KHÁI LUẬN THẦN HỌC VỀ CHÚA THÁNH THẦN
Tác giả: Lm. Felipe Gómez Ngô Minh, SJ.
***
***
PHẦN VI: THẦN KHÍ VỚI ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG
III. CÁC ÂN HUỆ CỦA THÁNH THẦN
Các ân huệ thường được quan niệm như là những “tập tính” thiên phú, được trao ban cho tín hữu cùng với ơn công chính hóa và ơn nghĩa tử thần linh. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo giải thích điều đó như sau: “Đời sống luân lý của người kitô được đỡ nâng nhờ các ân huệ do chính Thánh Thần ban cho. Đó là các thiên hướng có tính cách vững bền nhằm vào việc giúp con người biết ngoan ngoãn sống theo tác động thúc đẩy của Chúa Thánh Thần” (số 1830). Thiên Chúa là Đấng tặng ban tự bản thể, và hết thảy những gì tồn tại trong vũ trụ đều là ân huệ do Người ban tặng: món quà hiện hữu, món quà sự sống,... cùng tất cả những gì làm nên con người và thuộc sở hữu của con người. Chính Người đã trở thành ân huệ tối cao, qua việc làm cho người kitô “được thông phần vào bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1:4). Có thể dùng một cách diễn tả khác biểu trình ý niệm thông phần này, đó là sự việc Thiên Chúa cư ngụ bên trong tâm hồn con người, như lời Đức Giêsu đã hứa: “Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14:23). Các nhân đức đối thần – Tin, Cậy, Mến – là những ân huệ thiên phú, ban cho khả năng dự phần vào tri thức và tình yêu của Thiên Chúa. Các ân huệ chính là những phúc ân siêu nhiên nhằm vào việc tăng cường và rèn giũa tính cách bén nhạy và thái độ đáp trả đối với Thiên Chúa và kế hoạch cứu độ của Người.[19]
Như thường thấy, hễ nhắc đến “các ân huệ” của Thánh Thần, là tín hữu lại dễ dàng quên khuấy đi rằng ân huệ đầu tiên hết chính là Thần Khí: một trong các danh hiệu của Thánh Thần là “Ân huệ”, donum, dorea... như đã đọc thấy ở phần trước. Các hành động Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử (tức các ân huệ của Người) thường được phân chia theo một trình tự bao gồm các giai đoạn khác nhau: tạo dựng (Cha), cứu chuộc (Con) và... thời gian sau hết của cuộc cứu độ (Thánh Thần), “qua phép rửa ban ơn Thánh Thần để được tái sinh và đổi mới” (Tt 3:5). Theo thánh Gioan, Đức Kitô phải hoàn tất sứ mạng của mình trước khi Thánh Thần ngự đến: “... chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giêsu chưa được tôn vinh” (Ga 7:39). Và do đó, vào ngày sống lại, ân huệ đầu tiên mà Đấng Phục sinh ban tặng là: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20:22); chính nhờ Thánh Thần này mà hết thảy mọi ân huệ khác mới được ban cho. Do đó, trong ngày lễ Hiện xuống, Giáo hội thành tâm kêu cầu rằng: “Xin hãy đến, Đấng ban phát mọi hồng ân.”
1. Nguồn gốc các “ân huệ”
Chúa Cha chính là nguồn gốc tối hậu của hết thảy những gì là thần linh: Người trao ban Con, Người trao ban Thần Khí. Dù vậy, đối với con người, nguồn gốc gần nhất lại là Thần Khí, “Đấng ban phát các ân huệ.” Một số bản văn Kinh Thánh đã trình xuất cho thấy một loạt danh sách những điều gọi là các ân huệ, đặc sủng, hay hoa quả,[20] được cho là có nguồn gốc từ nơi Thánh Thần.
Được gọi là “các ân huệ” bởi vì chúng có nguồn gốc ở nơi ý định tự do – của Thần Khí – của Thiên Chúa, tức xuất phát từ tình yêu phong phú của Người, chứ hoàn toàn và tuyệt đối không phải do công trạng của con người mà có. Người kitô phải biết ra sức cầu nguyện thì mới lãnh nhận được các ân huệ đó... Thiết tưởng cũng cần phải lưu ý rằng các bản văn Kinh Thánh chỉ liệt kê một số danh sách tiêu biểu – chứ không nêu hết tất cả – các ân huệ Thánh Thần; do đó, không nên nghĩ rằng Thần Khí chỉ ban tặng các ân huệ được kể ra như thế kia mà thôi, và cũng đừng hiểu rằng các ân huệ này sẽ được liên tục ban cho mãi mãi. Hơn ở đâu hết, trong tác động ban phát các ân huệ này, Thiên Chúa – Thần Khí – hoàn toàn tự do. Theo quan niệm thường thấy, ân huệ Thánh Thần được liên kết với phép rửa (x. Cv 2:38); tuy nhiên, như thần học hằng ra sức khẳng quyết, quyền năng tự do vô hạn của Thần Khí không thể nào “bị trói buộc vào và bởi các bí tích,” và Người có thể ngự đến với những người chưa lãnh nhận phép rửa để làm cho họ trở nên các tín hữu, chẳng hạn như trong trường hợp của viên đại đội trưởng Cônêliô (x. Cv 10).
2. Mục đích
Theo lối quan niệm thường thấy thì các ân huệ đều nhằm vào mục đích thánh hóa các cá nhân; trong khi đó, các đặc sủng thì hướng tới các dịch vụ trong Giáo hội. Trong kitô giáo, không hề thấy có bất kỳ một ân sủng nào mang tính cách “riêng tư”; bởi vì, dù có được ban cho một cá nhân nào đó, thì mọi ân huệ cũng đều nhắm đến tất cả mọi người, hệt như ánh nến có sức chiếu tỏa trên hết thảy mọi sự vậy. Chắc chắn rằng các ân huệ, một khi được trao ban, sẽ thánh hóa kẻ lãnh nhận chúng, bởi vì qua đó Thiên Chúa muốn thánh hóa con người: “các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 11:45). Thần học không ngừng xác quyết rằng mọi công trình Thiên Chúa thực hiện đều nhằm vào vinh quang của Người. Nói rẳng Gloria Dei vivens homo, là thánh Irênê đã biểu trình rất cô đọng về tiêu đích đó: “vinh quang Thiên Chúa là sự sống con người,” tức là con người không những phải nên thánh mà còn phải sống thánh thiện nữa. “Sự sống” này có nghĩa trước hết là con người được dự phần vào bản tính – cũng như trở nên giống hình ảnh – của Thiên Chúa Hằng Sống, và sau nữa, là việc sống đức ái – giới luật kitô đầu tiên và căn bản nhất – theo cách thế nhân loại, trong một gia đình, một cộng đồng, một xã hội; thiếu đi chiều kích xã hội đó, tất đức ái sẽ chỉ còn là tự ái, là vị kỷ mà thôi. Vì Thần Khí là Tình Yêu siêu việt, nên hết thảy mọi ân huệ Người ban cho đều đượm nhuần tình yêu; hoặc nói cách khác, hễ lúc nào một ân huệ được ban ra, thì tình yêu cũng được ban kèm; như thế không có nghĩa tình yêu chỉ là một dạng “ân huệ ban thêm”, nhưng chính là “linh hồn” của mỗi một ân huệ. Các ân huệ không “tiết lộ” cho thấy tính cách thánh thiện của một con người; khi Thần Khí ban phát một ân huệ hoặc một đặc sủng cho một ai đó, thì Người không có ý bảo rằng người này thánh thiện hơn những kẻ khác, nhưng quả thực là Người hoàn toàn tự do trong việc chọn lựa cá nhân đó để biểu lộ mối quan tâm Thiên Chúa dành cho dân Người, hoặc để giúp cho hoàn tất một sứ mạng nào đó.
3. Bẩy Ân huệ Thánh Thần
Con số 7 ân huệ này được rút ra từ văn đoạn Is 11:2-3, đọc thấy như sau: “Thần Khí Đức Chúa sẽ ngự trên Vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa. Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú; Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói.” Tiên tri Isaia chỉ đề cập đến sáu ân huệ; nhưng bản Kinh Thánh Bảy Mươi tiếng Hy lạp, và bản Kinh Thánh Phổ thông của thánh Hiêrônimô sau đó, đã dịch cụm từ “lòng kính sợ Đức Chúa” thành “lòng sùng tín” (tiếng Hy lạp = eusebia, tiếng Latinh = pietas), làm tròn thành bảy con số các ân huệ. Văn đoạn này ám chỉ đến Đấng Mêsia – Đức Giêsu Kitô – tức là muốn nêu bật cho thấy rằng chính nhờ Người mà mọi lời hứa cho Đavít sẽ được hoàn tất; tuy nhiên, dựa theo “nguyên tắc nhiệm cục,” các Giáo phụ đã cho rằng hễ bất cứ điều gì được áp dụng thích đáng cho Đức Kitô thì cũng đều có thể áp dụng tương tự cho các kitô hữu, theo lối biểu tượng hay nguyên tắc dự phần.[21] Thánh Phaolô viết về điều này như sau: “Vì những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8:29). Có thể nói rằng Thần Khí hiện diện tràn đầy trên Đức Giêsu thể nào, thì cũng hiện diện như thế trên các chi thể trong thân thể Đức Giêsu, làm cho các chi thể ấy trở nên “giống như” Ngài và được phú ban (một phần) các ân huệ của Người.[22] Trong Phụng vụ, Giáo hội cầu nguyện như sau:
Tu septiformis munere digitus Paternae dexterae… (“Người là Đấng ban phát bảy ân huệ, là ngón tay hữu của Cha”)
Và trong nghi thức ban phép Thêm Sức, giám mục chủ sự đặt tay trên các thụ viên và cầu nguyện rằng:
“Lạy Thiên Chúa toàn năng – là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con – nhờ nước và Thánh Thần, Chúa đã giải thoát các tôi tớ Chúa đây khỏi ách nô lệ tội lỗi và ban cho họ được ơn tái sinh. Xin hãy ban Thánh Thần của Cha trên những người này để Người trở nên Đấng Phù trì và hướng dẫn họ. Xin ban cho họ thần trí khôn ngoan và thông hiểu, thần trí lo liệu và sức mạnh, thần trí suy biết và đạo đức. Xin ban cho họ thần trí biết kính sợ trước tôn nhan Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. – Amen.”
Kinh nghiệm kitô cho thấy rằng Thần Khí có thể hoạt động theo những cách thức bất khả tiên đoán; bởi đó, việc nỗ lực “phân loại” hoặc giới hạn các ân huệ của Người vào một con số nhất định nào đó là điều vô ích. Nhắc đến “bảy” ân huệ Thánh Thần là muốn hàm chỉ về một con số “hoàn hảo” có tính cách tượng trưng cho mức độ trọn vẹn của các ân huệ, chứ không phải là biểu thị một số lượng toán học chính xác. Cả khi luôn ra sức “bảo toàn” con số có tính cách truyền thống đó, thì thánh Tôma Aquinô cũng phải thừa nhận rằng: “Rõ ràng là những ân huệ đó luôn trương dãn đến giới mức mà các nhân đức luân lý và trí tuệ có thể vươn tới.”[23] Phân loại các ân huệ theo cách thức đó, có vẻ như truyền thống Giáo hội muốn biểu thị tính chất tương tự với các “bộ bảy” khác, chẳng hạn như: bảy ngày trong tuần, bảy bí tích, v.v.. Tựu trung, các Giáo phụ kỳ cựu đã đọc ra các ý nghĩa ám chỉ về “bảy ân huệ” của Thần Khí trong sách Khải huyền, cụ thể như sau: “bảy thần khí của Thiên Chúa” (Kh 1:4; 5:6), “bảy cây đèn vàng” (1:12), “bảy ngôi sao” (1:16), “bảy ngọn đuốc” cháy sáng trước ngai Thiên Chúa (4:5), “bảy ấn niêm phong” cuốn sách (5:1.5), Con Chiên có “bảy sừng và bảy mắt” (5:6), cùng bất cứ văn đoạn nào có từ “bảy” xuất hiện. Ở bên Tây, ít nhất là kể từ thời thánh Ambrôxiô trở về sau, danh mục bảy ân huệ này xem như đã mang hẳn tính chất cố định.[24] Thánh Grêgôriô Cả đã quy gán cho mỗi ân huệ một đích cụ thể: ơn thượng trí (=khôn ngoan) bổ khuyết cho tính dại dột; ơn thâm hiểu (=thông minh) cho trí tuệ thiếu sắc bén; ơn chỉ giáo cho tính hấp tấp, vội vàng; ơn dũng cảm cho tính lo âu; ơn sùng hiếu (=đạo đức, hiếu thảo) cho thái độ cứng cỏi của tâm hồn.[25]
Truyền thống thần học Công giáo đã coi các ân huệ như là những phẩm chất – hoặc đức tính – siêu nhiên và thường tại; chúng có khả năng làm cho một con người biết dồn hết chú tâm để lắng nghe tiếng Chúa, giúp dễ dàng đón nhận các tác động của trợ sủng (actual grace), giúp yêu mến các điều thuộc về Thiên Chúa, và do đó, giúp một cho biết tòng phục và ngoan ngoãn trước các tác động thần hứng của Thánh Thần. Mọi ân huệ đều ở trong cùng một mối tương quan mật thiết với nhau và có tác dụng củng cố lẫn nhau. Tuy mỗi ân huệ đều mang trong mình một tính cách trọn vẹn như nhau, nhưng truyền thống thiêng liêng đã phân chia chúng theo thứ tự dựa trên quan niệm về mức độ ưu việt của mỗi ân huệ; theo đó, bậc dưới cùng là ơn kính sợ Thiên Chúa và trên cùng là ơn khôn ngoan. Nếu hiểu theo một cách nào đó, thì các ân huệ được coi là tương tự như các nhân đức; dù vậy, nét khác biệt giữa chúng có thể chỉ ra là: các nhân đức có hoạt động hiệu quả được là nhờ sức thôi thúc của lý trí con người (do ân sủng tác động), trong khi đó, các ân huệ được hiệu lực hóa nhờ tác động thúc đẩy của Thánh Thần; tắt một lời, nhân đức là thứ do con người tập tành mà có, còn ân huệ là thứ chỉ do Thánh Thần ban tặng cách nhưng không mới có được mà thôi.
