Phỏng Vấn

Sunday, 05 April 2020 08:18

Bài Phỏng Vấn Đức Giáo Hoàng Phanxicô Với Báo Công Giáo Avvernire Dịp Kết Thúc Năm Thánh Lòng Thương Xót Featured

Linh Tiến Khải

 

LTS: Ngày 19-11-2016, Nhật Báo Quan Sát Viên Roma của Tòa Thánh đã cho phát hành bài phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô, được thực hiện bởi nhà báo Stefania Falasca, nữ phóng viên của nhật báo Công Giáo Avvenire (Tương Lai) của Hội Đồng Giám Mục Italia, nhân dịp kết thúc Năm Thánh Lòng Thương Xót.

***

Đức Thánh Cha Phanxicô và nhà báo Stefania Falasca

***

 

Pv. Stefania Falasca: Thưa Đức Thánh Cha, Năm Thánh Lòng Thương Xót này đã có ý nghĩa gì đối với Đức Thánh Cha?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Ai khám phá ra rằng mình rất được yêu thương, thì bắt đầu ra khỏi sự cô đơn xấu của mình, ra khỏi sự chia cách đưa tới chỗ thù ghét người khác và chính mình. Tôi hy vọng có biết bao người đã khám phá ra rằng họ được Chúa Giêsu yêu thương biết bao, và để cho mình được Chúa ôm vào lòng. Lòng thương xót là tên gọi của Thiên Chúa và cũng là sự yếu đuối của Ngài, là điểm yếu của Ngài. Lòng thương xót của Chúa luôn luôn đưa Ngài tới chỗ tha thứ, và quên đi các tội lỗi của chúng ta. Tôi thích nghĩ rằng Đấng Toàn Năng có ký ức “dở”. Một khi Chúa đã tha thứ cho bạn, thì Ngài quên. Bởi vì Thiên Chúa hạnh phúc tha thứ. Đối với tôi thì điều này là đủ rồi. Cũng như đối với người phụ nữ ngoại tình trong Phúc Âm, mà Chúa đã rất yêu thương. “Bởi vì Ngài đã yêu thương nhiều”. Tất cả Kitô giáo là ở đó.

Pv. Stefania Falasca: Nhưng đây đã là Năm Thánh đặc biệt, với biết bao nhiêu cử chỉ tiêu biểu…

Đức Thánh Cha Phanxicô: Chúa Giêsu không đòi các cử chỉ to lớn, mà chỉ xin sự tha thứ và lòng biết ơn. Thánh nữ Terexa thành Lisieux là tiến sĩ Giáo Hội, trong “con đường bé nhỏ” của người với Thiên Chúa, chỉ cho thấy sự phó thác của trẻ thơ, không ngần ngại ngủ trên cánh tay cha mình và nhắc nhớ rằng lòng bác ái không thể bị đóng kín trong đáy. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân là hai tình yêu không thể tách rời nhau.

Pv. Stefania Falasca: Các ý định của Đức Thánh Cha khi công bố Năm Thánh Lòng Thương Xót có được thực hiện không?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Tôi đã không đưa ra một chương trình. Tôi đã chỉ làm điều Chúa Thánh Thần đã gợi hứng cho tôi thôi. Các vự việc đã tới. Tôi đã để cho Chúa Thánh Thần đưa tôi đi. Đây chỉ là ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Thần, để cho Ngài làm việc. Giáo Hội là Tin Mừng, là công trình của Chúa Kitô. Nó không phải là một lộ trình của các tư tưởng, một dụng cụ giúp khẳng định chúng. Và trong Giáo Hội các sự việc bước vào trong thời gian, khi thời gian chín mùi, khi ta cống hiến.

