Sứ Điệp

Sunday, 05 April 2020 06:00

Sứ Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới Của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II - Năm 2000 Featured

SỨ ĐIỆP

NGÀY HÒA BÌNH THẾ GIỚI LẦN THỨ 33

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

Ngày 01 tháng Giêng năm 2000

***

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

***

"Bình an dưới thế cho người Chúa thương"

 

 

1- Đây là lời loan báo của các Thiên Thần để chào mừng Chúa Giêsu Kitô giáng sinh 2000 năm trước đây (x. Lc 2,14), cũng là lời chúng ta hân hoan nghe vọng lại vào đêm thánh Giáng Sinh, thời điểm long trọng khai mạc Đại Năm Thánh.

Vào lúc bình minh của Thiên Niên Kỷ mới, chúng tôi muốn nêu lên một lần nữa sứ điệp hy vọng phát xuất từ máng cỏ Bethlehem: sứ điệp đó là Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người nam nữ trên trái đất này và ban cho họ niềm hy vọng của một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của hòa bình. Tình yêu của Ngài, một tình yêu được hoàn toàn tỏ hiện nơi Lời Nhập Thể, là nguồn gốc của hòa bình thế giới. Nếu được con người lãnh nhận tận đáy lòng mình, tình yêu này sẽ hòa giải con người với Thiên Chúa cũng như với nhau, sẽ canh tân những mối liên hệ loài người và sẽ khơi lên ước muốn sống một tình yêu huynh đệ có thể loại trừ khuynh hướng bạo lực và chiến tranh.

Đại Năm Thánh liên kết bất khả phân ly với sứ điệp yêu thương và hòa giải này, một sứ điệp vang vọng những ước mong đích thực nhất của nhân loại ngày nay.

2-  Nhìn đến một năm đầy những ý nghĩa ấy, một lần nữa, tôi xin gửi đến mọi người lời chúc hòa bình của tôi. Tôi xác nhận với mọi người là hòa bình là một điều khả dĩ. Nó cần phải được cầu xin cùng Thiên Chúa ban cho như một ân huệ của Ngài, song nó cũng cần đến ơn Ngài trợ giúp để được xây dựng từng ngày bằng những việc công bình và yêu thương.

Chắc chắn là có nhiều điều phức tạp rắc rối trong những vấn nạn khiến con đường dẫn đến hòa bình trở thành khó khăn và thường làm nản lòng, thế nhưng hòa bình vẫn là một nhu cầu sâu xa trong lòng của mọi người nam nữ. Bởi thế, con người không được phép nhụt chí tìm kiếm hòa bình. Việc tìm kiếm này phải được bắt nguồn từ nhận thức là, cho dù có bị hoen ố bởi tội lỗi, bởi ghen ghét hận thù và bởi bạo lực đi nữa, con người vẫn được Thiên Chúa kêu gọi để làm nên một gia đình duy nhất. Dự án thần linh này cần phải được nhận thức và thực thi bằng việc tìm kiếm các mối liên hệ hòa hợp giữa các cá nhân và các dân tộc với nhau, trong một thứ văn hóa hướng đến Siêu Việt Thể, hướng đến việc đề cao con người cũng như tôn trọng thế giới thiên nhiên, những vấn đề liên quan đến tất cả mọi người.

Đó là sứ điệp Giáng Sinh, đó là sứ điệp của Đại Năm Thánh, đó là niềm hy vọng của tôi vào lúc khởi đầu một Thiên niên kỷ mới.

Chiến tranh là một thất bại đối với nhân loại

3- Trong thế kỷ vừa qua, nhân loại đã xót xa với một chuỗi bất tận khủng khiếp là chiến tranh, xung đột, tàn sát và “thanh lọc chủng tộc”, gây nên khổ đau khôn xiết tả: cả triệu triệu nạn nhân, gia đình và xứ sở bị hủy diệt, cả một biển cả tị nạn, cùng quẫn, đói khát, bệnh hoạn, chậm tiến và mất mát các nguồn lợi thiên nhiên phong phú. Căn nguyên của biết bao khổ đau này chính là chủ trương nổi vượt của con người, với đầy những ước vọng muốn thống trị và khai thác người khác, với các ý thức hệ về quyền lực hay những ảo tưởng chuyên chế bạo tàn, với các chủ nghĩa quốc gia quá khích hay những mối thù ghét thuộc bộ tộc xa xưa. Đã có những trường hợp bạo lực dã man có tổ chức, trường hợp bạo lực nhắm vào việc tru diệt hay đầy đọa cả nhiều dân tộc hay nhiều miền đất, đã phải đương đầu với những cuộc phản kháng bằng vũ trang.

