Tông Huấn

Saturday, 04 April 2020 16:04

Tông Huấn Verbum Domini (Lời Chúa) Của ĐGH Benedicto XVI (Ngày 30-11-2010) – (2) Featured

TÔNG HUẤN VERBUM DOMINI

(Lời chúa)

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG BENEDICT XVI

GỬI CÁC GIÁM MỤC, HÀNG GIÁO SĨ,

CÁC NGƯỜI NAM NỮ SỐNG ĐỜI THÁNH HIẾN

VÀ CÁC TÍN HỮU GIÁO DÂN

HẬU THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THẾ GIỚI LẦN XII

VỀ LỜI THIÊN CHÚA

TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ MẠNG CỦA GIÁO HỘI

***

Đức Giáo Hoàng Benedict XVI

***

PHẦN HAI

VERBUM IN ECCLESIA (LỜI TRONG GIÁO HỘI)

“Còn những ai đón nhận, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12)

 

LỜI THIÊN CHÚA VÀ GIÁO HỘI

Giáo Hội đón nhận Lời

50. Đức Chúa công bố Lời của Ngài để Lời Ngài được đón nhận bởi những kẻ đã được tạo dựng “bởi” chính Ngôi Lời. “Người đã đến nhà mình” (Ga 1,11): Lời không phải là một cái gì ngay từ nguyên thủy xa lạ với chúng ta và công trình tạo dựng đã được Thiên Chúa muốn có trong một tương quan mật thiết với đời sống thần linh. Lời Tựa của Tin Mừng thứ tư cũng đặt chúng ta trước sự chối từ đối với Lời Thiên Chúa của những “người nhà”, họ “đã không chịu đón nhận” Người (Ga 1,11). Không đón nhận Lời có nghĩa là không lắng nghe tiếng của Lời, không sống phù hợp với Logos. Ngược lại, nơi nào con người, dù mỏng giòn và tội lỗi, chân thành mở ra gặp gỡ Đức Kitô, thì nơi ấy bắt đầu xuất hiện một sự thay đổi tận căn: “còn những ai đón nhận thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12). Đón nhận Ngôi Lời có nghĩa là để cho Người uốn nắn để nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, với “Con một đến từ Chúa Cha” (Ga 1,13) nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần. Đó là khởi đầu cho một cuộc tạo thành mới. Khi đó, sinh ra một thụ tạo mới, cũng như một dân mới. Những ai tin, hay đúng hơn, những ai sống trong sự vâng phục đức tin, thì “được Thiên Chúa sinh ra” (Ga 1,13) và được trở nên những kẻ thông phần vào sự sống thần linh: họ là con trong Chúa Con (x. Gl 4,5-6; Rm 8,14-17). Khi chú giải đoạn Tin Mừng này của thánh Gioan, thánh Augustinô nói cách súc tích như sau: “bạn đã được Ngôi Lời tạo dựng nhưng bạn cần phải được Ngôi Lời tái tạo”.[1] Ở đây, chúng ta nhận ra dung mạo của Giáo Hội như một thực thể được xác định bởi biết đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng khi mặc xác phàm, đã đến dựng lều giữa chúng ta (Ga 1,14). Ngôi nhà Thiên Chúa ở giữa loài người, gọi là shekinah ấy (x. Xh 26,1), đã từng được tiên báo trong Cựu Ước, nay được thể hiện nơi sự hiện diện vĩnh viễn của Thiên Chúa với con người trong Đức Kitô.