Pv. Stefania Falasca: Kể cả một năm thánh ngoại thường…

Đức Thánh Cha Phanxicô: Đó đã là một tiến trình chín mùi với thời gian, do công trình của Chúa Thánh Thần. Trước tôi đã có thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, với tài liệu “Gaudet mater Ecclesia” trong “thuốc của lòng thương xót” đã chỉ cho con đường phải theo khi khai mở Công Đồng chung, rồi tới chân phước Phaolô VI, người đã trông thấy mẫu mực nơi người Samaritano nhân lành. Rồi có giáo huấn của thánh Gioan Phaolô II với thông điệp thứ hai của ngài là “Dives in misericordia”, Thiên Chúa giầu lòng thương xót, và việc thành lập lễ kính Lòng Thương Xót Chúa. Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã nói rằng “tên gọi của Thiên Chúa là thương xót”. Tất cả đều là các cột trụ. Như thế Chúa Thánh Thần đưa các tiến trình của Giáo Hội tiến lên cho tới khi hoàn tất.

Pv. Stefania Falasca: Thưa Đức Thánh Cha, như vậy Năm Thánh cũng là năm thánh của công đồng, bây giờ và ở đây, trong đó thời gian tiếp nhận và tha thứ giao thoa nhau, có đúng thế không?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Sống kinh nghiệm ơn tha thứ ôm trọn toàn nhân loại là ân sủng mà sứ vụ tông đồ loan báo. Giáo Hội chỉ hiện hữu như dụng cụ loan báo cho con người chương trình thương xót của Thiên  Chúa. Vào thời Công Đồng Giáo Hội đã cảm thấy trách nhiệm là dấu chỉ sống động tình yêu của Thiên  Chúa Cha trong thế giới. Với Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), Giáo Hội đã đi ngược về nguồn bản chất của mình, tìm về Tin Mừng, Điều này xê dịch trục của quan niệm kitô, từ một chủ trương duy luật lệ nào đó, có thể là ý thức hệ, sang con người của Thiên Chúa  đã trở thành lòng thương xót trong việc nhập thể của Con Ngài. Có vài người – chị hãy nghĩ tới vài trả lời cho tông thư Amoris Leatitiae – tiếp tục không hiểu , hoặc là trắng hoặc là đen, cả khi nó ở trong dòng đời sống, cần phân định. Công Đồng đã nói cho chúng ta biết điều ấy, nhưng các sử gia thì nói rằng để được thấu nhập một công đồng cần phải có một thế kỷ… Chúng ta đang được một nửa rồi.

Pv. Stefania Falasca: Nhưng trong thời đại này đã có các cuộc gặp gỡ, và các chuyến công du đại kết được hoàn thành. Tại Lesbo với các Thượng Phụ Bartolomaios I và Hieronimos, tại Cuba với Đức Thượng Phụ Kirill của Moscow,  tại Lund với việc tưởng niệm chung cuộc Cải Cách  Luther. Chính năm lòng thương xót đã tạo thuận tiện cho các sáng kiến này với các Giáo Hội Kitô khác, có đúng thế không thưa Đức Thánh Cha?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Tôi sẽ không nói rằng các cuộc gặp gỡ này là hoa trái của Năm lòng thương xót. Không. Bởi vì  cả những điều này cũng là phần của một lộ trình đến từ xa. Nó không phải là một điều mới mẻ gì. Chúng chỉ là các bước dài hơn thêm vào một lộ trình đã bắt đầu từ lâu trước. Từ khi sắc lệnh về đại kết “Unitatis redintegratio” được công bố cách đây 50 năm và người ta đã tái khám phá ra tình huynh đệ, dựa trên bí tích rửa tội duy nhất và trên chính lòng tin nơi Chúa Kitô, lộ trình trên con đường của việc tìm về hiệp nhất đã tiến lên với các bước bé nhỏ và to lớn, và đã cho các hoa trái. Tôi tiếp tục các bước đi đó.

Pv. Stefania Falasca: Các bước đã được các Giáo Hoàng tiền nhiệm làm…

Đức Thánh Cha Phanxicô: Vâng, tất cả những bước đã được các vị tiền nhiệm của tôi hoàn thành. Như một bước tiến tới đã là cuộc nói chuyện của Đức Giáo Hoàng Luciani với Đức Tổng Giám Mục Nga Nicodim qua đời trên cánh tay ngài, khi ôm hôn người anh em Giám mục Roma. Đức Tổng Giám Mục Nicodim đã nói những điều rất hay đẹp về Giáo Hội. Tôi nhớ trong đám táng thánh Gioan Phaolô II, đã có mặt tất cả các thủ lãnh của Giáo Hội Đông Phương: đó là tình huynh đệ. Các cuộc gặp gỡ và các chuyến đi trợ giúp tình huynh đệ ấy, làm cho nó lớn lên.