Thế kỷ XX trước hết đã lối lại cho chúng ta một lời cảnh báo cho rằng, chiến tranh thường lại là nguyên cớ gây ra chiến tranh, vì chúng chứa đầy những hận thù ghen ghét, chúng tạo nên những tình trạng bất công, cũng như chúng chà đạp lên phẩm giá và các quyền lợi của con người. Chiến tranh không giải quyết được các vấn nạn của việc gây chiến, bởi thế, ngoài những hư hại khiếp đảm do nó tạo nên, chiến tranh còn cho thấy nó là một việc làm hoàn toàn vô ích. Đối với nhân loại, chiến tranh là một thảm bại. Chỉ trong hòa bình và nhờ hòa bình mới bảo đảm được việc tôn trọng phẩm vị của con người cùng với các quyền lợi bất khả xâm phạm của họ.[1]

4- Trước bối cảnh chiến tranh ở thế kỷ XX ấy, nhân danh hòa bình, có những người đã lên tiếng và đã thực hiện công cuộc bảo trì lòng tôn trọng nhân loại.

Chúng ta không thể nào không nhớ đến biết bao nhiêu người nam nữ đã góp phần vào việc xác nhận và việc long trọng công bố các quyền con người, cũng như những người đã giúp vào việc hạ bệ những hình thức của chủ nghĩa chuyên chế bạo tàn, vào việc dứt điểm chế độ thực dân đế quốc, vào việc phát triển nền dân chủ và vào việc thiết lập những tổ chức quốc tế lớn. Những người sống một cuộc sống theo chiều hướng bất bạo động đáng khen đã cho chúng ta một gương sáng hùng hồn. Gương liêm khiết và tín trung của họ, thường tới độ tử đạo, đã cống hiến cho chúng ta những bài học sâu đậm và sáng chói.

Trong số thành phần hoạt động nhân danh hòa bình, chúng ta cũng không được quên những người nam nữ đã dấn thân mang lại những tiến bộ cả thể về mọi lĩnh vực khoa học và công nghệ, bằng việc có thể chế ngự được các bệnh tật ghê gớm, cũng như việc bồi dưỡng và kéo dài sự sống của con người.

Tôi cũng không thể nào không nhắc đến các Vị tiền nhiệm của tôi đã hướng dẫn Giáo Hội trong thế kỷ XX này. Bằng giáo huấn cao đẹp và bằng những nỗ lực không ngừng của mình, các vị đã vạch ra cho Giáo Hội thấy chiều hướng trong việc cổ vũ một nền văn hóa hòa bình. Tiêu biểu cho nỗ lực đa diện này là trực giác tiên liệu đúng lúc của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI trong việc thành lập Ngày Hòa Bình Thế Giới từ 8/12/1967. Trải qua các năm từ đó, Ngày Hòa Bình Thế Giới lại càng trở nên vững chắc hơn, trở nên như là một cảm nghiệm tốt đẹp trong tư tưởng cũng như trong cái nhìn chung về tương lai nhân loại.

Được kêu gọi làm nên một gia đình duy nhất

5- “Bình an dưới thế cho người Chúa thương!” Lời Phúc Âm chào mừng này gợi lên một vấn nạn thấm thía, đó là thế kỷ mới phải chăng sẽ là một thế kỷ bình an và là một thế kỷ tái cảm thức được tình yêu huynh đệ giữa cá nhân cũng như giữa các dân tộc với nhau? Dĩ nhiên là chúng ta không thể nào thấy trước được tương lai. Thế nhưng, chúng ta có thể bắt đầu bằng một nguyên tắc chắc chắn là: hòa bình sẽ đến chỉ khi nào toàn khối nhân loại tái cảm nhận được ơn gọi sâu xa của mình là một gia đình duy nhất, môït gia đình chấp nhận phẩm vị và quyền lợi của con người, bất kể vai trò, chủng tộc hay tôn giáo của họ, trước cả và trên cả bất cứ những gì khác nhau hay khác biệt.

Việc nhận thức này có thể hiến cho thế giới như đang thấy hiện nay, theo chiều hướng của tiến trình toàn cầu hóa, một linh hồn, một ý nghĩa và một hướng đi. Tiến trình toàn cầu hóa, với tất cả những nguy hiểm của nó, cũng là những cơ hội ngoại lệ và hứa hẹn nữa, chính là ở chỗ nó là dịp cho nhân loại trở thành một gia đình duy nhất, được xây dựng trên các giá trị công chính, bình đẳng và liên đới.

6- Để thực hiện được điều này, con người cần phải hoàn toàn thay đổi quan niệm, ở chỗ chủ trương không chỉ nhắm đến tình trạng an sinh cho bất cứ một cộng đồng chính trị, chủng tộc hay văn hóa nào, mà là nhắm đến thiện ích của toàn khối nhân loại. Việc theo đuổi công ích của một cộng đồng chính trị, được thể hiện ở việc nhận thức và tôn trọng các quyền lợi được Bản Tuyên ngôn chung về Nhân quyền năm 1948 thừa nhận, không thể tương khắc với công ích chung của toàn thể nhân loại. Bởi vậy, cần phải loại trừ những tư tưởng và việc làm, thường được mang dấu vết của các lợi lộc về quyền lực chính trị, đặt quốc gia và chính quyền của mình lên trên hết mọi giá trị khác. Theo chiều hướng mới này thì các phân biệt và khác biệt về chính trị, văn hóa và cơ cấu, là những gì làm cho nhân loại có lớp lang và tổ chức, đều hợp lý, bao lâu chúng tương xứng với tư cách là phần tử trong một gia đình duy nhất, cũng như tương xứng với các đòi hỏi về đạo lý và pháp lý bởi đó mà ra.

