Tuesday, 07 January 2020 06:31

Thần Khí Với Đời Sống Thiêng Liêng (6/3) Featured

KHÁI LUẬN THẦN HỌC VỀ CHÚA THÁNH THẦN

Tác giả: Lm. Felipe Gómez Ngô Minh, SJ.

***

***

PHẦN VI: THẦN KHÍ VỚI ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG


 
IV. CÁC ÂN HUỆ KHÁC CỦA THÁNH THẦN

1. Chín Đặc sủng Phục vụ

a. Đặc sủng

Trong một số tiếng phương Tây hiện đại, “charisma” hoặc “đặc sủng” được hiểu như là “một đức tính cá nhân quý hiếm, quy gán cho các bậc lãnh đạo là những con người có sức khơi động bầu nhiệt huyết hăng hái và sục sôi nơi quần chúng. Đó là sức thu hút cá nhân,” có khả năng tác động lên những người khác.[48] Trong truyền thống thần học Công giáo,[49] đó là một “ân huệ đặc biệt của Chúa Thánh Thần, là ân huệ dù chẳng cần thiết, nhưng cao hơn những ơn huệ cần thiết để nhận được ơn cứu độ.”[50] Thuật ngữ này – phát xuất từ từ charisma hay charis trong tiếng Hy lạp – có nghĩa từ nguyên là ân sủng hay ơn huệ, và được thánh Phaolô diễn tả cách đặc biệt, trong 1Cr 12, khi đề cập đến cảnh huống đặc thù của cộng đoàn kitô hữu ở Côrintô với việc hưởng nhận được một trận mưa ân sủng như trút, mà ngài gọi là charismata, tức các đặc sủng.[51] Đức Gioan Phao­lô II giải thích rằng: “Các đặc sủng là những ân huệ do Thánh Thần ban tặng, theo trực cách hay gián cách, vốn có khả năng sinh ích cho cộng đoàn giáo hội, và được coi như là những ơn an bài cho việc xây dựng Giáo hội, cho tình trạng sung mãn của nhân loại và cho các nhu cầu của thế giới.”[52] Các đặc sủng không cần thiết cho tình trạng sung mãn thiêng liêng của cá nhân, nhưng chúng cho thấy là hết sức hữu ích; chúng là các ơn huệ mà Thiên Chúa – Chúa Thánh Thần – ban cho vì một mục đích đặc thù nào đó và thường là chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian giới hạn nào đó mà thôi. Các đặc sủng đó có thể mang tính cách riêng cho cá nhân hoặc chung cho các thành viên cộng đoàn, được ban cho một người hoặc cho một nhóm, như là một dòng tu chẳng hạn; trong trường hợp ban cho một nhóm, các đặc sủng đó có tính cách thường tại và được nối kết với ơn kêu gọi, tương tự với điều gọi là “ơn đấng bậc”.

Đặc sủng phải được hiểu dựa trên nền tảng là nguyên sủng (charism-source), tức Chúa Thánh Thần. Trong Giáo hội, tình trạng có mặt của các ân sủng này được hiểu như là việc hoàn tất các bước chuẩn bị và các lời hứa của Cựu Ước: về việc Thần Khí sẽ ngự xuống trên Đấng Mêsia (x. Is 11:2), hoặc qua kinh nghiệm của các tiên tri về Yahweh (xin xem, chẳng hạn, Ed 3:12), hoặc là tác động mạnh mẽ nơi một vị lãnh đạo được chọn (chẳng hạn, Saun trong 1Sm 10:9-11). Sứ ngôn của Giôen (x. 3:11tt) đã được hiện thực hóa ngày Ngũ Tuần (x. Cv 2), với những kinh nghiệm lạ lùng, như khả năng nói tiếng lạ chẳng hạn. Tình tiết này có thể được lặp lại, như trong Cv 4:31, hoặc 10: 44tt; hoặc có thể được ban cho qua một sinh hoạt phụng vụ, như việc đặt tay của các Tông đồ (x. Cv 8: 17; 19:6) hoặc sau khi lãnh nhận phép rửa (x. Cv 2: 38; 19:5). Trong các giáo đoàn thánh Phaolô sáng lập, dường như các đặc sủng đã xuất hiện rất dồi dào (x. Gl 3:5) và tốt lành, để rồi ngài yêu cầu họ phải ra sức giữ cho chúng sống động (x. 1Tx 5:19-22). Chúng ta không biết nhiều về các giáo đoàn khác; quả thực, trong các bản văn Tân Ước khác (ngoài văn bộ Phao­lô), các đặc sủng này hiếm khi nào được nhắc đến (chẳng hạn trong 1Pr 4:10). Đặc biệt là ở Côrintô, những sự kiện ly kỳ về khả năng nói được các thứ tiếng lạ hoặc các trạng thái xuất thần đến “mê ly” đã gây ra tình trạng hiểu lầm cho người ngoài, những kẻ nghĩ rằng các kitô hữu này là điên khùng (x. 1Cr 14: 23), còn bên trong cộng đoàn thì điều đó dẫn tới tình trạng chia rẽ (x. 1Cr 11:17tt). Vả, các hiện tượng kiểu như thế cũng thấy xuất hiện trong các tôn giáo khác, cả đến ngày nay nữa.

Để xếp đặt các đặc sủng theo một trật tự rõ ràng, thánh Phaolô đã khai triển một vài nguyên tắc: tính cách hiệp nhất của các ân huệ, bởi vì nguồn gốc chung của chúng là một, là Thiên Chúa duy nhất: một Chúa duy nhất và một Thần Khí duy nhất (x. 1Cr 12:4); như các chi thể khác nhau trong một thân thể, các ân huệ khác nhau đều nhắm đến ích lợi chung và việc xây dựng cộng đoàn (câu 7), có thể có những đặc sủng giả, do đó cần phải được phân định để xác minh tính đích thực của chúng (x. 1Th 5:19tt; 1Ga 4:1 cũng khuyên như vậy). Cả Phaolô và Gioan đều trình xuất một tiêu chí như nhau có tính cách căn bản: đức tin đúng đắn vào Đức Giêsu Kitô (x. 1Cr 2:2; 1Ga 4:11tt). Ích lợi của các đặc sủng đòi hỏi phải tôn trọng phẩm trật các chức vụ trong Giáo hội, mà đứng đầu là các tông đồ (1Cr 12:28; Ep 4:11). Giá trị của một ân huệ không phải là những biểu hiện tốt đẹp ở bề ngoài, nhưng là ích lợi bên trong nhắm vào cộng đoàn của nó (x. 1Cr 14:26). Tóm lại, các hoạt động diễn ra trong mọi buổi hội họp công đoàn đều nhất thiết phải được tiến hành theo một cung cách trang nghiêm và có trật tự (câu 40).

Trong Giáo hội, các đoàn sủng này vẫn tiếp tục thấy xuất hiện; lối năm 150 sau công nguyên, Giúx­tinô tử đạo đã viết rằng: “... các ơn tiên tri vẫn còn tiếp tục được duy trì trong chúng ta, cả cho đến thời hiện tại này nữa.”[53] Irênê thì nhắc đến ơn ngôn ngữ.[54] Téctullianô thì khích lệ những người tân tòng như sau: “Do vậy, hởi anh em là những người có phúc vì ân sủng Thiên Chúa đã sẵn sàng để ban cho anh em, lúc anh em bước lên từ việc tắm rửa thánh thiêng nhất hầu nhận lãnh được ơn tái sinh, lúc anh em vươn tay ra lần đầu tiên trong ngôi nhà mẹ anh em cùng với các anh em đồng đạo khác, anh em hãy cầu xin Cha anh em, cầu xin Chúa anh em, hầu anh em có thể nhận lãnh được ân huệ đặc biệt mà Người trao lại làm của kế thừa, các đặc sủng được phân ban, vốn làm nên nét đặc trưng phụ thêm và căn bản [của phép rửa].”[55] Kinh nghiệm về các đặc sủng phép rửa ấy tiếp tục được diễn ra mãi đến thế kỷ 4, lúc thánh Xyrilô thành Giêrusalem tiếp tục khuyến khích những ai sắp lãnh nhận phép rửa hãy “chuẩn bị tâm hồn để tiếp nhận các đặc sủng từ trời”; dù chúng ta không biết là bản văn ấy có ý nghĩa gì cụ thể.[56] Về sau, đến thế kỷ thứ 5, các đặc sủng phép rửa ấy đã không còn được nhắc đến nữa trong mục vụ, như thánh Âugu­ti­nô và Crítsôtôm cho thấy.
 
b. Tính cách đa dạng của các Đặc sủng

Thánh Phaolô đã kê ra một vài danh sách các đoàn sủng khác nhau (x. 1Cr 12:8tt; Rm 12:6tt; Ep 4:11; xem 1Pr 4:11) nhưng lại không thấy “phân loại” chúng. Dù vậy, các ân huệ khác nhau lại được coi là thuộc về nhiều lãnh vực khác nhau. Trước tiên là thừa tác vụ, đó là cấu trúc của giáo hội (x. Ep 4:12): tông đồ, ngôn sứ, thầy dạy, loan báo Tin mừng, quản trị (x. 1Cr 12:28; Ep 4:11); tiếp đến là các ân huệ mưu ích cho cộng đoàn: phục vụ, dạy bảo, khuyên răn, việc bác ái (x. Rm 12:7tt), ơn nói lời khôn ngoan hay hiểu biết, đức tin, chữa lành hay làm phép lạ, nói tiếng lạ, phân định thần loại. Danh sách đó kể ra thì còn dài, nhưng rõ ràng là các đặc sủng không bao giờ loại trừ lẫn nhau, và một người có thể nhận được nhiều đặc sủng khác nhau; đó là trường hợp của thánh Phaolô như ngài đã từng cho thấy (x. 1Cr 14:18; 2Cr 12:1-4).

