng đã phát triển cao, một số vùng khác đang phát triển nhờ các chính sách kinh tế có hiệu quả và một số vùng khác nữa vẫn còn thấy trong cảnh nghèo hèn khốn nạn, quả thế trong số những nước nghèo nhất trên thế giới. Trong quá trình phát triển, chủ nghĩa duy vật và tục hoá cũng đang xâm lấn, nhất là tại những vùng đô thị. Khi xói mòn những giá trị truyền thống, xã hội và tôn giáo, những ý thức hệ này đe doạ các nền văn hóa Á Châu với những thiệt hại không thể lường trước được.

Các Nghị Phụ Thượng hội Đồng nói về những thay đổi nhanh chóng xảy ra trong các xã hội Á Châu và nói về những khía cạnh tích cực và tiêu cực do những thay đổi đó mang lại. Trong số đó có hiện tượng đô thị hoá và sự xuất hiện những khối đô thị khổng lồ, thường có những khu vực rộng lớn gây ngã lòng, nơi mà các tội ác có tổ chức, khủng bố, mại dâm và sự bóc lột những phần tử yếu kém hơn trong xã hội đang lớn mạnh. Việc di dân cũng là hiện tượng lớn xã hội, đặt hàng triệu người vào những hoàn cảnh khó khăn về mặt kinh tế, văn hóa và luân lý. Dân chúng di cư nội trong khu vực Á Châu và từ Á Châu đến các lục địa khác vì nhiều lý do, chẳng hạn nghèo đói, chiến tranh và xung đột sắc tộc, sự chối bỏ nhân quyền và những quyền tự do cơ bản. Việc thiết lập những liên hiệp công nghiệp khổng lồ là một lý do nữa của sự di dân nội và ngoại, kèm theo những hậu quả tàn phá đời sống và các giá trị của gia đình. Cũng có nhắc tới việc xây dựng những nhà máy điện nguyên tử, vì quan tâm tới giá cả và muốn có hiệu năng mà ít nghĩ tới sự an toàn dân chúng và sự toàn vẹn của môi trường.

Ngành du lịch cũng cần được lưu ý cách riêng. Mặc dù là một công nghệ chính đáng với những giá trị văn hóa và giáo dục của nó, ngành du lịch trong một vài trường hợp đã có một tác động phá hoại luân lý và phong cảnh thiên nhiên của nhiều quốc gia Á Châu, bằng chứng là nhiều phụ nữ trẻ và cả đến các trẻ em bị mất phẩm giá vì nạn mãi dâm.[13] Công tác mục vụ cho các người di dân, cũng như cho các khách du lịch thật gay go và phức tạp, nhất là tại Á Châu nơi những cơ cấu cơ bản cho công việc đó không phải lúc nào cũng có. Chương trình mục vụ ở mọi cấp bậc cần phải lưu ý tới những thực tại này. Trong khung cảnh này, chúng ta không nên bỏ quên những người di dân từ các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, đang cần chăm sóc mục vụ theo những truyền thống Giáo Hội riêng của họ.[14]

Nhiều vùng Á Châu đối diện với những khó khăn liên quan tới sự tăng dân số, đó “không chỉ là một vấn đề dân số hay kinh tế, nhưng cách riêng là một vấn đề luân lý”.[15] Rõ ràng, vấn đề dân số liên kết chặt chẽ với vấn đề thăng tiến con người, nhưng những giải quyết sai lầm đe doạ nhân cách và tính bất khả xâm phạm của sự sống thì nhiều và nêu lên một thách đố đặc biệt cho Giáo Hội tại Á Châu. Tới đây, có lẽ nên nhắc lại những đóng góp của Giáo Hội trong việc bênh vực và thăng tiến sự sống, nhờ chăm sóc sức khỏe, phát triển xã hội và giáo dục, nhằm lợi ích cho dân chúng, nhất là người nghèo. Hội Nghị Đặc Biệt về Á Châu đã làm đúng khi nói lên lòng kính trọng đối với Mẹ Têrêxa Calcuta, “người nổi tiếng trên khắp thế giới vì việc chăm sóc đầy yêu thương và vô vị lợi của Mẹ dành cho người nghèo hèn nhất trong số những người nghèo”.[16] Mẹ mãi là một mẫu gương của việc phục vụ sự sống mà Giáo Hội đang trao tặng tại Á Châu, can đảm đối đầu với những quyền lực đen tối đang hoành hành trong xã hội.

Một số Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh đến những ảnh hưởng ngoại lai được mang vào trong các nền văn hóa Á Châu. Nhiều hình thức sống mới đang xuất hiện do việc tiếp cận quá đáng với phương tiện truyền thông đại chúng và những loại văn chương, âm nhạc và phim ảnh đang phổ biến nhan nhãn trên lục địa. Tuy không phủ nhận rằng những phương tiện truyền thông xã hội có thể giúp ích rất nhiều cho sự thiện,[17] chúng ta không thể coi thường ảnh hưởng tiêu cực nó thường mang lại. Những hiệu quả sinh ích của chúng có thể đôi kẩntở nên vô ích bởi cách thức chúng bị kiểm soát và sử dụng bởi những con người có những mục đích chính trị, kinh tế và ý thức hệ đáng nghi ngờ. Hậu quả là những khía cạnh tiêu cực của truyền thông và những công nghệ giải trí đang đe doạ các giá trị truyền thống và cách riêng, đe doạ sự thánh thiêng của hôn nhân và sự vững bền của gia đình. Ảnh hưởng của những hình ảnh bạo lực, khoái lạc, cá nhân và vật chất chủ nghĩa quá độ “đánh thẳng vào trung tâm những nền văn hóa Á Châu, vào tính tôn giáo của dân chúng, gia đình và toàn thể xã hội”.[18] Đây là một hoàn cảnh gây nên một thách đố lớn đối với Giáo Hội và đối với việc loan báo sứ điệp.

Hoàn cảnh nghèo đói dai dẳng và sự khai thác bóc lột dân chúng là những sự việc đáng lo lắng nhất. Tại Á Châu có hàng triệu người bị áp bức, qua bao thế kỷ bị đặt bên lề xã hội về mặt kinh tế, văn hóa và chính trị.[19] Khi suy nghĩ về hoàn cảnh người nữ trong xã hội Á Châu, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “mặc dầu việc gây ý thức cho người nữ về nhân phẩm và quyền lợi của họ là một dấu chỉ thời đại có ý nghĩa nhất, nhưng sự nghèo đói và khai thác bóc lột người phụ nữ vẫn là một vấn đề nghiêm trọng cho toàn vùng Á Châu”.[20] Phụ nữ mù chữ nhiều hơn đàn ông; và trẻ gái bị giết khi còn là thai nhi hoặc sau khi ra đời xem ra cũng nhiều hơn. Cũng có hàng triệu người bản xứ hay dân bộ lạc khắp vùng Á Châu đang sống biệt lập về mặt xã hội, văn hóa và kinh tế khỏi tầng lớp dân đang thống trị.[21] Thật là yên lòng khi nghe các Giám Mục Thượng Hội Đồng nói rằng trong một vài trường hợp, những sự việc trên được quan tâm hơn ở cấp quốc gia, cấp vùng và cấp quốc tế, và Giáo Hội tích cực tìm cách tiếp cận hoàn cảnh nghiêm trọng này.

Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã lưu ý rằng, suy tư vắn tắt cần thiết này về các thực tại kinh tế và xã hội tại Á Châu sẽ không đầy đủ, nếu không nhìn nhận sự tăng trưởng kinh tế đáng kể của nhiều xã hội Á Châu trong những thập niên gần đây: một thế hệ mới gồm những thợ lành nghề, những nhà khoa học và kỹ thuật ngày càng gia tăng và con số đông đảo các người ấy là điềm báo tốt cho sự phát triển của Á Châu. Tuy nhiên, không phải mọi cái đều ổn định và vững chắc trong sự phát triển này, như đã thấy rõ qua cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng mới đây mà một số vùng Á Châu phải hứng chịu. Tương lai của Á Châu hệ tại ở sự hợp tác giữa các nước Á Châu và với các nước thuộc các lục địa khác, nhưng bằng cách luôn xây dựng trên điều mà các dân tộc Á Châu phải làm để tự phát triển cho mình.

Những Thực Tại Chính Trị

8. Giáo Hội luôn cần có một sự hiểu biết chính xác về hoàn cảnh chính trị trong các quốc gia khác nhau, nơi mà Giáo Hội đang cố gắng chu toàn sứ mạng mình. Ngày nay, tại Á Châu, toàn cảnh chính trị rất phức tạp, phô bày ra một loạt những ý thức hệ, từ những hình thức chính quyền dân chủ, cho tới những hình thức thần quyền. Những thể chế độc tài quân sự và các ý thức hệ vô thần, rất thường xuất hiện. Một vài quốc gia nhìn nhận một quốc giáo chính thức, nên nhóm thiểu số và những kẻ theo các tôn giáo khác ít được hay không được tự do tôn giáo. Có những quốc gia khác, dù không theo hẳn thần quyền, lại quy những nhóm thiểu số vào hạng công dân hạng hai, nên ít quan tâm bảo vệ những nhân quyền cơ bản của họ. Trong vài nơi, người Kitô hữu không được phép thực hành đức tin cách tự do và rao giảng Đức Giêsu Kitô cho kẻ khác.[22] Họ bị bách hại và bị khước từ chỗ đứng hợp pháp trong xã hội. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhắc đến cách riêng dân tộc Trung Hoa và bày tỏ niềm hy vọng thiết tha được thấy tất cả những anh chị em Công Giáo Trung Hoa, một ngày kia có thể sống đạo trong tự do và công khai tuyên xưng sự hiệp thông trọn vẹn của họ với Tòa Thánh Phêrô.[23]

Trong khi đánh giá cao sự phát triển mà nhiều quốc gia Á Châu đang thực hiện dưới nhiều thể chế chính quyền khác nhau, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng quan tâm tới sự tham nhũng đang lan rộng khắp nơi, ở nhiều cấp bậc của cả chính quyền lẫn xã hội.[24] Rất thường xuyên, dân chúng xem ra vô phương tự vệ chống lại những nhà chính trị, những nhân viên tư pháp, những người cầm quyền và công chức tham nhũng. Tuy nhiên, có một ý thức đang tăng trưởng khắp Á Châu về khả năng của người dân trong việc thay đổi những cơ cấu bất công. Có những yêu cầu mới cho được công bình xã hội lớn hơn, cho được tham gia nhiều hơn vào chính quyền và đời sống kinh tế, cho được cơ may đồng đều trong giáo dục, cho được chia sẻ công bằng hơn trong tài sản quốc gia. Dân chúng càng ngày càng ý thức về nhân phẩm và các quyền của mình và quyết tâm hơn để gìn giữ nó. Những nhóm thiểu số về nhân chủng, xã hội và văn hóa, lâu nay im lìm, bây giờ đang tìm cách trở thành tác nhân cho sự thăng tiến xã hội của chính mình. Thần Khí Chúa trợ giúp và nâng đỡ những cố gắng của dân chúng trong việc biến đổi xã hội, ngõ hầu khát vọng của con người về một cuộc sống dồi dào hơn, có thể được thỏa mãn như lòng Chúa mong muốn (x. Ga 10,10).

Giáo Hội tại Á Châu: Quá Khứ và Hiện Tại

9. Lịch sử Giáo Hội tại Á Châu cũng xưa như chính Giáo Hội, bởi vì tại Á Châu Đức Giêsu đã thở hơi Chúa Thánh Thần trên các môn đệ của Người và sai họ đi tới tận cùng trái đất để rao giảng Tin Mừng và qui tụ những cộng đoàn tín hữu. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21; x. Mt 28,18-20; Mc 16,15-18; Lc 24,47; Cv 1,8). Theo mệnh của Chúa, các Tông Đồ rao giảng Lời Chúa và thiết lập những Giáo Hội. Có lẽ là điều hữu ích khi nhắc lại một vài yếu tố của lịch sử hấp dẫn và phức tạp này.

Từ Giêrusalem, Giáo Hội lan rộng tới Antiôkia, tới Roma và xa hơn nữa. Giáo Hội đi tới Ethiôpia phía Nam, tới Scythia phía Bắc và tới Ấn Độ phía Đông, vùng đất theo truyền thống, Thánh Tôma Tông Đồ đã tới năm 52 sau Công Nguyên, và thiết lập các Giáo Hội miền nam Ấn Độ. Tinh thần truyền giáo của cộng đoàn Đông-Syria trong thế kỷ III và IV với trung tâm là Edessa, thật đáng kể. Những cộng đoàn khổ tu Syria là một sức mạnh chủ yếu của việc Phúc Âm hóa tại Á Châu từ thế kỷ III đổ về sau. Những cộng đoàn này đem lại sinh lực thiêng liêng cho Giáo Hội, đặc biệt trong thời kỳ bắt đạo. Vào cuối thế kỷ III, Amênia là quốc gia đầu tiên toàn diện theo Kitô giáo, và nay đang chuẩn bị mừng kỷ niệm 1.700 năm lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy. Cuối thế kỷ thứ V, sứ điệp Kitô giáo lan tới các vương quốc Ả rập, nhưng vì nhiều lý do, kể cả những chia rẽ nội bộ người Kitô hữu, sứ điệp không đâm rễ sâu giữa lòng các dân tộc này.

Các thương gia Ba tư mang Tin Mừng tới Trung Hoa trong thế kỷ thứ V. Giáo hội Kitô đầu tiên được thiết lập ở đây vào đầu thế kỷ VII. Dưới triều đại nhà Tần (618-907 Công nguyên) Giáo Hội phồn thịnh gần hai thế kỷ. Sự suy sụp của Giáo Hội đầy sức sống này tại Trung Hoa, ở cuối ngàn năm thứ nhất, là một trong các chương đáng buồn hơn cả của lịch sử Dân Chúa tại Lục địa.