Tội ác chống nhân loại

7-  Nguyên tắc ấy có một tác dụng hết sức quan trọng, ở chỗ là xúc phạm đến nhân quyền cũng chính là xúc phạm đến lương tâm của con người nữa, một việc xúc phạm đến chính nhân loại. Thế nên, nhiệm vụ bảo vệ những quyền này vượt ra ngoài biên giới về địa dư cũng như về chính trị là những lĩnh vực chúng bị vi phạm. Những tội ác phạm đến loài người không thể cho là việc nội bộ của một quốc gia. Ở đây, con người đã tiến một bước quan trọng trong việc thiết lập Tòa xử tội ác quốc tế để cứu xét những tội ác vi phạm ở bất cứ nơi chốn hay hoàn cảnh nào. Chúng ta phải cảm tạ Thiên Chúa, vì trong lương tâm của con người ta cũng như của các dân tộc đang phát triển một xác tín là không có giới hạn nơi các quyền lợi của con người, vì chúng là những gì phổ quát và bất phân chia.

8- Trong thời của chúng ta đây, con số chiến tranh giữa các quốc gia đã giảm bớt. Sự kiện này, dù đáng mừng, nhưng nó lại xuất hiện theo một chiều hướng khác, nếu chúng ta xét đến những cuộc xung đột nhau bằng vũ lực xảy ra nơi một quốc gia. Tiếc thay, những cuộc xung đột nhau bằng vũ lực ấy thực tế lại xảy ra không ít, ở mọi lục địa và thường rất ư là tàn bạo. Đa số bởi vì chúng bắt nguồn từ những động lực lịch sử dài dòng về đặc tính của chủng tộc, chi tộc hay thậm chí tôn giáo, ngoài ra, trong lúc này đây, còn phải kể đến cả các nguyên do khác về ý thức hệ, xã hội và kinh tế nữa.

Những xung đột trong nội bộ, thường được thực hiện bằng việc sử dụng nhiều thứ vũ khí cỡ nhỏ được gọi là vũ khí ‘nhẹ’ – những vũ khí thực ra cũng gây tử thương – thường gây ra những hậu quả nặng nề lan cả ra ngoài biên giới lãnh thổ quốc gia, trở thành một vấn nạn liên quan đến các lợi lộc và trách nhiệm của thành phần ngoại cuộc nữa. Người ta không thể chối cãi được rằng, tính chất hết sức phức tạp của những cuộc xung đột này làm cho con người khó lòng hiểu biết và thẩm định được những căn nguyên và những động lực xảy ra, song có một sự kiện bất khả tranh cãi, đó là sự kiện chính thành phần dân chúng phải chịu khổ thê thảm nhất, vì trên thực tế, người ta đã không tôn trọng cả luật lệ thông thường cũng như luật lệ tham chiến. Dân chúng chẳng những không được bảo vệ mà thường còn trở thành mục tiêu chính của những lực lượng chống đối nhau nữa, khi chính họ không trực tiếp dính dáng đến việc sử dụng vũ khí là kết quả của một cơn sốt cao độ, một cơn sốt biến họ vừa trở thành nạn nhân vừa trở thành tay sát thủ các người dân khác.

Tất cả những thảm kịch chết chóc quá nhiều và rùng rợn đã xảy ra cho các trẻ em vô tội, cho phụ nữ và cho người lớn không vũ bị, là những thành phần trở nên các mục tiêu nhắm đến của những cuộc xung đột đẫm máu xảy ra ở thời của chúng ta; thật sự là đã xảy ra quá nhiều, khiến chúng ta không khỏi cảm thấy rằng đã đến lúc chúng ta cần phải thay đổi chiều hướng, một cách quyết liệt và với một cảm thức trách nhiệm sâu xa.

Quyền được trợ giúp nhân đạo

9- Trong mọi hoàn cảnh, đối diện với những trường hợp thảm khốc và phức tạp như thế, những trường hợp phản ngược lại với tất cả những “lý do” tuyên chiến, con người cần phải xác nhận giá trị tiên thượng của vấn đề luật nhân đạo và nhiệm vụ bởi đó mà ra trong việc bảo đảm quyền được trợ giúp nhân đạo cho các thường dân và người tị nạn khổ đau.