Pv. Stefania Falasca: Tuy nhiên trong không đầy 4 năm qua Đức Thánh Cha đã gặp gỡ tất cả các vị đứng đầu và có trách nhiệm của các Giáo Hội Kitô. Các cuộc gặp gỡ này đi qua triều đại của Đức Thánh Cha. Tại sao lại có sự gia tốc này thưa Đức Thánh Cha?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Đó là lộ trình của Công Đồng tiếp tục tiến tới, gia tăng. Nhưng đó là lộ trình, chứ không phải tôi đâu. Lộ trình này là lộ trình của Giáo Hội. Tôi đã gặp gỡ các vị đứng đầu và có trách nhiệm của các Giáo Hội kitô khác, điều này đúng, nhưng cả các vị tiền nhiệm của tôi cũng đã có các cuộc gặp gỡ với các vị này hay các vị có trách nhiệm khác. Tôi đã không cho nó gia tốc nào. Trong mức độ trong đó chúng ta tiến tới lộ trình xem ra đi nhanh hơn, nó là sự chuyển động tới đích nhanh hơn, “motus in fine velocior”, nói theo kiểu diễn tả tiến trình này  trong vật lý của Aristote.

Pv. Stefania Falasca: Đức Thánh Cha đã sống một cách cá nhân sự ân cần trong các cuộc gặp gỡ các anh em của các Giáo Hội Kitô khác như thế nào?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Tôi sống nó với nhiều tình huynh đệ. Người ta cảm thấy tình huynh đệ. Có Chúa Giêsu ở giữa. Đối với tôi họ tất cả đều là anh em. Chúng tôi chúc lành cho nhau, một người anh em chúc lành cho một người anh em khác. Khi cùng với Đức Thượng Phụ Bartolomaios và Hieronimos chúng tôi đến Lesbo bên Hy Lạp để gặp gỡ các người tỵ nạn, chúng tôi đã cảm thấy là một sự duy nhất. Chúng tôi đã là một. Là một. Khi tôi đến thăm Đức Thương Phụ Bartolomaios tại Fanar bên Istanbul nhân lễ kính thánh Anrê, đối với tôi đó đã là một lễ lớn. Bên Giorgia tôi đã gặp gỡ Đức Thượng Phụ Ilia, là vị đã không đến đảo Creta để tham dự công đồng chính thống. Sự đồng điệu tinh thần mà tôi đã có với ngài đã sâu đậm. Tôi đã cảm thấy mình đứng trước một vị thánh, một người của Thiên Chúa đã cầm lấy tôi và nói với tôi những lời đẹp biết bao, với các cử chỉ nhiều hơn là với các lời nói. Các Thượng Phụ là các đan sĩ. Bạn trông thấy đàng sau cuộc đàm đạo rằng họ là các con người của đời cầu nguyện. Đức Kirill là một con người của cầu nguyện, cả Đức Thượng Phụ Copte Tawadros mà tôi đã gặp cũng thế: ngài vào nhà nguyện cởi giầy ra và đi cầu nguyện. Cách đây một năm Đức Thượng Phụ Daniele của Rumania đã tặng tôi một cuốn sách tiếng Tây Ban Nha về cuộc đời thánh Silvestro của Núi Athos, tôi đã đọc cuộc đời của vị thánh lớn này tại Buenos Aires, trong đó có câu: “Cầu nguyện đối với con người là đổ chính máu mình ra”. Các thánh hiệp nhất chúng ta trong Giáo Hội bằng cách hiện thực mầu nhiệm của Giáo Hội. Với các anh em chính thống chúng tôi đang bước đi, họ là anh em, chúng tôi yêu thương nhau, chúng tôi cùng nhau lo lắng, họ đến học tại đây. Cả Đức Thương Phụ Bartolomaios cũng đã học ở Roma này.