Thế kỷ thứ XIII, Tin Mừng được rao giảng cho người Mông Cổ và người Thổ, và một lần nữa cho người Trung Hoa. Nhưng Kitô Giáo hầu như biến khỏi các vùng này vì một số lý do, trong các lý do đó có sự nổi dậy của Hồi Giáo, sự tách biệt về mặt địa lý, thiếu sự thích nghi thích hợp với những văn hóa địa phương, và có lẽ hơn hết là thiếu chuẩn bị gặp gỡ các tôn giáo lớn tại Á Châu. Cuối thế kỷ XIV chứng kiến sự sa sút mãnh liệt của Giáo Hội tại Á Châu, trừ ra một cộng đồng biệt lập ở Nam Ấn Độ. Giáo Hội tại Á Châu phải chờ đợi một thời đại mới của nỗ lực truyền giáo.

Công lao Tông Đồ của Thánh Phanxicô Xavie, sự thành lập Hội Truyền Bá Đức Tin đời Giáo Hoàng Gregorio XV, và những chỉ dẫn cho các vị thừa sai biết tôn trọng và đánh giá cao những văn hóa địa phương, tất cả góp phần đạt đến những thành quả tích cực hơn suốt thế kỷ XVI và XVII. Vào thế kỷ XIX, lại có sự hồi sinh hoạt động tông đồ. Nhiều dòng tu hoàn toàn hiến thân cho công tác này. Hội Truyền Bá Đức Tin được tổ chức lại. Việc thiết lập những Giáo Hội địa phương được nhấn mạnh hơn. Những công trình giáo dục và bác ái đi đôi với việc rao giảng Tin Mừng. Cho nên, Tin Mừng tiếp tục đến với nhiều người hơn, đặc biệt đám người nghèo và bị thiệt thòi, nhưng đó đây cũng được rao giảng giữa hạng người ưu tú xã hội và trí thức. Những nỗ lực mới được thực hiện để hội nhập hoá Tin Mừng, tuy nhiên chúng chứng tỏ là chưa đủ. Mặc dầu hiện diện lâu đời và cố gắng làm việc tông đồ nhiều, Giáo Hội tại nhiều nơi còn bị coi là xa lạ với Á Châu, và quả thật, Giáo Hội thường bị gắn liền với những quyền lực thực dân trong tâm trí quần chúng.

Đó là tình trạng thời gian trước Công Đồng Vatican II, nhưng nhờ sự thúc đẩy Công Đồng mang lại, một sự hiểu biết mới về việc truyền giáo ló dạng và, cùng với nó là một niềm hy vọng lớn. Tính phổ quát chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa, bản tính truyền giáo của Giáo Hội và trách nhiệm của mỗi người trong Giáo Hội đối với công tác này, được tái khẳng định cách mạnh mẽ trong Sắc Lệnh Công Đồng về Hoạt động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, trở nên khuôn khổ của một sự dấn thân mới. Trong Hội nghị đặc biệt, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng minh chứng sự lớn mạnh mới đây của cộng đoàn Giáo Hội giữa nhiều dân tộc khác biệt trong những miền khác nhau của Lục địa, và các Ngài kêu gọi nhiều nỗ lực truyền giáo hơn nữa cho những năm sắp tới, cách riêng khi xuất hiện nhiều khả năng rao giảng Tin Mừng trong vùng Siberia và những xứ Trung Á mới dành được độc lập, như Kazakhstan, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Turmenistan.[25]

Một cái nhìn tổng quát về các cộng đoàn Công Giáo tại Á Châu cho thấy một sự đa dạng muôn màu muôn vẻ do bởi nguồn gốc và sự phát triển lịch sử của nó, và do những truyền thống thiêng liêng và phụng vụ khác nhau về lễ nghi. Tuy nhiên tất cả đều hợp nhất trong việc loan báo Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, nhờ chứng tá Kitô hữu, các việc bác ái và sự liên đới nhân loại. Đang khi một số Giáo Hội địa phương thi hành sứ mạng mình trong an bình và tự do, thì có những Giáo Hội khác gặp những hoàn cảnh bạo lực và xung đột, hay cảm thấy mình bị đe doạ bởi các nhóm người khác vì lý do tôn giáo hay lý do nào khác. Trong thế giới rất khác biệt nhau về phương diện văn hóa tại Á Châu, Giáo Hội chạm chán với nhiều thách đố về phương diện triết học, thần học và mục vụ. Công việc của Giáo Hội càng thêm khó khăn do sự kiện Giáo Hội là một thiểu số, chỉ trừ Phi luật tân nơi đa số là người Công Giáo.

Dầu gặp hoàn cảnh nào đi nữa, Giáo Hội tại Á Châu thấy mình ở giữa những dân tộc rất khát khao Thiên Chúa. Giáo Hội biết rằng sự khát khao này chỉ có thể được thỏa mãn hoàn toàn nhờ Đức Giêsu Kitô, là Tin Mừng của Thiên Chúa cho mọi quốc gia. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ước muốn thiết tha rằng Tông huấn Hậu Thượng Hội Đồng cần lưu ý đến sự khao khát này và khuyến khích Giáo Hội tại Á Châu hăng say rao giảng, bằng lời nói và việc làm, rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ.

Thần khí Thiên Chúa, luôn luôn hành động trong lịch sử Giáo Hội tại Á Châu, tiếp tục hướng dẫn Giáo Hội. Nhiều yếu tố tích cực gặp được trong Giáo Hội địa phương, thường được nêu bật trong Thượng Hội Đồng, củng cố lòng mong đợi của chúng ta về “một mùa xuân mới của đời sống Kitô hữu”.[26] Một nguyên nhân vững chắc của niềm hy vọng là con số gia tăng của những giáo dân được đào tạo tốt hơn, nhiệt thành và tràn đầy Thần Khí. Họ càng ngày càng ý thức hơn về ơn gọi chuyên biệt của mình trong cộng đồng Giáo Hội. Trong số họ, các giáo lý viên giáo dân đáng được công nhận và tán dương cách đặc biệt.[27] Những phong trào tông đồ và đoàn sủng, cũng là một ân ban của Thần Khí, mang đến đời sống mới và sự hăng say trong việc đào tạo những người nam nữ giáo dân, các gia đình và giới trẻ.[28] Khi dấn thân cổ võ nhân phẩm và công bằng, những hiệp hội và những phong trào Giáo Hội làm cho tính phổ quát của sứ điệp Tin mừng trở nên gần gũi và hữu hình, Tin mừng đó là làm cho chúng ta nên nghĩa tử của Thiên Chúa (x. Rm 8, 15-16).

Đồng thời, có những Giáo Hội đang ở trong những hoàn cảnh rất khó khăn, “bị thử thách ghê gớm trong việc thực hành đức tin của mình”.[29] Các Nghị Phụ xúc động khi nghe các báo cáo về chứng tá anh dũng, sự kiên trì không hề lay chuyển và sự tăng trưởng vững chắc của Giáo Hội Công Giáo tại Trung hoa, khi thấy các nỗ lực giúp đỡ của Giáo Hội Nam Triều Tiên dành cho dân chúng Bắc Triều Tiên, do tính kiên định khiêm tốn của cộng đoàn Công Giáo tại Việt Nam, sự cách ly của những Kitô hữu tại những nơi như Lào và Myanmar, sự sống chung đầy khó khăn với thành phần đa số trong các quốc gia Hồi Giáo.[30] Thượng Hội Đồng lưu ý cách riêng đến hoàn cảnh Giáo Hội tại Đất Thánh và tại thành thánh Giêrusalem “trung tâm Kitô giáo”,[31] một thành phố thân yêu của mọi con cái ông Ápraham. Các Nghị Phụ phát biểu xác tín rằng hòa bình của vùng, và cả của thế giới nữa, phần lớn tuỳ thuộc vào hòa bình và hòa giải mà từ lâu đã vắng bóng tại Giêrusalem.[32]

Tôi không thể kết thúc cái nhìn tổng quát vắn gọn về tình trạng Giáo Hội tại Á Châu, mặc dầu rất thiếu sót, mà không nhắc tới các vị thánh và các vị tử đạo tại Á Châu, cả những vị đã được nhìn nhận lẫn những vị chỉ được Chúa biết đến mà thôi, gương sáng các Ngài là nguồn gốc sự “giàu có thiêng liêng và là một phương tiện lớn cho việc Phúc Âm hóa”.[33] Các Ngài âm thầm nhưng cách hùng mạnh nhất, nói về tầm quan trọng của sự thánh thiện trong đời sống và sự sẵn sàng hiến mạng sống mình vì Tin Mừng. Các Ngài là thầy dạy và đấng bảo trợ, là vinh quang của Giáo Hội tại Á Châu trong công tác truyền giáo. Cùng toàn thể Giáo hội, tôi cầu xin Chúa sai nhiều thợ gặt dấn thân hơn nữa để thu hoạch mùa gặt các linh hồn mà tôi thấy đã chín mùi và phong phú (x. Mt 9, 37-38). Lúc này đây, tôi nhớ lại điều tôi đã viết trong Thông điệp Redemptoris Missio: “Thiên Chúa đang mở ra cho Giáo Hội những chân trời của một nhân loại đã được chuẩn bị đầy đủ hơn cho việc rao giảng Tin Mừng”.[34] Giấc mơ đó về một chân trời mới đầy hứa hẹn, tôi thấy đang hoàn thành tại Á Châu, nơi Đức Giêsu được sinh ra và nơi Kitô giáo bắt đầu.

***

CHƯƠNG II

ĐỨC GIÊSU CỨU THẾ: MỘT QUÀ TẶNG CHO Á CHÂU

 

Quà tặng Đức Tin

10. Trong quá trình thảo luận của Thượng Hội Đồng về những thực tại phức tạp tại Á Châu, thì điều càng ngày càng trở nên rõ ràng đối với mọi người là: sự đóng góp duy nhất của Giáo Hội cho các dân tộc trên lục địa là rao giảng về Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa thật và người thật, Đấng Cứu Thế độc nhất và duy nhất cho mọi dân tộc.[35] Điều phân biệt Giáo Hội với những cộng đồng tôn giáo khác, đó là niềm tin của Giáo Hội vào Đức Giêsu Kitô; và Giáo Hội không thể cất dấu ánh sáng đức tin quý báu dưới cái thùng (x. Mt 5, 15), bởi vì sứ mạng Giáo Hội là chia sẻ ánh sáng đó với mọi người. “[Giáo hội] muốn trao tặng đời sống mới Giáo Hội đã gặp được trong Đức Giêsu Kitô, cho tất cả các dân tộc tại Á Châu đang đi tìm sự viên mãn của cuộc sống, để họ có thể sống hiệp thông với Chúa Cha và Con của Người là Đức Giêsu Kitô trong quyền năng Chúa Thánh Thần”.[36] Niềm tin vào Đức Giêsu là điều gợi hứng cho công trình Phúc Âm hóa của Giáo Hội tại Á Châu, một công trình thường được thực thi trong những hoàn cảnh khó khăn và còn nguy hiểm nữa. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng việc rao giảng Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất, có thể gây nên những khó khăn đặc biệt trong nền văn hóa của các ngài, lý do là nhiều tôn giáo ở Á Châu dạy chính mình là những biểu lộ thần linh đem lại ơn cứu rỗi. Thay vì làm nản lòng các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, những thách đố mà các ngài gặp phải khi nỗ lực Phúc Âm hóa, lại là một động cơ lớn hơn giúp các ngài cố gắng chuyển đạt “đức tin mà Giáo Hội tại Á Châu đã lãnh nhận từ các Tông đồ và bảo tồn cùng với Giáo Hội của mọi thế hệ và mọi nơi”.[37] Thật vậy, các Ngài bày tỏ xác tín rằng “con tim của Giáo Hội tại Á Châu sẽ không an nghỉ cho tới khi toàn cõi Á Châu được an nghỉ trong bình an của Đức Kitô, Chúa Phục Sinh”.[38]

Đức tin của Giáo Hội vào Đức Giêsu là một quà tặng đã lãnh nhận và một quà tặng cần được chia sẻ; đó là quà tặng lớn lao nhất mà Giáo Hội có thể trao tặng cho Á Châu. Chia sẻ chân lý của Đức Giêsu Kitô với kẻ khác, là một bổn phận chính thức của tất cả những ai đã lãnh nhận quà tặng đức tin. Trong Thông điệp Redemptoris Missio, tôi đã viết rằng: “Giáo Hội, và tất cả Kitô hữu trong Giáo hội, không thể che giấu hay giữ riêng cho mình sự mới mẻ và giàu có này mà họ đã nhận được do lòng nhân từ của Thiên Chúa, để truyền thông cho toàn thể nhân loại.[39] Cũng trong Thông điệp đó tôi đã viết: “Những ai đã gia nhập vào Giáo Hội Công Giáo, phải tự coi mình là những con người được đặc ân và, do đó, họ phải càng dấn thân làm chứng bằng niềm tin và đời sống Kitô hữu, chứng tá này là việc phục vụ anh chị em mình và là lời đáp trả xứng hợp với Thiên Chúa”.[40]

Xác tín sâu xa về điều đó, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng ý thức đến trách nhiệm riêng của mình cần nắm vững chân lý vĩnh cửu của Đức Giêsu qua việc học hỏi, cầu nguyện và suy tư, hầu mang lại sức mạnh và sức sống của chân lý đó vào giữa những thách đố hiện tại và tương lai của việc Phúc Âm hóa tại Á Châu.