Việc công nhận các quyền này cùng với việc áp dụng hiệu nghiệm các quyền ấy không được căn cứ vào những lợi lộc của bất cứ phe nào đang xung đột nhau. Ngược lại, phải có nhiệm vụ khám phá ra tất cả mọi phương tiện, theo qui chế hay không, có thể thỏa đáng các mục tiêu nhân đạo tốt đẹp nhất. Tính cách hợp lý về luân lý và chính trị của những quyền lợi này thực sự được căn cứ vào nguyên tắc là thiện ích của con người có trước hết tất cả mọi sự và ở trên tất cả mọi cơ cấu tổ chức của con người.

10-  Đến đây, tôi muốn nhắc lại niềm xác tín của tôi là, khi gặp phải những cuộc xung đột vũ trang tân tiến ngày nay, thì việc thương lượng giữa các phe có một tính cách hết sức quan trọng, qua những nỗ lực xứng hợp ở việc trung gian và hòa giải được thực hiện bởi những tổ chức quốc tế và theo miền. Việc thương lượng cần phải có để tránh đi những cuộc xung đột như vậy, cũng như để chấm dứt những cuộc xung đột ấy nếu đã bùng nổ, ở chỗ phục hồi hòa bình bằng một giải quyết công bằng liên quan đến vấn đề quyền và lợi.

Niềm xác tín này chẳng những dính dáng đến vai trò tích cực của các cơ quan trung gian và hòa giải mà còn phải được bao gồm cả những tổ chức nhân đạo và những cơ quan tôn giáo không thuộc cơ cấu tổ chức chính quyền, những tổ chức và cơ quan cổ vũ hòa bình, một cách thận trọng và không có những lý do nào thầm kín, giữa những phe đối nghịch nhau, và giúp vào việc thắng vượt những tranh giành lâu đời, hòa giải thù hằn và mở đường hướng đến cùng một tương lai mới. Trong khi tôn kính việc dấn thân cho hòa bình cao quí của họ, bằng một lòng cảm kích sâu xa, tôi xin tưởng nhớ đến tất cả những ai đã hy sinh mạng sống mình cho người khác được sống: tôi dâng lên Thiên Chúa lời nguyện cầu cho họ, và tôi mời gọi những tín đồ khác cũng làm như vậy.

“Can thiệp nhân đạo”

11- Khi thành phần dân chúng gặp phải những cuộc tấn công của kẻ hung hăng bất chính, và khi những nỗ lực về chính trị cũng như việc hộ vệ bất bạo động cho thấy không đi đến đâu, thì dĩ nhiên là được phép, thậm chí còn bị bắt buộc, phải có những biện pháp cụ thể để giải giới kẻ hung tàn bạo ngược. Tuy nhiên, những biện pháp này phải được giới hạn theo thời và phải nhắm đến chính đích điểm của chúng. Phải sử dụng chúng bằng việc hết sức tôn trọng luật lệ quốc tế được thẩm quyền hợp pháp của quốc tế bảo đảm, và không bao giờ chỉ được nhắm đến thành quả can thiệp bằng vũ lực mà thôi.

Bởi thế, muốn sử dụng những biện pháp can thiệp ấy một cách hoàn toàn nhất và tốt đẹp nhất, cần phải dựa vào tất cả những qui định của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, đã xác định rõ hơn nữa về những khí cụ tác hiệu và những thể thức can thiệp trong phạm vi của luật lệ quốc tế. Về vấn đề này, chính Tổ chức Liên Hiệp Quốc phải cống hiến cho tất cả mọi quốc gia thành viên một cơ hội như nhau trong việc tham dự vào tiến trình quyết định, bằng cách loại bỏ đi những đặc ân và những kỳ thị làm suy giảm vai trò và uy tín của mình.

12-  Điều này mở ra một lĩnh vực mới cho việc suy tư và bàn luận đối với cả phương diện chính trị lẫn pháp lý, một lĩnh vực tất cả chúng ta đều hy vọng là sẽ được vun xới một cách thiết tha và khôn ngoan. Một điều không thể chần chờ được đó là việc cải tổ lại luật lệ quốc tế cũng như các cơ cấu quốc tế, một cuộc cải tổ có khởi điểm và nguyên tắc thực hiện nòng cốt đó là đặt căn bản thiện ích của nhân loại cũng như của con người lên trên mọi mối quan tâm khác. Một cuộc cải tổ như vậy lại càng khẩn trương hơn nữa nếu chúng ta để ý đến cái ngược đời của tình trạng chiến tranh hiện đại, như các cuộc xung đột gần đây đã cho thấy, quân đội thì được tối đa an toàn, trong khi đó thành phần dân sự lại sống trong những tình trạng nguy hiểm khiếp đảm. Không một cuộc xung đột nào được phép tỏ ra coi thường quyền được sống an toàn của thành phần dân sự.

Ngoài những quan tâm về pháp lý và cơ cấu ra, tất cả những con người nam nữ thiện chí cũng một nhiệm vụ cốt yếu, đó là nhiệm vụ theo cá nhân mình dấn thân hoạt động cho hòa bình: đó là việc dấn thân để hướng dẫn con người sống hòa bình, bằng việc tạo nên những khung cảnh hòa bình cũng như những phương pháp bất bạo động, và bằng việc hết sức cố gắng lôi kéo các phe xung đột nhau ngồi lại để cùng thương lượng.

