“Mặc dù không thuộc về cấu trúc phẩm trật của Giáo hội, bậc sống được tạo thành do sự tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm cũng rõ ràng thuộc về sinh hoạt và sự thánh thiện của Giáo hội” (LG. số 44, cuối)
Giáo luật lấy lại các ý tưởng của Lumen Gentium số 44 và 45 và của Perfectae Caritatis số 1, được coi là bản tóm lược các tư tưởng của các bậc thầy vĩ đại đã viết về vấn đề này
Nhìn qua người ta thấy sơ đồ của phần này giống như trong bộ luật cũ. Nhưng thật ra đã có một sự đơn giản hóa đáng kể, chẳng hạn, nay không còn “thời kỳ dự tu” (postulatum)
Dưới khía cạnh pháp lý, chúng ta có thể tìm thấy trong chương này những qui định của bộ Giáo luật về việc tông đồ của các tu sĩ, cách riêng về các tương quan với giám mục giáo phận.
Các Tu Hội Đời đã nhận được qui chế trong Giáo Hội do Hiến chế tông tòa “Provida Mater Ecclesiae” của Đức Giáo Hoàng Piô XII, ngày 02-02-1947.
Dựa theo giáo huấn của công đồng Vaticanô II (Hiến chế về Giáo hội, số 22), bộ Giáo luật nói đến hai chủ thể của quyền tối thượng trong Giáo hội là Đức Giáo hoàng và giám mục đoàn.
Các giáo hội địa phương phải được tập họp lại thành những giáo tỉnh, để cổ võ hoạt động chung của những giáo phận lân cận nhau, và để hỗ trợ thích đáng hơn mối dây liên lạc giữa các giám mục giáo phận (đ 431 §1).
Bộ luật hiện hàmh xem ra không tha thiết chi với việc triệu tập hội đồng giáo phận, song ta phải ghi nhận một bước tiến quan trọng trong khái niệm về cơ chế này.
Giáo xứ là một cộng đoàn tín hữu Kitô nhất định, được thành lập cách cố định (bền vững) trong một giáo hội địa phương mà việc coi sóc mục vụ được trao cho một linh mục chính xứ như là chủ chăn riêng của giáo xứ ấy, dưới quyền của giám mục giáo phận (đ 515 §1).
Nhiệm vụ giáo huấn của Giáo Hội được xếp trước quyển IV về nhiệm vụ thánh hóa; Đây là một thay đổi lớn về đường hướng mục vụ của Giáo Hội tiếp theo Công Đồng Vatican II.