Đức Giêsu Kitô, Con Người - Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ

11. Kinh Thánh làm chứng rằng Đức Giêsu đã sống một cuộc sống con người đích thực. Đức Giêsu mà chúng ta loan báo là Đấng Cứu Độ duy nhất, đã hành trình trên mặt đất như là Thiên Chúa-Con Người (God-Man) với đầy đủ bản tính nhân loại. Người giống như chúng ta mọi đàng chỉ trừ tội lỗi. Được sinh ra bởi một người Mẹ Đồng Trinh trong một thôn xóm nhỏ bé tại Bethlehem, Người cũng yếu đuối như bất cứ một trẻ nào khác, và còn chịu số phận của một kẻ tị nạn lẩn trốn cơn lôi đình của một kẻ cầm quyền tàn nhẫn (x. Mt 2,13-15). Người vâng phục cha mẹ là những con người, không phải luôn hiểu được đường lối của Người, nhưng Người tin tưởng và yêu mến vâng phục (x. Lc 2,41-52). Luôn luôn cầu nguyện, Người ở trong sự hiệp thông thân mật với Thiên Chúa mà người gọi là Abba, “Cha”, làm cho những thính giả của Người khó chịu (x. Ga 8, 34-59).

Người sống gần kẻ nghèo, kẻ bị bỏ rơi và thấp bé, Người tuyên bố họ thật sự có phúc, vì Thiên Chúa ở với họ. Người ăn uống với kẻ tội lỗi, bảo đảm với họ rằng tại bàn ăn của Cha có chỗ cho họ, khi họ từ bỏ đường tội lỗi và trở về với Người. Khi đụng chạm tới kẻ ô uế và cho phép họ đụng chạm tới mình, Người cho họ hiểu rằng Chúa ở gần họ. Người than khóc một người bạn đã qua đời, Người hoàn lại đứa con trai đã chết cho bà mẹ góa của nó, Người đón tiếp những trẻ nhỏ, và Người rửa chân các môn đệ mình. Lòng thương xót của Thiên Chúa chưa từng gần gũi cách trực tiếp như thế.

Người bệnh tật, người què, người mù, người điếc và người câm tất cả đều được chữa lành và được ơn tha thứ khi tiếp xúc với Người. Để làm thành những người bạn và những cộng sự viên thân cận nhất, Người đã tuyển chọn một nhóm người bất thường, gồm có những kẻ đánh cá lẫn người thu thuế, những người nhiệt thành và những kẻ không hiểu biết Luật, và cả phụ nữ nữa. Một gia đình mới được thiết lập dưới tình yêu che chở và đáng kinh ngạc của Chúa Cha. Đức Giêsu giảng dạy cách đơn sơ, sử dụng những ví dụ rút ra từ cuộc sống hằng ngày để nói về tình yêu Thiên Chúa và Vương Quốc của Người; và dân chúng nhận rằng Người nói có uy quyền.

Tuy nhiên Đức Giêsu bị tố cáo là kẻ phạm thượng, một người lỗi luật thánh, một kẻ phá rối công cộng cần loại bỏ. Sau lần xét xử dựa trên chứng gian (x. Mc 14,56), Người bị kết án tử hình trên thánh giá như một tên tội phạm, bị bỏ rơi và bị hạ nhục, bị xem như kẻ thất bại. Người được chôn cất cách hối hả trong một ngôi mộ mượn tạm. Nhưng ngày thứ ba sau khi chết, và mặc dầu có lính canh gác, ngôi mộ đó lại bị phát giác trống trơn! Đức Giêsu chỗi dậy từ kẻ chết, rồi hiện ra với các môn đệ trước khi trở về với Chúa Cha, chính từ Chúa Cha mà Người đã đến.

Cùng với tất cả mọi Kitô hữu, chúng ta tin rằng đời sống lạ thường đó, một mặt thấy thật tầm thường và đơn sơ, nhưng mặt khác thì hoàn toàn lạ lùng và che khuất trong mầu nhiệm, (cuộc sống đó) đưa Vương Quốc Thiên Chúa vào lịch sử loài người và “làm cho quyền lực của nó ảnh hưởng trên mọi mặt của cuộc sống nhân loại và của xã hội đang bị tội lỗi và cái chết bao vây”.[41] Qua lời nói và việc làm, nhất là qua cuộc khổ nạn, cái chết và sự sống lại, Đức Giêsu hoàn thành ý muốn của Chúa Cha là giao hòa toàn thể nhân loại với Người, sau khi tội nguyên tổ đã cắt đứt mối tương quan giữa Đấng Sáng Tạo và thọ tạo. Trên thánh giá, Đức Giêsu gánh lấy tội lỗi của thế giới -tội quá khứ, hiện tại và tương lai. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng, do tội mà chúng ta đã chết và sự chết của Người đã đem lại sự sống cho chúng ta: “Thiên Chúa đã cho anh em cùng sống với Đức Kitô: Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ mọi sa ngã lỗi lẫm của chúng ta. Người đã xoá sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã hủy bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá” (Cl 2,13-14). Bằng cách đó, ơn cứu rỗi được đóng ấn một lần thay cho tất cả. Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ chúng ta theo ý nghĩa đầy đủ nhất, bởi vì những lời nói và việc làm của Người, nhất là sự sống lại từ kẻ chết, đã mạc khải Người là Con Thiên Chúa, là Ngôi Lời đã có từ trước, Đấng hiển trị mãi mãi như là Chúa và Đấng Cứu Thế.

Thân Thế và Sứ Mạng của Con Thiên Chúa

12. “Cớ vấp phạm” của Kitô giáo là tin rằng Thiên Chúa toàn thánh, toàn năng và toàn tri, lại mặc lấy bản tính loài người chúng ta và chịu thương khó và chịu chết để chiếm đoạt phần rỗi cho mọi người (x. 1Cr 1,23). Đức tin mà chúng ta đã lãnh nhận, tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô đã mạc khải và đã hoàn thành kế hoạch cứu độ thế giới và toàn thể nhân loại của Chúa Cha, do bởi “cái Người là” (who he is)“cái Người làm do bởi cái Người là” (what he does because of who he is). “Cái Người là”“cái Người làm” chỉ đạt được ý nghĩa trọn vẹn khi được đặt vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong triều giáo hoàng của tôi, tôi luôn luôn lưu tâm nhắc nhở người tín hữu về sự hiệp thông sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi và sự hiệp nhất của Ba Ngôi trong chương trình sáng tạo và cứu chuộc. Các Thông điệp của tôi Redemptor Hominis, Dives in Misericordia Dominum et Vivificantem là những suy tư tuần tự về Chúa Con, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, và về vai trò các Ngài trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Tuy nhiên chúng ta không thể cách ly hay tách biệt Ngôi này với các Ngôi khác, bởi vì mỗi Ngôi chỉ được mạc khải trong sự hiệp thông sự sống và hành động của Thiên Chúa Ba Ngôi. Hành động cứu rỗi của Đức Giêsu bắt nguồn từ sự hiệp thông của các Ngôi vị Thiên Chúa, và mở đường cho tất cả những ai tin vào Người cũng được hiệp thông mật thiết với Ba Ngôi và với nhau trong Ba Ngôi.

“Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”, Đức Giêsu khẳng định như thế (Ga 14,9). Chỉ nơi Đức Giêsu Kitô, sự viên mãn của Thiên Chúa hiện diện cách cụ thể (x. Cl 2,9), làm cho Người thành Ngôi lời cứu độ duy nhất và tuyệt đối của Thiên Chúa (x. Dt 1,1-4). Là Lời cuối cùng của Chúa Cha, Đức Giêsu làm cho Thiên Chúa và ý muốn cứu độ của Người được biết đến cách đầy đủ nhất. “Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” Đức Giêsu nói (Ga 14,6). Người là “Đường, là sự Thật và là sự Sống” (Ga 14,6), bởi vì, như chính Người nói “Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những công việc của mình” (Ga 10,14). Chỉ trong con người Đức Giêsu, lời cứu độ của Thiên Chúa xuất hiện cách trọn vẹn, phán dạy vào thời kỳ sau hết (x. Dt 1,1-2). Vì thế, trong những ngày đầu của Giáo Hội, Thánh Phêrô mới có thể tuyên bố: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được ơn cứu độ” (Cv 4,12).

Sứ vụ của Đấng Cứu Thế đạt cao điểm trong Mầu Nhiệm Vượt Qua. Trên Thánh Giá, khi “giang tay ra làm dấu hiệu giữa trời và đất, dấu hiệu muôn đời về giao ước [của Chúa Cha],[42] Đức Giêsu thốt ra lời kêu xin cuối cùng với Chúa Cha, xin Người tha tội cho nhân loại: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đức Giêsu tiêu diệt tội lỗi bằng quyền lực tình yêu của Người đối với Chúa Cha và cả nhân loại. Ngài mang lấy trên mình vết thương do tội giáng xuống trên nhân loại, và Người ban ơn giải phóng qua sự hoán cải. Những hoa quả đầu tiên của điều đó được thấy rõ trong người ăn trộm sám hối treo trên cây thập giá kia bên cạnh Người (x. 23,43). Lời thốt ra cuối cùng của Người là tiếng kêu của người con trung tín: “Lạy Cha, con xin phó dâng linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Trong lời diễn tả tình yêu tột cùng ấy, Ngài trao toàn diện sự sống và sứ vụ của mình trong tay Chúa Cha, Đấng đã sai mình. Như thế, Người trao phó cho Chúa Cha toàn thể thọ tạo và toàn thể nhân loại, để Chúa Cha đón nhận lại trong tình yêu nhân hậu của Người.

Tất cả những gì Chúa Con là và đã hoàn thành, thì được Chúa Cha đón nhận, Đấng lại ban ân huệ này cho thế gian, khi cho Đức Giêsu chỗi dậy từ kẻ chết, và đặt Người ngồi bên hữu Mình, nơi mà tội lỗi và sự chết không còn quyền hành nào nữa. Qua Hy Lễ Vượt Qua của Đức Giêsu, Chúa Cha dứt khoát ban cho thế gian ơn hòa giải và sự sống tràn trề. Ân huệ lạ lùng này chỉ có thể được ban tặng nhờ Người Con yêu dấu, duy mình Người mới có thể đáp trả trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, tình yêu đã bị chối từ vì tội lỗi. Trong Đức Giêsu Kitô, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, chúng ta được biết rằng Thiên Chúa không ở xa, ở trên và ở ngoài con người, nhưng ở rất gần, thật sự kết hợp với mỗi người và toàn thể nhân loại trong mọi hoàn cảnh đời sống. Đó là sứ điệp mà Kitô giáo trao ban cho thế giới, và đó là một nguồn an ủi và hy vọng vô song cho mọi người tín hữu.

Đức Giêsu Kitô: Chân Lý của Nhân Loại

13. Nhân tính của Đức Giêsu và mầu nhiệm khôn tả Nhập Thể của Người Con Chúa Cha, rọi ánh sáng trên thân phận con người như thế nào? Người con Nhập Thể của Thiên Chúa không những mạc khải đầy đủ Chúa Cha và chương trình cứu độ của Người; Người còn “mạc khải đầy đủ con người cho chính con người”.[43] Những lời nói và hành động của Người, và hơn hết, sự Chết và Phục Sinh của Người, mạc khải cách thâm sâu là người có ý nghĩa gì. Nhờ Đức Giêsu, cuối cùng con người có thể biết sự thật về chính mình. Khi dâng hiến trọn vẹn để yêu mến và phục vụ Chúa Cha và con người, cuộc đời làm người đích thực của Đức Giêsu nói lên rằng ơn gọi của mỗi người là nhận lãnh tình yêu và đáp lại bằng việc trao ban tình yêu. Trong Đức Giêsu, chúng ta kinh ngạc về khả năng vô tận của quả tim con người để yêu Chúa và yêu người, cho dầu khi yêu như thế là kéo theo nhiều đau khổ. Nhất là chính trên Thánh Giá mà Đức Giêsu bẻ gãy quyền lực của sự đối kháng với tình yêu đem lại chết chóc (self-destructive resistance), sự đối kháng mà tội lỗi gây nên nơi chúng ta. Về phần mình, Chúa Cha đáp trả bằng cách cho Đức Giêsu chỗi dậy như là người con đầu lòng của tất cả những ai được tiền định nên đồng hình đồng dạng với Con của Người (x. Rm 8,29). Vào lúc ấy, Đức Giêsu đã trở nên, một lần thay cho tất cả, vừa là sự mạc khải vừa là sự hoàn thành một nhân loại được tái tạo và đổi mới theo chương trình của Thiên Chúa. Trong Đức Giêsu, chúng ta khám phá sự cao cả và phẩm giá của mỗi con người trong con tim Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên con người giống hình ảnh của Người (x. St 1,26), và chúng ta gặp được nguồn gốc của thụ tạo mới mà chúng ta đã trở nên nhờ ân sủng của Người.