Sự hiện diện liên tục của Đức Kitô trong đời sống Giáo Hội

51. Tương quan giữa Đức Kitô, Lời của Chúa Cha, và Giáo Hội không thể được hiểu đơn thuần như một biến cố thuộc quá khứ, nhưng là một tương quan sống động mà mỗi tín hữu được kêu mời chính mình đi vào. Quả thế, chúng ta đang nói đến sự hiện diện của Lời Thiên Chúa với chúng ta hôm nay: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Như Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Sự hiện diện của Đức Kitô cho con người ở mọi thời đại được thực hiện nơi Thân Mình Người là Giáo Hội. Vì lý do đó, Đức Chúa đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ, Thánh Thần sẽ giúp các ông “nhớ lại” và sẽ dạy cho các ông hiểu các lệnh truyền của Người (x. Ga 14,26) và Thánh Thần sẽ là nguyên lý và nguồn cội của một đời sống mới trong thế giới (x. Ga 3,5-8; Rm 8,1-13)”.[2] Hiến chế tín lý Dei Verbum diễn tả mầu nhiệm này bằng thuật ngữ Kinh Thánh của cuộc đối thoại hôn ước: “Thiên Chúa, Đấng xưa đã phán dạy, nay vẫn không ngừng ngỏ lời với Hiền Thê của Con yêu dấu mình; và Thánh Thần, Đấng làm cho tiếng nói sống động của Phúc Âm vang dội trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội làm vang dội trong thế giới, hướng dẫn các tín hữu nhận biết toàn thể chân lý và làm cho Lời Chúa Kitô tràn ngập lòng họ (x. Cl 3,16)”.[3]

Hiền Thê của Đức Kitô, thầy dạy việc lắng nghe, hôm nay vẫn đang nói trong đức tin: “Lạy Chúa, xin hãy nói, Giáo Hội của Chúa đang lắng nghe”.[4] Chính vì thế, Hiến chế tín lý Dei Verbum bắt đầu như thế này: “Khi thành kính lắng nghe và dạn dĩ công bố Lời Thiên Chúa, Thánh Công Đồng…”.[5] Đó là một định nghĩa năng động về đời sống của Giáo Hội: “Đó là những từ ngữ Giáo Hội dùng để nói lên một phương diện trong tính cách của Giáo Hội: Giáo Hội là một cộng đoàn lắng nghe và công bố Lời Thiên Chúa. Giáo Hội không kín múc lấy sự sống từ chính mình nhưng từ Tin Mừng và, từ Tin Mừng này, Giáo Hội vẫn lại luôn luôn rút ra được một định hướng cho hành trình của mình. Đây là một nhận định mà mọi Kitô hữu phải đón nhận và áp dụng cho chính mình: chỉ người nào đặt mình trong tư thế lắng nghe Lời thì mới có thể trở thành kẻ loan báo”.[6] Trong Lời Thiên Chúa được công bố và lắng nghe, trong các Bí tích, Đức Giêsu đang nói hôm nay, ở đây và bây giờ, cho mỗi người: “Ta thuộc về con, Ta ban mình cho con” để cho con người có thể đáp trả và đến phiên mình có thể nói: “Con thuộc về Chúa”.[7] Như thế, Giáo Hội xuất hiện như là môi trường để chúng ta có thể nhờ ân sủng mà cảm nghiệm điều được Lời Tựa của Tin Mừng Gioan thuật lại: “Còn những ai đón nhận, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12).

PhỤng vỤ, môi trưỜng ĐẶc Trưng cỦa LỜi Thiên Chúa

Lời Thiên Chúa trong phụng vụ thánh

52. Khi xét đến Giáo Hội như “nơi cư ngụ của Lời”,[8] người ta phải chú ý trước hết đến phụng vụ thánh. Đó đích thực là môi trường đặc trưng để Thiên Chúa nói trong đời sống hiện tại của chúng ta, là nơi hôm nay Thiên Chúa đang nói với Dân của Ngài, đoàn Dân đang lắng nghe và đáp trả. Tự bản chất, mỗi một hành động phụng vụ đều được nuôi dưỡng bằng Kinh Thánh. Như Hiến chế Sacrosanctum Concilium đã khẳng định, “trong việc cử hành phụng vụ, Kinh Thánh giữ vai trò tối quan trọng. Thực vậy, người ta trích từ Kinh Thánh những bài để đọc, để dẫn giải trong bài giảng, cũng như những ca vịnh để hát. Chính nhờ nguồn cảm hứng và sức phấn khởi của Kinh Thánh mà xuất phát những lời kinh, lời nguyện và những bài phụng ca, đồng thời những động tác và các biểu hiệu trở thành có ý nghĩa”.[9] Hơn thế nữa, người ta còn phải nói rằng chính Đức Kitô “hiện diện trong lời của Người vì chính Người nói khi người ta đọc Kinh Thánh trong Giáo Hội”.[10] Thật vậy, “chính việc cử hành phụng vụ trở thành một việc công bố liên tục, đầy đủ và hữu hiệu Lời Thiên Chúa. Chính vì thế, Lời Thiên Chúa, được công bố đều đặn trong phụng vụ thì luôn sống động và hữu hiệu do quyền năng của Chúa Thánh Thần, và thể hiện tình yêu của Chúa Cha không bao giờ ngừng tác động nơi mọi người”.[11] Giáo Hội đã luôn ý thức rằng trong hành vi phụng vụ, Lời Thiên Chúa luôn được hỗ trợ bởi tác động mật thiết của Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho Lời Thiên Chúa mang lại kết quả trong tâm hồn tín hữu. Thật thế, chính nhờ Đấng Bảo Trợ mà “Lời Thiên Chúa trở nên nền tảng của hành vi phụng vụ, quy luật và sự nâng đỡ của trọn cuộc sống. Công trình của Chúa Thánh Thần (…) gợi lên trong lòng của mỗi người tất cả những gì được phát biểu cho toàn thể cộng đoàn tín hữu khi Lời Thiên Chúa được công bố; và trong khi củng cố sự hiệp nhất của mọi người, Chúa Thánh Thần cũng làm sống lại các đặc sủng khác nhau và thúc đẩy chúng hành động dưới nhiều cách thế”.[12]