Các đặc sủng có thể là thường cách hoặc biệt cách. Là thường cách các đặc sủng gắn liền với một thừa tác vụ hoặc một ơn gọi. Thừa tác vụ chức thánh là thuộc về nguồn gốc đoàn sủng, nhờ vào ân huệ của Thần Khí được ban cho qua việc đặt tay: “Tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh” (2Tm 1:6); đặc sủng này ban cho họ quyền giảng dạy, như thánh Phaolô viết cho môn đệ Timôthê của ngài: “Anh hãy truyền, hãy dạy những điều đó” (1Tm 4:11); không ai được phép xem thường chức năng đó: “Chớ gì đừng có ai coi thường anh vì anh còn trẻ” (câu 12).
 
c. Các đặc sủng theo thánh Phaolô

Trong 1Cr 12, chín đặc sủng được đề cập ba lần trong 1Cr 12:8-12, 28-30, còn các ơn nói tiên tri, ơn nói tiếng lạ, ơn giải thích tiếng lạ thì được nói đến trong 1Cr 14. Kết thúc 1Cr 12, thánh Phaolô thúc giục các độc giả của ngài hãy “cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất”... và kết luận rằng “tôi xin chỉ cho anh em con đường trỗi vượt hơn cả” và ngài đã biểu trình minh bạch con đường đó trong chương 1Cr 13: con đường của Tình yêu, của đức Ái. Như thế, có thể thấy rõ là các đặc sủng không có một giá trị ngang bằng nhau. Để cho rõ ràng hơn, chúng ta có thể phân chia chúng thành ba nhóm rồi giải thích ý nghĩa của từng nhóm một. Các nhóm này có thể được phân chia khác nhau: thánh Phaolô trong 1Cr 12:4-6 đã chia các ân huệ đó thành “các đặc sủng”, “các việc phục vụ”, “các hoạt động”; tiếp đó trong các câu 8-10, ngài kể ra một danh sách gồm chín “cách tỏ mình của Thần Khí”, mà theo một số người thì đó chính xác được gọi là “các đặc sủng”, dù chẳng có những nét phân biệt rõ rệt nào trong lãnh vực ấy. Một dạng phân loại như thế, có thể được thấy, chẳng hạn, trong cuốn Jerome Commentary of the Bible (Chú giải Kinh Thánh của Hiêrônimô): đặc sủng tri thức, hoạt động và diễn từ, được chia thành bộ ba. Có một phân loại khác từ chương hơn, chia thành: 2 đặc sủng ngôn từ, tiếp đó là 5 ân huệ cùng loại (9-10c), và kết thúc với 2 đặc sủng ngôn ngữ. Các tín hữu Côrintô đã trải qua một dạng kinh nghiệm xuất thần lúc còn là lương dân, bởi đó thánh Phao­lô mới khuyến cáo họ đừng để mình dễ dàng mất tự chủ mà bị lôi kéo vào những điều xảy ra như thế (x. 1Cr 12: 2).[57]
 
(i) - Ba đặc sủng Trí tuệ

Ơn Minh Ngôn

Thánh Phaolô luôn dành vị thế ưu tiên cho việc giảng dạy Tin Mừng. Ngài đã nỗ lực hết sức để vận dụng các khả năng thích nghi của mình hầu làm cho lời rao giảng Tin Mừng phù hợp với các đối tượng tiếp nhận; và như có thể thấy, tại Aten – nơi được mệnh danh là thủ đô của mọi khả năng khôn ngoan Tây phương vào thời đó – ngài đã biểu trình sứ điệp của mình bằng cách áp dụng các quy tắc của thuật hùng biện phổ biến thời đó; song, hoa trái ngài gặt hái được chẳng có gì là nổi bật (x. Cv 17:22tt). Do đó, khi đến Cô­rin­tô, ngài đã tiến hành việc rao giảng theo một cung cách khác: Tôi đã đến với anh em – ngài nói với các tín hữu ở đấy – “và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo” (1Cr 1:17), nhưng hoàn toàn ngược lại: “Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1:22-23). Dạng Minh ngôn này là một ân huệ từ trên cao ban xuống: “Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí” (2:13); ngài gọi các lời lẽ khôn ngoan mình có được là do “quyền năng Thiên Chúa” (2:5), và đã đưa ra một lối trình giải về đặc sủng Minh Ngôn này trong đoạn 1Cr 2:6-16 (x. thêm: Ep 3:10-11; Cl 1.9).

Ơn Minh ngôn được ban cho nhằm vào mục đích xây dựng cộng đoàn, chứ không nhằm vào việc rao giảng Tin Mừng cho lương dân (ít ra thì không phải là trực tiếp), dù Thần Khí có thể thực hiện cả tác động đó nữa, như thấy trong trường hợp của Phaolô. Đây là một trong những đặc sủng được xếp vào hàng cao nhất, được nối kết với ơn Thượng trí. Ân huệ này là một tập tính, và do đó có tính chất thường tại, trong khi đó, đoàn sủng minh ngôn là một hành vi có tính cách chốc lát, nhất thời và không thể tiên đoán được. Thánh Phaolô đã ám chỉ đến đặc sủng này qua việc nêu bật các kinh nghiệm xảy ra nơi cộng đoàn phụng vụ Côrintô, lúc một thành viên nào đó đột nhiên lại được linh hứng để nói ra một số điều có tính cách “soi lòng mở trí” cho cả cộng đoàn.

Nếu ai đã nhận được ơn Minh ngôn, hẳn là lời lẽ người đó nói lên sẽ đượm nhuần khôn ngoan nhờ Thần Khí. Đức Giêsu là một điển hình: lời lẽ Ngài nói ra khiến thính giả phải kinh ngạc, sững sờ, bởi vì chúng không được giảng giải theo lối khôn ngoan thông thường của loài người (x. Lc 2:47; 4:22; Ga 7:46). Khi cần, các Tông đồ cũng có thể nhận lãnh được đặc sủng này, như thấy qua lời giảng hùng hồn của thánh Phêrô sau ngày Ngũ Tuần, hoặc như lời ngài khẳng quyết trước mặt giới cầm quyền: “Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm” (Cv 5: 29). Thánh Phaolô xác nhận là mình cũng có đặc sủng ấy (x. 2Cr 12:4). Tuy nhiên, cũng đừng tự phụ cho là mình có được ơn ấy, tựa như khi không chuẩn bị mà cứ đứng lên giảng ở nhà thờ!
 
Ơn Triết Ngôn

Phân biệt cho rạch ròi giữa hai đặc sủng Triết ngôn và Minh ngôn quả thực không phải là điều dễ dàng. Sở dĩ thánh Phaolô đã dùng đến thuật ngữ này có lẽ cũng bởi vì các tín hữu Côrintô đã tỏ ra thái độ kiêu căng, tự mãn (hybris) cách ngu xuẩn về khả năng hiểu biết của họ (x. 8.1-7a ?). Truyền thống đã phân biệt hai đặc sủng này bằng cách dùng đến hai thuật ngữ khác nhau: a) sermo sapientiae (minh ngôn), tức ngôn từ biểu trình về các mầu nhiệm ưu việt thuộc đức tin, và b) sermo scientiae (triết ngôn), tức ngôn từ luận giải các chân lý kitô. Trong cuốn Những lời trần tình, thánh Âugutinô đã coi dạng đặc sủng trước như là “nguồn sáng chính yếu” và dạng sau là “nguồn sáng thứ yếu” (cuốn 13, ch. 18); tiếp đó, ngài lý luận rằng ơn “khôn ngoan” thì liên quan đến các thực tại thần linh, còn ơn “hiểu biết” thì gắn kết với các thực tại nhân sinh;[58] nhưng dù thế nào đi nữa, ơn này cũng luôn được coi như là một ân huệ siêu nhiên giúp khám phá ra giá trị đích thực của các thụ tạo; và do vậy, có thể coi đó là “lời”, là dạng “phát ngôn” biểu lộ một sức hiểu biết uyên thâm về thực tại, nhằm vào nhu cầu thiêng liêng của ai đó hoặc của Giáo hội.

Đặc sủng này chỉ được nhắc đến trong 1Cr 12:8 mà thôi; và phải thừa nhận là khó mà có thể quan niệm xác đáng về đặc sủng này; giống như chính Thần Khí, đặc sủng này tỏ hiện qua một tính cách rất đỗi mơ hồ, và do đó, có lúc thì nó rõ ràng, nhưng có lúc thì nó vẫn còn làm cho thắc mắc không biết là nó xuất phát từ Thiên Chúa, từ trực giác tự nhiên, hay đó chỉ là tình cờ. Nó có thể dẫn đến một mạc khải, như lời Đức Giêsu nói với Natanaên: “Lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi” (Ga 1:48), hoặc lời Phêrô khiển trách Anania và Sa­phi­ra: “Sao anh lại rắp tâm lừa dối Thánh Thần?” (Cv 5:3), v.v.. Nó cũng có thể là một nhận thức đột ngột về việc hiện thực thánh ý Thiên Chúa nơi một con người, được biểu lộ với một uy quyền mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho. Trong thế giới hiện đại, nơi mà khoa học tự nhiên dường như đưa ra các phán quyết cuối cùng, thì dạng lời nói khác này từ Thần Khí lại làm cho ý thức về sự hiện hữu của một chiều kích khác trong mọi thụ tạo, và nhờ đó giải phóng con người khỏi sức quyến rũ của “những thụ tạo” qua việc nhận rõ Đấng Tạo hóa hiện diện trong đó. Cuối cùng, thánh Tôma Aquinô đã lên tiếng nhắc nhở rằng thánh Phaolô không nói về “ân huệ khôn ngoan hay thâm hiểu, nhưng lại về lời khôn ngoan và thâm hiểu; và điều này – ngài nói – thuộc về tính chất hoàn thiện của các ân huệ, tức là một người phải có thừa khôn ngoan và thâm hiểu đến độ có thể mang lại ích lợi không chỉ cho bản thân người đó, nhưng còn qua lời người đó nói mà đem ích lợi cho những người khác nữa; do vậy, nó được coi như là một ân sủng gratis data” (được ban nhưng không).[59]
 
Ơn Phân định Thần loại

Không hẳn những gì thuộc về thế giới thần linh thì đều là “đúng đắn” cả, bởi vì cần phải lưu ý đến thực trạng hiển hiện nhan nhản và hoạt động đan xen của “các loại thần khí”. Trong bức thư đầu tiên của mình, thánh Phaolô đã khuyên các tín hữu phải biết lưu ý phân định các ân huệ thiêng liêng khác nhau (x. 1Tx 5:21). Đặc sủng này có lẽ là thứ cần thiết nhất trong bất cứ một cộng đoàn có đặc sủng nào, hệt như vai trò đứng đầu của đức khôn ngoan trong số các nhân đức. Trong Cựu Ước, người ta đã gặp tình trạng xuất hiện các ngôn sứ giả; do đó Môsê mới cảnh báo dân và đề xuất một tiêu chí giúp phân định (x. Đnl 18:15-22).

Nhưng có rất nhiều ngôn sứ giả, chẳng hạn con số có thể lên đến trên dưới 400 người như đọc thấy trong 1V 22:5tt, và huyên thuyên đưa ra các lời tiên tri nhân danh Yahweh; Edêkien, một ngôn sứ đích thực, đã tuyên sấm hạch tội các ngôn sứ giả (x. Ed 13). Trong Giáo hội, Đức Giêsu cũng đã cảnh báo về các ngôn sứ giả sẽ “đội lốt chiên” mà đến, tức là bề ngoài xuất hiện có vẻ là đáng tin cậy, cũng giảng dạy chân lý (“lạy Chúa, lạy Chúa”) và thậm chí còn làm “các phép lạ” nữa; tiêu chuẩn giúp nhận định mà Ngài đưa ra là việc thực hành theo lời dạy Tin Mừng (x. Mt 7:15-23). Các bức thư của Phêrô và Gioan đều nói đến việc các ngôn sứ giả xuất hiện: “Trong dân cũng đã từng xuất hiện những ngôn sứ giả; giữa anh em cũng vậy, sẽ có những thầy dạy giả hiệu, là những người sẽ lén lút đưa vào những tà thuyết dẫn tới diệt vong...” (2Pr 2:1), và do đó thánh Gioan căn dặn: “Hãy cân nhắc các thần khí, xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian” (1Ga 4:1). Đức Giêsu đã ba lần khuyến cáo các môn đệ rằng vào “thời cánh chung” – thực tế là trong mọi thời đại – “nhiều” ngôn sứ giả, “Kitô” giả sẽ xuất hiện và “sẽ lừa gạt được nhiều người” (x. Mt 24: 5.11.24). Thánh Phaolô đã nối kết đặc sủng phân định thần loại với ơn sứ ngôn (x. 1Cr 14:29; Rm 12:1-2; 1Tx 5:19-22) vốn cần đến đặc sủng này nhất.