Công Đồng Vatican II dạy rằng “chính Con Thiên Chúa khi Nhập Thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người”.[44] Trong cái nhìn thâm sâu này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhận ra nguồn suối cơ bản của hy vọng và nghị lực cho người dân Á Châu trong các cuộc chiến đấu và những nghi hoặc của họ. Khi những người nam và nữ, bằng đức tin sống động, đáp trả lại ơn huệ tình yêu của Thiên Chúa, thì sự hiện diện của Chúa mang đến tình yêu và bình an, biến đổi con tim nhân loại từ bên trong. Trong Thông điệp Redemptor Hominis, tôi đã viết: “Sự cứu chuộc thế giới -mầu nhiệm đáng sợ của tình yêu, nhờ đó tạo vật được đổi mới - tại gốc rễ thâm sâu nhất của nó, là sự viên mãn của đức công chính trong một con tim nhân loại - con tim của Người Con trưởng tử - ngõ hầu nó có thể trở nên công chính trong tim của nhiều người, đã được tiền định từ thuở đời đời trong người Con trưởng tử đó, làm con Thiên Chúa và được gọi hưởng nhờ ân sủng, được kêu gọi sống yêu thương”.[45]

Như vậy, sứ vụ của Đức Giêsu không những phục hồi sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại, mà còn thiết lập một sự hiệp thông mới giữa những con người sống xa cách nhau vì tội lỗi. Trên mọi chia rẽ, Đức Giêsu làm cho mọi dân tộc có thể sống như anh chị em, bằng cách nhìn nhận chỉ có một Cha trên Trời (x. Mt 23,9). Trong Người, nảy sinh một sự hòa hợp mới, trong đó “không còn chuyện phân biệt, Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà, nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô Giêsu” (Gl 3,28). Đức Giêsu là sự bình an của chúng ta, “Người đã liên kết đôi bên thành một, và đã phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét” (Ep 2,14). Trong tất cả những gì Người đã nói đã làm, Đức Giêsu là tiếng nói, là bàn tay và cánh tay của Chúa Cha, thu họp tất cả con cái Chúa thành một gia đình yêu thương. Người đã cầu nguyện cho môn đệ Người có thể sống trong hiệp thông, cũng như Người sống hiệp thông với Thiên Chúa Cha (Ga 17,11). Trong những lời nói cuối cùng của Người, chúng ta nghe Người nói: “Như Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,9-12). Được sai đi bởi Thiên Chúa của sự hiệp thông, và trở nên Chúa thật và người thật, Đức Giêsu đã thiết lập sự hiệp thông giữa trời và đất trong chính thân thể của Người. Đức tin của chúng ta là “Thiên Chúa làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,19-20). Ơn cứu độ có thể gặp được trong con người của Con Thiên Chúa làm người, và trong sứ vụ được giao phó cho Người mà thôi như Người Con, một sứ vụ phục vụ và yêu thương để mọi người được sống. Cùng chung với Giáo Hội toàn cầu, Giáo Hội tại Á Châu công bố chân lý đức tin: “Chỉ có một Thiên Chúa, có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Giêsu Kitô, Đấng tự hiến làm giá chuộc cho mọi người” (1Tm 2,5-6).

Tính Độc Nhất và Tính Phổ Quát của Ơn Cứu độ trong Đức Giêsu

14. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhắc lại rằng Ngôi Lời có từ trước, Người Con sinh ra từ thuở đời đời của Thiên Chúa, “đã hiện diện trong sáng tạo, trong lịch sử và trong mọi ước muốn điều thiện của con người”.[46] Nhờ Ngôi Lời, hiện diện trong vũ trụ ngay cả trước lúc nhập thể, mà thế giới hiện hữu (x. Ga 1,1-4; Cl 1,15-20). Nhưng trong tư cách là Ngôi Lời Nhập Thể đã sống, chết và chỗi dậy từ kẻ chết, Đức Giêsu Kitô bây giờ được tuyên xưng là sự viên mãn của mọi tạo vật, mọi lịch sử và mọi ước muốn được sống dồi dào của con người.[47] Chỗi dậy từ kẻ chết, Đức Giêsu Kitô “hiện diện trong tất cả và trong toàn thể tạo vật, cách mới mẻ và mầu nhiệm”.[48] Trong Người “những giá trị chân chính của mọi truyền thống tôn giáo và văn hóa, chẳng hạn như lòng thương xót và sự tùng phục ý muốn Thiên Chúa, lòng trắc ẩn và tính ngay thẳng, bất bạo động và công chính, lòng hiếu thảo và sự hài hòa với tạo vật, tìm thấy sự viên mãn và thực hiện”.[49] Từ khởi đầu cho đến kết thúc thời gian, Đức Giêsu là Vị Trung Gian phổ quát duy nhất. Dù với những kẻ không công khai tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu như là Đấng Cứu Thế, ơn cứu độ vẫn đến với họ như là một ân sủng do Đức Giêsu Kitô, nhờ sự thông truyền của Chúa Thánh Thần.

Chúng ta tin rằng Đức Giêsu Kitô, Chúa thật và người thật, là Đấng Cứu Thế độc nhất bởi vì chỉ duy mình Người - Người Con - đã hoàn thành chương trình cứu độ phổ quát của Chúa Cha. Như là sự tỏ bày chung cuộc về mầu nhiệm tình yêu của Chúa Cha đối với mọi người, Đức Giêsu quả thực là độc nhất và “chính sự độc nhất đó của Đức Kitô cho Người một tầm vóc tuyệt đối và phổ quát, qua đó, vì ở trong lịch sử, Người là trung tâm và cùng đích của lịch sử”.[50]

Không cá nhân nào, không quốc gia nào, không nền văn hóa nào mà không bị tác động bởi lời mời gọi của Đức Giêsu thốt lên từ chính giữa lòng của thân phận con người. “Chính đời sống của Người đã thốt lên, nhân tính của Người, lòng trung thành của Người đối với chân lý, tình yêu bao quát của Người. Hơn nữa sự chết của Người trên Thánh Giá đã thốt lên, nghĩa là bề sâu khôn dò của sự đau khổ và bị bỏ rơi của Người”.[51] Khi chiêm ngắm Đức Giêsu trong bản tính nhân loại của Người, dân chúng tại Á Châu gặp được câu trả lời cho tất cả những câu hỏi sâu sắc nhất của họ, hy vọng của họ được hoàn thành, nhân phẩm của họ được nâng cao và sự ngã lòng của họ được vượt thắng. Đức Giêsu là Tin Mừng đối với các người nam nữ của mọi thời đại và mọi nơi chốn, trong cuộc tìm kiếm ý nghĩa của sự hiện hữu và sự thật về bản tính nhân loại của mình.

***

CHƯƠNG III

CHÚA THÁNH THẦN: ĐỨC CHÚA VÀ ĐẤNG BAN SỰ SỐNG

 

Thần Khí Chúa trong Cuộc Sáng Tạo và trong Lịch Sử

15. Nếu quả thật ý nghĩa cứu thế của Đức Giêsu chỉ có thể hiểu được trong khung cảnh mạc khải của Người về chương trình cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi, thì như thế Chúa Thánh Thần là một phần tuyệt đối cần thiết của mầu nhiệm Đức Giêsu và ơn cứu rỗi mà Người mang đến. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng thường xuyên quy chiếu về vai trò Chúa Thánh Thần trong lịch sử cứu rỗi, các Ngài lưu ý rằng sự chia cách giả tạo giữa Đấng Cứu Thế và Chúa Thánh Thần, có thể phương hại tới chân lý về Đức Giêsu Đấng Cứu Độ duy nhất của mọi người.

Theo truyền thống Kitô giáo, Chúa Thánh Thần luôn luôn được liên kết với sự sống và việc ban sự sống. Kinh Tin Kính của Công Đồng Niceno-Constantino gọi Chúa Thánh Thần là “là Đức Chúa, Đấng ban sự sống”. Cho nên không phải là điều đáng ngạc nhiên khi nhiều chú giải về bài tường thuật Sáng tạo trong sách Sáng Thế đã nhìn thấy Chúa Thánh Thần trong ngọn gió mạnh lướt qua trên mặt nước (x. St 1,2). Chúa Thánh Thần hiện diện từ giây phút đầu việc của cuộc sáng tạo - là biểu lộ đầu tiên của tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi -, và luôn hiện diện trong thế giới được xem như sức mạnh ban sự sống của Người.[52] Vì sự sáng tạo là khởi đầu lịch sử, nên Thần khí nói được là một quyền lực ẩn giấu đang hành động trong lịch sử, hướng dẫn lịch sử theo những con đường chân lý và điều thiện.

Mạc khải về thân thế của Chúa Thánh Thần, tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con, là điều riêng biệt của Tân Ước. Trong tư tưởng Kitô giáo, Người được thấy như là nguồn mạch sự sống của mọi tạo vật. Công cuộc sáng tạo là sự thông ban tình yêu trong tự do của Thiên Chúa, một sự thông ban mà từ cái không, đem mọi sự vào trong hiện hữu. Không có gì đã được tạo dựng mà không được lấp đầy bởi sự trao đổi tình yêu không ngừng, là đặc tính của sự sống sâu thẳm của Ba Ngôi, nghĩa là tràn đầy Chúa Thánh Thần: “Thần khí Chúa đã tràn đầy thế giới” (Kn 17). Sự hiện diện của Thần Khí trong tạo thành phát sinh trật tự, hài hòa và lệ thuộc lẫn nhau trong tất cả những gì hiện hữu.

Được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, những con người trở nên nơi trú ngụ của Thần Khí một cách mới mẻ, khi họ được nâng lên tới phẩm giá làm con Thiên Chúa (x. Gl 4,5). Được tái sinh trong Bí tích Thánh Tẩy, con người cảm nghiệm sự hiện diện và quyền lực của Thần Khí, không chỉ là Tác giả sự sống, nhưng còn là Đấng thanh tẩy và cứu chuộc, sản sinh những hoa quả “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23). Những hoa quả đó của Thần Khí là tín hiệu “Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5). Khi được tiếp nhận trong tự do, tình yêu này biến những người nam nữ thành những dụng cụ khả kiến của hoạt động không ngừng bên trong của Thánh Thần. Trên hết tất cả, chính khả năng cho và nhận tình yêu mới mẻ này minh chứng sự hiện diện bên trong và quyền lực của Chúa Thánh Thần. Như là hậu quả của việc biến đổi và tái tạo dựng mà Người thực hiện trong tâm trí dân chúng, Chúa Thánh Thần gây ảnh hưởng trên xã hội và văn hóa nhân loại.[53] “Thật vậy, Thánh Thần là nguồn gốc những lý tưởng cao thượng và những công trình phúc lợi cho nhân loại đang hành trình qua dòng lịch sử. Qua việc quan phòng kỳ diệu, Thánh Thần Chúa hướng dẫn dòng chảy thời gian và đổi mới mặt địa cầu”.[54]

Theo hướng dẫn Công Đồng Vatican II, Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng để ý tới vô vàn hành động đa dạng của Chúa Thánh Thần, Ngài liên tục gieo những hạt giống chân lý giữa các dân tộc, tôn giáo, văn hóa và triết học của họ.[55] Điều này có nghĩa là những tôn giáo, những văn hóa và triết lý đó có khả năng giúp đỡ dân chúng, cá nhân hay tập thể, chống lại sự dữ và phục vụ sự sống cũng như tất cả những gì là thiện hảo. Các quyền lực sự chết cô lập dân chúng, xã hội và các cộng đồng tôn giáo khác nhau, và sinh ra sự nghi ngờ và cạnh tranh đưa tới xung đột. Ngược lại, Chúa Thánh Thần nâng đỡ dân chúng trong việc tìm kiến sự hiểu biết và chấp nhận lẫn nhau. Do đó Chúa Thánh Thần nâng đỡ dân chúng trong việc tìm kiến sự hiểu biết và chấp nhận lẫn nhau.

Chúa Thánh Thần và Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập thể

16. Dưới sự hướng dẫn của Thần Khí, lịch sử cứu độ diễn ra trên sân khấu của thế giới, và của của vũ trụ nữa, theo chương trình đời đời của Chúa Cha. Chương trình đó, do Thánh Thần khởi sự từ khi bắt đầu việc sáng tạo, được mạc khải trong Cựu Ước, được hoàn thành nhờ ân sủng của Đức Giêsu Kitô, và được tiếp nối trong công cuộc sáng tạo mới nhờ cũng một Thần Khí cho tới khi Chúa lại đến trong vinh quang vào lúc kết thúc thời gian.[56] Mầu nhiêm Nhập thể của Con Thiên Chúa là công trình cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần: “Sự cưu mang và sinh ra Đức Giêsu Kitô thực tế là công trình cao cả nhất được thực hiện do Chúa Thánh Thần trong lịch sử sáng tạo và cứu chuộc: ân sủng tuyệt diệu - “ân sủng hiệp nhất”, nguồn mạch mọi ơn khác”.[57] Mầu nhiệm Nhập thể là biến cố mà trong đó Chúa tập hợïp về với chính mình, qua sự hợp nhất mới mẻ và chung cuộc, không những con người, mà còn toàn thể thọ tạo và tất cả lịch sử.[58]

Được cưu mang trong lòng Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,35; Mt 1,20), Đức Giêsu thành Nazareth, Đấng Mêsia và Cứu Thế duy nhất, được đầy tràn Chúa Thánh Thần. Thần Khí xuống trên Người khi Người chịu phép rửa (x. Mc 1,10) và dẫn đưa Người vào hoang địa để được nên mạnh sức trước khi thi hành sứ vụ công khai của Người (Mc 1,12; Lc 4,1; Mt 4,1). Trong hội đường thành Nazareth, Người bắt đầu sứ vụ ngôn sứ của Người, bằng cách áp dụng cho chính mình thị kiến của ngôn sứ Isaia về sự xức dầu Thần Khí, dẫn tới việc rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, tự do cho kẻ bị giam cầm và một năm hồng ân của Thiên Chúa (x. Lc 4,18-19). Nhờ quyền năng của Thần Khí, Đức Giêsu chữa lành bệnh nhân và xua đuổi ma quỷ, như là một tín hiệu Nước Thiên Chúa đã đến (x. Mt 12,28). Sau khi từ kẻ chết chỗi dậy, Người đã thông ban cho các môn đệ Chúa Thánh Thần, Đấng mà Người đã hứa đổ tràn trên Giáo Hội khi Người trở về với Chúa Cha (x. Ga 20,22-23).