Pv. Stefania Falasca: Với Đức Thượng Phụ Bartolomaios người kế vị tông đồ Anrê, các ngài đã cùng nhau hoàn thành nhiều bước tiến, trong sự đồng điệu liên quan tới các lời tuyên bố về nhau. Tình yêu thương biến đổi cuộc sống của các tông đồ Phêrô và Anrê là anh em có nâng đỡ Đức Thánh Cha và Đức Thương Phụ không?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Tại Lesbo trong khi chúng tôi cùng nhau chào tất cả mọi người, đã có một em bé mà tôi cúi xuống trên em. Nhưng tôi không làm  em bé chú ý: em nhìn phiá sau tôi. Tôi quay lại và tôi biết tại sao: Đức Thượng Phụ Bartolomaios có các túi áo đầy kẹo và ngài đang phát kẹo cho các em bé. Đó là Đức Bartolomaios, một người có khả năng làm cho đại công đồng chính thống tiến tới giữa bao nhiêu khó khăn, có khả năng nói về thần học trên mức độ cao xa, và đơn sơ ở giữa các trẻ em. Khi ngài đã đến Roma ngài ở trong nhà trọ Thánh Marta, trong căn phòng mà tôi đang ở hiện nay. Lời trách duy nhất ngài đã nói với tôi đó là ngài đã phải đổi phòng.

Pv. Stefania Falasca: Thưa Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha tiếp tục gặp gỡ các vị lãnh đạo của các Giáo Hội Kitô khác. Nhưng vị Giám Mục Roma lại không phải dành toàn thời giờ lo lắng trước tiên cho Giáo Hội công giáo hay sao?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Chính Chúa Giêsu cầu xin Thiên Chúa Cha cho các môn đệ của Ngài nên một, để cho thế gian tin. Đó là lời cầu xin của Ngài với Thiên Chúa Cha. Từ luôn luôn Giám Mục Roma được kêu mời duy trì, tìm kiếm và phục vụ sự hiệp nhất này. Chúng ta cũng biết rằng các vết thương của các chia rẽ của chúng ta xé rách thân mình Chúa Kitô, chúng ta không thể tự mình chữa lành chúng được. Vì thế không thể áp đặt các chương trình hay các hệ thống để trở về hiệp nhất. Để xin sự hiệp nhất giữa các kitô hữu chúng ta chỉ có thể nhìn lên Chúa Giêsu và xin Chúa Thánh Thần hoạt động. Xin Ngài tạo dựng sự hiệp nhất. Trong cuộc gặp gỡ tại Lund với các anh em Luther tôi đã lập lại các lời của Chúa Giêsu, khi Ngài nói với các môn đệ: “Không có Thầy các con không thể làm được gì”.

Pv. Stefania Falasca: Việc cùng các tín hữu Luther tưởng niệm 500 năm Cải Cách có ý nghĩa gì thưa Đức Thánh Cha? Đó có phải là việc Đức Thánh Cha “chạy trốn vào tương lai” hay  không?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Cuộc gặp gỡ với Giáo Hội Luther tại Lund đã là một bước  nữa trên con đường đại kết, đã bắt đầu cách đây 50 năm trong một cuộc đối thoại thần học Luther - Công Giáo, đã có hoa trái với “Tuyên ngôn chung về giáo lý của sự Công chính hóa” ký kết năm 1999, nghĩa là về việc Chúa Kitô làm cho chúng ta nên công chính như thế nào, khi cứu chuộc chúng ta với ơn thánh cần thiết, tức từ điểm khởi hành các suy tư của Luther. Như vậy là trở về với nòng cốt của đức tin để tái khám phá ra bản chất của điều hiệp nhất. Trước tôi Đức Thánh Cha Benedict XVI đã đến Erfurt, và đã nói rất chi tiết rõ ràng về điều này. Ngài đã lập lại câu hỏi: “Tôi có thể có một Thiên  Chúa thương xót như thế nào?” là câu hỏi đi sâu vào con tim của Luther, và nó ở đàng sau mọi tìm kiếm thần học và nội tâm của ông. Đã có một việc thanh tẩy ký ức. Luther đã muốn làm một cuộc cải cách phải như là một phương dược. Rồi các sự việc đã tinh thể hóa, trộn lẫn với các lợi lộc chính trị thời đó, và kết cục với nguyên tắc “cuius regis eius religio” - ai cai trị ở đâu thì tôn giáo của người ấy” – vì thế phải theo tôn giáo của người cầm quyền.