Đã thấy nhan nhản trong Giáo hội sơ khai – và trong thời nay thì còn nhiều hơn nữa – các ngôn sứ giả đã làm sinh sôi nẩy nở nhiều dạng lạc giáo và tà phái khác nhau, trong những cách thức rất đỗi tinh vi, để rồi không dễ gì có thể dễ dàng nhận diện được chúng; thánh Phaolô đã đưa ra một lý do: bởi vì “chính Xatan cũng đội lốt thiên thần sáng láng; vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ nó đội lốt người phục vụ sự công chính” (2Cr 11:14-15). Đối diện với tình cảnh như thế, mọi lý luận thông thường đều trở thành vô dụng; do đó, tín hữu cần có được đặc sủng của Thánh Thần thì mới có thể phân định được đâu là thật đâu là giả.

Đặc sủng giúp phân định thần loại là ân huệ mà Thánh Thần ban cho hầu tín hữu phân biệt được một ‘thần khí’ này với một ‘thần khí’ khác. “Thần khí” ở đây không chỉ hiểu theo nghĩa hữu thể thần linh, nhưng còn ám chỉ đến một con người, một tư tưởng, hoặc một gợi ý thiêng liêng (một lời tuyên sấm, một lời tiên tri, một mạc khải...) khẳng định là mang đến một sứ điệp từ Thiên Chúa và, do đó, có thể tác động lên tiến trình quyết định của một con người hoặc của một nhóm người nào đó. Khả năng phân định thần loại trước hết là một ân huệ của Chúa Thánh Thần giúp cho “đọc được những gì trong lòng”; các thánh, chẳng hạn thánh Gioan Vianê – thánh bổn mạng các linh mục triều – đã được ban cho ân huệ đặc biệt này theo cách đó. Nhưng có nhiều tiêu chuẩn khách quan về phân định thần loại có thể được nghiên cứu.[60]

Bởi vì “ân sủng” không đi ngược lại với “bản tính” nhưng dựa trên bản tính, nên một quá trình huấn luyện tốt về linh hướng và tư vấn tâm lý là điều rất hữu ích. Thánh Phaolô đề ra một số nguyên tắc cho vấn đề: phải coi liệu nó có lấy đức mến làm đầu không, nếu không thì là vô ích (x. 1Cr 13:1-3; đây cũng là tiêu chuẩn thánh Gioan đưa ra: 1Ga 4:8); liệu nó có tỏ cho thấy một đức tin chính xác vào Đức Giêsu là Đấng Kitô và là Chúa không (x. 1Cr 12:3); liệu nó có giúp xây dựng giáo hội và các chi thể của giáo hội không (x. Ep 4:11-12), đặc biệt là liệu nó có làm gia tăng tinh thần hiệp nhất hay không (x. 1Cr 1:10). Trong Gl 5: 16-25, thánh Phaolô cũng coi các hoa trái phát sinh như là các tiêu chuẩn giúp phân định thần loại, tức là “thần khí” và “xác thịt” (thần lành và thần dữ) làm phát sinh hoa trái khác nhau trong đời sống của tín hữu.

Thư 2Pr 2 cũng nhấn mạnh đến tính cách dối trá của “các thần dữ” (các ngôn sứ giả), đến sự việc các kết quả đọc thấy trong đời sống đi ngược lại với các giá trị Tin Mừng; bức tranh toàn cảnh quả là ảm đạm, nhưng đó là một lời khuyến cáo quan yếu cần được các tín hữu cẩn trọng lưu tâm, bởi vì trong xã hội hiện đại, “công luận” có thể đóng giữ vai trò làm công cụ của thần dữ. Trong xã hội ngày nay, đâu đâu cũng gặp thấy nhan nhản trước mắt một dạng thế lực ma quái, như văn đoạn Ep 6:12 đã cảnh báo: “Chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao.” Do đó, ngày nay cũng có thể coi “thần khí” đó là quyền lực bóng tối mơ hồ của văn hóa, công luận, các tập tục được tiếp nhận cách bừa bãi để áp đặt rất tinh vi những giá trị giả tạo, những cách hành xử vô luân, những thái độ nghịch đạo và những gì tương tự; đây chính là “thần khí của thế gian,” mà công đồng Vaticanô đã định nghĩa khi trình bày như sau: “Thế gian ở đây nghĩa là tinh thần phù phiếm và dã tâm vốn dĩ biến những khả năng con người được dùng để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người thành phương tiện phạm tội” (GS 37).

Công đồng cũng mở lòng đón nhận các đặc sủng được ban cho Giáo hội và nhận định tóm lược như sau: “Các đoàn sủng ấy, dù có tính cách đặc biệt hơn hoặc thông thường hơn mà nhiều người lãnh nhận được, phải được đón nhận với thái độ tri ân và yên ủi vì các ơn đó là hoàn toàn hữu ích và đáp ứng được các nhu cầu của Giáo Hội. Không nên liều lĩnh kêu nài những ơn đặc biệt, và cũng đừng vì đó mà tự đắc mong rằng việc tông đồ sinh kết quả. Những vị thủ lãnh trong Giáo Hội có thẩm quyền phán quyết về tính cách chân chính và sự xử dụng hợp lý các ơn lạ ấy; các ngài có nhiệm vụ đặc biệt phải khảo sát tất cả, không phải để dập tắt Thánh Thần, nhưng để giữ lại những điều thiện hảo” (LG 12).
 
(ii)- Ba Đặc sủng Hành động

Các ơn Chữa bệnh


Trong câu 1Cr 12:9, với việc dùng danh từ ở số nhiều – các đặc sủng chữa bệnh – có vẻ như thánh Phaolô muốn đề cập đến các hoạt động chữa bệnh cụ thể nào đó, chứ không nói đến một “năng lực” có tính cách thường xuyên được ban cho một ai đó. Đó là dạng ân huệ mà Đức Giêsu đã hứa ban trước cuộc thăng thiên: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin:... Nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe” (Mc 16:17-18). Thánh Phaolô không có được đặc sủng này (x. 2Cr 12:12), dù ngài đã làm các phép lạ (x. Cv 14:8-10; 19:11-12; 20:7-20; 28:8-9). Đặc sủng này không được đề cập đến trong Rm 12:6-8; có lẽ nó được đề cập chỉ vì ở Côrintô đã từng có một điện thờ thần As­kle­pios nổi tiếng, vị thần chữa bệnh, và người ta thường kể rất nhiều về những phép lạ kỳ diệu ở đây; ngoài ra, cũng có vài lời nói đến dân ngoại (x. 1Cr 12:2; 14:22-23). Mặt khác, các buổi hội họp để cử hành lễ Tạ Ơn của họ nếu nói cho nhẹ bớt đi thì cũng đã không nêu được gương tốt và, do đó, nhiều người đã ốm đau suy nhược (x. 1Cr 11:30); lẽ ra, họ cần phải hỏi thánh Tông đồ để ngài giải thích cặn kẽ cho hiểu về những điều đó.

Đó từng là một sứ vụ quan trọng của Đức Giêsu, và là hoạt động thu hút nhiều nhất số lượng dân chúng vây quanh Ngài (x. Mt 4:23-25; Ga 6:2). Và mỗi lần sai các môn đệ ra đi rao giảng, thì Đức Giêsu ban cho tất cả họ ơn này, theo thứ tự như sau: khử trừ các thần ô uế và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền (x. Mt 10:1.8; Lc 9:1; 10:9.17; Gc 5:15), và đó là điều mà các môn đệ đã thực hiện với thành công lớn (x. Cv 5:12-16; 8:6-8; 19:11-12). Dù vậy, khi cuộc thử thách đức tin thực sự xảy đến, thì nhiều môn đệ trong số đó lại bỏ Ngài mà đi (x. Ga 6:67) còn quần chúng thì lại đòi đóng đinh Ngài vào thập giá (x. Mc 15:14-15).

Chúng ta tin rằng đức tin có thể giúp làm nên những điều kỳ diệu; nhưng chúng ta không nên giả thiết là nó có thể giúp làm các hành động có tính cách phép lạ. Đặc sủng này có thể được Thần Khí ban cho, theo mức độ hay cách thức nào đó chỉ có Người mới biết mà thôi. Dù thế nào, ở đây không đề cập đến thực tế các phép lạ chữa bệnh có được, chẳng hạn, qua lời cầu nguyện hay can thiệp của một vị thánh; nhưng là bàn về một khả năng ngoại thường của một số người trong Giáo hội. Có lẽ không có đặc sủng nào khác bị lạm dụng cho bằng đặc sủng này trong các phong trào Ngũ Tuần và các giáo phái ngày nay; do vậy, hơn ở đâu hết, ở đây cần nhiều đến khả năng nhận định. Thiên Chúa luôn luôn ban các ân sủng chữa bệnh, đặc biệt cho các vị thánh hoặc cho một số nơi chốn nhất định nào đó (ở Lộ Đức chẳng hạn). Nhưng chúng ta biết rằng trong một tình huống căng thẳng và cảm xúc có tính cách tâm lý, thì các hiện tượng kỳ lạ có thể xảy ra trong việc chữa lành bệnh như thế, như có thể thấy nơi tất cả các tôn giáo. Như là một ân huệ của Thánh Thần, các khả năng chữa lành thuộc về phạm trù các dấu chỉ; do đó, không nên tìm kiếm những ân huệ này hoặc ơn này chỉ vì chúng nó (rõ ràng là một người bệnh tìm kiếm trước hết là sức khỏe cho mình) nhưng chúng phải nhằm vào Đức Giêsu Kitô. Thánh Tôma nói: “Ân sủng chữa bệnh thì khác với các đặc sủng làm phép lạ nói chung, bởi nó có một lý do đặc biệt làm cho tin, vì lẽ thiên hạ thường có xu hướng tin khi họ nhận được ích lợi do việc chữa lành thể lý hơn là khi họ chỉ chứng kiến các phép lạ không thôi.”
 