Tất cả những sự kiện đó chứng tỏ rằng sứ vụ của Đức Giêsu mang dấu vết rõ ràng sự hiện diện của Thần Khí: sự sống, sự sống mới. Giữa sự sai đi Chúa Con từ Chúa Cha và sự sai đi Thần Khí từ Chúa Cha và Chúa Con, có một sự liên hệ chặt chẽ và thiết yếu.[59] Hành động của Thánh Thần trong sáng tạo và lịch sử nhân loại, đạt được một ý nghĩa hoàn toàn mới đối với hành động của Người trong đời sống và sứ vụ của Đức Giêsu. Những “hạt giống Lời” nhờ Thần Khí gieo xuống, chuẩn bị cho toàn thể thọ tạo, lịch sử và con người để đạt tới sự trưởng thành viên mãn trong Đức Kitô.[60]

Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã diễn tả mối quan tâm đối với khuynh hướng tách biệt hoạt động của Chúa Thánh Thần với hoạt động của Đức Giêsu Cứu thế. Đáp lại quan tâm đó, tôi lặp lại ở đây những gì tôi đã viết trong Thông điệp Redemptoris Missio: “(Thánh Thần) không thay thế Đức Kitô và cũng không lấp đầy một thứ chỗ trống mà đôi khi được gợi lên là hiện hữu giữa Đức Kitô và Ngôi Lời (Logos). Bất cứ cái gì mà Thánh Thần mang đến trong tâm hồn con người và lịch sử các dân tộc, trong các nền văn hóa và tôn giáo, thì giúp chuẩn bị cho Tin Mừng và chỉ có thể hiểu khi quy chiếu về Đức Kitô, Ngôi Lời đã mặc lấy thể xác nhờ quyền lực Thần Khí ‘ngõ hầu đã là con người hoàn hảo, Người cứu rỗi mọi người và qui tụ mọi sự’”.[61]

Cho nên sự hiện diện phổ quát của Chúa Thánh Thần không được dùng như lời bào chữa để khỏi công bố Đức Giêsu Kitô cách công khai như là Đấng Cứu Độ độc nhất và duy nhất. Ngược lại, sự hiện diện phổ quát của Chúa Thánh Thần không thể tách biệt khỏi sự cứu độ phổ quát trong Đức Giêsu. Sự hiện diện của Thần Khí trong tạo vật và lịch sử chỉ về Đức Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạo vật và lịch sử được cứu chuộc và thành toàn. Sự hiện diện của Thần Khí cả trước biến cố Nhập Thể và trong cao điểm lễ Ngũ Tuần luôn chỉ về Đức Giêsu và về sự cứu độ Người mang đến. Cũng thế, sự hiện diện phổ quát của Chúa Thánh Thần không bao giờ có thể bị tách biệt khỏi sự hoạt động của Người trong Thân Thể Đức Kitô, tức là Giáo Hội.[62]

Chúa Thánh Thần và Thân Thể Đức Kitô

17. Chúa Thánh Thần gìn giữ nguyên vẹn sợi giây hiệp thông giữa Đức Giêsu và Giáo Hội Người. Ngự trong Giáo Hội cũng như ngự trong một đền thờ (x. 1Cr 3,16), Thần Khí hướng dẫn Giáo Hội, trước hết để đạt đến chân lý toàn vẹn về Đức Giêsu. Sau đó chính Thần Khí ban sức mạnh cho Giáo Hội để tiếp tục sứ vụ của Đức Giêsu, trước nhất bằng cách làm chứng cho chính Đức Giêsu, sau đó hoàn thành điều Người đã hứa trước lúc chết và sống lại, tức là Người sẽ sai Thần Khí đến với các môn đệ để họ có sức làm chứng về Người (x. Ga 15,26-27). Công trình của Thần Khí trong Giáo Hội cũng là để làm chứng rằng các tín hữu là dưỡng tử của Thiên Chúa, những người được tiền định hưởng ơn cứu độ, được trọn vẹn hiệp thông với Chúa Cha, như đã hứa (x. Rm 8,15-17). Khi ban cho Giáo Hội những đoàn sủng và ân huệ khác nhau, Thần Khí làm cho Giáo Hội lớn lên trong hiệp thông, như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau (x. 1Cr 12,4: Ep 4,11-16). Thần Khí hợp nhất mọi dân tộc, với những tập quán, những tài nguyên và tài năng khác nhau, biến Giáo Hội thành một dấu chỉ hiệp thông của toàn thể nhân loại dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô.[63] Thần Khí uốn nắn Giáo Hội thành một cộng đoàn những chứng nhân để, nhờ quyền lực của Người, Giáo Hội làm chứng cho Đức Giêsu Cứu Thế (x. Cv 1,8). Theo nghĩa này, Chúa Thánh Thần là tác nhân chủ yếu của việc Phúc Âm hóa. Từ đó các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng có thể kết luận rằng, cũng như sứ vụ trần thế của Đức Giêsu được hoàn thành trong quyền lực Chúa Thánh Thần, thì “cũng một Thần Khí đã được ban cho Giáo Hội bởi Chúa Cha và Chúa Con trong ngày lễ Ngũ Tuần, để hoàn thành sứ vụ tình yêu và phục vụ của Đức Giêsu tại Á Châu”.[64]

Chương trình cứu độ con người của Chúa Cha, không kết thúc với sự chết và phục sinh của Đức Giêsu. Nhờ ân huệ của Thần Khí Đức Kitô, hoa quả sứ vụ cứu rỗi của Người được Giáo Hội ban tặng cho mọi dân tộc thuộc mọi thời đại, qua sự loan truyền Tin Mừng và phục vụ yêu thương đối với gia đình nhân loại. Như Công Đồng Vatican II nhận xét, “Chúa Thánh Thần thúc đẩy Giáo Hội cộng tác với Người để hoàn tất trọn vẹn kế hoạch của Thiên Chúa là Đấng đã đặt Đức Kitô làm nguồn ơn cứu độ cho cả thế giới”.[65] Được Thần Khí ban quyền thực hiện sự cứu độ của Đức Kitô trên mặt đất, Giáo Hội là hạt giống của Nước Chúa và tha thiết mong đợi sự hình thành chung cuộc của nó. Căn tính và sứ mạng của Giáo Hội không tách biệt khỏi Nước Chúa, Nước mà Đức Giêsu đã loan báo và khai mào trong tất cả những gì Người đã nói và đã làm, nhất là trong sự chết và sống lại của Người. Thần Khí nhắc Giáo Hội nhớ rằng Giáo Hội không phải là cùng đích cho chính mình; trong tất cả những gì Giáo Hội là và làm, thì Giáo Hội hiện hữu để phục vụ Đức Kitô và sự cứu độ thế giới. Trong nhiệm cục cứu độ này, những công trình của Chúa Thánh Thần trong tạo vật, trong lịch sử và trong Giáo Hội, tất cả là thành phần của một kế hoạch đời đời của Ba Ngôi trên tất cả những gì hiện hữu.

Chúa Thánh Thần và Sứ Vụ của Giáo Hội tại Á Châu

18. Thánh Thần, Đấng đã hành động trên Á Châu trong thời các Tổ Phụ và ngôn sứ, và còn mãnh liệt hơn nữa trong thời Đức Giêsu và Giáo Hội sơ khai, bây giờ vẫn tác động giữa các người Kitô hữu Á Châu, bằng cách củng cố chứng tá đức tin của họ giữa các dân tộc, các nền văn hóa và tôn giáo của lục địa. Cũng như cuộc đối thoại tình yêu vĩ đại giữa Thiên Chúa và con người được Thần Khí chuẩn bị và được thực hiện trên phần đất Á Châu qua mầu nhiệm Đức Kitô, thì ngày nay cuộc đối thoại giữa Chúa Cứu Thế và các dân tộc trên lục địa, vẫn tiếp tục nhờ quyền lực của cùng một Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo Hội. Trong tiến trình này, các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân nam nữ, tất cả đều có một vai trò thiết yếu, vì nhớ lời Đức Giêsu, vừa là lời hứa và cũng là lệnh truyền: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

Giáo Hội xác tín rằng, sâu trong lòng dân chúng, các nền văn hóa và tôn giáo tại Á Châu, có một cơn khát “Nước Hằng sống” (x. Ga 4,10-15), một cơn khát chính Thần Khí đã tạo ra và chỉ mình Đức Giêsu Cứu Thế mới có thể thỏa mãn trọn vẹn. Giáo Hội trông chờ Chúa Thánh Thần tiếp tục chuẩn bị các dân tộc Á Châu vào cuộc đối thoại cứu độ với Đấng Cứu Thế của mọi người. Được Thần Khí hướng dẫn trong sứ vụ phục vụ và tình yêu, Giáo Hội có thể trao tặng một cuộc gặp gỡ giữa Đức Kitô và các dân tộc tại Á Châu khi họ đi tìm cuộc sống viên mãn. Chỉ trong cuộc gặp gỡ đó, mới gặp được nguồn Nước Hằng Sống vọt đến sự sống đời đời, nghĩa là, sự hiểu biết một Thiên Chúa duy nhất và Đức Giêsu Kitô mà Người đã sai đến (x. Ga 17,3).

Giáo Hội biết rõ rằng mình chỉ có thể hoàn thành sứ vụ khi nghe theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Khi dấn thân làm dấu hiệu và dụng cụ đích thực cho hoạt động của Thần Khí trong những thực tại phức tạp tại Á Châu, Giáo Hội phải biện phân, giữa tất cả hoàn cảnh khác nhau của lục địa, tiếng Thần Khí mời gọi làm chứng cho Đức Giêsu bằng những cung cách mới và có hiệu quả. Chân lý trọn vẹn về Đức Giêsu và sự cứu độ mà họ đã đạt được luôn là một ân huệ, chớ không bao giờ là thành quả của nỗ lực con người. “Chính Thần Khí chứng thực cho thần khí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy, đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô” (Rm 8,16-17). Do đó Giáo Hội không ngừng kêu lên: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy tràn đầy tâm hồn các tín hữu Chúa và đốt lên trong họ ngọn lửa tình yêu của Chúa!”. Đó là ngọn lửa mà Đức Giêsu ném trên mặt đất. Giáo Hội tại Á Châu chia sẻ niềm ước mong của Người cho ngọn lửa đó giờ đây lại bừng cháy lên (x. Lc 12,49). Với lòng ao ước nồng cháy này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã tìm cách biện biệt những lãnh vực truyền giáo chính yếu cho Giáo Hội tại Á Châu, đang lúc Giáo Hội này bước qua ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba.

***

CHƯƠNG IV

ĐỨC GIÊSU ĐẤNG CỨU THẾ: LOAN BÁO ƠN HUỆ

 

Vị trí Ưu Tiên của Việc Loan Báo

19. Ở ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, tiếng Đức Giêsu phục sinh lại vang dội trong tâm hồn mỗi người Kitô hữu: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,18-20). Xác tín vào sự giúp đỡ liên lỉ của chính Đức Giêsu cũng như sự hiện diện và quyền năng của Thần khí của Người, các tông đồ ra đi tức khắc sau lễ ngũ tuần để hoàn thành lệnh truyền này: “các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông” (Mc 16,20). Những gì các ông loan báo có thể tóm tắt trong những lời Thánh Phaolô: “Bởi chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Kitô Giêsu là Chúa; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giêsu” (2Cr 4,5). Được chúc phúc với ơn đức tin, Giáo Hội, sau 2000 năm, tiếp tục ra đi gặp gỡ các dân tộc của thế giới, để chia sẻ cho họ Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Giáo Hội là một cộng đồng rực cháy sự hăng say truyền giáo, để làm cho Đức Giêsu được biết, yêu mến và đi theo.

Không thể có Phúc Âm hóa thực sự mà không có loan báo công khai về Đức Giêsu là Chúa. Để trả lời cho một sự lầm lẫn về bản tính chân thật của sứ mạng Giáo Hội, thì Công Đồng Vatican II và huấn quyền từ đó, đã luôn luôn nhấn mạnh vị trí ưu tiên của việc rao giảng về Đức Giêsu Kitô trong mọi hoạt động Phúc Âm hóa. Như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã minh nhiên viết rằng “không thể có việc Phúc Âm hóa thật nếu danh xưng, lời giảng dạy, sự sống, những lời hứa, vương quốc và mầu nhiệm Đức Giêsu thành Nazareth, Con Thiên Chúa, không được loan báo”.[66] Đó là điều các thế hệ Kitô hữu đã làm suốt bao thế kỷ. Với một sự hãnh diện có thể hiểu được, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhắc lại rằng: “Nhiều cộng đoàn Kitô hữu tại Á Châu đã gìn giữ đức tin của mình suốt bao thế kỷ dẫu trải qua những đau khổ lớn lao, và đã bám trụ vào gia sản thiêng liêng này với sự kiên trì dũng cảm. Đối với họ, chia sẻ kho tàng lớn lao này là một niềm vui lớn và cấp thiết”.[67]

Đồng thời, các vị tham gia Hội nghị đặc biệt đã xác nhận không biết bao nhiêu lần sự cần thiết tái dấn thân vào việc rao giảng Đức Giêsu Kitô chính trên lục địa đã thấy khởi sự việc rao giảng này cách đây 2000 năm. Những lời Thánh Phaolô Tông đồ lại càng trở nên nhức nhối hơn, bởi lẽ nhiều người trên lục địa này chưa bao giờ gặp được con người Đức Giêsu cách rõ ràng và ý thức: “Tất cả những ai kêu cầu Danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát. Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ có thể tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng?” (Rm 10,13-14). Câu hỏi lớn mà Giáo Hội tại Á Châu đang giáp mặt là làm sao chia sẻ với các anh chị em tại Á Châu về kho tàng chúng ta có, như là một ân huệ chứa đựng tất cả các ân huệ khác, đó là Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô.