Pv. Stefania Falasca: Thưa Đức Thánh Cha có người nghĩ rằng trong các cuộc gặp gỡ đại kết này Đức Thánh Cha muốn “bán rẻ” giáo lý công giáo. Có người nói rằng người ta muốn “tin lành hoá” Giáo Hội? Đức Thánh Cha nghĩ sao?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Nó không khiến cho tôi mất ngủ đâu. Tôi theo đuổi con đuờng của người đã đi trước tôi, tôi theo Công Đồng. Liên quan tới các ý kiến luôn cần phân biệt tinh thần mà chúng được nói ra. Khi không có tinh thần xấu, các ý kiến đó cũng giúp bước đi. Khi khác người ta thấy ngay rằng các phê bình lượm lặt đó đây để biện minh cho một lập trường đã có sẵn, chúng không liêm chính, chúng được làm với tinh thần xấu để gieo chia rẽ. Người ta thấy ngay rằng vài chủ trương cứng nhắc, nảy sinh từ một sự thiếu sót, từ ý muốn dấu sau  khí giới của mình một sự không thoả mãn đáng buồn. Nếu chị xem phim “Bữa ăn trưa của Babette”, thì chị sẽ nhận ra thái độ cứng nhắc này.

Pv. Stefania Falasca: Cả với các tín hữu Luther nữa, cũng đã có lời kêu gọi mạnh mẽ cùng nhau làm việc cho người ở trong tình trạng cần được trợ giúp. Như vậy cần bỏ qua một bên các vấn đề thần học và bí tích, và chỉ nhắm tới dấn thân chung trên bình diện xã hội và văn hóa thôi, có phải vậy không thưa Đức Thánh Cha?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Đây không phải là việc bỏ sang một bên điều gì đó. Phục vụ người nghèo có nghĩa là phục vụ Chúa Kitô, bởi vì người nghèo là thịt xác của Chúa Kitô. Và nếu chúng ta cùng nhau phục vụ người nghèo, thì điều này có nghĩa là kitô hữu chúng ta hiệp nhất trong việc sờ mó các vết thương của Chúa Kitô. Tôi nghĩ tới công việc mà sau cuộc gặp gỡ tại Lund tổ chức Caritas và các tổ chức bác ái  Luther có thể cùng làm. Đây không phải là một cơ cấu, nhưng là một lộ trình. Trái lại, vài kiểu đối đầu “các điều của giáo lý” với “các điều của bác ái mục vụ”  không theo Tin Mừng và tạo ra lẫn lộn.

Pv. Stefania Falasca: Việc cùng nhau tưởng niệm tại Lund đã ghi dấu một  lúc chấp nhận nhau, và một mức độ hiểu biết nhau sâu xa hơn. Nhưng từ đây làm thế nào để giải quyết các vấn đề giáo hội học còn bỏ ngỏ, và các vấn đề liên quan tới chức thừa tác và các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể, còn chia rẽ Giáo Hội công giáo với Giáo Hội Luther?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Tuyên ngôn chung về việc công chính hóa  là nền tảng giúp có thể tiếp tục công việc thần học. Việc nghiên cứu thần học phải tiến tới. Có công việc mà Hội Đồng Toà Thánh hiệp nhất các tín hữu kitô đang làm. Con đường thần học quan trọng, nhưng luôn luôn cùng với con đường cầu nguyện, cùng nhau làm việc bác ái. Đó là các công việc hữu hình.