Ơn làm các Phép lạ

Thánh Phaolô tuyên bố là ngài đã được ban cho đoàn sủng này (x. Rm 15:19; 2Cr 12:12). Quả không có gì rõ ràng giúp phân biệt ân huệ này với các ân huệ chữa bệnh; một số người cho rằng “các ơn chữa bệnh” thì liên hệ với bệnh tật; trong khi đó, “các ơn làm phép lạ” thì liên quan đến những điều kỳ diệu phi thường hoặc các hoạt động trừ tà. Giải thích văn đoạn kia, thánh Tôma viết rằng “ơn làm các phép lạ” có nghĩa là các phép lạ phi thường, tức là việc thay đổi cách thức hoạt động thông thường của tự nhiên và, chắc chắn rằng, việc chữa bệnh cũng là một phép lạ.[61] Do đó, trong Tổng Luận Thần Học, ngài nhận định rằng một phép lạ được ban cho để củng cố lời nói ra, để làm cho lời đó trở nên đáng tin, hoặc để mở một con đường dẫn đến đức tin.[62] Một phép lạ không đơn giản chỉ là một sự kiện xảy ra không thể giải thích được, nhưng nó là một biểu hiện của năng lực thần linh, để mang đến phương dược cứu chữa cho một con người hoặc một tình huống, cũng như để chứng thực sức hiện diện năng động của Người (trong lời rao giảng, nơi đời sống của một vị thánh, v.v.). Các phép lạ là những phương tiện đặc biệt đưa đến một mục đích, không được mong đợi như là những cách thức hành động thông thường của Thiên Chúa.

Trong đời sống của Đức Giêsu, các Tông đồ và các Thánh, có thể thấy nhiều phép lạ. Thực ra, không bao giờ chúng biến mất khỏi Giáo hội, bởi vì chúng ta đang ở trong thời Nước Thiên Chúa, và Nước Chúa không cốt ở các giáo lý siêu phàm, cách tổ chức hoàn hảo hoặc các nghi thức gây kinh hoàng nhưng, như thánh Phaolô viết: “Thật vậy, Nước Thiên Chúa không cốt ở tài ăn nói, nhưng ở quyền năng” (1Cr 4:20). Đôi lúc, các phép lạ có tính cách tỏ tường, nhưng lắm khi, nó đòi phải có con mắt đức tin thì mới nhận ra được. Tân Ước gọi các phép lạ là “những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ” (Cv 2:22), vốn có thể dẫn đến đức tin, như sau biến cố tiệc cưới Cana: “Người đã bày tỏ vinh quang của Người và các môn đệ đã tin vào Người” (Ga 2:11), hoặc cũng có thể dẫn đến việc chống đối Đức Giêsu, như đã thấy xảy ra sau cuộc sống lại của Ladarô (x. Ga 11:47-53).

Các phép lạ là cuộc can thiệp của Thiên Chúa nhằm mang lại ích lợi cho một ai đó; nhưng có lẽ phải lưu ý là người được dùng làm tác nhân của phép lạ thì lại không hưởng được gì từ phép lạ đó (xem lời khuyến cáo của Đức Giêsu trong Mt 7:22; xem thêm: 1Cr 13:2). Nếu Thần Khí đã ban cho ân huệ này, thì tất nó phải được lãnh nhận với thái độ tri ân, nhưng cũng với thái độ “sợ hãi và run rẩy”, bởi vì nó được ban cho nhắm đến nhiệm vụ và đòi hỏi một trách nhiệm tương ứng với năng quyền lãnh nhận được.
 
Lòng tin

Lòng tin ở đây phải được hiểu theo nghĩa được nhắc đến trong Mt 17:19: lòng tin giúp làm những điều lạ lùng; và do đó, có thể nói rằng đó là một điều kiện và là một phần của hai ân huệ đã được đề cập: chữa bệnh và làm phép lạ. Lòng tin có lẽ là đặc sủng quan trọng nhất trong số các ân huệ hành động: ơn Đức Tin ban cho sức mạnh có thể chuyển dời cả núi non: “Thầy bảo thật anh em, nếu anh em tin và không chút nghi nan, thì chẳng những anh em làm được điều Thầy vừa làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có bảo núi này: ‘Dời chỗ đi, nhào xuống biển,’ thì sự việc sẽ xảy ra như thế” (Mt 21:21).

Lại cần lưu ý là ở đây không đề cập đến lòng tin xét như là một nhân đức đối thần, vốn cũng phát xuất từ Thánh Thần, như thánh Phaolô nói (x. 1Cr 12:3); một lần nữa, vị bổn mạng của các thần học gia giải thích rằng: “Lòng tin ở đây không được kể vào số các ân sủng gratis datas nếu chúng ta hiểu nó như là nhân đức làm cho một con người nên công chính nơi chính bản thân người đó; nhưng nó là ân sủng nhưng không nếu chúng ta nhận ra trong nó một thái độ xác quyết lỗi lạc trong đức tin, làm cho người ấy có khả năng hướng dẫn người khác trong các vấn đề đức tin.”[63] Ân huệ này có lẽ là niềm tin mà thánh Phaolô đề cập đến trong Gl 2:22 như là hoa trái của Thần Khí, hoặc trong Ep 6:16 như là “khiên mộc đức tin”; ân huệ này không phải là một tập tính, nhưng là một hoạt động trong đó người kitô kinh nghiệm được sức ấm áp, tình yêu hay sự giúp đỡ của Thần Khí; nó cũng là nền tảng của các hoạt động có tính cách thần linh khác, như các việc chữa lành bệnh hoặc là cả các ơn nói tiếng lạ. Niềm tin này có thể phát triển, như thấy nơi thánh Phêrô: trước tiên ngài là “một con người kém lòng tin” (Mt 8:26), và kết thúc bằng việc làm các phép lạ như một người có lòng tin vững vàng (Cv 3: 5). Ân huệ này được ban cho nhằm vào việc xây dựng Giáo hội, như thánh Tông đồ viết: “Vì có được cùng một lòng tin, như đã chép: ‘Tôi đã tin, nên tôi mới nói,’ thì chúng tôi cũng tin, nên chúng tôi mới nói.” (2Cr 4:13). Lòng tin này được ban cho theo các mức độ khác nhau, nhưng là sao thì bao giờ cũng phải giữ thái độ khiêm hạ; thánh Phaolô nói: “Đừng đi quá mức khi đánh giá mình, nhưng hãy đánh giá mình cho đúng mức, mỗi người tùy theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho” (Rm 12:3).

Lòng tin mạnh mẽ luôn thấy biểu hiện nơi các thánh: như lòng tin của thánh Phanxicô Xaviê, của Mẹ Têrê­sa... Thật khó để xác định: liệu đó có phải là một mức độ kiệt xuất của nhân đức đối thần hay không, hay còn là một ân huệ đặc biệt khác nữa, bởi vì cả hai đều xuất phát từ một nguồn gốc duy nhất là Thần Khí. Chúng ta xếp “lòng tin mạnh mẽ” của viên đại đội trưởng Rôma ngoại giáo (Mt 8:10), và của người phụ nữ ngoại giáo Canaan (Mt 15:2) vào loại nào? Trong vấn đề này, chỉ có thể bỏ ngỏ chứ không thể nào đưa ra được các quan niệm thực sự thích đáng; chúng ta chỉ có thể và phải cầu nguyện “xin thêm lòng tin cho chúng con!” (Lc 17:5-6) mà thôi.
 
(iii)- Ba Đặc sủng ngôn ngữ

Ơn nói tiên tri

Đây có lẽ là đặc sủng được nhắc đến nhiều nhất và cũng bị lạm dụng nhiều nhất. Thánh Phaolô tỏ ra đặc biệt coi trọng đặc sủng này: chỉ trong hai chương 1Cr 12―14, ngài đã nhắc đến nó 22 lần; ngài kể nó vào hàng thứ hai sau đức mến (x. 1Cr 14:1). Biến cố Ngũ Tuần được giải thích như là việc hoàn tất sứ ngôn của tiên tri Giôen: “Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ” (Cv 2:17-18).

Đây là ân huệ mà Chúa Thánh Thần, qua một con người, trình bày một sứ điệp đến một cá nhân hoặc đến toàn thể cộng đoàn kitô hữu. Chính Thiên Chúa tận dụng ai đó, để trình bày cho thấy điều Người nghĩ về hiện tình, ý định Người dành cho tương lai, hoặc điều Người nghĩ là chúng cần phải được cho biết, cần phải được quan tâm đến chính lúc này. Đó trước hết không phải và cũng không nhất thiết phải là một khả năng tiên báo tương lai. Như là lời nói thần linh, nó thường là một phát ngôn vắn gọn được gửi đến cộng đoàn hoặc đến một cá nhân, một lời khích lệ, an ủi hoặc khuyên nhủ, vốn “có uy quyền” bởi nó xuất phát từ nơi Thiên Chúa.

Ơn nói tiên tri đôi khi cũng có liên quan đến việc tiên báo tương lai (xem chẳng hạn, Cv 21:7-14); ân huệ này được ban cho một số vị thánh.

Một số người có thể nhận được đặc sủng này hầu như là thường xuyên; và họ được gọi là các ngôn sứ. Các đặc sủng được ban cho cách thường xuyên đó quan trọng đến độ thánh Phaolô đã xếp chúng sau các Tông đồ như là các thành viên nền tảng của Giáo hội (x. Ep 2:10; 3:5; 4:11; 1Cr 12:28). Và trong trường hợp này, ơn nói tiên tri trở nên một “chức năng” của Giáo hội. Từ thuở sơ khai Giáo hội, đã thấy như vậy rồi; sách Điđakhê đã đặc biệt coi trọng đặc sủng này, nhưng cũng tỏ ra thận trọng nhắc nhở: “Tuy vậy, không phải ai phát ngôn bằng thần khí cũng đều được coi là ngôn sứ cả đâu” (Điđakhê 11:8). Về sau, những người lãnh được đặc sủng này trở thành một dạng người rao giảng lang thang khắp đây đó; đặc sủng này hiện diện trong các cộng đoàn kitô trong thời thánh Giúxtinô, được thánh Irênê và thánh Hilariô nhắc đến nhưng không giải thích cụ thể về những điều mà những người lãnh nhận đặc sủng này làm. Đến thời thánh Âugutinô (cuối thế kỷ 4), các ngôn sứ dạng này hầu như biến mất.

Có một sức tác động mạnh mẽ, nên sứ ngôn cũng có thể gặp những mối nguy: các ngôn sứ giả luôn xuất hiện lẫn lộn với các ngôn sứ thật: thư Mục tử Hermas đã vạch mặt chỉ tên một dạng người hành nghề ngôn sứ, luôn đòi tiền khi thuyết trình. Thánh Phaolô đã gióng tiếng nhắc nhở Giáo hội sơ khai “đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ” (1Tx 5:19-21). Lời khuyên ấy đã được công đồng Vaticanô II nhắc lại (x. LG 12). Như trong Cựu Ước, ơn nói tiên tri không đối nghịch với cơ cấu, nhưng lại thường lên tiếng phê bình cơ cấu và có thể dẫn đến kết cục là xung đột với cơ cấu.

Có một dạng ơn sứ ngôn căn bản được ban cho toàn thể Dân Thiên Chúa, như công đồng Vaticanô II đã trình bày: “Dân thánh của Thiên Chúa cũng tham dự vào chức vụ tiên tri của Chúa Kitô qua việc phổ biến chứng tá sống động về Người, nhất là qua đời sống đức tin và đức ái, và qua việc dâng lên Thiên Chúa của lễ ca tụng, hoa trái của những miệng lưỡi ngợi khen thánh Danh Người” (LG 12). Ân huệ này cốt ở ơn gọi cơ bản của người kitô trong việc trở thành chứng nhân của Đức Kitô qua lời nói và hành động; đặc sủng nói tiên tri được xây dựng trên ơn gọi này, gia cường ơn gọi này và nâng cao nó đến một mức độ cao hơn. Theo lối nói ngày nay, từ “tiên tri” đã được thổi phồng lên để mặc lấy ý nghĩa về bất cứ một lời tuyên bố nào hoặc các hành động phản cơ cấu, được thực hiện bởi những kitô hữu (thường là tả khuynh) và thậm chí còn bởi những người không kitô; điều này thường (ý thức rằng đường lối của Thiên Chúa thì khôn dò) chẳng liên quan chi mấy đến Thánh Thần cả.