Vì thế, phải hiểu và sống giá trị chính yếu của hành động phụng vụ nhờ am tường Lời Thiên Chúa. Theo một ý nghĩa nào đó, việc chú giải đức tin dựa trên nền tảng Kinh Thánh, phải luôn coi phụng vụ là điểm quy chiếu, nơi đó Lời Thiên Chúa được cử hành như một lời hiện tại và sống động: “Như thế, trong phụng vụ, Giáo Hội trung thành theo cách đọc và chú giải Kinh Thánh như Đức Kitô đã làm, từ cái ‘hôm nay’ của việc Người đến, Người khuyến khích thăm dò cẩn thận toàn bộ Kinh Thánh”.[13]

Ở đây, người ta thấy khoa sư phạm khôn ngoan của Giáo Hội khi theo nhịp điệu của năm phụng vụ mà công bố và lắng nghe Kinh Thánh. Sự dàn trải của Lời Thiên Chúa trong thời gian được thể hiện một cách đặc biệt trong việc cử hành Thánh Thể và trong Phụng Vụ các Giờ Kinh. Ở trung tâm của tất cả, Mầu nhiệm Vượt Qua chói sáng và gắn liền với mầu nhiệm ấy là tất cả các mầu nhiệm của Đức Kitô và của lịch sử cứu độ được hiện tại hóa theo cách bí tích: “Trong khi cử hành những Mầu Nhiệm Cứu Chuộc như thế, Giáo Hội rộng mở cho các tín hữu sản nghiệp nhân đức và công nghiệp của Chúa, khiến cho những mầu nhiệm này có thể nói là hiện diện qua mọi thời đại, ngõ hầu các tín hữu tiếp xúc với các mầu nhiệm đó sẽ được đầy tràn ơn cứu chuộc”.[14] Tôi khuyến khích các Mục tử của Giáo Hội và các phụ tá mục vụ tìm cách làm thế nào cho mọi tín hữu biết cảm nếm ý nghĩa sâu xa của Lời Thiên Chúa được triển khai suốt năm trong phụng vụ, diễn tả các Mầu nhiệm nền tảng của đức tin. Việc tiếp cận Kinh Thánh một cách đúng đắn cũng tùy thuộc vào đó.