Phần dưới đây sẽ lược trình các ân huệ của Thánh Thần theo thứ tự từ dưới lên trên.
a. Ơn Úy Kính (Kính sợ Thiên Chúa)
Dù ơn Khôn ngoan được coi là ân huệ tối cao, thì nó cũng khởi đầu từ ơn Úy Kính, như Kinh Thánh đã cho thấy: Lòng “kính sợ Đức Chúa là bước đầu của khôn ngoan” (Cn 9:10; x. Tv 111:10), và “là bước đầu của tri thức” (x. Cn 1:7); hoặc như văn đoạn G 28:28 đã nêu: “kính sợ Chúa Thượng, đó là khôn ngoan”; hay, “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời” (Tv 19:9). Ân huệ này được coi như là nền tảng của hết thảy mọi ân huệ khác; thánh Inhã Loyola đã ám chỉ đến ân huệ này nơi bài “Nguyên lý và Nền tảng” trong sách Linh Thao: “Con người được dựng nên để ngợi khen, tôn kính [trong tiếng Tây ban nha có thể dịch là “Úy Kính”] và phụng sự Thiên Chúa, và nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình.”
Úy Kính tức là thái độ kính trọng, hay tôn kính, dành cho Đấng chí thánh uy linh; đó không phải là phản ứng sợ hãi theo kiểu hoảng loạn, kinh hoàng trước Thiên Chúa, nhưng là nỗi sợ xuất phát từ tâm trạng không muốn làm mất lòng Người. Trong thời đại này, con người thường nhấn mạnh đến “tình yêu,” coi đó là điều tốt đẹp, và theo đó, liên tưởng đến cái đối lập với nó – là “nỗi sợ” – vốn được cho là thứ xấu xa. Thực ra, có thể ví “tình yêu” và “nỗi sợ” trước Thiên Chúa với “bàn đạp ga” và “bàn đạp thắng” của chiếc xe hơi: không có bàn đạp ga, tất chiếc xe sẽ không tiến lên nổi, và chắc chắn rằng, chẳng ai dám lái một chiếc xe không có thắng. Tựu trung, nỗi sợ lớn nhất của một người đang yêu là nỗi sợ rơi vào cảnh đánh mất tình yêu.
Có thể đọc thấy nơi truyền thống xa xưa của Cựu Ước những lời khuyên như sau: “Giờ đây, hỡi Ítraen, nào Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, có đòi hỏi anh em điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được hạnh phúc?” (Đnl 10:12-13). Từ đó, có thể nhận ra được rằng, theo cách biểu đạt của Kinh Thánh, nỗi sợ và tình yêu không nằm ở trong thế đối nghịch nhau, nhưng đơn giản, chúng chỉ là hai mặt của cùng một đồng xu mà thôi. Cả Đức Giêsu – Đấng hiện diện như là “lòng nhân hậu và yêu thương của Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt 3:4) – cũng đã khuyên rằng: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10:28). Lẽ tất là “tình yêu hoàn hảo thì loại trừ sợ hãi” (1Ga 4:18), nhưng khổ nỗi, tình yêu của con người lại hiếm khi đạt đến một mức độ lý tưởng như thế.
Thần học đã xếp ơn Úy Kính vào số các tập tính siêu nhiên, coi đó như một khuynh hướng thiêng liêng giúp cho kitô hữu có thể bày tỏ lòng tôn kính đối với Thiên Chúa như là Đấng Tạo dựng, Đấng là Cha của mình, và nhờ đó, phát sinh tâm tình sợ phải làm mất lòng Người trong hết thảy mọi sự. Như lời thánh Tôma Aquinô nhắn nhủ: vì Thiên Chúa là Đấng Nhân lành tuyệt bực, nên tín hữu không nên tỏ bất kỳ một thái độ sợ sệt nào trước Người, nhưng phải biết lo sợ về những điều vốn có khả năng làm cho đi trệch ra khỏi đường lối Thiên Chúa.[26] “Nỗi sợ” này không phải là thái độ kinh hoàng hay lo lắng, mà là thái độ bình thản với ý chí quyết tâm giữ vững lòng trung tín. Dựa theo bản tính cố hữu của mình, người kitô cần thiết phải ra sức xa lánh sự dữ trước khi có thể thực thi điều lành; cái sợ điều dữ là bước khởi đầu của tiến trình hành vi luân lý. Truyền thống đạo đức học đã phân chia ơn Úy Kính thành hai dạng loại: thảo kính (lòng kính sợ của người làm con) và nô úy (lòng kính sợ của kẻ nô bộc). Dạng thứ hai là nỗi sợ bị trừng phạt – thường là sợ phải sa hỏa ngục – nên tự bản chất, nó là điều không tốt cho lắm; dù vậy, nó cũng có thể trở nên hữu ích nếu nhờ nó mà tín hữu biết cải hối hoặc xa lánh dịp tội, và trong trường hợp này, nó được gọi là úy hối. Xét cho cùng, động lực thúc đẩy đứa con hoang đàng trở về với cha nó không phải là tình yêu, mà là thái độ “úy hối,” tức là nỗi ân hận xuất phát từ tình cảnh đáng thương của nó.[27] Trong sách Linh Thao, thánh Inhã Loyola giới trình một bài suy niệm về Hỏa ngục với ơn xin như sau: “... để nếu tôi có lỡ quên mất tình yêu dành cho Chúa vĩnh cửu, thì ít cũng là vì sợ phải chịu hình phạt mà tôi sẽ tránh cho khỏi sa vào vòng tội lỗi” (số 65). Công đồng Trentô dạy rằng dạng Úy Kính này có thể coi là tốt, và đó chính là ân huệ khởi đầu của Thánh Thần cho dù Người chưa ngự vào trong linh hồn. Vả, ân huệ của Thần Khí cũng luôn “đượm nhuần” đức ái, ít là vào giai đoạn khởi đầu. Thái độ thảo kính là hoa trái của tình yêu, là lòng tôn kính đối với Thiên Chúa theo tâm tình của một người con đối với Cha mình. Đó chính là ân huệ đã nâng đỡ các vị tử đạo, như lời Đức Giêsu đã báo trước: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt 10:28).
Ơn Úy Kính cũng tác động đến nhiều nhân đức khác, đặc biệt là đức cậy. Ai kính sợ Thiên Chúa thì chẳng còn phải sợ bất cứ điều gì hay bất cứ người nào khác nữa. Đó là thái độ biết đặt niềm trông cậy nơi sự Quan phòng của Thiên Chúa, chứ không cậy bám nơi các thụ tạo như tiền bạc, quyền lực, bạn bè hoặc tài năng có được. Về điều này, tác giả các Thánh Vịnh đã tuyên bố rõ như sau: “Họ không lo phải nghe tin dữ, hằng an tâm và tin cậy Chúa, luôn vững lòng không sợ hãi chi” (Tv 112:7-8). Lòng tôn kính dành cho Thiên Chúa hiển bày phẩm tính toàn năng của Người; lời tuyên xưng đức tin của người kitô khởi đầu với câu: “Tôi tin kính một Thiên Chúa duy nhất nảy sinh trong đầu ý niệm về một vẻ đáng kinh, đáng khiếp, đáng sợ nào đó, vốn có khả năng gây ra một thái độ kính sợ dạng nô úy; dù vậy, Đấng được gọi là toàn năng ở đây lại mang tính cách hiền phụ, hằng gợi lên trong tâm hồn con cái mình tâm tình phó thác, cậy trông. Có như thế, thì dù là ở giữa cảnh bách hại, người kitô vẫn một dạ xác tín vào lời Đức Giêsu đã hứa: “một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu” (Lc 21:18).
Trong mối quan liên với đức tiết độ, ơn Úy Kính cũng giúp tín hữu làm chủ được mình trước các thứ cám dỗ đánh vào dục vọng con người. Lòng tham vô đáy, hay sức quyến dỗ của chủ nghĩa tiêu thụ, làm cho con người trở nên mê muội và bị lôi kéo ra khỏi cương giới của lý trí và đức công bình; nếu chỉ dựa vào cung cách hành xử của một con người không thôi, thì khó mà quan niệm được tội là gì; chính ơn Úy Kính mới giúp khai nhãn để nhận diện được tội cùng những hậu quả của nó. Tv 4:5 khuyên rằng: “hãy run sợ, và đừng phạm tội nữa.” Ơn Úy Kính cũng giúp vun trồng đức thờ phượng, vì nó làm gia tăng lòng tôn kính vốn là phản ứng tự nhiên của con người trước mysterium tremendum (mầu nhiệm khủng khiếp) của thực tại thờ phượng.[28] Đó là thái độ kinh hoàng của tiên tri Isaia khi đối diện với “Đức Chúa các đạo binh” (x. Is 6:5); đó là thái độ hoảng sợ của các Tông đồ khi chứng kiến uy thần của Đức Kitô: “Các ông hoảng sợ, kinh ngạc và nói với nhau: ‘Người này là ai vậy?” (Lc 8:25). Lòng sùng tín kitô bổ khuyết vào – chứ không triệt hủy – khả năng sùng tín tự nhiên. Nó giúp đẩy mạnh ý thức tôn kính dành cho các đồ vật thánh và những nơi thánh vốn đang bị nền văn hóa thế tục hiện đại ra sức phá bỏ hoàn toàn. Chẳng hạn, đã bước vào những nơi chốn thờ phượng thì nhất thiết phải thể hiện một thái độ tôn kính cần có, như lời căn dặn đọc thấy trong thư gửi tín hữu Do thái: “Cho nên, bởi vì chúng ta được lãnh nhận một vương quốc vững bền không lay chuyển, chúng ta phải biết ơn Thiên Chúa. Với lòng biết ơn đó, chúng ta hãy kính sợ mà phụng thờ Thiên Chúa cho đẹp lòng Người” (Dt 12:28). Chính Đức Giêsu cũng đã cầu nguyện với những tâm tình như thế (xem Dt 5:7). Sau hết, ơn Úy Kính đưa dẫn đến đức khiêm nhượng, bởi vì đó là kết quả của việc nhận biết được con người là ai trước mặt Thiên Chúa: sự thật về con người. Thánh Phêrô đã có những lời nhắn nhủ như sau: “Anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định” (1Pr 5:6). Ân huệ đó làm cho tín hữu khỏi rơi vào thái độ kiêu căng, vì nói cho cùng, mọi sự con người có được cũng đều nhờ cả vào ân huệ Thiên Chúa ban cho: “bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cr 4:7). Đó còn là lẽ thường tình mà ai ai cũng hiểu, như Đức Giêsu đã dạy qua dụ ngôn về việc đi dự tiệc cưới (x. Lc 14:7tt): hãy chọn chỗ cuối mà ngồi... Việc tỏ thái độ kiêu căng, phô bày vẻ ngạo mạn cũng chẳng khác gì chuyện ra tay cướp giật vinh quang Thiên Chúa, tức chiếm làm của riêng những thứ vốn thuộc về Đấng Toàn năng; ơn Úy Kính là một “chiếc phanh” thượng hạng giúp hãm siết các khuynh hướng lệch lạc kiểu đó. Đối với thái độ tự tin quá đáng, thánh Phaolô cũng đã gióng tiếng cảnh báo: “Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10:12); ngài cũng khuyên nhủ “toàn thể các thánh” trong giáo đoàn Philípphê (Pl 1:1) như sau: “anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo sao cho mình được cứu độ” (2:12). Còn về chính mình, ngài viết: “Vậy, vì biết kính sợ Thiên Chúa, chúng tôi cố gắng thuyết phục người ta” (2Cr 5:11); rồi tiếp đó: “Anh em thân mến, vì nắm được những lời hứa ấy, nên chúng ta hãy tẩy rửa hồn xác cho sạch mọi vết nhơ, và đem lòng kính sợ Thiên Chúa mà lo đạt tới mức thánh thiện hoàn toàn” (7:1).