Hòa bình trong tình liên đới

13- “Bình an dưới thế cho người Chúa thương!”. Từ vấn nạn chiến tranh, chúng ta tự nhiên hướng tới một vấn đề có liên hệ chặt chẽ khác nữa, đó là vấn nạn liên đới. Công cuộc hòa bình cao quí và cần thiết, một công cuộc bắt nguồn sâu xa từ việc loài người được kêu gọi trở nên một gia đình duy nhất và họ cũng nhận thực như vậy, được đặt nền tảng trên nguyên tắc là làm cho các nguồn lợi của trái đất đạt đến mục tiêu chung. Nguyên tắc này không làm mất đi tính cách hợp lý của quyền tư hữu; trái lại, nó nới rộng tầm hiểu biết và việc sử dụng tư sản để bao gồm cả nhiệm vụ xã hội của nó, một nhiệm vụ không thể châm chước đối với thuận lợi của công ích và nhất là đối với thiện ích của các phần tử hèn kém nhất trong xã hội.[2] Tiếc thay, nguyên tắc căn bản này phần nhiều đã bị coi thường, như vẫn được thấy nơi khoảng cách biệt liên tục và lớn rộng trên thế giới, giữa một miền Bắc với đầy những tiện nghi và nguồn lợi cùng với nhiều người dân lớn tuổi, và một miền Nam đa số là người trẻ hiện sống, song không tìm thấy được những phát triển mong ước về xã hội, văn hóa và kinh tế.

Không ai được lầm lẫn nghĩ rằng nền hòa bình bền vững thì tương đương với tình trạng không xảy ra chiến tranh như vẫn được mong ước. Không có hòa bình thực sự mà lại thiếu công bằng, chân lý, chính trực và tình liên đới. Mọi dự tính sẽ bị thảm bại nếu muốn phân rẽ hai quyền lợi bất khả phân ly và liên thuộc nhau này, đó là quyền sống hòa bình và quyền phát triển trọn vẹn theo tình liên đới. “Bất công, những chênh lệch quá mức về xã hội và kinh tế, đố kỵ, không tin tưởng nhau và kiêu hãnh, bùng lên nơi con người và nơi các dân nước, đã là những gì liên tục đe dọa hòa bình và là nguyên cớ gây ra chiến tranh. Mọi sự được thực hiện để thắng vượt những lệch lạc này đều là việc góp phần vào công cuộc xây đắp hòa bình và ngăn ngừa chiến tranh”.[3]

14- Ở vào thời điểm mở màn cho một thế kỷ mới này, có một vấn đề làm nhức nhối lương tâm nhân loại cũng như Kitô hữu chúng ta, đó là tình trạng nghèo khổ của vô số triệu người nam nữ. Tình trạng này càng trở nên thê thảm hơn nữa khi chúng ta nhận thấy rằng, các vấn nạn kinh tế chính trong thời điểm của chúng ta đây không phải là do bởi thiếu nguồn lợi, cho bằng bởi những cấu trúc về kinh tế, xã hội và văn hóa hiện nay được trang bị yếu ớt trong việc giải quyết những đòi hỏi của một cuộc phát triển chân chính.

Bởi thế, thành phần nghèo, cả ở những xứ sở đang phát triển cũng như ở những xứ sở trù phú và giàu có, có lý “đòi quyền được tham hưởng các của cải vật chất cũng như được sử dụng khả năng của họ để làm việc, nhờ đó kiến tạo nên một thế giới công bình và trù phú hơn cho tất cả mọi người. Tình trạng tạo nên cho người nghèo tiến bộ đó là một cơ hội rất tốt cho việc phát triển về luân lý, văn hóa và ngay cả về kinh tế của tất cả nhân loại”.[4] Chúng ta đừng nhìn vào người nghèo như là một cái nạn, mà như là một con người có thể trở thành những tay thợ nòng cốt trong việc xây dựng một tương lai nhân loại mới và nhân bản hơn cho hết mọi người.

Nhu cầu cấp thiết phải tư duy lại nền kinh tế

15- Theo chiều hướng này, chúng ta cũng cần phải cứu xét đến mối quan tâm càng ngày càng lớn lên nơi nhiều kinh tế gia cũng như nơi nhiều chuyên gia về tài chính, thành phần mà, trong khi để ý đến các vấn đề mới liên quan tới tình trạng nghèo khổ, hòa bình, môi sinh cũng như tới tương lai của thế hệ trẻ, đã suy nghĩ về vai trò của thị trường, về ảnh hưởng thấm đậm những lợi lộc tiền tệ và tài chính, về mức cách biệt rộng lớn giữa kinh tế và xã hội, cũng như về những vấn đề khác liên quan đến sinh hoạt kinh tế.