Pv. Stefania Falasca: Đức Thánh Cha cũng đã nói với Đức Thượng Phụ Kirill rằng “sự hiệp nhất được làm khi bước đi”, “sự hiệp nhất sẽ không đến như một phép lạ sau cùng, “cùng nhau bước đi đã là làm sự hiệp nhất”. Đức Thánh Cha thường lập đi lập lại như vậy. Nhưng nó có ý nghĩa gì?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Sự hiệp nhất không được làm bởi vì chúng ta đồng ý với nhau, nhưng bởi vì chúng ta bước theo Chúa Giêsu. Và khi bước đi vì hoạt động của Đấng chúng ta đi theo, chúng ta có thể khám phá ra mình hiệp nhất với nhau. Việc bước theo Chúa Giêsu hiệp nhất. Hoán cải có nghĩa là  để cho Chúa sống và hoạt động trong chúng ta. Như thế chúng ta khám phá ra rằng chúng ta hiệp nhất cả trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng của chúng ta. Khi cùng nhau bước đi và làm việc, chúng ta nhận ra rằng chúng ta đã hiệp nhất trong danh Chúa, và như vậy sự hiệp nhất không phải do chúng ta tạo ra. Chúng ta nhận ra rằng Thần Linh thúc đẩy chúng ta và đưa chúng ta tiến tới. Nếu bạn ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Thần,  thì chính Ngài sẽ nói cho bạn biết bước đi bạn có thể làm, Ngài làm điều còn lại. Không thể đi theo Chúa Kitô, nếu Ngài không đưa bạn đi, nếu Thánh Thần không thúc đẩy bạn với sức mạnh của Ngài. Vì thế chính Thánh Linh là đấng làm ra sự hiệp nhất giữa các tín hữu kitô. Đó là lý do tại sao tôi nói rằng sự hiệp nhất đuợc làm khi bước đi, bởi vì sự hiệp nhất là một ơn phải xin, và cũng bởi vì tôi lập lại rằng mọi chủ trương chiêu dụ tín đồ giữa các kitô hữu  là tội lỗi. Giáo Hội không bao giờ lớn lên do việc chiêu dụ tín đồ, nhưng bởi “sự hấp dẫn” như Đức Thánh Cha Benedict XVI đã viết. Vì thế chủ trương chiêu dụ tín đồ giữa các kitô hữu tự nó là một tội trọng.

Pv. Stefania Falasca: Tại sao vậy thưa Đức Thánh Cha?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Bởi vì nó chống lại chính năng động của việc làm sao trở thành kitô hữu và sống như là kitô hữu. Giáo Hội không phải là một đội túc cầu tìm những người ủng hộ.

Pv. Stefania Falasca: Như thế đâu là các con đường phải theo để hiệp nhất thưa Đức Thánh Cha?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Tiến bước thay vì chiếm chỗ cũng là chìa khóa của con đường đại kết. Trong thời điểm  lịch sử này sự hiệp nhất được làm trên ba con đường: cùng nhau bước đi với các công việc bác ái, cùng nhau cầu nguyện, và rồi thừa nhận việc tuyên xưng chung như được diễn tả trong việc chứng tá  chung nhận lãnh từ Chúa Kitô, trong việc đại kết của máu. Ở đó người ta thấy chính Kẻ Thù thừa nhận sự hiệp nhất của chúng ta, sự hiệp nhất của các người đã được rửa tội. Trong điều này thì Kẻ  Thù không sai lầm. Và tất cả là những kiểu diễn tả sự hiệp nhất hữu hình. Cùng nhau cầu nguyện là điều có thể trông thấy. Cùng nhau thực thi các việc bác ái là việc hữu hình. Sự tử đạo được chia sẻ nhân danh Chúa Kitô là điều có thể trông thấy.