Loan Báo Đức Giêsu Kitô tại Á Châu

20. Giáo Hội tại Á Châu tha thiết hơn với công tác rao giảng, vì biết rằng “nhờ hoạt động của Thần Khí, đã có saün nơi các cá nhân và các dân tộc một sự mong chờ, cho dầu vô ý thức, mong chờ được biết chân lý về Thiên Chúa, về con người, và về cách thức thoát khỏi tội lỗi và sự chết”.[68] Sự nhấn mạnh đến việc rao giảng đó không bị thúc đẩy bởi áp lực các bè phái, cũng không phải bởi tinh thần xúi nhập đạo, cũng không phải do ý thức tự tôn nào cả. Giáo Hội rao giảng Tin Mừng vì vâng lời lệnh truyền của Đức Kitô, biết rằng mọi người có quyền nghe Tin Mừng của Thiên Chúa, Đấng mạc khải và hiến mình trong Đức Kitô.[69] Làm chứng về Đức Giêsu Kitô là công việc phục vụ cao cả nhất mà Giáo Hội có thể trao tặng cho các dân tộc Á Châu, bởi vì việc đó đáp ứng với sự ước mong sâu xa của họ được gặp Đấng Tuyệt Đối, và nó cũng vén mở những chân lý và những giá trị bảo đảm sự phát triển toàn diện con người.

Vì ý thức sâu xa đến tính phức tạp của rất nhiều hoàn cảnh khác nhau tại Á Châu, và phải “nói sự thật trong tình bác ái” (Ep 4,15), nên Giáo Hội loan báo Tin Mừng với lòng kính nể và tôn trọng đầy yêu thương đối với thính giả của mình. Việc loan báo mà tôn trọng các quyền của lương tâm thì không xúc phạm tự do, bởi vì đức tin luôn đòi hỏi một sự đáp trả tự do về phía cá nhân.[70] Tuy nhiên sự kính trọng không loại đi sự cần thiết phải rao giảng công khai Tin Mừng trong sự toàn vẹn của nó. Cách riêng trong bối cảnh nhiều nền văn hóa và tôn giáo tại Á Châu, phải nêu rõ rằng “không phải sự kính nể và tôn trọng các tôn giáo này, cũng không phải tính phức tạp của các vấn đề nảy sinh, là một lời mời gọi Giáo Hội rút lui khỏi sự rao giảng Đức Giêsu cho những người không Kitô hữu này”.[71] Khi viếng thăm Aán Độ năm 1986, tôi đã phát biểu rõ ràng rằng: “việc Giáo Hội tiếp xúc với các tôn giáo khác là một tiếp xúc đầy kính trọng chân thành... Sự kính trọng này có hai mặt: kính trọng đối với con người khi họ tìm câu trả lời cho các vấn đề sâu xa nhất về cuộc sống của họ, và sự kính trọng đối với hoạt động Thần Khí trong con người”.[72] Thật vậy, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng sẵn sàng nhìn nhận hoạt động của Thần Khí trong các xã hội, văn hóa và tôn giáo Á Châu, nhờ đó mà Chúa Cha chuẩn bị tâm hồn cho các dân tộc Á Châu đón nhận đầy đủ sự sống trong Đức Kitô.[73]

Trong các cuộc thăm dò trước khi họp Thượng Hội Đồng, nhiều Giám Mục Á Châu nhắc đến các khó khăn khi rao giảng Đức Giêsu như Đấng Cứu Độ duy nhất. Trong Hội Nghị, hoàn cảnh được diễn tả như vầy: “Một số người theo các tôn giáo lớn tại Á Châu, không có vấn đề gì khi chấp nhận Đức Giêsu như một hiển hình của Thần Thánh hay Đấng Tuyệt Đối, hay là một minh chủ (enlightened one). Nhưng đối với họ thật khó mà công nhận Người như một hiển hình duy nhất của Thiên Chúa”.[74] Thật thế, nỗ lực chia sẻ ơn huệ đức tin vào Đức Giêsu như Đấng Cứu Độ duy nhất, gặp đầy dẫy những khó khăn về phương diện triết học, văn hóa và thần học, đặc biệt trong ánh sáng của những niềm tin của các tôn giáo lớn tại Á Châu, đan kết sâu xa với các giá trị văn hóa và những lối nhìn riêng biệt về thế giới.

Theo ý kiến của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, cái khó là do sự kiện Đức Giêsu thường bị coi xa lạ với Á Châu. Điều nghịch lý là phần lớn người Á Châu có khuynh hướng nhìn Đức Giêsu - sinh ra trong phần đất Á Châu - như là một nhân vật Âu Châu hơn là Á Châu. Việc rao giảng Tin Mừng do các nhà truyền giáo Âu Châu chịu ảnh hưởng bởi các nền văn hóa nơi các Ngài phát xuất là điều không thể tránh được. Các nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã công nhận đó là sự kiện không thể tránh được trong lịch sử truyền giáo. Đồng thời các Nghị Phụ trong dịp này “bày tỏ cách hết sức đặc biệt lòng biết ơn của các ngài đối với tất cả các vị thừa sai, nam cũng như nữ, tu sĩ cũng như giáo dân, ngoại kiều hay bản xứ, đã mang đến sứ điệp của Đức Giêsu Kitô và ơn huệ đức tin. Một lời cảm ơn đặc biệt nữa phải được biểu lộ đối với những Giáo Hội địa phương đã sai và còn sai các vị thừa sai đến Á Châu”.[75]

Những nhà truyền giáo có thể tin tưởng, dựa vào kinh nghiệm của Thánh Phaolô, vị đã lao mình vào cuộc đối thoại với những giá trị mang tính triết học, văn hóa và tôn giáo của những thính giả (x. Cv 14, 13-17; 17, 22-31). Chính các Công Đồng chung của Giáo Hội, khi soạn thảo những công thức đức tin của Giáo Hội, đã phải sử dụng những vốn ngôn ngữ, triết học, văn hóa mà họ có trong tầm tay. Như vậy, những vốn đó trở thành một tài sản chung của toàn thể Giáo Hội, có khả năng phát biểu học thuyết Kitô của mình một cách xứng hợp và phổ quát. Chúng thuộc về gia tài đức tin, mà ta phải chiếm hữu và không ngừng chia sẻ lại khi gặp gỡ với các nền văn hóa khác nhau.[76] Như vậy sứ vụ rao giảng Đức Giêsu theo một cách thức làm cho các dân tộc Á Châu được đồng hoá với Người, đang khi vẫn trung thành với giáo thuyết thần học của Giáo Hội và với những nguồn gốc Á Châu của mình, sứ vụ đó là một thách đố tột bậc.

Việc trình bày Đức Giêsu Kitô là một Đấng Cứu Độ duy nhất, cần phải theo một khoa sư phạm, từng bước dẫn đưa dân chúng đến việc đón nhận trọn vẹn mầu nhiệm. Rõ ràng là việc loan báo Tin mừng lần đầu tiên những người không Kitô hữu, và việc rao giảng Đức Giêsu tiếp theo đó cho những kẻ tin, phải khác nhau trong cách tiếp cận. Trong lần loan báo đầu tiên, chẳng hạn, “có thể trình bày Đức Giêsu Kitô như sự hoàn thành những khát vọng được diễn tả trong các thần thoại và văn học dân gian của các dân tộc Á Châu”.[77] Nói chung, phương pháp kể truyện, quen thuộc với văn hóa Á Châu, thì đáng được dùng ưu tiên. Quả thực, việc rao giảng Đức Giêsu Kitô có thể có hiệu quả nhất bằng cách kể lại câu chuyện về Người, như sách Phúc Âm làm. Các khái niệm hữu thể học có liên quan, mà phải luôn luôn được hàm ý và diễn tả khi đang trình bày về Đức Giêsu, có thể được bổ sung nhờ những viễn tượng có tính cách tương quan, lịch sử và cả đến tính vũ trụ. Các Nghị Phụ lưu ý, Giáo Hội phải cởi mở với những phương cách mới và gây ngạc nhiên, nhờ vậy mà gương mặt Đức Giêsu có thể được trình bày tại Á Châu.[78]

Thượng Hội Đồng khuyến cáo rằng việc dạy giáo lý tiếp sau đó, phải theo “một khoa sư phạm có tính gợi ý, sử dụng những câu truyện, những dụ ngôn và những biểu tượng rất đặc trưng của phương pháp giảng dạy Á Châu”.[79] Sứ vụ của chính Đức Giêsu cho thấy rõ giá trị của việc tiếp xúc cá nhân, điều này đòi hỏi nhà truyền giáo phải lưu tâm đến hoàn cảnh người nghe, để có thể cống hiến một sự loan báo tương xứng với trình độ trưởng thành của người nghe, qua một hình thức và ngôn ngữ xứng hợp. Trong viễn tượng này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhiều lần đã nhấn mạnh đến nhu cầu loan báo Tin mừng bằng một cách thức có thể lôi cuốn tính nhạy cảm của người dân Á Châu, và các ngài nêu lên những hình ảnh về Đức Giêsu có thể hiểu được theo tâm trí và văn hóa Á Châu và đồng thời, trung thành với Kinh Thánh và truyền thống. Trong những hình ảnh đó, có những hình ảnh “Đức Giêsu là Thầy dạy sự khôn ngoan, Vị Lương y, Đấng Giải phóng, Vị Hướng dẫn đàng thiêng liêng, Minh chủ, Người Bạn giàu lòng thương xót của kẻ nghèo, Người Samaritanô nhân hậu, Vị Mục tử nhân lành, Đấng vâng phục”.[80] Đức Giêsu có thể được trình bày như là sự khôn ngoan nhập thể của Thiên Chúa. Ân sủng của Người mang lại hoa trái cho “những hạt giống” của Đấng khôn Ngoan đã hiện diện trong cuộc sống, tôn giáo và các dân tộc của Á Châu.[81] Giữa nhiều đau khổ các dân tộc Á Châu phải gánh chịu, Đức Giêsu có thể được rao giảng tốt nhất như là Đấng Cứu Độ, “Đấng có thể đem lại ý nghĩa cho những ai đang trải qua những đau khổ và đau đớn không thể tả được”.[82]

Đức tin mà Giáo Hội cống hiến như một ân huệ cho con cái mình, không thể bị giam giữ bên trong những giới hạn của sự hiểu biết và sự diễn tả riêng của một nền văn hóa nhân bản nào, bởi vì nó vượt lên trên những giới hạn này và còn thách thức mọi nền văn hóa tiến lên những chiều cao mới mẻ của sự hiểu biết và diễn tả. Nhưng đồng thời, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng ý thức rõ về nhu cầu khẩn khiết của Giáo Hội tại Á Châu, muốn trình bày mầu nhiệm Đức Kitô cho các dân tộc mình, theo những kiểu mẫu văn hóa và cách suy nghĩ của họ. Các Ngài chỉ rõ rằng việc hội nhập đức tin như thế trên lục địa các Ngài, gồm có việc tái khám phá khuôn mặt Á Châu của Đức Giêsu và việc tìm ra những phương cách để các nền văn hóa Á Châu có thể nắm bắt ý nghĩa cứu độ phổ quát của mầu nhiệm Đức Giêsu và Giáo Hội Người.[83] Trong thời đại hôm nay, cần làm sống lại sự hiểu biết sâu sắc về các dân tộc và văn hóa mà đã có được một cách gương mẫu nơi những con người như Gioan Montecorvino, Matteo Ricci và Roberto de Nobili, đây chỉ nhắc tới một ít người thôi.

Thách Đố của việc Hội Nhập Văn hóa

21. Văn hóa là không gian sống trong đó con người đến với Tin Mừng, mặt giáp mặt. Cũng như văn hóa là thành quả của sự sống và hoạt động của một nhóm người, thì những con người thuộc nhóm đó cũng được uốn nắn trong phạm vi rộng rãi bởi nền văn hóa trong đó họ đang sống. Vì con người và xã hội thay đổi, nền văn hóa cũng bị thay đổi theo. Vì văn hóa biến đổi nên con người và xã hội cũng biến đổi theo nó. Từ viễn ảnh này, ta thấy rõ ràng hơn tại sao việc Phúc Âm hóa và hội nhập văn hóa liên hệ với nhau cách tự nhiên và mật thiết. Tin Mừng và việc rao giảng Tin Mừng chắc chắn không đồng nhất với văn hóa; chúng độc lập với văn hóa. Tuy nhiên Nước Thiên Chúa đến với những con người gắn bó sâu xa với một nền văn hóa, và việc xây dựng Vương Quốc không tránh khỏi mượn các yếu tố từ các nền văn hóa nhân bản. Vì thế Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói sự chia tách giữa Tin Mừng và văn hóa là thảm trạng của thời đại chúng ta, với một tác động sâu xa trên cả việc rao giảng Tin Mừng lẫn văn hóa.[84]

Trong quá trình gặp gỡ các nền văn hóa khác nhau của thế giới, Giáo Hội không những truyền đạt các chân lý và những giá trị của mình và đổi mới các nền văn hóa từ bên trong, nhưng Giáo Hội cũng tiếp thu từ các nền văn hóa khác nhau, những yếu tố tích cực có saün trong các nền văn hóa đó. Đó là con đường bắt buộc cho những nhà rao giảng Tin Mừng khi trình bày đức tin Kitô giáo và làm cho nó trở nên một thành phần của di sản văn hóa của một dân tộc. Về phần mình, khi các nền văn hóa khác nhau được hoàn thiện và canh tân dưới ánh sáng của Tin mừng, chúng có thể trở nên những diễn tả đích thực của đức tin Kitô giáo duy nhất. “Nhờ hội nhập văn hóa mà Giáo Hội, về phần mình, đã trở nên một dấu chỉ dễ hiểu hơn về bản tính của mình, và trở nên một dụng cụ hữu hiệu hơn cho việc truyền giáo”.[85] Sự giao kết đó với các nền văn hóa đã luôn là thành phần cuộc hành trình của Giáo Hội qua lịch sử. Nhưng ngày nay sự giao kết đó càng cấp bách cách đặc biệt trong cảnh huống đa-dân-tộc, đa-tôn-giáo, đa-văn-hoá tại Á Châu, nơi mà Kitô giáo vẫn thường còn bị coi là ngoại lai.