Có lẽ đã đến lúc con người cần suy nghĩ một cách mới mẻ hơn và sâu sắc hơn về bản chất của kinh tế cũng như về những mục đích của nó. Cái được coi là khẩn trương đó là việc tái xét lại quan niệm về chính “sự thịnh vượng”, để cho nó khỏi bị gắn liền với quan niệm duy lợi hẹp hòi là quan niệm dành một chỗ rất nhỏ cho các giá trị như tình liên đới và lòng vị tha.

16- Đến đây tôi xin mời gọi các kinh tế gia và các chuyên gia về tài chính, cũng như các nhà lãnh đạo chính trị, hãy nhận ra tầm mức khẩn trương của việc làm sao để có thể bảo đảm được những công việc về kinh tế và những qui định liên quan đến chính trị phải nhắm đến thiện ích của mọi người cũng như của con người toàn diện. Đây không phải chỉ là một đòi hỏi về đạo lý mà còn cần cho cả một nền kinh tế lành mạnh nữa. Kinh nghiệm đã chứng thực là việc thành công về kinh tế càng ngày càng lệ thuộc vào việc cảm nhận thức được con người ta cùng với các khả năng của họ, lệ thuộc vào việc tham gia hoàn toàn hơn của con người, lệ thuộc vào việc con người tăng tiến cũng như cải tiến kiến thức hiểu biết và thông đạt, lệ thuộc vào tình liên đới mạnh mẽ hơn.

Đó là những giá trị, chẳng những không lạ đời đối với kinh tế và thương mại, còn là những giá trị làm cho chúng trở thành một khoa học và một hoạt động hoàn toàn “nhân bản”. Một thứ kinh tế không đếm xỉa gì đến chiều kích đạo lý và không tìm cách phục vụ lợi ích của con người – của mọi người cũng như của con người toàn diện – thì không thể nào thực sự cho mình là “kinh tế” được, nếu hiểu theo nghĩa của việc sử dụng nguồn lợi vật chất hợp lý và chân chính.

Những mô hình phát triển nào?

17- Chính sự kiện nhân loại được kêu gọi để làm nên một gia đình duy nhất vẫn còn bị tách đôi một cách thê thảm bởi tình trạng nghèo khổ – ở vào lúc mở màn cho thế kỷ XXI này, còn hơn một tỉ bốn trăm triệu người đang sống trong bần cùng – tức cho thấy cần phải khẩn trương xét lại những mẫu thức tác động việc hình thành các qui định về phát triển.

Đối với vấn đề này, những đòi hỏi hợp lý về hiệu năng của kinh tế cần phải được cân bằng hơn nữa với những đòi hỏi về việc tham gia chính trị cũng như về sự công bằng xã hội, mà không dẵm lại những bước lỗi lầm của ý hệ đã xảy ra trong thế kỷ XX. Về phương diện áp dụng thực hành, điều này có nghĩa là làm cho việc liên đới trở thành một phần hòa hợp trong guồng máy liên thuộc về kinh tế, chính trị và xã hội, một liên thuộc được tiến trình toàn cầu hóa đang có khuynh hướng kết hợp lại với nhau.

Những tiến trình này kêu gọi việc suy nghĩ lại vấn đề hợp tác quốc tế liên quan đến nền văn hóa mới về tình liên đới. Khi nhìn nó như một mầm mống hòa bình thì việc hợp tác không thể nào bị giảm xuống mức độ trợ giúp hay nâng đỡ, nhất là theo chiều hướng lấy lại lợi lộc nhắm vào các nguồn lợi sẵn có. Trái lại, việc hợp tác này phải cho thấy được một cuộc dấn thân cụ thể và rõ ràng đối với tình liên đới, yếu tố làm cho người nghèo trở thành tác nhân tự phát triển lấy, và khiến cho tối đa dân chúng, trong những hoàn cảnh kinh tế và chính trị của họ, có thể thể hiện tính cách sáng tạo là đặc tính của con người, cũng là đặc tính chi phối sự phong phú của quốc gia.[5]

Nhất là cần phải tìm kiếm những giải quyết dứt khoát cho các khoản nợ quốc tế kỳ cựu của những quốc gia nghèo, đồng thời cũng làm cho các nguồn tài chính thuận lợi hơn trong việc cần dùng để giải quyết vấn đề đói khổ, suy dinh dưỡng, bệnh tật, mù chữ và hủy hoại môi sinh.