Qua những gì vừa trình bày trên đây, thiết nghĩ cũng đã khá đủ để giúp nhận rõ là ơn Úy Kính, dù được xếp vào hàng thấp nhất, thì cũng chính là chiếc thang giúp tiến lên những tầng nấc cao khác – kể cả tầng nấc cao nhất – bởi vì nó hằng ra sức vun xới cho đức khiêm nhường. Mà đã rõ ràng là như vậy rồi thì khỏi cần phải nhắc gì thêm đến khả năng sinh ích của nó đối với đức ái, đức kiên nhẫn, đức công bình... Hoa trái mà ân huệ này đơm kết chính là lương tâm trong sạch. Phụng vụ Giáo hội hằng nhắc nhở để các tín hữu của mình ý thức rằng mọi lời cầu nguyện kitô đều quy về “Thiên Chúa Toàn năng hằng sống”, “Thiên Chúa quyền năng và dũng mãnh” (dịch từ chữ Dominus Deus Sabaoth). Thánh thi Te Deum thưa lên Thiên Chúa là Pater imensae majestatis, tức là “Cha Uy nghi vô biên.” Cảm xúc của con người trước Đấng Uy nghi ấy được biểu lộ rõ ràng, như thấy qua thị kiến mở đầu của tiên tri Isaia (x. Is 6:5), hoặc qua thị kiến của thánh Gioan ở đảo Pátmô trước Chúa Phục Sinh: “lúc thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy. Người đặt tay hữu lên tôi và nói: ‘Đừng sợ...’” (Kh 1:17). Một số vị thánh cũng có được cách kiểu cảm nhận tương tự; chẳng hạn, thánh Têrêxa Avila đã viết rằng: “với tôi, dường như chẳng thể còn cái chết nào khủng khiếp hơn là ý nghĩ về sự việc có thể làm mất lòng Thiên Chúa” (Vida 34,10). Chưa đủ thánh thiện đến mức độ đó thì khó mà hiểu thấu được ân huệ Kính sợ Thiên Chúa lớn lao đến dường nào. Song dù gì đi nữa, Thiên Chúa cũng yêu thương hết thảy mọi con cái Người. Dù Người đã dành hết tình yêu thương cho dân tuyển của Người khi xưa, thì lúc Người xuất hiện trước họ, họ vẫn cảm thấy sợ hãi, để rồi Môsê đã phải lên tiếng trấn an: “Đừng sợ hãi, vì Thiên Chúa đến là để thử thách anh em và làm cho anh em luôn luôn kính sợ Người, ngõ hầu anh em đừng phạm tội” (Xh 20:20). Sâu tận đáy lòng, Đavít đã tâm tình cùng Thiên Chúa rằng:
“Lạy Chúa, xin dò xét để biết rõ lòng con,
xin thử con cho biết những điều con cảm nghĩ.
Xin Ngài xem con có lạc vào đường gian ác
thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời” (Tv 139:23-24).
b. Ơn Sùng Hiếu
Từ “sùng hiếu” hàm dung một số ý nghĩa căn bản. Theo cách lý giải của thánh Tôma Aquinô, đó là hiếu hạnh tự nhiên, là một nhân đức và là một ân huệ; ngài cắt nghĩa rõ ràng như sau về nét khác biệt giữa các ý nghĩa đó:
“Xét như bổn phận thờ kính người cha trần giới, thì sùng hiếu là một nhân đức; còn xét như bổn phận thờ phượng Thiên Chúa như Cha, thì đó là một ân huệ.” Rồi ngài lý luận tiếp: “Thái độ thờ kính Thiên Chúa như là Đấng Tạo dựng – biểu hiện qua đức thờ phượng – thì cao cả hơn là tâm tình tôn kính người cha phàm trần được biểu lộ qua đức hiếu thảo. Song, tâm tình thờ phượng Thiên Chúa như là Cha còn tuyệt vời hơn cả thái độ thờ kính Thiên Chúa như là Đấng Tạo dựng và như là Chúa nữa. Bởi đó, đức thờ phượng thì lớn lao hơn cả đức hiếu thảo; trong khi đó, ơn sùng hiếu thì lớn lao hơn cả đức thờ phượng.”[29]
Sùng Hiếu là một ân huệ làm cho tín hữu có thể biểu lộ thái độ tôn kính và tâm tình thờ phượng dành cho Thiên Chúa như Người đáng được; nếu chỉ cậy vào sức riêng của mình, thì con người không đủ khả năng làm được điều đó. Trong huấn từ sau kinh Truyền tin, ngày 28.05.1989, Đức Gioan Phaolô II đã nêu bật cho thấy ý nghĩa của ân huệ này: “Với ơn Sùng Hiếu, Thần Khí chữa lành mọi dạng tật cứng lòng của ta, khơi dậy tâm tình sốt mến hướng về Thiên Chúa và các anh chị em ta.” Cùng với đức hiền lành, ân huệ này làm cho cõi lòng tín hữu đượm nhuần sức trìu mến sâu xa và tình yêu huynh đệ. “Hơn nữa, ơn Sùng Hiếu còn có sức dập tắt những ngọn lửa bất hòa và chia rẽ – vốn chỉ làm cho tâm hồn hóa chua cay, hận sầu và mất nhẫn nại – cùng thắp lên những tâm tình cảm thông, dung nhẫn và thứ tha. Bởi đó, một ân huệ như thế tất phải là phần móng của một cộng đồng nhân loại mới, được xây dựng trên nền văn minh tình yêu.”
Thánh Phaolô đã quyết liệt lên án những kẻ vô đạo đương thời vì thái độ “bất hiếu” của họ đối với Thiên Chúa: kẻ ăn ở bất chính thì chỉ biết “nói hành nói xấu, vu oan giá họa, thù ghét Thiên Chúa, ngạo ngược, kiêu căng, khoác lác, giỏi làm điều ác, không vâng lời cha mẹ, không có lương tri, không giữ lời hứa, không chút tình cảm, không chút xót thương” (Rm 1:30-31); đó chính là thái độ nghịch đạo – hậu quả của việc thiếu ơn sùng hiếu – xét về ý nghĩa tôn giáo lẫn theo luân thường đạo lý giữa xã hội. Thái độ cứng lòng đó làm cho con mắt tâm hồn trở nên mù lòa, khiến con người không còn đủ sức nhìn ra sự dữ để rồi đối xử với nhau như những đồ vật đáng vứt đi; điển hình như việc phá thai và làm cho chết êm dịu, hoặc như tình trạng bóc lột sức lao động vì lợi nhuận kinh tế, hay như thực trạng lạm dụng tình dục trẻ em, khiêu dâm, cùng mọi dạng dịch vụ khai thác tình dục khác.
Sùng Hiếu – xét như một nhân đức – xuất phát từ bản đức công chính, đòi hỏi con người phải thực thi bổn phận tôn kính cha mẹ, thương yêu anh chị em trong nhà, kính trọng bậc trên, nhún nhường bậc dưới đối với tha nhân trong xã hội. Nhân đức này là cái cốt tủy trong nền luân lý Khổng giáo và là nền tảng của lòng từ bi Phật giáo. Ân huệ Thần Khí dành cho kitô hữu làm cho “xác thể” tự nhiên trở nên sống động nhờ “hồn tính” của sức tác động thiêng liêng: Cha trên trời được con cái thảo hiền dưới đất hết lòng sùng kính, thờ phượng và tôn vinh. Như một hệ quả tất yếu, lòng kính mến đó sẽ được làm cho tỏa lan sâu rộng đến toàn thể “gia quyến” của Người – mà trước hết là đến các anh chị em Đức Giêsu, Con của Người, trong Thân thể Giáo hội – vì Người đã tiền định cho con người “nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8:29; x. Ep 1:5). Như thế, xét cho cùng, nền “văn minh tình yêu” là một tầm nhìn hướng đích – một mẫu hình lý tưởng – về viễn cảnh “chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa; chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người và trong mọi người” (Ep 4:5-6). Tuy nhiên, phải nói ngay rằng đó chẳng hề là điều hão huyền, không tưởng, bởi vì nó được đặt trên nền tảng vững chắc là đức tin: trong Thần Khí, người kitô “không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các thánh, và là người nhà của Thiên Chúa” (2:19). Nhờ “Thần Khí ban ơn nghĩa tử” mà tín hữu mới dám gọi – audemus dicere – Thiên Chúa là Ápba, Cha ơi! Bởi vì kitô hữa thực sự là con cái của Thiên Chúa (x. Rm 8:15-16; 1Ga 3:1). Ơn Sùng Hiếu tỏa trùm một bầu khí tâm tình trên hết thảy mọi kinh nguyện kitô, vì chính Đức Giêsu đã dạy người kitô cầu nguyện với kinh “Lạy Cha!” Sống giữa lòng những thực tại vật chất hữu hình, các tín hữu “thảo hiếu” có bổn phận phải “bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương” (Ep 5:1). Và phải nhờ ân sủng Thiên Chúa ban cho, thì người kitô mới đủ sức chu toàn được bổn phận đó, như Giáo hội đã dạy qua một lời kinh trong phụng vụ: “Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban. Những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.”[30]
Mối tử hệ thần linh (chiều dọc) được chuyển hóa thành mối tương quan huynh đệ (chiều ngang) giữa các tín hữu và giữa con người với nhau. Và cũng bởi vì tình yêu đích thực được biểu lộ qua hành động chứ không chỉ qua lời nói hay cảm xúc (x. 1Ga 3:18), nên truyền thống mới nỗ lực cụ thể hóa lòng sùng hiếu qua các công tác gọi là bác ái;[31] tu đức học hằng cổ xúy một thái độ dấn thân cụ thể, thể theo lời khuyên nhủ khi xưa của thánh Phaolô: “Vậy bao lâu còn thì giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin” (Gl 6:10). Với truyền thống kitô, mối tương quan huynh đệ giữa những người đã chịu phép rửa với nhau tỏ ra là hoàn toàn khác biệt – xét về phẩm chất – so với tình huynh đệ đại đồng giữa con người với nhau. Thần học quan niệm ơn Sùng Hiếu như là một tập tính siêu nhiên giúp vun trồng cho đức công chính và, qua nó, các nhân đức thờ phượng và lòng thảo kính tự nhiên. Đối lập với lòng sùng hiếu là thái độ cứng lòng, một tình trạng làm nảy sinh lòng tự ái quá đáng. Trạng thái tâm hồn (và tâm lý) – tức là tâm tính – phải trở nên mềm dẻo thì mới có thể đón nhận được hiệu quả của các mối chính phúc: “Phúc thay ai biết xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa...” (Mt 5:7-9). Một bậc thầy đời sống thiêng liêng đã diễn tả như sau về ơn Sùng Hiếu: “ân huệ này làm phát sinh: tâm tình hiếu tử hướng lên các đấng bề trên, tâm tình hiền phụ hướng xuống các người bề dưới, cùng tình thân huynh đệ hướng sang các kẻ đồng hàng, cũng như lòng trắc ẩn hướng về kẻ túng hèn, đau khổ và thái độ ân cần cứu giúp tha nhân... Ân huệ đó cũng làm cho ta biết buồn với kẻ sầu muộn, biết nhỏ lệ với người đang khóc, biết vui mừng với kẻ vui sướng; nó làm cho ta biết chịu đựng để không tỏ ra khắt khe trước tình trạng rầy rà của người đau ốm hay những khiếm khuyết của kẻ bất toàn; tắt một lời, nó giúp ta trở nên mọi sự cho hết thảy mọi người.”[32]
Và do đó, ân huệ và nét điềm tĩnh này phải thấm nhuần thái độ kitô trong tương quan đối với hết mọi con cái của Thiên Chúa và, sau cùng, đối với mọi thụ tạo. Ơn Sùng Hiếu là một khả năng đặc biệt giúp nhận ra – đáp trả lại, và tỏ lòng kính phục đối với – tất cả những gì có tính cách thần linh. Ân huệ này cũng làm gia tăng lòng tôn kính đối với những đồ vật thánh, chẳng hạn như Sách Kinh Thánh, thánh đường, nhà nguyện, ảnh tượng và các thánh cụ, v.v.. Công đồng Vaticanô II đã nối kết ơn Sùng Hiếu và ơn Hùng Dũng với thái độ cần có đối với Lời của Thiên Chúa: Hiến chế Tín lý về Mạc khải của Thiên Chúa (Dei Verbum) mở đầu với lời tuyên bố như sau: “Trong niềm thầm kính (Sùng Hiếu) lắng nghe và tin tưởng (Hùng Dũng) công bố Lời Thiên Chúa...” Quả là điều thú vị khi thấy Clêmentê thành Alếcxănđria cũng đã kết nối ơn Sùng Hiếu với chân lý: “Nhưng, qua tình yêu Người dành cho con người, Đức Chúa cũng mời gọi hết thảy mọi người nhận biết chân lý, và chính vì mục đích này mà Người đã gửi Đấng Bảo Trợ đến. Thế thì, việc nhận biết đó là gì? Chính là lòng đạo đức (ơn Sùng Hiếu)! Và theo thánh Phaolô, ‘lòng đạo đức’ thì ‘lợi ích mọi bề, bởi Chúa hứa ban sự sống hiện tại cũng như tương lai cho người có lòng đạo đức’ (1Tm 4: 8).”[33] Thánh Bônaventura cũng quan niệm tương tự như thế: “Lòng sùng kính ưu việt đến độ trở nên quen thuộc với những gì đích thực, tức là với những điều sinh ích cho ơn cứu độ; đâu đó trong sách Huấn ca có lời chép rằng: ‘Chính Đức Chúa đã làm nên tất cả, và ban tặng khôn ngoan cho người đạo hạnh’ (Hc 43:33) ... Chân lý mạc khải luôn đóng kín trước kẻ nghịch đạo; do vậy, nếu anh em muốn làm những kẻ thông thái đích thực, thì quả thực là thích đáng việc anh em phải có lòng sùng kính.”[34] Hai chiều kích của thừa tác vụ là: chiều dọc (sùng hiếu) và chiều ngang (hùng dũng), phía trong và phía ngoài, cả hai đều ở trong một mối tương can, để Lời và Khí có thể mặc lấy được ý nghĩa... Qua đời sống cầu nguyện, tâm hồn đạo đức thường cảm nghiệm được ơn nước mắt, ơn an ủi vỗ về; và trong cuộc hành trình thiêng liêng, tâm hồn đó trở nên rộng mở và có thể tiến cao trên các nấc thang hoàn thiện.