Chúa Thánh Thần luôn chăm sóc Giáo hội. Khi các ngôn sứ – kiểu thời xưa – biến dần khỏi tiền cảnh Giáo hội, thì lại thấy xuất hiện một dạng tiên tri khác: các đan sĩ; họ là một chứng từ sống động chống lại đời sống suy đồi (hoặc không thánh thiện đủ) của cộng đoàn kitô. Kể từ đó trở đi, các dòng tu làm cho hoàn tất (với mức độ thành công nhiều hay ít) vai trò của các ngôn sứ. Công đồng Vaticanô II đã nêu bật cho thấy lời tuyên khấn tu trì như là một ân huệ Thiên Chúa ban cho Giáo hội, dựa theo ánh sáng của Rm 12:5-8 và 1Cr 12:4 (x. PC 8), tức đó là một dạng hiện hữu có tính cách đoàn sủng. Hiến chế Tín lý về Giáo hội gọi việc sống các lời khuyên Phúc Âm là một “dấu chỉ” biểu thị Đức Kitô trước xã hội loài người theo một “cung cách nổi bật” (LG 46); đây là hành động có tính cách ngôn sứ. Các dòng tu giờ đây nói về “đặc sủng riêng” được ban cho cộng đoàn qua vị sáng lập và được biểu hiện qua ơn gọi cá nhân của mỗi thành viên. Các phong trào tông đồ khác nhau cũng thường dùng một ngôn ngữ tương tự.

Đặc sủng nói tiên tri do đó vẫn còn sống động trong Giáo hội, cả theo cách thức hoàn toàn của đời sống tu trì và đời sống tông đồ, hoặc theo những con người hoặc các hành động kích thích. Lời phán quyết cuối cùng về tính chất đích thực của những điều như vậy chỉ thuộc về Thiên Chúa mà thôi; việc phán xét tạm thời thì được dành cho Giáo hội.
 
Các dạng loại khác nhau của ơn nói tiếng lạ

Đây là đặc sủng ít quan trọng nhất trong danh sách các đặc sủng; nó luôn luôn được đặt ở hàng cuối. Song dù gì, do bởi tính chất lạ lùng của mình nên nó làm cho người ta có cảm tưởng là nó lớn lao, để rồi nó được nhắc đến, bằng cách này hay cách khác, 57 lần trong Tân Ước. Trên thực tế, Đức Giêsu đã hứa cho các kẻ tin, như là một dấu chỉ, rằng “họ sẽ nói được những tiếng mới lạ” (Mc 16:17). Thánh Phaolô nói rằng đặc sủng này chủ yếu nhằm vào việc “tự xây dựng chính mình” (1Cr 14:4) và có lẽ cũng giúp ích cho người khác nếu nó được giải thích ra.

Theo nghĩa hẹp, đặc sủng nói tiếng lạ là một cách biểu hiện của Chúa Thánh Thần, bởi trong và nhờ Người mà một người được ban cho sức mạnh để cầu nguyện hoặc nói lên những gì có vẻ như là những âm thanh không hiểu nổi. Nó thường được kinh nghiệm như là một “cơn mưa nhè nhẹ” của lời ca ngợi dâng lên Chúa, được nói hay hát. Ơn nói tiếng lạ đã được mô tả như là một dạng đơn giản của hành động chiêm nguyện. Các lời lẽ đặc biệt có tính cách tri thức thì coi như được xếp qua một bên để cho phép một sự kết hiệp thâm sâu hơn của một tâm hồn với Chúa. Những lời được nói ra cũng có thể có một hiệu quả tương tự, nhưng với ơn nói tiếng lạ, một sự tự do thanh thoát nào đó sẽ đến và cho phép có được những khả năng mới trong việc giao tiếp với Thiên Chúa. Thông thường thì ân huệ này hoạt động trong bối cảnh cầu nguyện riêng tư hoặc trong việc ca tụng và thờ phượng tập thể. Trong một số trường hợp, sứ điệp phát biểu bằng thứ tiếng lạ có thể được cắt nghĩa, và thực ra thì cần phải được cắt nghĩa (x. 1Cr 14:6-19); rồi sau đó nó trở thành sứ ngôn (lời tiên tri).

Ơn nói tiếng lạ có thể được hiểu theo hai cách:

1. Cách thứ nhất là dạng nói tiếng lạ diễn ra trong ngày Ngũ Tuần, như đã thấy Cv 2:4.6.8.11 thuật lại: “Họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho”... “và đám đông kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình.” Thánh Phaolô cũng ám chỉ đến các tiếng ngoại quốc (x. 1Cr 14:10-11). Ân huệ này kiện toàn lời Chúa đã hứa (Mc 16:17). Chúng ta không biết chắc về những thí dụ khác của ơn này.

2. Cách thứ hai: một dạng nói tiếng lạ khác – và là một trong 9 ân huệ của Thần Khí – được đề cập 3 lần trong 1Cr 12:10.28.30, và được giải thích lại qua đoạn 1Cr 14:1-33; trong đoạn này, ân huệ “nói tiếng lạ” hay “cầu nguyện bằng tiếng lạ” được nhắc đến 12 lần. Nó được gọi là glossolalia tức là các âm thanh phát ra không rõ ràng và cũng không mang ý nghĩa nào rõ ràng cả. Các tín hữu Côrintô đã tự hào về điều đó và thánh Phaolô cũng công bố là ngài có được ơn đó (x. 14:18). Hiện tượng này thì có tính cách mơ hồ; các lương dân Hy lạp đã có các kinh nghiệm về việc nói theo thần hứng, và hiện tượng này đã được tiến hành trong Saman giáo và các nghi lễ ma thuật. Các phong trào Thánh Linh hiện đại và giáo phái Ngũ tuần quả quyết rằng Thần Khí cho họ – ít nhất là một số – có kinh nghiệm này và rằng điều đó sinh ích cho cá nhân và giúp xây dựng đoàn nhóm.
 
Ơn giải thích ngôn ngữ

Đây là đặc sủng bổ sung cho ơn nói tiếng lạ, làm cho ơn này trở nên hữu ích cho nhiều người; thánh Phaolô bảo những người lãnh nhận được ơn nói tiếng lạ cầu xin để có được ơn giải thích chúng (x. 1Cr 14: 13). Đây không có nghĩa là việc “dịch nghĩa” bởi vì các lời của người nói tiếng lạ không phải là ngôn ngữ có thể nhận ra được (đó là quan điểm chung); nhưng phải nói rằng đây là việc “cắt nghĩa,” tức là trình ra một ý nghĩa cho những lời nói ra vì ích lợi của những người chung quanh nghe chúng. Thánh Phaolô khuyên rằng nếu không có người giải thích, thì tốt hơn hết là người nói tiếng lạ nên im lặng (x. 14:28).
 
d. Một số ân huệ khác

Công đồng Vaticanô II dạy rằng: “Thần Khí vừa huấn luyện vừa dẫn dắt [Giáo hội] bằng muôn ân huệ theo phẩm trật và đoàn sủng, trang điểm Giáo hội bằng hoa quả của Người” (LG 4). Có những ân huệ không mang tính cách “đặc sủng”. Trong số những ân huệ thuộc loại đặc sủng, công đồng đã kể ra các đoàn sủng “đặc biệt và thông thường” của Dân Thiên Chúa (x. LG 12), “đặc sủng bất khả ngộ của toàn thể Giáo hội” (LG 25), “các đặc sủng thần linh” của các thánh (LG 5), v.v.

Trong số các ân huệ này, chúng ta có thể để ý đến ơn trừ quỷ. Đây là ơn Đức Giêsu đã ban cho các tông đồ khi cử các ông đi thi hành sứ vụ (x. Mt 10:1), và “nhóm 72 trở về, hớn hở nói: ‘Thưa Thầy, nghe đến Danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con” (Lc 10:17). Người đã hứa cho các tín hữu nói chung: “Đây là những dấu lạ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ” (Mc 16:17). Do đó, trên nguyên tắc, hết thảy mọi kitô hữu đều có thể có sức mạnh này; dù vậy, trong thực tế... kinh nghiệm trở thành lộn xộn lớn đến độ năm 1972, Đức Phaolô VI đã ra lệnh bãi bỏ chức nhỏ trừ tà. Giờ đây, việc thi hành quyền trừ quỷ đã được quy định bằng các quy tắc giáo luật nghiêm ngặt, dưới sự giám sát của đức giám mục (bản quyền). Năm 1999, Thánh bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích đã đưa ra một nghi thức trừ tà cập nhật cho toàn Giáo hội. Các bản cập nhật chính trước đây đã được ban hành năm 1614, như là Sách Nghi thức Rôma (Rituale Romanum) trong thời Đức Phaolô V. Cách thức giúp phân biệt đâu là trường hợp bị quỷ ám thực sự và đâu chỉ là các tình trạng rối loạn tâm lý, là việc làm không mấy dễ dàng; do đó, liên quan đến vấn đề này, bao giờ cũng cần phải thận trọng cao độ.

Có thể kể thêm nhiều ân huệ khác, được nói đến trong Kinh Thánh hoặc không, có chức năng gia cố cho các ân sủng chung và góp phần vào việc xây dựng Giáo hội. Thư Rôma 12:8 nêu ra một danh sách: “... ai khuyên răn thì cứ khuyên răn; ai phân phát, thì phải chân thành; ai chủ tọa, thì phải có nhiệt tâm; ai làm việc bác ái, thì hãy vui vẻ” và thánh Phaolô hẳn cũng đã có thể nói thêm: “và cứ tiếp tục như vậy.” Điều đó có nghĩa là mọi phận vụ hoặc mọi hoạt động tốt đều được Thần Khí làm cho trở nên sống động; bởi chính Người là Đấng quảng đại ban thêm phần bổ sung vào các khả năng của con người; ai ra tay bố thí, thì nhận lãnh được ơn phấn khởi!

Phong trào canh tân đặc sủng thường nhắc đến việc Nghỉ ngơi trong Thần Khí hoặc bị Thần khí giết đi (slain in the spirit): họ so sánh nó với kinh nghiệm của các nhà thần nghiệm, như thánh Têrêsa Avila chẳng hạn. Nó cốt ở sự việc một ai đó rơi vào tình trạng ấy trong khi đang cầu nguyện. Chủ quan mà nói, đó là một kinh nghiệm về ơn an ủi thiêng liêng sâu thẳm, để lại những kết quả kéo dài trong tâm hồn, đôi lúc cả trong thân xác nữa.