18- Hôm nay đây, hơn là trong quá khứ, càng cần phải nuôi dưỡng ý thức về những giá trị luân lý phổ quát để đương đầu với những cái nạn của ngày hôm nay, những vấn nạn đang mặc lấy chiều kích mỗi ngày một hoàn vũ hơn. Việc cổ vũ hòa bình và nhân quyền, việc giải quyết những xung khắc bằng vũ trang cả trong quốc gia lẫn ngoài bờ cõi, việc bênh vực các thành phần dân tộc thiểu số và di dân, việc bảo vệ môi sinh, cuộc chiến chống lại các căn bệnh khủng khiếp, cuộc chiến chống ma túy và buôn bán vũ khí, cũng như việc chống lại tình trạng băng hoại về chính trị và kinh tế: đều là những vấn đề mà hôm nay đây không một quốc gia nào lại đứng ra đối đầu một cách đơn phương cả. Chúng liên quan đến toàn thể cộng đồng nhân loại, và vì thế chúng phải được đương đầu và giải quyết bằng những nỗ lực chung.

Phải tìm cách bàn đến những vấn đề được tương lai của nhân loại đặt ra, bằng một ngôn từ chung có thể hiểu được. Căn bản của một cuộc đối thoại như vậy đó là luật luân lý phổ quát được ghi khắc nơi cõi lòng con người. Theo bản “văn phạm” này của tâm linh, cộng đồng con người có thể đương đầu với cái nạn chung sống và có thể tiến đến tương lai, bằng cả một tấm lòng tôn trọng dự án của Thiên Chúa.[6]

Việc gặp gỡ giữa đức tin và lý trí, giữa tôn giáo và luân lý, có thể là một kích thích quyết liệt cho việc đối thoại và hợp tác giữa các dân tộc, các văn hóa và các tôn giáo.

Chúa Giêsu, tặng ân của hòa bình

19- “Bình an dưới thế cho người Chúa thương!”. Hướng đến Đại Năm Thánh, Kitô hữu khắp thế giới tham dự vào việc long trọng tưởng niệm mầu nhiệm Nhập Thể. Lắng nghe lại lời loan báo của các Thiên Thần ở bầu trời Bethlehem (x. Lc 2,14), họ tưởng niệm mầu nhiệm Nhập Thể với nhận thức rằng Chúa Giêsu “là hòa bình của chúng ta” (Ep 2,14), là tặng ân hòa bình cho tất cả mọi dân nước. Lời đầu tiên của Người ngỏ cùng các môn đệ sau khi Phục Sinh là “Bình an cho các con” (Ga 20,19.21.26). Chúa Kitô đến để hiệp nhất những gì bị phân rẽ, để hủy diệt tội lỗi và hận thù, và để làm cho con người tái nhận thức được ơn gọi nên một và tình yêu huynh đệ. Thế nên, Người là “nguồn mạch và là khuôn mẫu cho một nhân loại được đổi mới, thấm nhiễm tình yêu huynh đệ, chân thành và một tinh thần an bình mà mọi người khát vọng”.[7]

20- Trong Đại Năm Thánh này, Giáo Hội sốt sắng nhớ đến Chúa của mình và muốn xác nhận ơn gọi cùng sứ mệnh của mình trong Chúa Kitô như là một “bí tích” hay như là một dấu hiệu và khí cụ hòa bình trên thế giới và cho thế giới. Đối với Giáo Hội, thực hiện sứ rao giảng Tin Mừng của mình tức là hoạt động cho hòa bình. “Bởi thế, Giáo Hội, đàn chiên duy nhất của Thiên Chúa, như một mốc điểm được đặt trên cao cho các nước nhìn thấy, phục vụ Tin Mừng bình an cho tất cả loài người, khi Giáo Hội lữ hành tiến bước trong niềm hy vọng hướng về đích điểm của mình là quê Cha trên trời”.[8]

Đối với tín hữu Công Giáo, việc dấn thân xây đắp hòa bình và công lý không phải là một việc thứ yếu mà là một việc chính yếu. Phải đảm nhận việc này trong tinh thần cởi mở đối với anh chị em thuộc các Giáo Hội và các cộng đồng Giáo Hội khác, đối với các tín đồ của những tôn giáo khác, và đối với tất cả mọi con người nam nữ thiện tâm có cùng một quan tâm về hòa bình và tình yêu thương huynh đệ như họ.

Quảng đại dấn thân cho hòa bình

21- Mặc dầu gặp những trở ngại trầm trọng, cũng có dấu hiệu cho thấy rằng những sáng kiến hoạt động cho hòa bình mỗi ngày tiếp tục phát hiện, được nhiều người nhiệt tình hợp tác. Hòa bình là một tòa nhà được liên lỉ xây cất. Việc xây dựng hòa bình này bao gồm những người:

- Cha mẹ là những vị sống gương mẫu và là chứng nhân của hòa bình nơi gia đình mình, và là những vị giáo dục con cái mình sống cho hòa bình;

- Nhà giáo là những người có thể truyền đạt những giá trị đích thực nơi các lĩnh vực hiểu biết và nơi di sản của nhân loại về lịch sử và văn hóa;

- Những con người nam nữ lao động, những con người nhất quyết kéo dài cuộc chiến đấu trong lứa tuổi của mình cho giá trị của việc lao động ở vào những hoàn cảnh hiện nay, những hoàn cảnh đang lên tiếng kêu gào công lý và tình liên đới trên lĩnh vực quốc tế;