c. Ơn Minh Luận
Qua ân huệ này, Chúa Thánh Thần phú ban một sức minh mẫn siêu nhiên cho các tín hữu, giúp họ có khả năng nhận biết được mọi sự như Thiên Chúa biết – đương nhiên là ân huệ này được ban cho mỗi người theo những mức độ khác nhau. Các thánh là những người được ban cho ân huệ này, đặc biệt là để các ngài có đủ khả năng đưa ra những phán đoán thích đáng về các tình huống gay go; cũng nhờ ân huệ đó, các ngài có thể “đọc” được tâm hồn con người. Ân huệ này hiện hữu ở một mức độ sung mãn nhất nơi con người Đức Giêsu, như thánh Gioan đã chứng thực cho thấy: “Người không cần ai làm chứng về con người, vì chính Người biết có gì trong lòng con người” (Ga 2:25; x. Ga 1:47; Lc 5:21-22; 7:39tt). Đôi khi, ân huệ này tỏ ra như là một dạng tri thức về tương lai, như thấy trong các lời Đức Giêsu tiên báo về cuộc tử nạn của Ngài (x. Mc 11:2-6; 14:12-21.27-30), hay về những cơn bách hại sẽ xảy đến cho các môn đệ Ngài: “Nhưng Thầy đã nói với anh em các điều ấy, để khi đến giờ của họ, anh em nhớ lại là Thầy đã nói với anh em rồi” (Ga 16:4). Chỉ khi được lãnh nhận tràn đầy Thiên Chúa, tràn đầy Đức Kitô nơi mình, thì một con người, như thánh Phaolô chẳng hạn, mới đủ mạnh dạn để có thể thốt lên rằng: “chúng tôi biết được tư tưởng của Đức Kitô” (1Cr 2:16).
Trong ánh sáng của ân huệ này, tín hữu khám phá ra rằng nét mỹ lệ và vẻ hùng vĩ của vạn vật chính là thực tại phản chiếu vẻ toàn mỹ và huy hoàng của Thiên Chúa; nhờ đó, tín hữu có khả năng thưởng nếm trước hương vị trời mới đất mới. Chính nhờ ân huệ này mà trí tuệ con người có khả năng dùng mọi kiến thức lĩnh hội được về các thụ tạo để tiến dần đến việc nhận chân Đấng Tạo hóa. Cùng lúc, con người cũng khám phá ra được bộ mặt đích thực của hết thảy mọi sự vốn đã bị làm cho ra giả tạo vì tội lỗi, nhận ra được tính chất hư ảo của chúng cũng như các thực tại chóng qua: “Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu như vậy; tuy nhiên, vẫn còn có niềm trông cậy...” (Rm 8:20). Các lời Kinh Thánh hằng nhắc nhở tín hữu ý thức về tính chất phù phiếm ấy của vạn vật, chẳng hạn như lời khuyến cáo sau đây của thánh Phaolô: “Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều nay: thời gian chẳng còn bao lâu... Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi.” (1Cr 7:29.31); và thánh Phêrô cũng nhất trí: “Anh em thân mến, anh em là khách lạ và lữ hành, tôi khuyên anh em hãy tránh xa những đam mê xác thịt, vốn gây chiến với linh hồn” (1Pr 2:11). Do đó, một ý thức đúng đắn về những điều ưu tiên đòi hỏi “chúng ta đừng quá chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Bởi vì, những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại vĩnh viễn” (2Cr 4:18).
Nhìn thế gian với nhãn quan ấy không có nghĩa là tỏ thái độ khinh miệt hay hạ thấp phẩm giá của vạn vật, nhưng là để lưu tâm cho đủ đến trật tự thích đáng của các giá trị. Thần Khí Sáng tạo làm cho trí óc hiểu rõ từng thụ tạo theo bản chất và giá trị đích thực của chúng; nhưng, có thể diễn đạt theo kiểu thi sĩ như thế này: khi vầng dương chiếu tỏa rực rỡ thì các vì tinh tú biến tan. Thế thì, dưới nguồn sáng mới mẻ này, bộ mặt đích thực của vạn vật là đâu? Đó không phải (chỉ) là những thứ mà khoa học mô tả hay số liệu thống kê kể ra cho thấy, nhưng là chiều kích làm hiện lộ vẻ mặt thần linh của mọi sự. Có thể lấy các bí tích làm điển hình: nước, hoặc nghi thức rửa tội, các nghi lễ phụng vụ, v.v. có thể được quay phim, chụp hình hoặc ghi chép lại bằng các công cụ khoa học; nhưng dù sao thì chúng cũng không tài nào giúp khám phá ra được cái gì là ân sủng, là ơn tha thứ, là tình yêu Thiên Chúa... Như thế, toàn thể vũ trụ đều mang một chiều kích bí tích; và nhờ ơn Minh luận, thế giới này trở nên rõ ràng, tỏ hiện trước tầm nhìn sâu rộng của các kitô hữu.
Tình trạng trở nên mù lòa, không nhận ra được chiều kích ẩn tiềm ấy chính là tấn bi kịch của “con người hiện đại”. Thiên hạ đã trở thành những kẻ mà sách Khôn ngoan gọi là “ngu si”: “Hết những ai không chịu nhìn nhận Thiên Chúa, tự bản chất là những kẻ ngu si. Từ những vật hữu hình tốt đẹp, chúng không đủ khả năng nhận ra Đấng hiện hữu, và khi chiêm ngắm bao công trình, chúng cũng không nhận biết Đấng Hóa Công. Thế mà, lửa với gió, hay làn khí thoảng qua, hay tinh tú bầu trời, hay nước chảy cuồn cuộn, hay đèn trời thắp sáng, chúng lại coi là thần, là những bậc quản cai hoàn vũ. Nếu chúng say mê những vẻ đẹp đó mà coi là thần minh, thì cũng phải biết rằng Chúa Tể của những vật đó còn đẹp hơn biết mấy, vì chính Đấng sáng tạo mọi loài là tác giả của muôn vẻ đẹp” (Kn 13:1-3). Xã hội hiện đại, bị mê hoặc bởi những kỳ công khoa học và tiến bộ kinh tế, đã quay lưng khỏi Thiên Chúa và chẳng còn bận đoái hoài gì đến các giá trị siêu nhiên; trước tình trạng đó, có vẻ như thị kiến của thánh Gioan đã trở thành hiện thực: “Bấy giờ toàn thể cõi đất thán phục đi theo con thú” (Kh 13:3). Các kitô hữu cũng không phải là trường hợp ngoại lệ; chẳng thế mà nhiều vị lãnh đạo Giáo hội đang lặp lại lời than phiền của tiên tri Giêrêmia khi xưa: “Dân Ta quả thật là ngu xuẩn, chúng không nhận biết Ta. Chúng là những đứa con dại dột, là những kẻ tăm tối u mê. Chúng chỉ khéo làm điều dữ, chứ chẳng biết làm điều lành” (4:22).
Cần phải hết sức lưu tâm làm sao để tránh rơi vào một lối quan niệm nhị nguyên theo kiểu phái Manikêô, coi các thụ tạo như thể là xấu tự bản thể, hoặc đã bị tội con người làm cho ra đồi trụy đi tự bản chất; Thiên Chúa dựng nên chúng tốt lành và Thần Khí Sáng tạo hằng ra sức duy trì chúng trong các phẩm chất tốt đẹp cơ bản mà chúng có, đúng như lời giáo huấn của thánh Phaolô: “Những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người” (Rm 1: 20). Nhờ ân huệ này, người kitô có thể xóa tan được não trạng phân biệt – vốn tồn tại trong lối quan niệm Do thái – giữa “cái thanh sạch với cái ô uế,” như lời xác định của thánh Phaolô: “Thật vậy, tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và không có gì phải loại bỏ, nếu biết dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ” (1Tm 4:4); hoặc: “Mọi sự đều trong sạch với những người trong sạch” (Tt 1:15). Ân huệ này làm cho người kitô có được quyền tự do của con cái Thiên Chúa, đủ sức nhận rõ bộ mặt thực chất của vẻ quyến rũ thế gian (các ý thức hệ, các trào lưu tân thời, những tư tưởng tuyên truyền...), và nhờ đó, có khả năng sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, “hầu chúng ta sẽ không còn là những trẻ nhỏ, bị sóng đánh trôi giạt theo mọi chiều gió đạo lý, giữa trò bịp bợm của những kẻ giảo quyệt khéo dùng mưu ma chước quỷ để làm cho kẻ khác lầm đường” (Ep 4:14).
Thần Khí yêu mến những tâm hồn khiêm hạ và đổ vào lòng họ những ân huệ của Người. Việc hiểu rõ được sự thật ấy đã khiến cho Đức Giêsu cảm thấy hoan hỷ: “Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: ‘Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn’” (Lc 10:21); nhưng sự thật ấy cũng có thể làm cho những người khác phải sửng sốt và tỏ thái độ hoài nghi, như kinh nghiệm mà chính Đức Giêsu đã trải qua nơi làng Nadarét của Ngài; người ta đã không thể hiểu nổi làm sao mà Ngài lại có được một khả năng thông hiểu đến mức ấy, và họ phải thốt lên rằng: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?” (Mc 6:2). Các thánh cũng đã từng sống qua kinh nghiệm tương tự như vậy.
Thần học coi ơn Minh Luận như là một tập tính siêu nhiên, được phú ban nhờ ân sủng thần linh, nhằm giúp tăng cường trí năng con người, làm cho trí tuệ có khả năng lĩnh hội tường tận bản chất của các sự vật và sự kiện trong mối tương quan với cứu cánh tối hậu. Ân huệ này giúp kiện toàn đức tin, theo như lời nhận định của thánh Tôma Aquinô trong Tổng luận Thần học, 2-2 a.9. Nó còn mang lại hai hiệu quả bổ sung khác: một mặt, nó soi sáng giúp cho trí tuệ của kẻ có đức tin đủ sức nhận ra đâu là chân giá trị của các thụ tạo, cũng như thấy được vai trò mà chúng đóng giữ như là “những cánh cửa sổ” hướng mở về các thực tại siêu nhiên, hoặc như là những “chiếc gương” phản chiếu ánh thiên quang rực rỡ; như thế, ngay cả các sự kiện chẳng đáng kể gì mấy cũng có thể biểu lộ cho thấy một sứ điệp thần linh và trở nên các cách thế hay cơ hội đem đến ơn cứu độ; mặc khác, ân huệ này còn giúp nhận ra rằng, so với tình trạng sung mãn của Thiên Chúa, thì hết thảy mọi của cải vật chất đều trở nên những thứ phù du, hư ảo; nhờ hiểu được như thế, các tín hữu mới không còn cam tâm làm những kẻ nô lệ cho các thụ tạo nữa.