Ơn cầu nguyện chắc chắn là một trong các ân huệ cao cả nhất Thần Khí ban cho một linh hồn.[64] Thánh Phaolô viết rằng: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả” (Rm 8:26). Bất cứ một lời cầu nguyện đích thực nào cũng đều diễn ra trong Thần Khí; dù vậy, xét như là một ân huệ thần linh, thì ơn cầu nguyện – vốn tạo một đà đẩy mạnh, giúp linh hồn tiến vào mối thân tình với Thiên Chúa – chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban cho tín hữu mà thôi. Vì là cần thiết cho đà trưởng thành thiêng liêng cũng như tình trạng sung mãn của Giáo hội, nên ân huệ này được ban cả cho người có tư năng lẫn người không có tư năng (trường hợp của người Pharisêu và người thu thuế). Nó có sức làm cho thỏa dịu cơn khát mà Đức Giêsu đã nhắc đến: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống” (Ga 7:37). Và phải nói là hết thảy mọi người đều lâm phải cơn khát đó, như chính thánh Âuguttinô đã thú nhận: “Hồn chúng con vẫn hằng thao thức cho đến khi được nghỉ yên trong Ngài.”

Trong số các ân huệ Thần Khí ban, còn có thể kể đến các cuộc thị kiến hay hiện ra, vốn xuất hiện nhan nhản vượt tầm kiểm soát: kể từ năm 1960 đến nay, trên 3000 vụ đã được trình lên Tòa thánh. Trong cuộc đời của các thánh, hầu như lúc nào cũng có thể đọc thấy các hiện tượng lạ kỳ, chẳng hạn như tình trạng xuất thần, khinh thân, lưỡng tại, v.v. Trong các vấn đề loại này, mối nguy do ảo giác hoặc các trò bịp bợm của ma quỷ gây ra là rất lớn, nên đòi hỏi phải hết sức thận trọng trong tiến trình phân định và nhìn nhận.

Một ân huệ quan trọng khác mà Thần Khí ban tặng là lòng biết ơn. Ơn huệ này giúp cho có từ trong nội tâm, thái độ nhìn nhận các ân sủng đã lãnh nhận được từ nơi Thiên Chúa và tha nhân, cùng sẵn sàng hành động sao cho hợp lẽ trong cảnh huống ấy. Văn đoạn Lc 17 trình thuật câu chuyện mười người phong hủi đã được Đức Giêsu chữa lành, và trong số đó, chỉ duy nhất có một người là người Sa­mari trở lại nói lên lòng tri ân mà thôi. Có thể nói, đây là tâm tình cơ bản của đời sống kitô giáo, bởi xét cho cùng, “hành động” nền tảng của Giáo hội chính là Lễ Tạ Ơn. Lòng tri ân biểu lộ tính cách cao quý tâm hồn con người, tức của một người con chứ không phải của một kẻ ăn xin.
 
e. “Con đường trỗi vượt hơn cả” theo thánh Phaolô

Sau khi trình tả – cũng như đưa ra một số nhận định – về các đặc sủng xuất hiện trong giáo đoàn Cô­rin­tô, thánh Phaolô đã viết tiếp như sau: “Tôi xin chỉ cho anh em con đường trỗi vượt hơn cả” (1Cr 12:31); rồi ngài giải thích tường tận về con đường đó qua những trang viết được coi là trữ tình nhất: bài ca đức mến. Hết các lời lẽ trong cả chương 13 này đều là những lời tâm tình xuất phát từ đáy lòng một vị Tông đồ: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến nỗi chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì.” Và “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” Như thế, chẳng phải “con đường trỗi vượt hơn cả” đó là tình yêu hay sao?...

Ở đây, không triển khai hết mọi khía cạnh của vấn đề vừa nêu, chúng tôi chỉ xin trình ra một số ý kiến nhằm ứng dụng các lý tưởng đó vào trong thực tế mà thôi. Thánh Phaolô đã không đưa ra bất kỳ một sự phân biệt nào giữa đức ái đối thần với đặc sủng đức mến. Đức Giêsu đã dạy: tình yêu là giới luật hàng đầu (x. Mc 12:29-31 và các đoạn song song), bao hàm cả tình yêu đối với Thiên Chúa lẫn lòng mến đối với tha nhân; và hai khía cạnh của cùng một tình yêu duy nhất này không thể nào chia tách khỏi nhau được. Không thể có khía cạnh này mà không có khía cạnh kia và ngược lại: cũng giống như việc một cỗ xe bò không thể nào chuyển động được nếu chỉ có một chiếc bánh xe duy nhất!

Trong bối cảnh các kinh nghiệm đoàn sủng, thánh Phaolô đã gióng tiếng cảnh báo về mối nguy của một dạng ảo tưởng: bằng lòng với những an ủi thiêng liêng, thỏa mãn với những “âu yếm của Thần Khí”... mà quên mất đi việc phục vụ tha nhân, thì đó chỉ là những tiếng ồn ào vô ích; và ngược lại: lao mình vào các hoạt động xã hội, các sinh hoạt chính trị, v.v. mà quên mất đi việc phải lo làm vinh danh Cha trên trời, cái đó cũng chả đem lại ích lợi chi. Để sinh được hoa quả, thì ơn cứu độ phải đi với cả hai chân. Đức Giêsu đã làm gương về điều này: ban ngày, Người cho kẻ đói ăn và, suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Cha (x. Mt 14:23).

Quả thực, đức mến là ân huệ cao đẹp nhất của Thần Khí và là thứ cần thiết nhất; đức mến tiềm ẩn trong tất cả các ân huệ khác. Thiên Chúa là tình yêu, Thần Khí là tình yêu, và hết thảy mọi ân huệ của Người đều là tình yêu. Sự thánh thiện không cốt ở số lượng các đặc sủng mà một con người nhận được, nhưng hệ tại ở mức độ yêu mến mà người đó có. Ugolino Veri­no (1438-1516), một nhà nhân bản xuất thân từ Flo­ren­ce, đã viết như sau trong tác phẩm Những bài thơ trào phúng của ông:
 

Si vis ergo Deus fieri, vis incola coeli, toto animo et tola dilige mente Deum”[65]
 
Bởi đó, nếu bạn muốn trở thành Thiên Chúa, trở nên công dân thiên quốc, bạn hãy yêu mến Thiên Chúa với tất cả tâm hồn và toàn bộ trí khôn bạn.
 
V. NHỮNG HOA TRÁI CỦA CHÚA THÁNH THẦN

Ngoài các “ân huệ” và “đặc sủng”, truyền thống còn nhắc đến những “hoa trái” của Thần Khí, dù phải thừa nhận rằng việc phân biệt rõ ràng giữa các dạng ơn ban này không phải lúc nào cũng dễ dàng; trong lãnh vực này, các dạng ơn ban đó ở trong tình trạng đan xen, hòa lẫn vào nhau, hoặc xem ra giống hệt nhau xét từ mọi góc nhìn khác nhau, là điều hết sức bình thường.

Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo trình xuất một danh sách như sau: “Các hoa trái của Thánh Thần là những điều thiện hảo Thánh Thần ban cho chúng ta như hoa quả đầu mùa của vinh quang vĩnh cửu. Truyền thống Giáo hội liệt kê ra mười hai hoa trái của Thánh Thần: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết” (số 1832); danh sách này được rút ra từ Gl 5:22-23. Như có thể thấy, đây là một danh sách bao hàm các nhân đức dệt nên một đời sống kitô ở thế đối lập với cách kiểu xử sự mang đậm “tính xác thịt” của lương dân, gồm có: “dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Gl 5:19-21). Theo các bậc thầy đời sống thiêng liêng, một nhân đức chỉ “làm khó” người mới khởi sự luyện tập nó mà thôi, còn một khi đã được luyện cho thành thói quen rồi, tất nó sẽ trở nên dễ chịu và mang lại niềm vui thích cho người thực hành nó. Điều này cũng hệt như trường hợp một loại quả cây nào đó: lúc còn xanh, nó có vị chua, nhưng khi đã chín mọng, thì nó sẽ mang lại hương vị ngọt ngào. Chúa Thánh Thần, “vị khách dịu ngọt của tâm hồn”, là Đấng làm cho điều đó xảy ra. Như thánh Phaolô đã nêu rõ trong thư Galát, điểm khác biệt giữa một tâm hồn nguội lạnh, tầm thường với một tâm hồn nhiệt thành, cao cả, cốt ở việc “sống nhờ Thần Khí”, “tiến bước trong Thần Khí.”

Ba loại hoa trái đầu tiên – bác ái, hoan lạc, bình an – xuất phát trực tiếp từ Thần Khí đang cư ngụ bên trong tâm hồn; Người là Tình yêu, là niềm hoan lạc của Cha và Con, và là niềm an bình kết hiệp Ba Ngôi. Ba loại hoa trái này phát sinh từ lẫn nhau. Tình yêu là hoa trái đầu tiên, bởi nó làm cho tín hữu trở nên giống Đấng ban phát Tình yêu nhất. Dạng bác ái này không phải là nhân đức đối thần, nhưng là dạng tình yêu dựa trên kinh nghiệm mà có. Tình yêu kết nối tín hữu lại với Thiên Chúa và tha nhân, sản sinh ra niềm hoan hỷ nơi cộng đoàn: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau!” (Tv 133:1). Bình an – mà thánh Âugutinô diễn tả như là sự “bình yên trong trật tự” (tranquility in order) – là tình trạng vắng bóng hết thảy mọi mối âu lo, sợ hãi; như thánh Gioan đã viết: “Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi” (1Ga 4:18). Loại hoa trái này cũng được gọi là ơn yên ủi, xuất hiện sau một giai đoạn thử thách gian nan nào đó, và là dấu biểu thị cuộc khải hoàn trên sự dữ, hoặc trên thần dữ. Hoa trái của Thần Khí, đây là một cuộc nếm trước hương vị bình an (shalom) trong Nước Trời, thưởng thức trước cảnh lạc viên mà ngôn sứ Isaia từng mơ về (x. Is 1:5-9).