Pv. Stefania Falasca: Tuy nhiên, giữa các tín hũu công giáo xem ra chưa có một sự nhậy cảm sống động đối với việc tìm về hiệp nhất giữa các kitô hữu và một nhận thức về nỗi đau của sự chia rẽ…

Đức Thánh Cha Phanxicô: Cả cuộc gặp gỡ tại Lund cũng như mọi bước đại kết khác, đã có một bước tiến tới giứp hiểu gương mù gương xấu của sự chia rẽ, đả thương thân mình Chúa Kitô, và cả trước mặt thế giới chúng ta không thể  cho phép mình làm điều đó. Làm sao chúng ta có thể làm chứng cho tình yêu, nếu chúng ta cãi nhau và chia rẽ nhau? Ngày tôi còn bé  người ta không nói chuyện với các tín hữu tin lành. Tại Buenos Aires đã có một linh mục sai một nhóm bạn trẻ đi đốt lều của các anh em tin lành, khi họ đến dựng lều để truyền giáo. Giờ đây thời đại đã thay đổi. Gương mù gương xấu đã được vượt thắng, một cách đơn sơ bằng cách cùng nhau làm việc với các cử chỉ của sự hiệp nhất và tình huynh đệ.

Pv. Stefania Falasca: Thưa Đức Thánh Cha, tại Cuba khi gặp gỡ Đức Thượng Phụ Kirill, các lời đầu tiên Đức Thánh Cha nói đã là “Chúng ta có cùng bí tích Rửa Tội. Chúng ta là Giám Mục”.

Đức Thánh Cha Phanxicô: Hồi tôi còn là Giám Mục Buenos Aires tất cả mọi cố gắng do các linh mục đưa ra để tạo dễ dàng cho việc ban bí tích Rửa Tội đã khiến cho tôi rất vui mừng. Bí tích Rửa Tội là cử chỉ qua đó Chúa lựa chọn chúng ta, và nếu chúng ta nhận ra rằng chúng ta hiệp nhất trong bí tích Rửa Tội, thì nó có nghĩa là chúng ta hiệp nhất trong điều nòng cốt. Đó là suối nguồn chung hiệp nhất chúng ta tất cả là kitô hữu với nhau, và dưỡng nuôi mọi bước đi mới có thể giúp trở về sự hiệp thông trọn ven giữa chúng ta. Để tái khám phá ra sự hiệp nhất của mình chúng ta phải đi qua bí tích Rửa Tội. Có cùng bí tích Rửa Tội có nghĩa là cùng nhau tuyên xưng rằng Ngôi Lời đã nhập thể: điều này cứu rỗi chúng ta. Tất cả mọi ý thức hệ và các lý thuyết nảy sinh từ đó không dừng lại ở điều này, không ở lại trong đức tin thừa nhận Chúa Kitô đã đến trong thịt xác, và chúng muốn đi xa hơn. Từ đó mới nảy sinh ra tất cả mọi lập trường cất khỏi Giáo Hội thịt xác của Chúa Kitô, róc thịt Giáo Hội. Nếu chúng ta cùng nhìn vào bí tích Rửa Tội, chúng ta cũng được giải thoát khỏi cám dỗ của chủ thuyết  Pelagiansenismo, muốn tự thuyết phục mình rằng chúng ta có thể tự cứu thoát với sức mạnh của chúng ta, với các chủ trương hoạt động của chúng ta. Và ở lại trong bí tích Rửa Tội cũng cứu chúng ta khỏi thuyết ngộ đạo. Nó làm mất bản chất của Kitô giáo bằng cách giản lược Kitô giáo vào một lộ trình của sự hiểu biết, có thể không cần gặp gỡ thực sự với Chúa Kitô.

Pv. Stefania Falasca: Trong một bài phỏng vấn dành cho nhật báo Avvenire, Đức Thượng Phụ Bartolomaios đã nói rằng nguồn gốc của sự chia rẽ đã là việc tư tưởng trần tục gia nhập Giáo Hội. Cả đối với Đức Thánh Cha đây cũng là lý do của sự chia rẽ sao?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Tôi tiếp tục nghĩ rằng bệnh ung thư trong Giáo Hội đó là ban vinh dự cho nhau. Nếu một người không biết Chúa Giêsu là ai, hay đã không bao giờ gặp gỡ Ngài, thì họ vẫn có luôn luôn có thể gặp gỡ Chúa; nhưng nếu một người ở trong Giáo Hội, di chuyển trong đó, bởi vì chính trong môi trường của Giáo Hội mà họ vun trồng và dưỡng nuôi sự đói khát thống trị và tự khẳng định mình, thì họ bị một bệnh tinh thần, vì tin rằng Giáo Hội là một thực tại trần tục tự đủ cho chính mình, nơi mọi sự di chuyển theo các luận lý của tham vọng và quyền bính. Trong phản ứng của Luther cũng đã có sự khước từ này của một hình ảnh Giáo Hội như là một tổ chức có thể tiến tới mà không cần tới ơn thánh Chúa, hay coi nó như một chiếm hữu tự động, đã được bảo đảm từ trước. Và cám dỗ xây dựng một Giáo Hội tự quy chiếu về mình này dẫn đưa tới chỗ chống đối và chia rẽ, luôn luôn trở lại.