Ân huệ này giúp các tâm hồn chiêm niệm hướng lòng mình vượt lên khỏi thụ tạo mà vươn đến Đấng Tạo hóa với niềm hoan lạc lớn lao, như thấy qua lời thánh Gioan Thánh giá diễn tả: “[trong khi chiêm ngắm vạn vật] linh hồn tìm được sự bình an đích thực, thấy được ánh sáng thần linh và nếm cảm no thỏa sự Khôn ngoan Thiên Chúa vốn chiếu tỏa rạng ngời qua mối hài hòa giữa thụ tạo và nơi các kỳ công của Người; nhờ thế, tâm hồn đó cảm nhận mình được tràn đầy điều lành và rỗng không sự dữ, rồi, đặc biệt hơn cả, nhận biết và thưởng thức được bữa tiệc tình yêu vô giá vốn dĩ làm cho tâm hồn được củng cố vững chắc nơi tình yêu” (Diễm tình ca thiêng liêng = Cántico espiritual 14,4). Giữa hết thảy mọi thụ tạo, linh hồn con người là hữu thể được các thánh coi như có sức quyến rũ nhất. Có vậy, thánh Gioan Thánh giá mới thốt lên rằng: “Ôi linh hồn, ngươi diễm lệ biết bao giữa hàng muôn thụ tạo!” (Cántico 1,7); và đối với thánh Têrêsa Avila, thì “Linh hồn người công chính là chốn lạc viên, nơi Thiên Chúa tìm thấy niềm thỏa thích của Người... Tôi chẳng thể tìm ra được bất cứ thứ gì có thể đem ra so sánh với vẻ diễm tuyệt của một linh hồn” (Moradas 1,1).
d. Ơn Hùng Dũng
Chính nhờ ân huệ này mà người kitô nhận được sức mạnh và lòng can đảm để vượt thắng mọi trở ngại và cảnh huống gay go vốn thường xảy đến trong tiến trình thực thi các bổn phận tôn giáo; nhờ nó, tín hữu đủ sức chiến đấu với thế gian, với sự dữ và, đặc biệt nhất là với những khuynh hướng xấu của tính xác thịt; đó là phương cách giúp khắc phục nỗi sợ và tính nhút nhát bẩm sinh. Đó là ân huệ giúp tín hữu dự phần vào sức mạnh của chính Thiên Chúa. Qua các bản văn Kinh Thánh, tín hữu hằng đọc thấy những lời nhắc nhở làm cho ý thức rằng Thiên Chúa là Thành trì cứu độ, là Pháo đài bảo vệ, là Núi đá chở che... cùng các ẩn dụ tương tự. Tác giả sách Thánh vịnh đã nức lòng hớn hở mà cất tiếng hoan ca: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con; lạy Chúa là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ!” (Tv 18:2-3); hoặc: “Chúa là sức mạnh, là khiên mộc chở che tôi, lòng tôi đặt tin tưởng nơi Người. Tôi đã được Người thương trợ giúp, nên lòng tôi vui mừng hoan hỷ, cất cao tiếng hát tạ ơn Người” (Tv 28:7).
Ơn Hùng Dũng đặc biệt ban sức mạnh cho tín hữu trong cuộc chiến chống lại sự dữ, cũng như giúp duy trì sức kiên tâm trong việc thực thi điều lành.
Khởi đầu kinh Tin kính, người kitô tuyên xưng đức tin vào “Thiên Chúa là Cha Toàn năng”; Chúa Thánh Thần, “ngón tay phải của Cha”, đã luôn bổ ban tràn đầy sức mạnh của Người cho những ai đang đặc biệt cần đến. Thư gửi tín hữu Do thái đã nêu một thí dụ điển hình như sau: “Tôi còn phải nói gì nữa đây? Tôi sợ không có đủ thời giờ để kể truyện các ông Ghítôn, Barắc, Samson, Gíptác, Đavít, Samuen và các ngôn sứ. Nhờ đức tin, các vị này đã chinh phục các nước, thực hành công lý, đạt được những gì Thiên Chúa đã hứa; các ngài đã khóa miệng sư tử, dập tắt lửa hồng mãnh liệt, thoát khỏi lưỡi gươm. Các ngài đã lướt thắng bệnh tật mà trở nên mạnh mẽ, đã tỏ ra dũng cảm nơi chiến trường, và đẩy lui được quân ngoại xâm... Có những người phải chịu nhạo cười và roi vọt, hơn nữa còn bị xiềng xích và bỏ tù; họ bị ném đá, bị cưa đôi, bị chết vì gươm; họ phải lưu lạc, mặc áo da cừu da dê, chịu thiếu thốn, bị áp bức và hành hạ. Thế gian chẳng xứng với họ. Họ đi lang thang trong hoang địa, trên núi đồi, trong hang hốc và hầm hố” (Dt 11:32-38). Trong Tân Ước, thánh Phaolô cũng cảnh báo rằng: “Quả thực, những ai muốn sống đạo đức trong Đức Kitô Giêsu, đều sẽ bị bắt bớ” (2Tm 3:12), như chính Đức Giêsu đã tiên báo trước đó (x. Mt 5:11; Ga 15:18-21). Dõi lại các biến cố đã diễn ra suốt dòng lịch sử, và nhất là qua kinh nghiệm nỗ lực để giữ vững lòng tín thác nơi Thiên Chúa, người công chính hẳn là có cảm tưởng rằng “Con Thú được phép giao chiến với các thánh và thắng họ” (Kh 13:7); bởi vậy, mới thường nghe vẳng vọng đâu đó lời oán than, rên rỉ: Tại sao? Chúa ơi? Cớ sao?...
Dù rằng cuộc chiến thiêng liêng trong đời sống thường ngày của người kitô xem ra không ác liệt là mấy, nhưng như thế không có nghĩa là ơn Hùng Dũng không còn cần thiết nữa. Bởi vì, tuy cuộc chiến này có vẻ như không có biểu hiện gì đáng lưu ý ở bề ngoài, nhưng bên trong thì cuồn cuộn từng đợt sóng ngầm; bởi đó, thánh Tông đồ Phaolô mới lên tiếng cảnh giác là: “Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao” (Ep 6:11-12). Quả thực, người kitô đang ở trong một cuộc chiến thiêng liêng có tính chất cánh chung, như công đồng Vaticanô II đã vạch ra cho thấy: “Một cuộc chiến cam go chống lại quyền lực bóng tối vẫn tiếp diễn suốt trong lịch sử nhân loại, khởi đầu từ khi thế giới khai nguyên và sẽ kéo dài đến ngày cuối cùng như lời Chúa phán (x. Mt 24:13; 13:24-30 và 36-43). Dấn thân vào cuộc chiến này, con người phải luôn ra sức chiến đấu để gắn bó với sự thiện, bởi vì con người chỉ có thể tìm được sự thống nhất trong chính mình một khi đã hết sức cố gắng với sự trợ giúp của ơn Chúa” (GS 37). Về cốt yếu, tình trạng hiệp thông các thánh trong Giáo hội biểu lộ một mối tương trợ vốn có khả năng giúp cho tín hữu đủ sức ứng phó với cuộc chiến ấy, đặc biệt là nhờ sức mạnh của các lời cầu nguyện; đó là điều mà thánh Phaolô hằng ra sức thực hiện: “Từ ngày chúng tôi nghe biết vậy, chúng tôi cũng không ngừng cầu nguyện và kêu xin Thiên Chúa cho anh em được am tường thánh ý Người, với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thần Khí ban cho… Nhờ sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa vinh quang, anh em sẽ nên mạnh mẽ để kiên trì chịu đựng tất cả” (Cl 1:9-11). Ngài đã đề nghị với các tín hữu Êphêsô “hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người” (Ep 6:10), và thánh Phêrô cũng khuyên nhủ tương tự: “Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế” (1Pr 5:9). Ơn Hùng Dũng của Thần Khí được biểu lộ theo những dạng cách nghịch biện, và đó là điều mà thánh Phaolô đã kinh nghiệm rất rõ: khi cầu nguyện để xin được giải thoát khỏi... những nỗi thống khổ của mình, ngài đã nhận được lời quả quyết như sau: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cr 12:9).
Các thần học gia đã xếp ơn Hùng Dũng vào số các tập tính siêu nhiên, coi đó như là ân huệ Thánh Thần ban cho hết thảy mọi tín hữu, hầu giúp họ vượt qua được những tình cảnh khó khăn hằng ngày để giữ vững một đời sống kitô trung thành, cũng như để đủ sức ứng phó với các hoàn cảnh đặc biệt, như việc phải chịu tình trạng ngược đãi, bắt bớ, hoặc phải lâm vào những cơn cám dỗ mãnh liệt, hay thậm chí phải đương đầu với cuộc thử thách tột bực là chịu tử đạo. Ân huệ này cũng giúp gia tăng sức mạnh cho các nhân đức anh hùng. Lòng dũng cảm – xét như một nhân đức luân lý – giúp con người phát huy được các khả năng tự nhiên của mình nhằm chống lại sự dữ và kiên trì thực thi điều lành; nó thúc đẩy con người mạnh dạn sống và thực thi lẽ phải theo những đòi hỏi của luân thường đạo lý – đương nhiên là luôn luôn có sự trợ giúp của ân sủng thần linh. Cùng với bản tính của mình, con người được ban cho khả năng làm lành lánh dữ, như lời quả quyết của thánh Tôma Aquinô: “theo lề lối thích đáng và phù hợp với bản tính của mình, con người quả là có được một khả năng vững chắc về cả hai phương diện đó [làm lành và lánh dữ]; bởi thế, con người không được phép viện đến bất kỳ một lý do nào để tránh việc thực thi điều lành, dù là gặp phải tình cảnh cam go, phải dốc toàn lực để hoàn tất một công việc nào đó, hoặc ngay cả việc phải gánh chịu một sự dữ trầm trọng.” Dù có quả quyết như vậy, nhưng ngài cũng nhận định thêm rằng, “đối với những tình cảnh gay go hơn, nhất thiết chúng ta cần phải được ban cho ơn can đảm, vốn được dẫn dắt bằng ơn chỉ giáo, dù ơn can đảm ấy xem như có mối liên hệ chủ yếu với những điều thiện lớn lao hơn” (2-2, 139. 1). Ơn Hùng Dũng của Thánh Thần làm gia tăng đức can đảm qua một “tác động bổ sức” – nói theo cách con người – giúp tín hữu đủ sức chống lại nỗi sợ tự nhiên để giữ vững lòng trung thành và tinh thần sốt sắng mà thi hành thánh ý Thiên Chúa cách mạnh mẽ. Tác động “bổ sức” này có lẽ ai ai cũng cần đến, dù là người mạnh mẽ nhất như Đức Giêsu; tường thuật về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, thánh Luca đã lưu ý đến một chi tiết như sau: “Bấy giờ có thiên sứ từ trời hiện đến tăng sức cho Người” (Lc 22:43). Tác động đó thường thấy diễn ra trong cuộc sống hằng ngày – biểu hiện như là lòng trung thành giữa vợ chồng với nhau, giữa con cái với cha mẹ, v.v. – hoặc trong các trường hợp ngoại thường, như các cuộc áp bức, đàn áp chính trị hay tôn giáo.
Trong lịch sử, quả là không thiếu những điển hình nêu bật cho thấy dạng tác động “bổ sức” đó; chẳng hạn, kể lại gương tử đạo của thánh Vinxentê ở Tây ban nha, so sánh nỗi thống khổ mà thánh nhân phải chịu trên thân xác với những lời lẽ hết sức bình tĩnh và tự chủ phát ra từ tâm hồn, thánh Âugutinô đã nhận định như sau: “Chính thân xác của Vinxentê phải gánh chịu đau khổ, nhưng chính Thần Khí là Đấng nói qua môi miệng ngài; và những lời lẽ đó của Thần Khí không những khiến cho sự dữ bị đẩy lùi mà còn có sức an ủi, làm gia tăng sức mạnh cho tình trạng yếu đuối nữa” (Sermo 276, 2). Trong đời sống thường ngày, ân huệ này giúp cho việc thực hành các nhân đức khác trở nên dễ dàng và chắc chắn hơn. Thánh Âugutinô đã đặc biệt gắn liền ân huệ này với mối phúc thật thứ tư: “Phúc thay ai khao khát nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.” Ngài nói rõ rằng ơn Hùng Dũng là rất cần thiết cho những ai khao khát đức công chính (xem Sermon on the Mount I, III, 10). Thánh Phanxicô Xaviê đã lãnh nhận ân huệ này trong những chuyến hành trình đầy trắc trở của ngài; dẫn câu lời Chúa “Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”, thánh nhân đã bình luận như sau: “Lúc phải đối diện với những tình thế hiểm nghèo, vốn có thể làm chúng ta mất mạng, thì lời đó, dù rất dễ hiểu theo tiếng Latinh, lại trở nên quá đỗi mơ hồ đến độ tôi nghĩ là kẻ nào muốn hiểu được – dù thông thái cách mấy – thì nhất thiết chỉ có một cách là nhờ Thiên Chúa, Chúa chúng ta, qua lòng nhân hậu vô biên của Người, cắt nghĩa cụ thể cho mới hiểu ra được.”[35] Ngày nay, nhiều kitô hữu dễ bị cám dỗ rơi vào con đường nhượng bộ, thỏa hiệp, hoặc lâm vào thái độ nhu nhược, nhát đảm trước những lời chỉ trích, nhạo báng, những dạng phân biệt trong cách đối xử... đối nghịch với lòng trung thành của niềm tin tôn giáo. Trước tình trạng này, ơn Hùng Dũng tỏ ra là cần thiết hơn bao giờ hết. Ơn can đảm thần linh này – mà khi xưa các Tông đồ đã được ban cho để mạnh dạn mà rao giảng và làm chứng (parrhesia) (Cv 4:13.29.31,v.v.) – là ơn tối cần, nhất thiết người kitô phải có, nhất là trong thời đại ngày nay.