Kinh Thánh và các Bí tích

53. Khi đề cập đến chủ đề giá trị của phụng vụ đối với việc hiểu Lời Thiên Chúa, Thượng Hội Đồng Giám Mục cũng muốn nhấn mạnh đến tương quan giữa Kinh Thánh và hành động bí tích. Rất thích hợp để đào sâu mối liên hệ giữa Lời và Bí tích, trong hành động mục vụ của Giáo Hội cũng như trong nghiên cứu thần học.[15] Chắc chắn “phụng vụ Lời Chúa là một yếu tố quyết định trong việc cử hành các Bí tích của Giáo Hội”;[16] tuy nhiên, trong hành động mục vụ, các tín hữu không phải lúc nào cũng ý thức về mối liên hệ này và không phải lúc nào cũng nhận ra được tính duy nhất giữa cử chỉ và lời nói. “Nhất là khi cử hành các Bí tích, các linh mục và phó tế phải nêu bật sự duy nhất giữa Lời và Bí tích trong thừa tác vụ của Giáo Hội”.[17] Thật vậy, trong tương quan giữa Lời và cử chỉ bí tích, chính hành động của Thiên Chúa trong lịch sử được thể hiện dưới hình thức phụng vụ qua đặc tính trình diễn (performatif, trình-bày-và-thực-hiện) của Lời. Trong lịch sử cứu độ, không có tách biệt giữa điều Thiên Chúa nói và làm; chính Lời của Ngài luôn sống động và hữu hiệu (x. Dt 4,12), như từ ‘dabar’ trong tiếng Híp-ri diễn tả rõ ràng. Cũng thế, trong hành động phụng vụ, chúng ta đứng trước Lời của Ngài, Lời đang thực hiện điều Lời nói. Khi huấn luyện Dân Thiên Chúa khám phá tính cách trình diễn của Lời Thiên Chúa trong phụng vụ, người ta cũng giúp cho Dân Thiên Chúa nhận ra hành động của Ngài trong lịch sử cứu độ và trong lịch sử cá nhân của mỗi một thành viên.

Lời Thiên Chúa và Thánh Thể

54. Điều vừa khẳng định cách tổng quát về tương quan giữa Lời và Bí tích, sẽ có ý nghĩa sâu xa hơn khi chúng ta đề cập đến việc cử hành Thánh Thể. Đàng khác, sự hiệp nhất sâu xa giữa Lời và Thánh Thể đặt nền trên chứng từ của Kinh Thánh (x. Ga 6; Lc 24), đã được các Giáo Phụ làm chứng cho và được Công Đồng Vatican II tái khẳng định.[18] Về vấn đề này, chúng ta nghĩ đến bài diễn từ dài của Đức Giêsu về bánh trường sinh trong hội đường Caphácnaum (x. Ga 6,22-69), bài này đặt nền tảng trên sự so sánh giữa Môsê và Đức Giêsu, giữa người đã trò chuyện với Thiên Chúa mặt đối mặt (x. Xh 33,11) và Đấng mạc khải Thiên Chúa (x. Ga 1,18). Thật vậy, bài diễn từ về bánh đưa trở lại với quà tặng của Thiên Chúa mà Môsê đã nhận lãnh cho Dân mình với man-na trong hoang địa, mà trong thực tế đó là Torah, Lời Thiên Chúa làm cho sống (x. Tv 119; Cn 9,5). Đức Giêsu hoàn thành nơi chính bản thân Người hình ảnh cổ xưa: “Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian… Chính tôi là bánh trường sinh” (Ga 6,33.35). Ở đây, “Luật đã trở thành Ngôi vị. Khi gặp gỡ Đức Giêsu, chúng ta được nuôi sống có thể nói bằng chính Thiên Chúa hằng sống, thật sự chúng ta ăn ‘bánh từ trời xuống’”.[19] Lời Tựa của Tin mừng Gioan được đào sâu thêm trong diễn từ tại Caphácnaum: nếu ở đó Logos của Thiên Chúa trở thành xác thể, ở đây xác thể này trở thành “bánh” để cho thế gian được sống (x. Ga 6,51), điều này ám chỉ đến việc Đức Giêsu ban chính mình trong mầu nhiệm thập giá, một hành vi được xác nhận bởi các lời liên quan đến máu Người đổ ra “làm thức uống” (x. Ga 6,53). Theo cách thức này, trong mầu nhiệm Thánh Thể, được tỏ hiện đâu là man-na đích thực, bánh đích thực từ trời xuống: chính là Logos của Thiên Chúa đã trở thành xác thể, và đã hiến dâng chính mình cho chúng ta trong Mầu nhiệm Vượt Qua.