Tới đây, quả là tốt khi nhớ lại những gì thường được lặp đi lặp lại trong Thượng Hội Đồng: Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của sự hội nhập văn hóa của đức tin Kitô giáo tại Á Châu.[86] Cũng một Chúa Thánh Thần, Đấng dẫn dắt chúng ta đến chân lý toàn diện, làm cho có thể thực hiện được một cuộc đối thoại có hiệu quả với các giá trị văn hóa và tôn giáo các dân tộc khác nhau. Người hiện diện giữa họ trong một mức độ nào đó, ban sức mạnh cho các người nam nữ thành tâm thiện chí, để họ chiến thắng sự dữ và sự lừa đảo của Thần Dữ, và ban tặng cho mỗi người khả năng thông dự vào mầu nhiệm Phục Sinh, bằng cách nào đó Chúa biết.[87] Sự hiện diện của Thần Khí bảo đảm rằng sự đối thoại diễn ra trong chân lý, trong lương thiện, khiêm tốn và kính trọng.[88] “Khi ban tặng cho kẻ khác Tin Mừng cứu rỗi, Giáo Hội cố gắng tìm hiểu nền văn hóa của họ. Giáo Hội tìm hiểu tâm trí kẻ nghe, các giá trị và tập quán của họ, các vấn đề và những khó khăn của họ, những hy vọng và những ước mơ của họ. Một khi Giáo Hội hiểu biết những khía cạnh văn hóa khác nhau đó, thì bấy giờ Giáo Hội mới có thể bắt đầu cuộc đối thoại cứu rỗi; Giáo Hội có thể trao tặng, cách kính cẩn nhưng rõ ràng và đầy xác tín, Tin Mừng cứu chuộc cho những ai muốn nghe và tự do đáp trả”.[89] Do đó, các dân tộc Á Châu nào, trong tư cách là người Á Châu, mà muốn chiếm hữu đức tin Kitô giáo, thì có thể yên tâm rằng những hy vọng, những trông đợi, những âu lo và đau khổ của họ không những được Đức Giêsu ôm lấy, mà còn trở thành điểm đích thực để ân huệ đức tin và quyền năng Thần Khí đi vào trong cốt lõi thâm sâu nhất của đời sống họ.

Nhiệm vụ của các vị Chủ Chăn, do đoàn sủng của các ngài, là phải hướng dẫn cuộc đối thoại này cách sáng suốt. Cũng vậy, những chuyên viên về các khoa học đạo và đời, đóng những vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập văn hóa. Nhưng quá trình phải bao gồm toàn thể dân Chúa, bởi vì đời sống Giáo Hội như một toàn thể, phải tỏ bày đức tin đang được rao giảng và được tiếp thu. Để bảo đảm cho việc này được thực hiện có chiều sâu, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng xác định một vài lãnh vực đáng chú ý riêng - suy tư thần học, phụng vụ, đào tạo các linh mục và tu sĩ, dạy giáo lý và tu đức.[90]

Những Lãnh Vực Chủ Chốt của Việc Hội Nhập Văn hóa

22. Thượng Hội Đồng khích lệ các nhà thần học trong công tác tế nhị của họ làm phát triển khoa thần học hội nhập (une théologie inculturée), cách riêng trong lãnh vực Kitô học.[91] Các ngài lưu ý rằng “việc suy tư thần học này phải được thực hiện cách can đảm, trong sự trung thành với Kinh Thánh và truyền thống của Giáo hội, trong sự gắn bó chân thành với Huấn Quyền và trong sự hiểu biết về những thực tại mục vụ”.[92] Tôi cũng thôi thúc các nhà thần học làm việc trong tinh thần hợp nhất với các Chủ Chăn và dân chúng, những người - luôn hợp nhất với nhau và không bao giờ chia tách nhau - “phản chiếu cảm thức đức tin chân chính mà ta không bao giờ được thôi nhìn”.[93] Công trình thần học phải luôn luôn được hướng dẫn bởi sự kính trọng đối với những nhạy cảm của người Kitô hữu, để nhờ sự tăng trưởng dần dần hướng về những hình thức hội nhập biểu tỏ đức tin, dân chúng không bị hoang mang hay bị vấp phạm. Trong mọi trường hợp, việc hội nhập văn hóa phải được hướng dẫn bởi sự tương hợp với Tin Mừng và sự hiệp thông với đức tin của toàn thể Giáo Hội, trong sự thuận theo hoàn toàn với truyền thống Giáo Hội và với mục đích làm cho đức tin dân chúng nên vững mạnh.[94] Trắc nghiệm của việc hội nhập văn hóa đích thực, là xem dân chúng có trở nên gắn bó hơn với đức tin Ki tô giáo của mình hay không, bởi vì họ thấy đức tin rõ hơn bằng cặp mắt thuộc về văn hóa của họ.

Phụng Vụ là nguồn gốc và là tuyệt đỉnh của tất cả đời sống Kitô hữu và truyền giáo.[95] Phụng Vụ là một phương tiện quyết định của việc rao giảng Tin Mừng, nhất là tại Á Châu, nơi mà những người theo đạo khác nhau rất ưa thích việc tế tự, những lễ hội tôn giáo và những việc đạo đức bình dân.[96] Phụng Vụ của các Giáo Hội Phương Đông phần lớn đã được hội nhập văn hóa có kết quả sau bao thế kỷ tương tác với nền văn hóa xung quanh, nhưng những Giáo Hội được thành lập mới đây cần làm sao để phụng vụ trở nên nguồn mạch nuôi dưỡng hơn cho dân chúng, qua việc sử dụng khôn ngoan và hiệu năng các yếu tố rút ra từ các nền văn hóa địa phương. Nhưng sự hội nhập Phụng vụ đòi hỏi nhiều điều hơn là việc chú tâm vào những giá trị văn hóa truyền thống, những biểu tượng và những nghi thức. Cũng cần lưu ý đến những thay đổi trong ý thức và thái độ gây ra do sự xuất hiện của các nền văn hóa trần tục và hưởng thụ đang ảnh hưởng đến cảm thức phụng tự và cầu nguyện của người Á Châu. Cũng không được bỏ qua những nhu cầu riêng biệt của người nghèo, người di dân, người tị nạn, giới trẻ và phụ nữ trong bất cứ việc hội nhập phụng vụ chân chính nào tại Á Châu.

Các Hội Đồng Giám Mục quốc gia và miền, cần phải làm việc chặt chẽ hơn với Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, trong việc tìm kiếm những phương thức có hiệu năng để cổ võ những hình thức phụng tự thích hợp trong bối cảnh Á Châu.[97] Sự hợp tác này là cần thiết bởi vì Phụng vụ thánh diễn tả và cử hành một đức tin được mọi người tuyên xưng và, bởi Phụng vụï thánh là gia sản của toàn thể Giáo Hội, nên không thể do các Giáo Hội địa phương định đoạt cách riêng rẽ khỏi Giáo Hội hoàn vũ.

Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh cách riêng đến tầm quan trọng của Lời Kinh Thánh trong việc loan truyền sứ điệp cứu độ cho các dân tộc Á Châu, nơi mà Lời được loan truyền có một vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và truyền đạt kinh nghiệm tôn giáo.[98] Cho nên cần phát triển một hình thức tông đồ hữu hiệu nhằm phổ biến kinh thánh, hầu có thể đảm bảo rằng bản văn Kinh Thánh được phổ biến rộng rãi hơn và được sử dụng thường xuyên và trong tinh thần cầu nguyện hơn giữa các phần tử Giáo Hội tại Á Châu. Các nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh rằng thật là cấp bách việc dùng Kinh Thánh như là nền tảng cho tất cả mọi việc loan báo, dạy giáo lý, giảng thuyết và hình thức linh đạo truyền giáo.[99] Cần phải cổ động và nâng đỡ những cố gắng dịch thuật Kinh Thánh ra tiếng địa phương. Đào tạo về Kinh Thánh phải được coi như một phương tiện quan trọng để giáo dục đức tin cho dân chúng và chuẩn bị họ cho công việc loan báo. Cần phải đưa vào chương trình đào tạo giáo sĩ, những người sống đời thánh hiến và giáo dân những khóa học Kinh Thánh hướng về mục vụ, với sự nhấn mạnh thích đáng về việc áp dụng huấn giáo Kinh Thánh vào những thực tại phức tạp của đời sống Á Châu.[100] Kinh Thánh cũng phải phổ biến giữa những người theo các tôn giáo khác; Lời Chúa có một quyền lực nội tại đánh động tâm hồn dân chúng, bởi vì qua Kinh Thánh, Chúa Thánh Thần mạc khải kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đối với thế gian. Hơn nữa những lối văn tường thuật gặp được trong nhiều sách Kinh Thánh, có một quan hệ tương đồng với những bản văn tôn giáo điển hình của Á Châu.[101]

Một khía cạnh mấu chốt nữa của việc hội nhập văn hóa, có ảnh hưởng phần lớn tới tương lai của tiến trình, đó là sự đào tạo những người rao giảng Tin Mừng. Trong quá khứ, việc đào tạo thường theo kiểu cách, phương pháp và chương trình du nhập từ phương Tây, và tuy đánh giá cao ích lợi do phương pháp đào tạo đó mang lại, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhìn nhận là một phát triển tích cực, các cố gắng thực hiện trong những thời gian gần đây để thích nghi việc đào tạo những người rao giảng Tin Mừng với những bối cảnh văn hóa tại Á Châu. Cùng với việc có được một nền tảng vững chắc do sự học hỏi về Kinh Thánh và các Thánh Giáo Phụ, các chủng sinh phải nắm vững cách chắc chắn và chi tiết gia sản thần học và triết học của Giáo Hội, như tôi đã thúc giục trong Thông điệp Fides et Ratio.[102] Trên nền tảng của sự chuẩn bị đó, các chủng sinh mới thu nhiều ích lợi khi tiếp xúc với những truyền thống triết học và tôn giáo tại Á Châu.[103] Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng khích lệ các giáo sư và các cộng tác viên tìm hiểu cách sâu sắc những yếu tố thuộc tu đức và cầu nguyện, thân thuộc với tâm hồn Á Châu, và dấn mình sâu hơn nữa vào công cuộc tìm kiếm một đời sống trọn vẹn hơn của các dân tộc Á Châu.[104] Để đạt mục đích này, cần nhấn mạnh đến việc đào tạo thích đáng ban giáo sư chủng viện.[105] Thượng Hội Đồng cũng biểu lộ mối quan tâm về việc đào tạo các tu sĩ nam nữ sống đời thánh hiến, bằng cách tuyên bố rõ ràng rằng linh đạo và nếp sống của những người được thánh hiến, cần phải nhạy cảm với gia sản tôn giáo và văn hóa của những người họ đang chung sống và đang phục vụ, với giả định là cần phải phân biệt cái gì phù hợp với Tin Mừng, cái gì không.[106] Hơn nữa, bởi vì việc hội nhập văn hóa Tin Mừng dính dáng đến toàn thể dân Chúa, vai trò người giáo dân có tầm quan trọng tột bậc. Chính họ là những người hơn ai hết được kêu gọi biến đổi xã hội, trong sự hợp tác với các Giám mục, giáo sĩ và tu sĩ, bằng cách làm cho “tinh thần Đức Kitô” thâm nhập vào trong não trạng, tập quán, luật pháp và cấu trúc của thế giới trần tục nơi họ đang sống.[107] Một sự hội nhập văn hóa rộng rãi hơn cho Tin Mừng, ở mọi cấp bậc xã hội tại Á Châu, phần lớn tuỳ thuộc vào sự đào tạo xứng hợp mà các Giáo Hội địa phương dành cho giáo dân.

Đời Sống Kitô Hữu xét như là một lời loan báo

23. Cộng đồng Kitô hữu càng đâm rễ sâu trong kinh nghiệm về Thiên Chúa xuất phát từ một đức tin sống động, thì càng khả tín về khả năng rao giảng cho kẻ khác biết sự hoàn thành của Nước Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Đó là kết quả của việc trung thành nghe Lời Chúa, cầu nguyện và chiêm ngưỡng, cử hành mầu nhiệm Đức Giêsu trong các bí tích, nhất là trong bí tích Thánh Thể, và nêu gương về sự hiệp thông sự sống đích thật và yêu thương trọn vẹn. Trái tim của Giáo Hội địa phương phải hướng về việc chiêm ngưỡng Đức Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-làm-người, và liên lỉ ra sức kết hiệp mật thiết hơn với Đấng mà mình tiếp tục sứ vụ. Việc truyền giáo là hành động bằng chiêm ngưỡng và là sự chiêm ngưỡng bằng hành động. Do đó một nhà truyền giáo mà không có kinh nghiệm sâu sắc về Thiên Chúa qua kinh nguyện và chiêm ngưỡng, thì sẽ có ít ảnh hưởng thiêng liêng hay thành công về mặt truyền giáo. Đây là một suy tư rút ra từ thừa tác vụ linh mục của riêng tôi và, như tôi đã viết nơi khác, sự tiếp xúc của tôi với các đại diện những truyền thống thiêng liêng không Kitô giáo, nhất là của Á Châu, đã củng cố tôi trong xác tín rằng tương lai của việc truyền giáo tùy thuộc phần lớn vào việc chiêm ngưỡng.[108] Tại Á Châu, quê hương của các tôn giáo lớn, nơi mà các cá nhân cũng như toàn thể dân chúng đang khao khát cái thiêng thánh, Giáo Hội được mời gọi trở nên một Giáo Hội cầu nguyện, hoàn toàn thánh thiêng dù dấn thân trong những mối quan tâm trực tiếp về mặt nhân bản và xã hội. Tất cả các Kitô hữu cần một tu đức truyền giáo thật sự gồm có cầu nguyện và chiêm ngưỡng.