e. Ơn Chỉ Giáo
Ân huệ này thường được coi là “kề vai sát cánh” với các ân huệ thuộc trí tuệ khác như ơn Minh luận, ơn Thâm hiểu và ơn Thượng Trí. Ân huệ này thường thấy xuất hiện dưới dạng nhân đức khôn ngoan (cũng có thể hiểu như là thận trọng hoặc cẩn trọng); nhờ nó, lý trí tự nhiên được ánh sáng siêu nhiên soi dẫn, và ánh sáng này giúp cho tín hữu có khà năng đưa ra những quyết định thích đáng trong lúc phải đối diện với những cảnh huống khó khăn. Các ơn Minh luận, Thâm hiểu, Thượng trí làm cho trí tuệ lĩnh hội được chân lý; trong khi đó, ơn Chỉ giáo giúp cho có khả năng áp dụng những kiến thức đó vào trong những trường hợp cụ thể. Ân huệ này giúp tín hữu biết lý luận dựa trên các tiêu chuẩn xác thực nhằm đủ sức đưa ra những quyết định thích đáng. Thông thường, khả năng phán đoán đúng được coi như là kết quả của việc hiểu biết tường tận về một tình huống cũng như khám phá được một động lực thúc đẩy đúng đắn để hoàn tất một mục đích nào đó. Tuy nhiên, thực tế cuộc sống thường tỏ ra hết sức phức tạp và, bên cạnh đó, các lý do thúc đẩy ý chí con người lại dễ bị tác động, ảnh hường bởi những thành kiến tiên thiên từ bên ngoài hoặc tính vị kỷ từ bên trong.
Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở tín hữu lưu ý về khoảng cách biệt vời vợi giữa cái gọi là chân lý quan niệm theo kiểu con người và sự thật của Thiên Chúa: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta – sấm ngôn của Đức Chúa” (Is 55: 8). Thánh Phaolô nhận định rõ ràng rằng điều gì “thế gian” gọi là “điên rồ và ô nhục” thì thực ra đó chính là “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (x. 1Cr 1:23-24). Rất hiếm khi “đường lối Thiên Chúa” trùng khít với đường lối con người. Chẳng hạn, Đức Giêsu đã từng bị các thân nhân Ngài cho là mất trí (x. Mc 3:21). Và khi Ngài tiên báo sự việc Ngài sẽ phài chết trên thập giá, thì Simon-Phêrô ‘thận trọng’ đã cố sức can ngăn Ngài đừng làm chuyện ngược đời ấy; Đức Giêsu đã nổi giận và gọi ông là “quỷ”: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16:23). Thánh Phaolô đã thú nhận sự bất lực của mình trong nỗ lực tìm hiểu cách thức Yahweh đối xử với dân Người và các dân ngoại, để rồi chỉ biết một mực dâng lên lòng tuân phục và thái độ trung thành thờ kính: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai dõi theo được! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn cho Người? Ai đã cho Người trước để Người phải trả lại sau. Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời! Amen” (Rm 11:33-36). Bởi vì khoảng cách biệt giữa đường lối của Thiên Chúa và của con người quá xa, nên con người chỉ có thể mong bắt được nhịp cầu nối kết đôi bờ đó lại với nhau nhờ một ân huệ thần linh. Như ông Gióp đã quả quyết: “Nơi Thiên Chúa có cả khôn ngoan lẫn sức mạnh, mưu lược cũng như tài thông hiểu đều thuộc về Người” (G 12:13).
Dòng văn chương khôn ngoan đã đặc biệt đề cao đức khôn, coi đó như là một ân huệ do Thiên Chúa ban tặng. Với nhân đức này, khả năng lý luận của con người được coi là tiêu chí căn bản đối với cung cách hành xử thường ngày; có thể gọi đó là “lương tri” hoặc “khôn ngoan cổ truyền”. Ông Tôbia đã khuyên con trai mình rằng: “Biết ai khôn ngoan thì tìm đến mà bàn hỏi và chớ coi thường lời chỉ giáo nào hữu ích” (Tb 4:18). Người kitô phải ra sức ghi lòng tạc dạ các bài học mà kinh nghiệm đã để lại: “Kẻ có lương tri là có nguồn sống, sự dại khờ là hình phạt kẻ ngu si” (Cn 16:22); hoặc “kẻ lạc xa con đường hiểu biết, sẽ phải sống chung với đám âm hồn” (21:16). Các phương thế tự nhiên cũng có thể mang lại lợi ích trong việc giúp tín hữu đạt đến tiêu đích là sự khôn ngoan: “Hãy lắng nghe lời khuyên, đón nhận lời nghiêm huấn, để sau này bạn được nên khôn” (19:20).
Để có thể lãnh nhận được ơn Chỉ Giáo, tín hữu nhất thiết phải trải qua trước hết một cuộc thanh tẩy đôi mắt thiêng liêng, bởi chẳng thể có điều gì hiển hiện sáng rõ qua một thị lực thiêng liêng đã bị tội lỗi làm cho suy nhược hẳn đi. Đức Giêsu đã từng nói: “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng. Còn nếu mắt anh xấu, thì toàn thân anh sẽ tối. Vậy nếu ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối, thì tối biết chừng nào” (Mt 6:22-23); bởi vì “ai có tâm hồn trong sạch, người đó sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5:8), và trong Thiên Chúa, tất cả mọi sự đều sẽ trở nên rõ ràng, minh bạch. Ơn Chỉ giáo bao hàm hai chiều kích: một mặt, nó đưa dẫn tín hữu bước vào việc phụng sự Thiên Chúa; và mặt khác, nó giúp người đã lãnh nhận nó có khả năng giúp cho những người khác cũng làm như vậy. Trong tu đức học, nó được gọi là khả năng phân định thần loại.
Thánh Tông đồ Phaolô đã cầu xin Thiên Chúa ban ân huệ này cho các kitô hữu của ngài: “Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên để nhận ra cái gì là tốt hơn. Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không có gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm” (Pl 1:9-10). Thánh Gioan cũng có mối lưu tâm tương tự: “Anh em thân mến, anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian” (1Ga 4:1). Đích nhắm trong đời sống thiêng liêng càng cao bao nhiêu, thì khả năng phân định thần loại càng trở nên cần thiết bấy nhiêu; khả năng đó, các đan sĩ đầu tiên đã coi là điều hết sức quan trọng. Trong cuốn Cuộc đời thánh Antôn, thánh Atanaxiô đã trình bày như sau về các điều mà “vị tổ phụ của các đan sĩ” từng coi là cần thiết phải làm để có thể nhận lãnh được ân huệ đó: “cần phải liên lỉ cầu nguyện và khổ chế, cùng với tác động của Thần Khí, thì mới có thể lãnh nhận được ơn giúp nhận định thần loại” (22.3). Các bậc thầy tu đức đã đề ra nhiều quy tắc quan trọng phải tuân theo để có được ân huệ này; xin xem chẳng hạn, những gì thánh Inhã Loyola đề ra cuốn Linh Thao của ngài (nơi các số 169-189, 313-336, 346-370).
Các thói tật đối nghịch với đức khôn siêu nhiên này thì rất nhiều: một đàng, là khuynh hướng đưa ra các quyết định hấp tấp, thiếu nhận định, không cân nhắc cho kỹ càng hết mọi lý lẽ, khía cạnh hay các hậu quả; đó là một dạng liều lĩnh do tính kiêu căng, ngạo mạn hoặc do tính nông nổi, bốc đồng, sinh ra; và đàng khác, là thái độ do dự, chần chừ và thận trọng quá mức, đến độ có thể coi đó như là một chứng bệnh thiêng liêng. Giữa hai khía cạnh bất cập và thái quá đó, việc giữ cho được một tình trạng quân bình hoàn hảo tuyệt nhiên không phải là chuyện dễ dàng; tuy nhiên, ơn Chỉ giáo có thể giúp kiện toàn đức khôn và đưa nó đến các cấp độ trên cùng, như có thể thấy nơi trường hợp các thánh, cũng như nơi các bậc thầy trong đời sống thiêng liêng. Hết thảy những ai đang làm công tác mục vụ hay cố vấn thiêng liêng, xét theo các đòi hỏi đặc thù của công việc, đều đặc biệt cần đến ân huệ này. Đối với trường hợp này, ơn soi sáng bổ sung của Thần Khí Thiên Chúa cũng là ơn cần thiết, nhất là khi các thành kiến cố hữu của cá nhân cọng với tình trạng thiếu thông tin có thể gây ảnh hưởng không thuận lợi đến khả năng quyết định chính xác. Chẳng hạn, trong các điều kiện hạn chế của một cuộc giải tội, với việc không có đủ thì giờ để trì hoãn, tra cứu hay tham khảo, vị linh mục sẽ phải làm sao đó để có thể lập tức đưa ra các quyết định quan trọng; và như thế, nếu không có ơn Chỉ giáo giúp soi sáng, thế tất việc đưa ra các quyết định tức khắc là điều không thể. Công tác linh hướng cũng có những đòi hỏi tương tự như vậy. Thánh Âugutinô đã cho một lời khuyên: nếu muốn lãnh được ân huệ bề trên ban xuống, thì trước hết phải biết giúp đỡ cho bề dưới đã.
Nằm trong mối quan liên với ơn này là “ơn đấng bậc”. Nhìn chung, ơn đấng bậc là một tác trợ siêu nhiên mà Thần Khí ban cho người đang thi hành một thừa tác vụ hoặc một sứ mạng đặc thù nào đó, được coi như là hiệu quả do một bí tích (Truyền chức thánh hoặc Hôn phối) hoặc do một sứ mạng Giáo hội ủy thác, nhằm giúp hoàn tất các đòi hỏi của tác vụ. Tự nó, ơn đấng bậc không trao ban một nguồn năng lực hay ý tưởng nào đó, nhưng tạo điều kiện thuận lợi để có thể đón nhận được những ân huệ khác của Thần Khí – đương nhiên là phải được khẩn xin với thái độ khiêm nhường. Ở đây, có thể nêu trường hợp của thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu làm điển hình: vẫn còn rất trẻ và chẳng học hành gì nhiều, nhưng được chỉ định làm dì giáo cho các tập sinh, và thánh nữ nhận ra là Thần Khí đã giúp đỡ mình theo một cung cách đáng đỗi kinh ngạc; thánh nữ viết: “Tôi biết rằng Thần Khí ngự ở trong tôi. Người dẫn dắt và hằng thúc đẩy tôi trong những điều tôi phải nói, phải làm. Chính trong những khoảnh khắc quan trọng, tôi cảm nhận được một nguồn sáng tôi vốn chưa từng bao giờ tưởng tượng nổi là có như thế. Và ơn soi sáng đó không phải chỉ được ban cho tôi trong những giờ cầu nguyện; nhưng hầu như là trong mọi lúc, nó hiện diện ở giữa những công việc tôi làm hằng ngày.”[36]
f. Ơn Thâm Hiểu
Ân huệ này giúp thấu hiểu được các chân lý tôn giáo theo khả năng dung nhận của tín hữu; tiêu đích ân huệ này nhắm đến là các chân lý đức tin. Theo thánh Anxenmô, các ân huệ trước nhằm vào đời sống hoạt động; còn ơn Thâm hiểu và Thượng trí thì nhằm vào đời sống chiêm niệm, và do đó, chúng là những ân huệ cao nhất. Cách luận giải này dù có hơi chuyên môn một chút, thì cũng nêu bật được lòng ngưỡng mộ cao độ mà truyền thống dành cho ân huệ này. Nó xuất hiện như là tác động đột ngộ (sudden insight), có sức soi thấu, làm cho hiểu được ý nghĩa sâu xa của những điều tín hữu đã tin và hiểu một phần nào đó. Đây là kinh nghiệm sống động tín hữu có được về mầu nhiệm Thiên Chúa qua nhiều cuộc gặp gỡ khác nhau với Đấng Tuyệt Đối: nơi bí tích Thánh Thể, hay nơi bí tích Hòa Giải; qua tình trạng cư ngụ của Ba Ngôi Chí Thánh trong linh hồn, hoặc qua việc Thiên Chúa hiện diện đặc biệt trong lúc tín hữu cầu nguyện; trong “nhiệm cục” cứu độ, v.v.. Có ba dạng loại chân lý liên quan đến mầu nhiệm đức tin – mà ân huệ này giúp cho hiểu – cần được xem xét ở đây, là: Thiên Chúa và các mầu nhiệm về Người; các thụ tạo trong mối liên hệ với Đấng Tạo hóa; và các sứ vụ của con người trong mối tương liên với công trình của Thiên Chúa. Có thể nói rằng, đối với các chân lý mà tín hữu còn ngờ vực, hay tình trạng mù lòa thiêng liêng mà tín hữu lâm phải, thì ân huệ này soi sáng, làm cho tín hữu bất chợt hiểu ra, hay đột nhiên mà thấu tỏ.