- Những nhà lãnh đạo chính trị, những vị đặt mối quyết tâm cổ vũ hòa bình và công lý vào ngay trọng tâm hoạt động chính trị của mình cũng như hoạt động chính trị của xứ sở mình;

- Những người thuộc các tổ chức quốc tế, thành phần thường thiếu thốn phương tiện, hoạt động ở tuyến đầu, nơi mà vì đóng vai trò là “người kiến tạo hòa bình”, mà sự an toàn cá nhân của họ có thể gặp nguy hiểm;

- Các thành viên của các tổ chức phi chính phủ, thành phần ở các phần thế giới khác nhau và trong những hoàn cảnh khác nhau nhất, đã dấn thân vào việc ngăn ngừa và giải quyết những xung đột bằng việc nghiên cứu và hoạt động;

- Các tín hữu, thành phần thâm tín rằng đức tin chân chính không bao giờ lại là nguồn phát sinh ra chiến tranh hay bạo lực, truyền bá niềm xác tín về hòa bình và yêu thương, bằng việc đối thoại đại kết và liên tôn.

22- Các bạn trẻ thân mến, cha đang đặc biệt nghĩ đến các con, những người cảm nghiệm được cách riêng phúc lành của sự sống và việc không được làm phung phí nó đi. Ở học đường và đại học đường, ở chỗ làm việc, ở nơi giải trí và thể thao, ở nơi tất cả những gì các con làm, chớ gì tư tưởng này luôn soi dẫn cho các con, đó là bình an ở trong lòng các con và ở chung quanh các con, bình an luôn luôn mãi mãi, bình an với mọi người, bình an cho mọi người.

Với các bạn trẻ bất hạnh gặp phải chiến tranh thảm khốc và đang mang những cảm giác hận thù cùng phẫn uất, cha xin các con hãy cố gắng hết sức để tái nhận thức được con đường của hòa giải và thứ tha. Nó là một con đường khó đi, nhưng lại là một con đường duy nhất giúp cho các con nhìn về tương lai với một niềm hy vọng đối với chính mình, với con cái của mình, với xứ sở của mình cũng như với toàn thể nhân loại.

Các con thân mến, cha sẽ có dịp trở lại đề tài này với các con lúc chúng ta gặp nhau ở Rôma vào tháng Tám tới đây để cử hành Năm Thánh trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới.

Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, trong bài diễn từ chung cuối cùng của ngài, đã lại nói với “những người thiện tâm”, khi xin họ hãy dấn thân mình cho một chương trình hòa bình dựa trên “Tin Mừng của đức tuân phục Thiên Chúa, Tin Mừng của lòng xót thương và tha thứ”. Ngài còn thêm là: “Chắc chắn ngọn đuốc hòa bình sẽ cháy sáng, làm bùng lên niềm vui và tỏa ra ánh sáng cùng với ân sủng nơi tâm hồn con người trên khắp thế giới, giúp cho họ nhận thức được dung nhan của anh chị em mình, dung nhan của bạn hữu mình vượt ra ngoài tất cả mọi lằn ranh giới”.[9] Chớ gì các con, những người trẻ của Năm 2000, cũng thấy nơi người khác, và giúp cả cho người khác thấy, dung nhan của anh chị em mình, dung nhan của bạn hữu mình!

Trong Đại Năm Thánh này, năm mà Giáo Hội dốc lòng cầu nguyện cho hòa bình bằng những việc chuyển cầu trọng thể, chúng ta hãy lấy lòng sùng mộ của con cái mà hướng về Người Mẹ của Chúa Giêsu. Trong khi kêu cầu Người là Nữ Vương Hòa Bình, chúng ta hãy xin Người ban cho chúng ta dồi dào tặng ân của lòng nhân lành từ mẫu của Người, và giúp cho nhân loại trở thành một gia đình trong tình liên đới và trong hòa bình.

 

 

Ban hành tại Vatican, ngày 08 tháng 12 năm 1999,

Lễ trọng thể kính Đức Maria Vô Nhiễm,

+ JOANNES PAULUS II

Giáo Hoàng

 

 

 

 


[1] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 1999, đoạn 1.

[2] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông Điệp Bách Chu Niên, số 30-43.

[3] x. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2317.

[4] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông Điệp Bách Chu Niên, số 28.

[5] x. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Diễn Từ ngỏ với Hội Nghị Chung của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc, ngày 5/10/1995, số 13: Insegnamenti XVIII, 2/1995.

[6] Ibid., số 3.

[7] x. Công Đồng Vatican II, Sắc Lệnh Ad Gentes, số 8.

[8] x. Công Đồng Vatican II, Sắc Lệnh Unitatis Redinte Gratio, số 2.

[9] x. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, Diễn từ dịp tặng thưởng giải Balzan Prize ngày 10/5/1963: AAS 55 năm 1963, pp. 455.