Trình thuật của Luca về các môn đệ Emmau cho phép chúng ta suy gẫm sâu xa hơn về mối dây liên kết Lời với việc bẻ bánh (x. Lc 24,13-35). Đức Giêsu đến gặp họ vào hôm sau ngày sa-bát, lắng nghe họ giãi bày nỗi thất vọng của họ, và cùng đồng hành với họ, “Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (24,27). Hai môn đệ bất đầu khám phá Sách Thánh theo một cách thức mới mẻ nhờ vị khách bộ hành tỏ ra rất gần gũi cách bất ngờ với cuộc đời họ. Điều đã xảy ra trong những ngày ấy không còn xuất hiện ra như một thất bại, nhưng như một hoàn tất và một khởi hành mới.Tuy nhiên, những lời này xem ra chưa làm cho các môn đệ thỏa mãn. Tin Mừng Luca nói với chúng ta rằng “mắt họ mở ra và họ nhận ra Người” (24,31), chỉ khi Đức Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho họ, trong khi trước đó “mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người” (24,16). Sự hiện diện của Đức Giêsu, trước tiên qua lời nói, sau đó qua cử chỉ bẻ bánh, đã cho phép các môn đệ nhận ra Người; họ đã có thể cảm nghiệm một cách mới mẻ những gì họ đã sống trước đó với Người: “Dọc đường khi Người nói chuyện và giải thích Thánh Kinh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (24,32).

55. Những trình thuật này cho thấy chính Kinh Thánh đưa chúng ta đến chỗ nắm bắt được mối liên hệ không thể chia lìa của Kinh Thánh với Thánh Thể. “Chính vì thế phải luôn nhớ rằng Lời Thiên Chúa, được Giáo Hội đọc và loan báo trong phụng vụ, dẫn đến hy tế của Giao ước và bàn tiệc của ân sủng, nghĩa là Thánh Thể”.[20] Lời và Thánh Thể liên kết mật thiết với nhau đến độ không thể hiểu cái này mà không có cái kia: Lời Thiên Chúa đã trở thành xác thể theo cách bí tích trong biến cố Thánh Thể. Thánh Thể giúp chúng ta hiểu Kinh Thánh, cũng như Kinh Thánh đến phiên mình soi sáng và giải thích Mầu nhiệm Thánh Thể. Thật vậy, nếu không nhìn nhận sự hiện diện đích thực của Chúa trong Thánh Thể, việc hiểu Kinh Thánh sẽ không đầy đủ. Chính vì thế, “Lời Thiên Chúa và Mầu nhiệm Thánh Thể, luôn luôn và ở khắp nơi, tuy không được Giáo Hội thờ phượng như nhau, nhưng được Giáo Hội tôn kính như nhau. Được thúc đẩy bởi gương của Đấng Sáng lập, Giáo Hội đã không bao giờ ngừng cử hành Mầu nhiệm Vượt Qua của Người bằng cách họp nhau để “đọc trong tất cả Sách Thánh những gì liên quan đến Người” (Lc 24,27) và để thực hiện công trình cứu độ nhờ việc tưởng niệm Đức Chúa và nhờ các Bí tích”.[21]

Bí tích tính của Lời

56. Việc nhắc lại đặc tính trình diễn của Lời Thiên Chúa trong hành động bí tích và trong việc đào sâu tương quan giữa Lời và Thánh Thể, đưa chúng ta đến một chủ đề quan trọng, đã được Thượng Hội Đồng nêu lên, liên quan đến bí tích tính của Lời.[22]Về vấn đề này, cần nhắc lại rằng Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói đến “viễn tượng tích của Mạc Khải, và một cách đặc biệt, đến dấu chỉ Thánh Thể trong đó sự kết hiệp không thể phân chia giữa thực tại và ý nghĩa của nó cho phép hiểu được chiều sâu của Mầu nhiệm”.[23] Từ đó, chúng ta hiểu rằng Mầu nhiệm Nhập thể đích thực là nguồn gốc của bí tích tính của Lời Thiên Chúa: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm (xác thịt)” (Ga 1,14), thực tại của Mầu nhiệm được mạc khải đã được ban cho chúng ta trong “xác thịt” của Người Con. Lời Thiên Chúa có thể đón nhận bằng đức tin qua “dấu chỉ” của lời nói và cử chỉ nhân loại. Như thế, đức tin nhận biết Ngôi Lời Thiên Chúa, khi đón tiếp các các cử chỉ và các lời nói Người dùng để tỏ mình cho chúng ta. Vì thế, viễn tượng bí tích của Mạc Khải cho thấy phương cách cứu độ trong lịch sử qua đó Ngôi Lời Thiên Chúa đi vào trong thời gian và không gian, trở thành Đấng đối thoại với con người; còn con người thì được mời gọi đón nhận trong đức tin quà tặng được ban cho.