Niềm hoan lạc và bình an này không thể xuất phát từ nơi các thụ tạo cùng những gì thuộc về chúng; vì nói cho cùng, thứ hoan lạc và an bình đến từ thụ tạo chỉ mang tính cách giả tạo, nô hóa ý chí và đánh bẫy những khát khao trong lòng con người. Là hoa trái của Thần Khí, niềm hoan lạc có sức giải phóng và đem lại bình an. Sở dĩ phải đặc biệt chú tâm đến niềm hoan lạc ở đây, thì chính bởi vì nó là một dấu hiệu giúp cho dễ dàng nhận ra Thần Khí; ngày nay, giữa muôn vàn lắng lo, bất an, các nhóm phong trào đoàn sủng quả là một dấu chứng cho dạng ân huệ này. Thánh Phaolô đã cầu chúc các tín hữu Rôma có được niềm hoan lạc thiêng liêng này: “Xin Thiên Chúa là nguồn hy vọng, ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an nhờ đức tin, để nhờ quyền năng Thánh Thần, anh em được tràn trề hy vọng” (Rm 15:13). Niềm hoan lạc ấy giúp nuôi dưỡng niềm hy vọng căn bản của người kitô, một niềm hy vọng, trước hết, mang chiều kích cánh chung, như lời thánh Phêrô đã viết: “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ. Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Kitô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em” (1Pr 4:13-14). Đó là lý do tại sao, cả trong các cuộc người kitô chịu bách hại và đau khổ, niềm hoan hỷ do Thần Khí vẫn đơm trái trổ bông; đây là thứ nghịch biện mà thánh Phaolô đã cùng chia sẻ với các tín hữu Thêxalônica, những người đang trải qua “bao nỗi gian truân, với niềm vui do Thánh Thần ban” (1Tx 1:6). Thánh nhân cũng đã cảm nghiệm được niềm hoan hỷ đó lúc bị tống ngục: ngài và Xila đã hát thánh ca cầu nguyện, và điều này đã khiến nhiều người phải kinh ngạc (x. Cv 16:25). Kỳ thực, niềm hoan hỷ này đã được cảm nghiệm ngay từ lúc khởi đầu các cuộc bắt bớ, khi “các Tông đồ ra khỏi Thượng Hội đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5:41). Dạng kinh nghiệm có vẻ nghịch lý về niềm hoan hỷ này đã trở thành một đặc điểm chung trong đời sống của các Thánh, được phản ánh rõ nét nơi thánh Phao­­lô: “Thế nên, tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy sung sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12:9-10).

Niềm hoan hỷ thường được liên kết với Nước Thiên Chúa. Vì nói cho cùng, Nước Trời chính là Đức Giê­su ở trong con người, như Ôrigênê đã gọi Người như thế (autobasileia, hiện thân của vương quốc). Là người-mang-Thần Khí, Đức Giêsu đã nếm trải niềm vui ấy trước ai hết, như thánh Luca đã ghi: “Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: ‘Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn” (Lc 10:21). Bởi đó, dự phần vào sự sống và Thần Khí của Đức Giêsu, là người kitô dự phần vào niềm vui mà Người có trong Cha: “Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em, để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (Ga 15:11). Chính Thần Khí là Đấng kết hiệp người kitô với Đức Kitô, trong tình yêu, qua ân huệ căn bản và trước hết là chính đức tin: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến; tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang” (1Pr 1:8).

Tuy nhiên, không chỉ mang tính cách cánh chung mà thôi, Nước Thiên Chúa còn mang một chiều kích lịch sử nữa; bởi, Nước ấy hiện ở giữa thế giới con người, đang hiện diện hữu hình nơi Giáo hội. Nước ấy, không sung túc về mặt của cải vật chất – người kitô không giàu hơn những người khác – nhưng dồi dào về phương diện tinh thần, thiêng liêng; đó là điều thánh Phaolô đã nhắn nhủ các tín hữu Rôma: “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14:17): thứ của cải nói lên tính cách giàu có của người kitô là chính niềm vui. Bởi đó, người kitô phải giữ cho đúng trật tự ưu tiên: “Chớ say sưa rượu chè, vì rượu chè đưa tới trụy lạc, nhưng hãy thấm nhuần Thần Khí. Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” (Ep 5:18-19). Ngày nay, có lẽ đây là điều tốt đẹp và đáng ao ước nhất mà Kitô giáo có thể chia sẻ với thế giới: “niềm vui ơn cứu độ”. Tuy nhiên, rõ ràng là, trước hết, người kitô phải cảm nghiệm sâu xa niềm vui ấy đã. Phải làm sao đó để bộ mặt sầu khổ và bầu khí u buồn biến mất khỏi các cộng đoàn giáo hội kitô; người kitô phải đồng cảm được với dạng kinh nghiệm của dân Ítraen thời Cựu Ước về “niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (Nkm 8:10).

Muốn được như vậy, người kitô phải lắng nghe và tâm niệm sứ ngôn sau đây: “Đây chính là Thiên Chúa cứu độ tôi, tôi tin tưởng và không còn sợ hãi, bởi vì Đức Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi... Đàn ca lên mừng Đức Chúa, vì Người đã thực hiện bao kỳ công; điều đó, phải cho toàn cõi đất được tường. Dân Xion, hãy reo hò mừng rỡ, vì giữa ngươi, Đức Thánh của Ítraen quả thật là vĩ đại” (Is 12:2-6). Trong Giáo hội ngày nay, những cộng đoàn nào có kinh nghiệm sâu xa về Chúa Thánh Thần, sẽ biểu hiện cho thấy thực tại vừa được trình tả kia.

Những của cải trần thế không bao giờ đáp ứng trọn vẹn được khát vọng của con người; chỉ có dòng nước Thần Khí ban xuống mới đủ sức làm dịu đi mọi cơn khát: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4:13-14).

Nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa…: phải có đầu óc tinh tế lắm thì mới đủ sức nhận rõ những nét khác biệt thực sự giữa các loại hoa trái được liệt kê trong danh sách ấy. Nói đến nhẫn nại là có vẻ như muốn ám chỉ đến những hoàn cảnh bất lợi vốn mang lại những phiền toái, bực bội và sầu khổ... và dường như nếu muốn đạt đến chữ nhẫn, người ta phải nỗ lực thực hành các kỹ thuật khổ chế; những người theo trường phái Khắc kỷ bên Tây phương cổ và các tu sĩ Phật giáo bên Đông phương hiện đại có lẽ là một điển hình cho điều này. Tuy nhiên, xét như là một dạng hoa trái do Thần Khí, nhẫn nại còn đi xa hơn thế nữa: nó không chỉ giúp các tín hữu đủ sức chịu đựng những đau khổ, nhưng còn làm cho họ cảm nhận được niềm vui giữa những đau khổ ấy nữa; đây chính là dạng kinh nghiệm các Tông đồ đã biểu lộ cho thấy (x. Cv 5:41), và là thực tế mà lịch sử đã nhận thấy rõ nơi nhiều vị tử đạo.

Những loại hoa trái này làm cho việc thiết lập các mối giao hữu huynh đệ trở nên dễ dàng hơn: điều này phải trở thành nét đặc trưng tiêu biểu của một cộng đoàn kitô. Vì hết thảy mọi ân huệ và đoàn sủng được ban cho các cá nhân là để mưu ích cho Giáo hội, nên việc mong sao cho có được những loại hoa trái này là điều rất đỗi bình thường. Những loại hoa trái vừa nêu có vẻ như là những nhân đức “thụ động” và phần nào có nét từa tựa các mối phúc thật.

Khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết… Các dạng hoa trái được gọi là “niềm tin” (pis­tis) này, nêu bật các phẩm chất vốn làm cho một con người trở nên đáng tín nhiệm, đáng tin cậy trước mặt những người khác. Ba phẩm chất cuối cùng vừa nêu là hoàn toàn đối nghịch với những gì thuộc về xác thịt tính. Thần Khí tạo nên một thứ văn hóa đối nghịch, đảo ngược trật bậc các giá trị được coi là “hợp lẽ chính trị”; và qua những kitô hữu có lối sống đích thực “thiêng liêng”, Thần Khí lên án thế gian, như lời Đức Giêsu đã tuyên bố: Đấng Bảo Trợ “sẽ chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử” (Ga 16:8). Nếu quả đúng là “xem quả thì biết cây” (Lc 6:44), tất sự hiện diện của những kitô hữu nhu thế sẽ trở thành một lời kết án xã hội chung quanh (x. Kn 2:14tt), và vì lẽ đó, thánh Gio­an mới lưu ý đến lời căn dặncủa Đức Kitô: “Anh em đừng ngạc nhiên nếu thế gian ghét anh em” (1Ga 3:13). Chúa Thánh Thần hằng biến đổi các tín hữu làm cho họ trở nên giống Đức Kitô (x. Ga 15:18tt), và Đức Giêsu cũng đã mời gọi các môn đệ học theo gương Người: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi, bồi dưỡng” (Mt 11:29).
 
VI. CHÚA THÁNH THẦN VÀ CÁC NHÂN ĐỨC

Hạ xuống khỏi những gì thuần siêu nhiên, ở đây, thiên khảo luận sẽ đáp xuống ranh giới giữa địa hạt tự nhiên và cảnh vực siêu nhiên. Nhân đức biểu thị tình trạng siêu quần và ngay chính của lương tâm, hoặc nói theo ngôn ngữ của các nhà đạo đức học và các nhà thần học luân lý thì nhân đức nói lên việc một tập tính được bổ trợ dư đầy vào một tài năng sẵn có của linh hồn, và khơi lên nơi tài năng đó một tình trạng sẵn sàng để thực thi những hành động phù hợp với bản chất lý tính của con người. Nhờ gia công luyện tập, con người có thể thủ đắc được các nhân đức; việc huấn luyện lý trí và ý chí giúp con người hình thành nên các thói quen, hay tập tính, và nhờ đó, làm cho các thái độ và hành động – vốn gây nhiều khó dễ xưa nay – trở nên dễ dàng hơn. Người có nhân đức luôn có khả năng thực hành điều thiện luân lý một cách tự do và hoan hỷ.

Các hành vi đạo đức của con người có thể mang tính cách thuần túy tự nhiên hay không: đó không còn là một tranh điểm nữa; thứ hiện sinh thể siêu nhiên hiện diện trong tín hữu điều chỉnh mọi hành vi cho phù hợp với ân sủng, và Chúa Thánh Thần như ngọn gió hằng thổi chung quanh nó. Các hành vi đạo đức có khuynh hướng luôn nhắm về Thiên Chúa. Bản tính con người đã chịu tổn thương do tội, và vì thế, sức hút của sự dữ sẽ trở nên mạnh mẽ, lôi kéo con người nhắm đến những quyết định xem chừng dễ dàng và quyến rũ hơn. Dù lãnh nhận được rất nhiều đặc sủng, am tường thấu hiểu nhiều điều bí ẩn, nhưng thánh Phaolô cũng đã sống qua kinh nghiệm ấy: “Tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm... Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm... Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa; nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi. Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Ki­tô, Chúa chúng ta!” (Rm 7:15-25). Tình trạng cam go ấy – các bậc thầy đời sống thiêng liêng gọi là “cuộc chiến thiêng liêng” – có vẻ như là con đường chính mà trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, hết thảy những ai mang xác phàm đều phải đi qua. Dù phải thừa nhận là có một số ngoại lệ giữa nhiều vị Thánh, nhưng xét cho cùng, các vị Thánh ấy cũng chỉ thuộc một thiểu số ngoại lệ mà thôi. Ở đây, có thể trưng ra một thí dụ khác nơi thánh Phaolô để xác nhận rõ hơn về điều này: trải qua nỗi khổ do “thủ hạ của Xatan”, ngài đã cầu nguyện để được giải thoát khỏi tình trạng ấy, nhưng “đã ba lần tôi xin Chúa giải thoát tôi khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: ‘Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối’” (2Cr 12:8-9). Là Đấng Tạo dựng nên con người và biết mọi sự sẽ vận hành theo cách nào, Thiên Chúa thấy rằng việc con người phải chiến đấu để đẩy lùi những yếu đuối thì tốt hơn là việc có được sức mạnh cách nhưng không. Người không để tín hữu phải đơn độc chiến đấu, vì ân sủng của Người – Thần Khí của Người – hằng dư tràn trên tín hữu suốt trong cuộc lữ hành dương thế.