Một người có lòng đạo chân chính thì dễ dàng được người ta kính trọng và đi theo tại Á Châu. Cầu nguyện, chay tịnh và những hình thức khổ hạnh khác được coi trọng. Hy sinh, bỏ mình, khiêm tốn, đơn sơ và thinh lặng được xem là những giá trị lớn đối với các tín đồ của mọi tôn giáo. Để sự cầu nguyện không tách rời khỏi sự thăng tiến nhân bản, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh rằng “các công việc của công bình, bác ái và lòng thương xót thì có quan hệ với một đời sống cầu nguyện và chiêm ngưỡng đích thực, và hơn nữa chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin Mừng của chúng ta”.[109] Hoàn toàn xác tín về tầm quan trọng của các chứng tá chân chính trong việc rao giảng Tin Mừng tại Á Châu, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng phát biểu: “Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô chỉ có thể được rao giảng bởi những ai bị chiếm đoạt và được linh hứng bởi tình yêu của Chúa Cha đối với con cái mình, tình yêu đó được tỏ bày nơi con người Đức Giêsu Kitô. Việc loan truyền này là một sứ vụ cần đến những con người nam nữ thánh thiện, họ sẽ làm cho Đấng Cứu Thế được biết và được yêu suốt đời của họ. Một ngọn lửa chỉ được cháy lên bằng cái gì đã bén lửa. Cũng vậy, việc loan truyền Tin Mừng Cứu Độ mà có hiệu quả tại Á Châu, chỉ có thể xảy ra, nếu các Giám Mục, các hàng Giáo Sĩ, những kẻ sống đời sống thánh hiến và giáo dân, cháy nóng bằng tình yêu Đức Kitô và ao ước làm cho Người được biết cách rộng rãi hơn, được yêu cách sâu xa hơn, và được theo cách gần gũi hơn”.[110] Người Kitô hữu nói về Đức Kitô, thì phải thấm nhuần sứ điệp mà họ rao giảng vào đời sống mình.

Về phương diện này, một hoàn cảnh đặc biệt trong bối cảnh Á Châu đòi hỏi phải lưu ý. Giáo Hội nhận thức rằng chứng tá thầm lặng của đời sống vẫn là con đường duy nhất để loan báo Nước Chúa trong nhiều nơi tại Á Châu, mà việc rao giảng công khai bị ngăn cấm và sự tự do tôn giáo bị chối từ hay bị hạn chế có hệ thống. Giáo Hội sống cách ý thức kiểu làm chứng này, coi đó là một “việc vác thánh giá mình” (Lc 9, 23), đồng thời kêu gọi và thúc bách các chính phủ nhìn nhận tự do tôn giáo như là quyền lợi căn bản con người. Những lời của Công Đồng Vatican II đáng được lập lại ở đây: “Con người có quyền tự do tôn giáo. Quyền tự do này hệ tại con người không bị lệ thuộc vào áp lực của cá nhân, đoàn thể xã hội hay của bất cứ quyền bính trần gian nào khác; không một ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm mình trong các việc tôn giáo, cũng không ai bị ngăn cấm hành động theo lương tâm mình, dù cho đó là hành động riêng tư hay công khai, một mình hay cùng với người khác, trong những giới hạn chính đáng”.[111] Trong một vài quốc gia tại Á Châu, lời tuyên bố này vẫn cần được nhìn nhận và đem ra thi hành.

Như vậy, rõ ràng là việc loan báo về Đức Giêsu Kitô tại Á Châu mang nhiều khía cạnh phức tạp, vừa trong nội dung vừa trong phương cách. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng rất ý thức đến sự đa dạng chính đáng của những phương thức rao giảng về Đức Giêsu, miễn là chính đức tin được tôn trọng trong sự toàn vẹn của nó qua quá trình chiếm hữu hay chia sẻ đức tin. Thượng Hội Đồng ghi nhận rằng “ngày nay việc Phúc Âm hóa là một thực tại, vừa súc tích vừa năng động. Nó gồm có nhiều khía cạnh và yếu tố: chứng tá, đối thoại, rao giảng, dạy giáo lý, hoán cải, bí tích Rửa Tội, gia nhập vào cộng đoàn Giáo Hội, thiết lập Giáo Hội, hội nhập văn hóa và thăng tiến toàn diện con người. Một số yếu tố liên kết với nhau, đang khi một số khác là những bước hay những giai đoạn kế tiếp nhau của toàn thể quá trình Phúc Âm hóa”.[112] Tuy nhiên, trong mọi công cuộc Phúc Âm hóa, phải loan báo trọn vẹn chân lý về Đức Giêsu Kitô. Nhấn mạnh đến một vài khía cạnh của mầu nhiệm khôn dò của Đức Giêsu, vừa là việc chính đáng vừa là cần thiết, để từ từ giới thiệu Đức Giêsu cho một con người, nhưng việc làm đó không được phép làm tổn thương tính toàn vẹn của đức tin. Sau cùng, sự chấp nhận đức tin của một con người phải được đặt nền tảng trên một sự hiểu biết chắc chắn về con người Đức Giêsu, như Giáo Hội trình bày mọi lúc mọi nơi, là Chúa của mọi người, Đấng “vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi mãi đến muôn đời”.

 

 

 


[1]Đức Gioan Phaolô II, “Diễn văn tại Hội Nghị Khoáng Đại lần thứ 6 của Liên Hiệp Hội Đồng Giám Mục Á Châu” (FABC), Manila, Ngày 15-01-1995, số 11: Insegnamenti XVIII, 1 (1995), 159.

[2] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư “Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba”, Ngày 10-11-1994, số 38: AAS 87 (1995), 30.

[3]Đức Gioan Phaolô II, “Diễn văn tại Hội Nghị Khoáng Đại lần thứ 6 của Liên Hiệp Hội Đồng Giám Mục Á Châu” (FABC), Manila, Ngày 15-01-1995, số 11: Insegnamenti XVIII, 1 (1995), 159.

[4] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư “Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba”, Ngày 10-11-1994, số 38: AAS 87 (1995), 30.

[5] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Nuntius” (Sứ điệp kết thúc), số 2.

[6]Đức Gioan Phaolô II, “Diễn văn tại Hội Nghị Khoáng Đại lần thứ 6 của Liên Hiệp Hội Đồng Giám Mục Á Châu” (FABC), Manila, Ngày15-01-1995, số 10: Insegnamenti XVIII, 1 (1995), 159.

[7]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, “Thư đề cập đến việc hành hương tới các địa điểm có liên quan tới Lịch Sử Cứu Độ”, Ngày 29-06-1999, số 3: L'Osservatore Romano (30/06 – 01/07/1999), 8.

[8] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 3.

[9] Ibid., Đề nghị1.

[10]x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Đề cương”, 3.

[11] x. Ibidem.

[12] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 32.

[13]x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Tài liệu làm việc”, số 9.

[14] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 36 và 50.

[15] Ibid., số 44.

[16] Ibid., số 27.

[17] x. Ibid., số 45.

[18]Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Tài liệu làm việc”, số 9.

[19] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 39.

[20] x. Ibid., Đề nghị 35.

[21] x. Ibid., Đề nghị 38.

[22] x. Ibid., Đề nghị 22.

[23] x. Ibid., Đề nghị 52.

[24]x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Đề cương”, 6.

[25] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 56.

[26]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư “Tiến tới thiên niên kỷ thứ ba”, Ngày 10-11-1994, số 18: AAS 87 (1995), 16.

[27] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 29.

[28] x. Ibid., Đề nghị 29 và 31.

[29] x. Ibid., Đề nghị 51.

[30] x. Ibid., Đề nghị 51-53.

[31] x. Ibid., Đề nghị 57.

[32] x. Ibidem.

[33] x. Ibid., Đề nghị 54.

[34] Số 3: AAS83 (1991), 252.

[35] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 5.

[36]Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Tường trình trước khi thảo luận”: L'Osservatore Romano (22.04.1998), 5.

[37]Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Tường trình sau khi thảo luận”, số 3.

[38] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 8.

[39] Số 11: AAS83 (1991), 260.

[40] Ibidem.

[41]Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Tường trình sau khi thảo luận”, số 3.

[42]Sách lễ Rôma: Kinh Nguyện Thánh Thể I cho các thánh lễ Hòa Giải.

[43]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư “Đấng Cứu Chuộc loài người”, Ngày 04-03-1979, số 10: AAS 71 (1979), 274.

[44] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy vọng), số 22.

[45]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư “Đấng Cứu Chuộc loài người”, Ngày 04-03-1979, số 9: AAS 71 (1979), 272f.

[46]Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Tường trình sau khi thảo luận”, số 3.

[47] x. Ibidem.

[48] x. Ibidem.

[49] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 5.

[50]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế), Ngày 07-12-1990, số 6: AAS 83 (1991), 255.

[51]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư “Đấng Cứu Chuộc loài người”, Ngày 04-03-1979, số 7: AAS 71 (1979), 269.

[52]x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư “Là Chúa và là Đấng tác sinh”, Ngày 18-05-1986, số 54: AAS 78 (1986), 875.

[53] x. Ibid., số 59: loc. cit., 885.

[54]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế), Ngày 07-12-1990, Số 28: AAS 83 (1991), 274; x. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy Vọng), số 26.

[55] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 11; Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad Gentes (Đến với lương dân), số 4 và 15; Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), số 17; Hiến chế Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy Vọng), số 11, 22 và 38; Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế), Ngày 07-12-1990, số 28: AAS 83 (1991), 273t.

[56]x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Tường trình trước khi thảo luận”: L'Osservatore Romano (22.04.1998), 5.

[57]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Dominum et Vivificantem (Là Chúa và là Đấng tác sinh), Ngày 18.05.1986, số 50: AAS 78 (1986), 870; x. Saint Thomas Aquinas, Summa Theologiae (Tổng luận thần học), III, 2, 10-12; 6, 6; 7, 13.

[58]x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Dominum et Vivificantem (Là Chúa và là Đấng tác sinh), Ngày 18.05.1986, số 50: AAS 78 (1986), 870.

[59] x. Ibid., số 24: loc. cit., 832.

[60]x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế), Ngày 07-12-1990, số 28: AAS 83 (1991), 274.

[61] Ibid., số 29: AAS83 (1991), 275; x. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy vọng), số 45.

[62]x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế), Ngày 07-12-1990, số 29: AAS 83 (1991), 275.

[63] x. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), số 13.

[64] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 12.

[65] x. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân), số 17.

[66]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Evangelii Nuntiandi (Loan báo Tin Mừng), Ngày 08.12.1975, số 22: AAS 68 (1976), 20.

[67] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 8.

[68]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế), Ngày 07-12-1990, số 45: AAS 83 (1991), 292.

[69] x. Ibid., số 46: loc.cit., 292f.

[70] x. Công Đồng Vatican II, Tuyên ngôn Dignitatis Humanae (Phẩm giá con người), số 3-4; Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu thế), số 39: AAS 83 (1991), 287; Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 40.

[71]Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi (Loan báo Tin Mừng), số 53: AAS 68 (1976), 41tt.

[72] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, “Diễn văn với các đại biểu các tôn giáo ngoài Kitô Giáo”, Madras (5.2.1986), số 2: AAS 78 (1986), 767.

[73]x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 11&12; x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế), Ngày 07-12-1990, số 28: AAS83 (1991), 273f.

[74] Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Tường trình trước khi thảo luận”: L'Osservatore Romano (22.4.1998), số 5.

[75] Đề nghị, số 58.

[76] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông Điệp Fides et Ratio (Đức Tin Và Lý Trí), Ngày 14-09-1998, số 72: AAS91 (1999), 61.

[77] Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Tường trình sau khi thảo luận”, số 15.

[78] x. Ibid.

[79] Ibidem.

[80] Đề nghị, số 6.

[81] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Tường trình sau khi thảo luận”, số 6.

[82] Ibidem.

[83] x.Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Tường trình trước khi thảo luận”: L'Osservatore Romano (22.4.1998), số 5.

[84] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Evangelii Nuntiandi (Loan báo Tin Mừng), Ngày 08.12.1975, số 20: AAS68 (1976), 18f.

[85] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế), Ngày 07-12-1990, số 52: AAS83 (1991), 300.

[86] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Tường trình sau khi thảo luận”, số 9.

[87] x. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy vọng), số 22; x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế), Ngày 07-12-1990, số 28: AAS83 (1991), 273f.

[88] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế), Ngày 07-12-1990, số 56: AAS83 (1991), 304.

[89]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, “Bài giảng trong Thánh lễ dành cho người Công Giáo miền Tây Bengal, Calcutta”, (4.2.1986), 3: Insegnamenti IX, 1 (1986), 314.

[90] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 43.

[91] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 7.

[92] Ibidem.

[93] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế), Ngày 07-12-1990, số 54: AAS 83 (1991), 302.

[94] x. Ibid.: loc. cit., 301.

[95] x. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium (Phụng Vụ Thánh), số 10; Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Tường trình sau khi thảo luận”, số 14.

[96] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Tường trình sau khi thảo luận”, số 14; Đề nghị 43.

[97] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 43.

[98] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, “Tường trình sau khi thảo luận”, số 13.

[99] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 17.

[100] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 18.

[101] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 17.

[102]Số 60 ; 62 ; 105: AAS 91 (1999), 52t ; 54 ; 85t.

[103] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 24.

[104] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 25.

[105] x. Ibid.

[106] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 27.

[107] x. Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 29.

[108] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ Vụ Đấng Cứu Thế), số 91: AAS 83 (1991), 338.

[109]Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 19.

[110]Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 8.

[111] Công Đồng Vatican II, Tuyên ngôn Dignitatis Humanae (Phẩm Giá Con Người), số 2.

[112]Hội nghị đặc biệt về Châu Á của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Đề nghị 6.