Có thể ân huệ này đã xuất hiện bất ngờ trên Đức Giêsu – trong dịp lên đền Giêrusalem để mừng Lễ vượt qua, lúc Ngài 12 tuổi – và đã giúp Ngài nhận ra là mình đang ở trong nhà Cha! Đến cả các tiến sĩ luật lúc bấy giờ cũng tỏ ra hết sức ngạc nhiên về trí thông minh phi thường của cậu bé (x. Lc 2:47). Cũng chính Thần Khí đó đã ngự trong Ngài, nơi hội đường Nadarét, và linh hứng các lời Ngài nói, làm cho những người đồng hương phải “thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài” để rồi bất giác họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4:22). Ân huệ này, Đức Giêsu cũng đã hứa ban cho các môn đệ Ngài: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16: 13). Thần Khí đó đã linh hứng cho các tác giả Tin mừng, giúp các ngài nhận ra được những ý nghĩa mới mẻ, sâu kín trong lời nói và hành động của Đức Giêsu. Thánh Phaolô ý thức rất rõ về ân huệ này: “Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta” (1Cr 2:12). Ân huệ ấy được trao ban cho cả những người viết tiểu sử các thánh lẫn các độc giả: “Anh em đọc thì có thể thấy rõ tôi am hiểu mầu nhiệm Đức Kitô thế nào” (Ep 3:4). Quả thực, hết thảy mọi kitô hữu tốt lành đều có khả năng “đạt tới sự thông hiểu phong phú và đầy đủ, khiến họ nhận biết mầu nhiệm của Thiên Chúa, tức là Đức Kitô, trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết” (Cl 2:2-3). Ân huệ này thường đi kèm với ơn Chỉ giáo, như có thể thấy qua lời thánh Phaolô viết cho các tín hữu Rôma: “Thưa anh em, chính tôi, tôi tin chắc rằng anh em có đầy thiện chí, thừa hiểu biết và có khả năng khuyên bảo nhau” (Rm 15:14).
Bước chuẩn bị thích đáng nhất giúp mở lòng đón nhận ân huệ này chính là việc biết lấy lòng kính cẩn mà tầm cứu cùng suy niệm Lời Chúa, cũng như cầu nguyện để khẩn xin cho được ơn đó; xin xem, chẳng hạn, Tv 119.
Thần học đã cố phân biệt ân huệ này với các ân huệ “trí tuệ” khác; thánh Tôma Aquinô nhận định rằng “ơn Thâm hiểu so với ba ân huệ kia – tức, ơn Thượng trí, ơn Minh luận và ơn Chỉ giáo – cho thấy không khác nhau là mấy, bởi nó cũng thuộc về năng lực nhận thức của trí tuệ”... và đương nhiên là cả bốn ơn này đều có mối tương liên với chân lý mạc khải; “do đó, đối với những điều thuộc chân lý đức tin đã đề ra cho tín hữu, thì về phần chúng ta, có hai điều cần thiết: trước hết, chúng được trí năng lĩnh hội và thấu suốt, và điều này thuộc về ơn Thâm hiểu; kế đến, cần thiết là con người phải coi những điều đó hẳn là đúng đắn, nghĩa là phải nhận mình cần gắn bó triệt để với những điều đó, cũng như phải ra sức tránh những điều đối nghịch với chúng: khả năng phán đoán ấy, khi liên quan đến các điều thần linh, thì thuộc về ơn Thượng trí; khi liên quan đến các thụ tạo, thì lại thuộc về ơn Minh luận; còn xét về mặt ứng dụng của nó trong các hành vi cá nhân, thì thuộc về ơn Chỉ giáo.” Ơn Thâm hiểu chiếu tỏa một nguồn sáng mới mẻ giúp lĩnh hội thấu đáo các chân lý siêu nhiên; ơn Minh luận giúp tín hữu nhận ra mối liên hệ giữa mình với các thụ tạo trong đà hướng tiến về mục đích tối hậu của mình. Khả năng lượng định thực tiễn về các chân lý và thực tại thì thuộc về các ơn Chỉ giáo và Thượng trí. Ân huệ này có liên quan đến mối phúc thứ sáu: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5:8); hoặc: “Vậy nếu mắt anh sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng” (Mt 6:22).[37]
Khoa thần học tiến hành theo quy trình lý luận, phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp. Ân huệ Thần Khí thì mang tính trực giác, dẫn tới điều mà thánh Gioan Thánh giá gọi là “đức tin tinh ròng”; ở đó, linh hồn đạt đến các chỗ thẳm sâu trong mầu nhiệm Thiên Chúa, theo mức độ có thể, trong đời này. Chính vì đó là ân huệ được ban một cách đặc biệt cho “tâm hồn trong sạch”, nên thường thì trước hết, linh hồn phải trải qua tình trạng gọi là “đêm tối tâm hồn”... Đây có vẻ như là ân huệ mà thánh Inhã Loyola đã nhận được trong “ơn soi sáng” bên bờ sông Cácđônê ở Manrêsa (năm 1522). Ngài trình tả trong cuốn tự thuật của ngài rằng, sau kinh nghiệm đó, “ngài thấy mọi sự trở nên mới mẻ hơn”... Ngài đã nhận được “một ánh diệu quang trong tâm trí, theo mức độ có thể nói rằng nếu có cọng hết mọi ơn đã nhận được từ Thiên Chúa cùng với tất thảy những gì ngài đã học biết trong toàn bộ cuộc đời trên 62 năm của ngài, thì dường như đối với ngài, cũng không bằng những gì ngài nhận được qua kinh nghiệm duy nhất đó.”[38] Cuốn Đối thoại của thánh Catêrina thành Siêna – ghi chép lại các kinh nghiệm về những cuộc xuất thần, dù là do một nữ tu trẻ ít học như ngài, thì – quả thực là rất rõ ràng và tuyệt vời xét về mặt giáo lý và cung cách diễn đạt, đến độ không ai đủ sức cắt nghĩa về các kinh nghiệm đó nếu không nhận được một ân huệ siêu nhiên từ Thánh Thần. Phẩm chất đặc biệt khác thường của nguồn tri thức ấy được thánh Têrêsa Avila minh bạch diễn đạt như sau: “Thiên Chúa của con ơi! Quả lạ lùng biết mấy khi được nghe những lời đó [Kinh Thánh và giáo huấn thần học] và tin vào chúng từ việc thấu hiểu như thế để xác tín rằng chúng quả đích thực biết bao!”[39]
Các điều đối nghịch với ân huệ này là tình trạng vô tri vô giác thiêng liêng liên quan đến các thực tại siêu nhiên. Nếu một tín hữu chỉ biết loay hoay trong những mối bận tâm trần thế, một mực theo đuổi những ích lợi riêng tư, vị kỷ, chạy theo những giá trị vật chất, thế tất các giác quan thiêng liêng của người đó bị cùn nhụt đi, rồi trí năng sẽ chẳng còn đủ sức hiểu được giá trị của các nguyên lý và cùng đích của đời sống thiêng liêng. Thường khi, đối với một người như thế, ngôn ngữ đức tin dường như trở thành hết sức lạ lẫm, không cách nào hiểu ra cho nổi; bởi nó thuộc về một “thế giới khác”. Có lẽ trở lực lớn nhất khiến cho không thể nhận lãnh được ân huệ này chính là tính kiêu căng trí tuệ, tính tự phụ về khả năng hiểu biết, với hệ quả tất yếu là thái độ từ chối thuận theo những gì mà đức tin đòi hỏi; thánh Phaolô đã lên án thái độ này: “Chúng tôi đánh đổ các kiểu lý luận và mọi thái độ kiêu căng chống lại sự hiểu biết Thiên Chúa. Chúng tôi bắt mọi tư tưởng phải đầu hàng để đi tới chỗ vâng phục Đức Kitô” (2Cr 10:5).
Ơn Thâm hiểu hoạt động trong phạm vi đức tin và được ban cho cùng với đức tin và ân sủng. Tuyên xưng Thánh Thần là “Đấng dùng các ngôn sứ mà phán dạy,” là Giáo hội muốn nêu bật cho thấy rằng Người hoạt động tích cực suốt trong tiến trình lịch sử Mạc khải, qua việc thiết lập và duy trì các truyền thống xa xưa, qua công tác biên soạn các Sách Thánh, qua tiến trình tiếp nhận các bản viết vào quy điển Kinh Thánh, qua nhiệm vụ cử hành phụng vụ Lời Chúa trong Giáo hội, v.v... Do đó, như công đồng Vaticanô II đã nhận định, “để có thể thực thi đức tin, thì trước hết cần phải có được ân sủng Thiên Chúa cùng tác động nội trợ của Chúa Thánh Thần: Ngài thúc đẩy và quy hướng tâm hồn về cùng Thiên Chúa, mở mắt lý trí và làm cho mọi người cảm thấy vui sướng và thoải mái khi đón nhận và tin theo chân lý. Và để khả năng thông hiểu mạc khải được sâu rộng thêm mãi, thì cũng chính Chúa Thánh Thần không ngừng kiện toàn đức tin qua các ân huệ của Ngài” (DV 5). Nhờ ân huệ này, đôi mắt đức tin có thể nhìn thấu qua vẻ bề ngoài của vạn vật để nhận ra bản chất đích thực của chúng như Thiên Chúa thấy, và khám phá ra tính chất mới mẻ mà Thần Khí hằng tạo ra trong thế giới và trong Giáo hội, vốn dĩ được gọi là “các dấu chỉ thời đại”.
g. Ơn Thượng Trí (Khôn ngoan)
Ơn Khôn ngoan là ân huệ nằm ở vị trí cao nhất trong số bảy ân huệ; đây chính là giáo huấn truyền thống của Giáo hội kể từ thời các Giáo phụ.[40] Ơn này ban cho khả năng hiểu biết thâm sâu về Thiên Chúa cũng như khả năng suy xét khôn ngoan về các vấn đề của con người. Ân huệ này không phải là do một số lượng lớn các thông tin hay những tài năng rải rác được gom lại để hình thành nên, nhưng là một khả năng hoàn toàn mang tính chất trực giác được ban cho bởi một “nguồn sáng” khác biệt hẳn xét về phẩm chất: ơn soi sáng và tác động của Chúa Thánh Thần. Khôn ngoan, xét như một nhân đức, giúp có khả năng phán đoán mọi sự dựa trên nguyên nhân tột cùng của chúng; và xét như một ân huệ, nguyên nhân đó chính là Thiên Chúa: nó soi sáng lý trí và hướng dẫn ý chí. Ân huệ này cũng giống như một ơn tổng hợp tất cả các ơn huệ khác, giúp kiện toàn một đời sống kitô đích thực, làm cho nó trở nên một “đời sống đối thần”.
Khôn ngoan – hiện thân hay nhập thể chính là Logos, tức Ngôi Lời – ban cho Đức Giêsu nguồn tri thức thâm sâu về Thực Tại Tuyệt Đối, tức là Chúa Cha.[41] Nhờ đó, Đức Giêsu mới nói được rằng: “Tôi biết Người bởi vì tôi từ nơi Người mà đến, và chính Người đã sai tôi” (Ga 7:29). Dù đây là một dạng tri thức có tính cách độc nhất vô nhị, nhưng lại không chỉ dành riêng cho Đức Giêsu mà thôi, song còn được chia sẻ cho các môn đệ nữa: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho” (Mt 11:27). Trong “lời nguyện hiến tế” sau bữa Tiệc ly, Đức Giêsu đã thưa cùng Chúa Cha rằng: “Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha” (Ga 17:6). Có thể nói rằng tri thức này hoàn toàn khác biệt với tri thức của các thần học gia hay của các nhà chú giải; thánh Tôma tiến sĩ đã gọi đây là dạng tri thức “do đồng cảm”,[42] giống dạng tri thức của các nhà thần nghiệm như thánh Phanxicô, thánh Gioan Thánh Giá, thánh Têrêsa Avila, v.v.. Qua thông điệp Đức tin và Lý trí, Đức cố giáo hoàng Gioan Phaolô II đã trình bày như sau về dạng tri thức này:
“Một dạng hiểu biết tuyệt mức thâm sâu khác của thánh Tôma chính là mức độ thâm hiểu của ngài về vai trò của Chúa Thánh Thần trong tiến trình qua đó tri thức triển nở đến độ thuần thục để tiến sang khôn ngoan. Từ những trang viết đầu tiên trong bộ Tổng Luận Thần Học, Tôma Aquinô đã biểu trình cách quyết liệt cho thấy tính chất ưu việt của ơn khôn ngoan vốn là ân huệ của Chúa Thánh Thần và là ơn giúp khai thông con đường dẫn đến một tri thức về các thực tại thần linh. Dạng thần học của ngài cho phép chúng ta hiểu được đâu là nét giúp phân biệt ra ơn khôn ngoan trong mối kết liên khắng khít của nó với đức tin và tri thức về Thiên Chúa. Dạng khôn ngoan này là do đồng cảm mà có được; nó bao hàm đức tin và rốt cuộc hình thành nên khả năng phán đoán thích đáng dựa trên nền tảng là chính đức tin: ‘Dạng khôn ngoan xét như là một trong số các ân huệ của Chúa Thánh Thần thì khác biệt với kiểu khôn ngoan thuộc về các nhân đức trí tuệ. Dạng khôn ngoan thứ hai này đòi hỏi phải ra sức tập tành thì mới có thể thủ đắc được, còn dạng khôn ngoan đầu tiên kia thì ‘xuất phát từ trên cao’, như thánh Giacôbê Tông đồ đã diễn tả. Dạng khôn ngoan này cũng phân biệt với đức tin, bởi vì đức tin chỉ công nhận chân lý thần linh theo đúng bản chất của nó; còn ơn khôn ngoan giúp cho có thể đưa ra các nhận định dựa trên chân lý thần linh đó’ (II-II, 45, 1 ad 2)” (số 44).