Bốn nhân đức: khôn ngoan, công bình, can đảm và tiết độ được gọi là “cột trụ” (tiếng Latinh = cardo), vì chúng là nền móng của đời sống luân lý. Thế thì, đâu là mối liên hệ giữa bốn nhân đức này (và những nhân đức khác) với các ân huệ của Thần Khí? Về nguyên tắc, các ân huệ không làm suy yếu, nhưng kiện toàn các nhân đức. Nơi một người kitô, các nhân đức không tồn tại cách đơn độc; ân sủng luôn hiện diện trong tâm hồn người có nhân đức. Các ân huệ thắp lên ánh sáng lý trí, củng cố khả năng nhận thức, và giúp cho có một nhãn quan khác lạ: nhãn quan theo Thần Khí. Những quyết định con người đưa ra thường phải chịu nhiều tác động khác nhau (tính tình, áp lực xã hội, kiến thức giới hạn, v.v.); Thần Khí ban dư tràn ân huệ, tiếp thêm sức mạnh cho ý chí, đặc biệt trong những trường hợp vì quá thận trọng, con người không dám ra tay hành động. Thần Khí và chủ thể con người không phải là hai nguyên khởi của hành vi: con người mang lấy hoàn toàn trách nhiệm, còn Thần Khí thì vót bén những tài năng của chủ thể con người từ bên trong.
 
VII. TỘI PHẠM ĐẾN CHÚA THÁNH THẦN

Sau khi đã dồn tâm xem xét không biết bao nhiêu điều thiện hảo Thần Khí ban cho, thiết tưởng cũng nên để ý nhìn lại cung cách đáp trả của con người, một kiểu đáp trả – cách chung – rất là đáng trách. Đức Giêsu đã nhắc về tội nói phạm đến Thánh Thần, là loại tội sẽ không được tha cả ở đời này lẫn trong đời sau (x. Mt 12:31-32; Dt 6:4-6). Truyền thống tu đức đã nêu đích danh một số tội thuộc loại này, đó là: ngã lòng trông cậy vào Thiên Chúa nhân từ; thái độ kiêu căng, ngạo mạn, cho rằng tự bản thân, con người có thể đạt đến ơn cứu độ mà không cần đến ân sủng Thiên Chúa; có khả năng hiểu biết chân lý, nhưng lại không thi hành chân lý vì những tư lợi cá nhân; thái độ đố kỵ đối với những ân huệ thiêng liêng mà người khác nhận được; thái độ ngoan cố, quyết sống lì trong tội, không thống hối thật lòng; thái độ bất hối trong giờ lâm tử.[66]

Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đưa ra một định nghĩa như sau: “Tội lộng ngôn vi phạm trực tiếp điều răn thứ hai. Lộng ngôn là xúc phạm đến Thiên Chúa – trong lòng hay ngoài môi miệng – bằng những lời hận thù, than trách, thách thức; là nói xấu Thiên Chúa, bất kính trong lời nói, và lạm dụng Danh Thánh Thiên Chúa...” (số 2148). Dạng tội này có thể xuất hiện dưới các hình thức như là: có thái độ hoặc hành động bất kính đối với Thiên Chúa, nguyền rủa Thiên Chúa, cố ý coi khinh những điều có liên quan đến Thiên Chúa, quy gán một số điều xấu xa cho Thiên Chúa, hoặc phủ nhận một số phẩm tính tốt đẹp vốn phải được quy gán cho Người. Đức Gioan Phaolô II viết như sau: “Tội nói phạm đến Chúa Thánh Thần thực sự cốt ở thái độ triệt để khước từ ơn tha thứ mà Người ưu ái ban cho, bao hàm cả thái độ không chịu đón nhận việc hoán cải đích thực mà Người xướng lên trong lương tâm... Đó là dạng tội mà khi phạm, người ta vỗ ngực tuyên bố rằng mình có “quyền” tiếp tục ở lại trong sự dữ – trong bất kỳ một tội lỗi nào – và do đó, cự tuyệt ơn cứu độ. Khép lòng mình lại trong tội, là người ta tự cắt đường hoán cải và, do vậy, không lãnh nhận được ơn tha tội, thứ ơn mà họ coi là không cần thiết và cũng chẳng quan trọng đối với cuộc đời họ...”[67] Tội này cốt ở việc người ta coi (tin) cái xấu là tốt và cái tốt là xấu (x. Is 5:20), tức là ở việc đảo ngược tiêu chuẩn luân lý. Bất cứ ai phạm đến Thánh Thần, đều tự đặt mình ra ngoài vòng ơn tha thứ. Nói như vậy là đúng, bởi vì Chúa Thánh Thần là chính tác nhân của cuộc mạc khải về chân lý thần linh (x. 2Sm 23:2; Ga 15:26; 16:13; Ep 6:17; 2Pr 1:21). Chỉ nhờ tác động của Thần Khí, tín hữu mới có thể hiểu biết Thiên Chúa, nhận tội mình phạm, lãnh ơn cứu chuộc Đức Kitô ban, và thấy được nhu cầu phải hoán cải, thống hối và tuân phục. Sở dĩ tội phạm đến Thần Khí không thể được tha, là bởi vì nó bắt nguồn từ một thái độ cố tình phạm tội, một cõi lòng cố chấp, và một ý chí khước từ những điều phải nhận, phải tin, tức từ chối ơn tha thứ.

Nếu “mặt sáng” của nội dung giáo lý về Thần Khí đã tỏ ra rất đỗi bí nhiệm, thì ắt “mặt tối” của nó – tức tội lỗi hay thái độ khước từ ánh sáng ấy – còn bí nhiệm hơn thế nhiều. Phạm tội thông thường, người ta khép kín mắt trước ánh sáng, nhưng rồi cũng có thể mở mắt ra trở lại; còn khi phạm loại tội chống lại Thánh Thần, người ta tự móc đôi mắt mình đi... Mất ý thức về tội, thì hoặc cá nhân, hoặc cả một nền “văn hóa”, tự đặt mình vào tình trạng không thể nhận được ơn tha thứ. Bình luận văn đoạn Mt 13:43tt, John Mc­Intyre có viết như sau: “Tình trạng trống rỗng của tâm hồn và của xã hội – do việc Thần Khí vô biên của Thiên Chúa bị đặt ra ngoài vòng ảnh hưởng – càng sâu rộng bao nhiêu, thì mức độ xâm nhập của các thần lực thù địch với Thiên Chúa hằng sống càng nhiều thêm bấy nhiêu...”[68] Khi đó, con người chỉ còn biết hy vọng một điều duy nhất là phép lạ đến từ Thiên Chúa...
 

[48] The American Heritage Dictionary of the English Language, Houghton Mifflin Company, 2004.
[49] Có thể xem: Christian Duquoc and Casiano Floristán, eds., Charisms in the Church, Seabury, New York, 1978;  Leo Cardinal Sue­nens, “The Charismatic Dimension of the Church”, Council Speeches of Vatican II, eds. Hans Küng, et al., Paulist Press, Glen Rock, 1964, 29 - 34; Karl Rahner, The Dynamic Element in the Church (Quaestiones Dis­pu­tatae, 12), Herder and Herder, New York, 1964; The Pentecostal Movement in the Catholic Church, Notre Dame, Indiana: Ave Maria Press, 1971; Kilian McDonnell, ed., Presence, Power, Prase: Documents on the Charismatic Renewal, The Liturgical Press, Collegeville, 3 vols., 1980; Mark J. Cartledge, Encountering the Spirit. The Charismatic Tradition, Orbis Books, 2007.
[50] G.O’Colins & E.G. Farrugia, A Concise Dictionary of Theology, Pau­­list Press, 1991.
[51] Paul Kariuki Njiru, Charisms and the Holy Spirit's activity in the body of Christ. An Exegetical-Theological Study of 1Cor 12,4-11 and Rom 12,6-8, Roma: Gregorian University, 2002.
[52] Christifideles laici (n.24).
[53] Đối thoại với Triphô, 82.
[54] Chống Lạc giáo,  II, 4.
[55] Bàn về Phép Rửa 20.
[56] Các bài Huấn giáo, 18:32.
[57] Cũng nên lưu ý là dù được tràn đầy Thần Khí, Đức Giêsu vẫn không cho thấy một dấu hiệu xuất thần nào, bởi Thần Khí là của Người và hoạt động từ trong Người, trong khi đó, các người khác thì nhận đuợc Thần Khí từ bên ngoài. Trong Đức Giêsu, hoạt động của Thần Khí là ‘tự nhiên’, nhưng nơi người khác, thì hoạt động đó phải san bằng các rào cản và vượt qua các giới hạn của bản tính.
[58] De Trinitate, XII. 14; XIV.1.3
[59] Super Sententiis, lib. 3 d. 36 q. 1 a. 3 ad 1.
[60] Nhiều tác giả đã viết về phân định thần loại, như các giáo phụ (chẳng hạn bài ngỏ lời của thánh Antôn với các đan sĩ Ai cập, ghi lại trong cuốn tiểu sử của ngài do thánh Athanaxiô viết, hoặc cuốn De perfectione spirituali [ch. 30-33] của Marcus Diadochus), hay như các tác phẩm viết thời Trung cổ (bài giảng XXIII trong cuốn De discretione spirituum của thánh Bênađô; cuốn sách De diversis diaboli tentationibus của Gerson), hoặc trong thời hiện đại (bất cứ bài khảo luận nào, viết về cuốn Linh Thao của thánh Inhã Loyola, chẳng hạn: Timothy Gallagher, Discernment of Spirits: The Ignatian Guide for Everyday Living, Crossroad Pub Co, 2005; xin cũng xem “Discernment of the spirit and of spirits”, Concilium, 1979.
[61] Super I Epistolam B. Pauli ad Corinthios lectura, cap. 11.10.
[62] Tổng Luận Thần Học, 2-2, q. 178 a. 1.
[63] Tổng Luận Thần Học, Iª-IIae q. 111 a. 4 ad 2.
[64] Xem Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, các số 2558-2567.
[65] Ugolino Verino, Epigrammata, Liber III, số 18.
[66] Đôi khi, người ta nhắc đến 7 tội phạm đến Thần Khí: 1) lừa dối Người (Cv 5:3, 4); 2) nhục mạ Người: “Anh em thử nghĩ xem... kẻ nhục mạ Thần Khí ban ân sủng... còn đáng chịu hình phạt ghê gớm hơn biết mấy?” (Dt 10:29); 3) nói phạm đến Người (Mt 12:24-32; Lc 12:10; Mc 3:29); 4) làm phiền lòng Người (Ep 4:30; Is 63:10); 5) dập tắt Người (1Tx 5:19); 6) chống đối Người (Cv 7:51; Kh 22:17); 7) không tin Người (Ga 3:6, 14:26, 15:26, 16:7-15).
[67] Thông điệp Chúa và là Đấng ban Sự sống, số 46; xem các số 46-48.
[68] John McIntyre, The Shape of Pneumatology, T&T Edinburgh, 1997, tr. 73.