Pv. Stefania Falasca: Liên quan tới các anh em chính thống người ta thường trích cái gọi là “công thức Ratzinger”  đã được nói lên bởi thần học gia sau này trở thành Giáo Hoàng, theo đó “liên quan tới quyền tối thượng của Giáo Hoàng, Roma phải đòi hỏi các Giáo Hội khác không gì khác hơn điều đã được thiết định và sống trong ngàn năm đầu tiên”. Nhưng viễn tượng của Giáo Hội thuở khai mào và của các thế kỷ đầu cái gì có thể gợi lên điều nòng cốt, cả trong thời đại hiện nay thưa Đức Thánh Cha?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Chúng ta phải nhìn vào ngàn năm đầu tiên, nó luôn luôn có thể gợi hứng cho chúng ta. Đây không phải là việc trở lại đàng sau một cách máy móc, nó không phải chỉ đơn sơ là “việc đi giật lùi”: ở đó có các kho tàng có giá trị đối với cả ngày nay nữa. Truớc đây tôi đã nói tới việc tự quý chiếu về mình, thói quen tội lỗi của  Giáo Hội nhìn vào chính mình quá nhiều, như thể tin rằng mình có ánh sáng riêng. Đức Thượng Phụ Bartolomaios cũng nói cùng điều này, khi đề cập tới “thái độ nội hướng của Giáo Hội”. Các Giáo Phụ của các thế kỷ đầu có tư tưởng rõ ràng về sự kiện Giáo Hội sống từng lúc một nhờ ơn thánh Chúa Kitô. Vì thế như tôi đã nói nhiều lần khác, các vị đã nói rằng Giáo Hội không có ánh sáng riêng, và các vị gọi nó là “mysterium lunae” mầu nhiệm mặt trăng. Bởi vì Giáo Hội cho ánh sáng, nhưng không chiếu sáng bởi ánh sáng riêng. Và khi Giáo Hội, thay vì nhìn vào Chúa Kitô, lại quá nhìn vào chính mình, thì cũng xảy ra các chia rẽ. Và đó là điều đã xảy ra sau ngàn năm thứ nhất. Nhìn vào Chúa Kitô giải thoát chúng ta khỏi thói quen này, và cả khỏi cám dỗ của chủ trương chiến thắng và cứng nhắc nữa. Và nó làm cho chúng ta cùng nhau bước đi trên con đường của sự ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Thần, là Đấng đưa chúng ta tới sự hiệp nhất.

Pv. Stefania Falasca: Thưa Đức Thánh Cha, trong nhiều Giáo Hội chính thống khác nhau như các Giáo Hội cuả những tín hữu mà Đức Tổng Giám Mục Ioannis Zizioulas định nghĩa là “các người chính thống cuồng tín”. Cũng có các kháng cự từ phía các tín hữu công giáo. Vậy cần phải làm gì?

Đức Thánh Cha Phanxicô: Chúa Thánh Thần đưa các sự việc tới chỗ thành toàn, với các thời gian mà Ngài thiết định. Vì thế chúng ta không thể mất kiên nhẫn, mất tin tưởng và âu lo. Lộ trình đòi hỏi kiên nhẫn trong việc giữ gìn và cải thiện những gì hiện hữu, là điều nhiều hơn những gì chia rẽ chúng ta. Và làm chứng cho tình yêu của Chúa đối với tất cả mọi người, để cho thế giới tin.

 

(Oss. Rom 19-11-2016)