Với cặp mắt đức tin, tín hữu chỉ trông thấy “lờ mờ” các chân lý thần linh: “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương” (1Cr 13:12); nhưng ơn Khôn ngoan lại giúp cho tín hữu có thể nhìn rõ ràng hơn, đặc biệt là làm cho có thể nếm thưởng và yêu mến những sự trên trời: chẳng hạn, nó giúp cho tôi hiểu và sống niềm vinh dự có được Thiên Chúa là Cha và tôi là đứa con của Người!... đứa con này, Đức Giêsu vì quá đỗi yêu thương mà chịu chết trên thập giá, và tình yêu ấy còn được biểu lộ qua việc Ngài ngày ngày đợi tôi đến với Thánh Thể hầu Ngài có thể nuôi dưỡng tôi hằng ngày với tình yêu của Ngài, giúp tôi hằng ngợi khen Chúa!...
Là ân huệ do Thiên Chúa ban cho, tất khôn ngoan cũng là một ơn phải xin thì mới có được, như lời thánh Giacôbê đã dạy: “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu nguyện xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho” (Gc 1:5). Về điều này, có thể lấy lời xác quyết của vua Salomôn làm điển hình: “Tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết. Tôi kêu cầu, và thần khí đức khôn ngoan đã đến với tôi. Đức khôn ngoan, tôi đã quý trọng còn hơn cả vương trượng, ngai vàng. Tôi không coi của cải là gì so với đức khôn ngoan” (Kn 7:7-8); toàn bộ chương 7 của sách Khôn ngoan là một bài suy ngắm tuyệt vời về ân huệ này. Có một dạng khôn ngoan tự nhiên, được ban cho cùng với thực tại con người và thường được gọi là khôn ngoan đắc thủ, tức do kinh nghiệm và nỗ lực học hỏi đúc kết nên; bên cạnh đó, như đã thấy, cũng có một dạng khôn ngoan siêu nhiên mà tín hữu đã lãnh nhận qua phép rửa cùng với ân huệ đức tin, nhưng ơn khôn ngoan này phải được phát triển cùng với chính đức tin và được gia cường với các đặc sủng thiên phú. Nơi người khôn ngoan, mọi ân huệ đều trở nên duy nhất. Người khôn ngoan là người biết mọi sự qua nguyên lai của chúng: một khoa học gia có thể nắm được các nguyên nhân tự nhiên của các hiện tượng; một triết gia có thể lần dò đến tận gốc rễ siêu hình của hữu thể, nơi Nguyên nhân Đệ nhất hoặc Nguyên lý Tuyệt đối; một thần học gia, dựa vào ánh sáng mạc khải, khám phá ra được nguyên nhân tối hậu nơi Thiên Chúa là Đấng Tạo hóa và là “lẽ sống” (raison d’être) siêu việt của mọi hữu thể trong một tiến trình “duy trì” hằng diễn được gọi là “sáng tạo liên tục”. Người khôn ngoan nhìn thấy những thực tại sâu xa hơn nhờ con mắt chiêm niệm, và qua đó, có thể nhìn thấy Thiên Chúa trong hết thảy mọi sự. Ân huệ này tỏa sáng nhờ đời sống cầu nguyện, không phải do số lượng kiến thức có được về các mầu nhiệm Thiên Chúa, nhưng do tình trạng “cảm nếm,” thái độ “vui thỏa”, “an bình,” v.v., phát sinh trong tâm hồn. Trong tiếng Latinh, vì từ Sapientia (Khôn ngoan) xuất phát từ chữ sapere – có nghĩa là: nếm mùi, thưởng thức – nên ơn Khôn ngoan còn được gọi là “tri thức thưởng nếm”.[43]
Khôn ngoan là một dạng tri thức kinh nghiệm – bởi đó, bậc cao niên thường được cho là giàu khôn ngoan tự nhiên – bắt nguồn từ kinh nghiệm về Thiên Chúa hoặc về bản thân ai đó trong Thiên Chúa. Do vậy, có một dạng khôn ngoan tự nhiên; và điểm giúp phân biệt giữa đức khôn ngoan này với ơn khôn ngoan do Thần Khí ban tặng đã được thánh Tôma Aquinô cắt nghĩa như sau: “Được coi là thuộc về đức khôn ngoan một nhân đức trí tuệ có khả năng giúp đưa ra được một phán đoán thích đáng về các thực tại thần linh sau khi lý trí đã hoàn tất tiến trình suy cứu; nhưng lại được coi là thuộc về ơn khôn ngoan một dạng ân huệ của Thánh Thần giúp phán đoán đúng đắn về các thực tại thần linh đó do khả năng đồng cảm với chúng: cũng vì lẽ đó mà Điônyxiô (Div. Nom. ii) mới nhận định cho rằng ‘Hierotheus được coi là hoàn hảo trong số các thực tại thần linh, bởi ông không chỉ biết mà còn kinh nghiệm được các thực tại thần linh đó’.”[44] Như đã nói, qua đời sống chiêm niệm, thấy ra Thiên Chúa qua mọi sự và nhìn tỏ mọi sự qua Thiên Chúa, người khôn ngoan cũng thấy được các mối tương liên hay tương tác của mình, nên có thể đi đến chỗ trực cảm được đường lối đúng đắn theo ý muốn thần linh. Ân huệ này đổ vào tâm hồn sự bình an và niềm hân hoan. Các nhà thần nghiệm đã cảm nghiệm ân huệ này ở một mức độ tột bực (mà có lẽ phải được phân loại thành một dạng ân huệ khác, bởi vì nó có tính cách cá biệt) và có thể, nhờ đó, giúp cho hiểu được các tri thức thông thường hơn. Thấy rằng việc nhận ra các thụ tạo trong Thiên Chúa còn quan trọng hơn là việc nhận biết Thiên Chúa trong các thụ tạo qua vẻ đẹp hay các hoạt động của chúng, thánh Gioan Thánh giá đã phải thốt lên như sau để diễn tả niềm vui thích lớn lao ấy: “Quả diệu kỳ biết mấy!”[45] Các thần học gia, như thánh Tôma chẳng hạn, cho rằng “kết quả của ơn khôn ngoan là tạo ra cái vừa đắng vừa ngọt, và tình trạng dốc sức để nghỉ ngơi.”[46] Người khôn ngoan có thể nhìn ra sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa trong những nơi mà người khác chỉ coi là các hiện tượng tự nhiên, mối nguy hoặc thậm chí là sự dữ: chẳng hạn, trong đau khổ, trong thất bại, thậm chí cả trong tình cảnh bách hại. Như là một tập tính siêu nhiên, ân huệ này tác động lên cả lý trí lẫn ý chí, để rồi nó có thể được coi như là nguồn gốc của ơn Chỉ giáo.
Từ thời thánh Âugutinô trở đi, ân huệ này được liên kết với mối Phúc thứ bảy: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình...”; trong đó, “hòa bình” được coi như là “trật tự ổn định” (tranquility of order), theo định nghĩa được đưa ra trong cuốn Thành trì Thiên Chúa 19.13. Ơn Khôn ngoan mang lại một tình trạng an lạc nội tâm sâu xa, không phải bởi vì nó làm cho phớt lờ các mối xung đột, tương phản, nhưng là bởi vì nó kiểm soát được chúng. Trong đời sống thiêng liêng, nó cũng được liên kết với đức Ái, hoặc Tình yêu, hệt như mối tương quan giữa ơn Úy kính với đức Cậy, hoặc như hai ân huệ Thâm hiểu và Minh luận có liên hệ với đức Tin vậy. Chỉ đích thực là khôn ngoan người biết giữ một mức độ ý thức cao – trong số những điều ưu tiên, trong các phận sự “đối thần” – về quyền ưu tiên của giới răn thứ nhất: “ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng...” và trong các phận sự “đối nhân”, về mối lưu tâm chính yếu là: “ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12:30-31). Nếu Thiên Chúa thực hiện mọi sự vì tình yêu, thì người khôn ngoan cũng phải làm đúng như vậy.
Đối lập với đức khôn ngoan là thói ngông cuồng, dại dột. Trong Kinh Thánh, đó là chứng tật lớn nhất: trong danh sách các điều xấu xa phát xuất từ trong lòng, Đức Giêsu đã liệt kê ra 13 điều; điều cuối cùng là điều xấu xa nhất và đó chính là ngông cuồng: “tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng” (Mt 7:21-22). Chủ nghĩa vô thần, dù là dưới dạng thức nào đi nữa, thì cũng chính xác là: “Kẻ ngu si tự nhủ: ‘làm chi có Chúa Trời!’” (Tv 14:1). Thánh Tôma bình luận rằng sự ngu dại “biểu thị tính cùn nhụt trong khả năng phán đoán, và chủ yếu là phán đoán về nguyên nhân cao nhất, vốn là cùng đích và sự thiện tối cao.” Cái dại dột đó phát xuất “từ việc con người mải miết lao đầu vào những sự dưới thế, để rồi đánh mất đi khả năng nhận diện những điều thần linh – hoặc nói theo cách diễn tả của 1Cr 2:14: ‘Con người sống theo xác thịt thì không đón nhận được những gì đến từ Thần Khí Thiên Chúa’ – và cái dại dột đó chính là một tội.”[47] Ở đây, chúng tôi không bàn sâu vào vấn đề vừa nêu, nhưng xét thấy cũng nên lưu ý là “người khôn ngoan theo kiểu của riêng họ” hoặc “theo kiểu thế gian” – tức hạng được gọi là Intelligentsia – thường được xếp vào loại này: “Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ” (Rm 1: 22). Điển hình cho loại khôn ngoan này là lão phú hộ trong dụ ngôn Đức Giêsu kể, kẻ định bụng sẽ xây những cái kho lớn hơn để tích trữ cả lúa thóc mình có vào đó để sống an nhàn, hưởng lạc trong nhiều năm... “Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: ‘Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?’”(Lc 12:20). Kinh Thánh đã khiển trách là dại dột ba loại “khôn ngoan thế gian”: trước hết, “khôn ngoan vật chất”, tức khi một người chỉ biết yêu chuộng, hưởng thụ sự giàu có; kế đến, “khôn ngoan thú tính,” tức khi một người chỉ lo tìm thỏa mãn những khoái lạc xác thịt; và cuối cùng, “khôn ngoan ma quái”, tức khi một người chỉ cảm thấy vui sướng, hài lòng với chính mình mà thôi.
Có thể mượn lời kết trong sách Hôsêa để chốt lại phần này như sau: “Ai đủ khôn ngoan để hiểu được điều này, đủ thông minh để biết được điều ấy? Quả thật, đường lối Đức Chúa rất mực thẳng ngay. Trên con đường này, người công chính sẽ hiên ngang tiến bước, còn kẻ gian ác sẽ phải té nhào” (Hs 14:10).
[31] Các việc từ thiện đối với xác (tức, “Thương xác bảy mối”) là: Cho kẻ đói ăn; Cho kẻ khát uống; Cho kẻ rách rưới ăn mặc; Cho khách đỗ nhà; Viếng kẻ liệt, cùng kẻ tù rạc; Chuộc kẻ làm tôi; Chôn xác kẻ chết. |
Các việc từ thiện đối với hồn (tức, “Thương linh hồn bảy mối”) là: Lấy lời lành mà khuyên người; Mở dạy kẻ mê muội; An ủi kẻ âu lo; Răn bảo kẻ có tội; Tha kẻ dễ ta; Nhịn kẻ mất lòng ta; Cầu cho kẻ sống và kẻ chết. |