Như thế, bí tích tính của Lời có thể hiểu cách loại suy như sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô dưới hình bánh và rượu được truyền phép.[24] Bằng cách đến bàn thờ và thông phần vào bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta thực sự thông hiệp vào Mình và Máu Chúa Kitô. Việc công bố Lời Thiên Chúa trong khi cử hành bao hàm việc nhìn nhận chính Chúa Kitô hiện diện và ngỏ lời với chúng ta[25] để được chúng ta lắng nghe. Về thái độ phải có đối với Thánh Thể cũng như đối với Lời Thiên Chúa, thánh Giêrônimô xác quyết: “Chúng ta đọc Kinh Thánh. Tôi nghĩ rằng Tin Mừng là Mình Chúa Kitô; tôi nghĩ rằng Kinh Thánh là giáo huấn của Người. Và khi Người nói: nếu các ngươi không ăn thịt Con Người, và nếu các ngươi không uống Máu Người (Ga 6,53), các lời của Người nói đến Mầu nhiệm [Thánh Thể], tuy nhiên, Mình và Máu Chúa Kitô đích thực là Lời của Sách Thánh, đó là giáo huấn của Thiên Chúa. Khi chúng ta đến với Mầu nhiệm [Thánh Thể] mà có một miếng bánh rơi xuống, chúng ta cảm thấy có lỗi. Và khi chúng ta lắng nghe Lời Thiên Chúa, đó là Lời Thiên Chúa và là Mình Máu Chúa Kitô rơi vào lỗ tai chúng ta, thế mà chúng ta, chúng ta lại nghĩ đến chuyện khác. Chúng ta có thể tưởng tượng ra nguy hiểm lớn lao mà chúng ta đang gặp phải không?”.[26] Chúa Kitô, hiện diện thực sự trong hình bánh và hình rượu, cũng hiện diện cách loại suy trong Lời được công bố trong phụng vụ. Như thế, đào sâu ý nghĩa của bí tích tính của Lời Thiên Chúa có thể giúp hiểu cách thống nhất hơn Mầu nhiệm của Mạc Khải được thực hiện “bằng các hành động và lời nói liên kết mật thiết với nhau”,[27] điều đó mang lại ích lợi cho đời sống thiêng liêng của tín hữu và cho công việc mục vụ của Giáo Hội.

Kinh Thánh và Sách Bài đọc

57. Khi nhấn mạnh đến tương quan giữa Lời và Thánh Thể, Thượng Hội Đồng đã muốn nhắc lại một số khía cạnh của cuộc cử hành liên quan đến việc phục vụ Lời. Tôi muốn nhấn mạnh đặc biệt đến tầm quan trọng của Sách Bài đọc. Cuộc cải tổ do Công Đồng Vatican II[28] khởi xướng đã mang lại kết quả khi mở rộng cửa đến với Kinh Thánh, nay được đề nghị dồi dào hơn, đặc biệt trong phụng vụ ngày Chúa nhật. Cấu trúc hiện nay của Sách Bài đọc không chỉ trình bày thường xuyên hơn các bản văn quan trọng nhất của Sách Thánh, nhưng còn giúp chúng ta hiểu tính duy nhất của kế hoạch của Thiên Chúa nhờ mối tương liên giữa các bài đọc của Cựu và Tân Ước, “trung tâm của mối tương liên đó là Chúa Kitô được cử hành trong Mầu nhiệm Vượt Qua của Người”.[29] Một số những khó khăn còn tồn tại đối trong việc hiểu các tương quan giữa các bài đọc của hai Giao Ước, nay phải được xét đến dưới ánh sáng của cách đọc theo Thư Quy, nghĩa là dưới ánh sáng của tính duy nhất nội tại của toàn thể Kinh Thánh. Nơi nào cảm thấy có nhu cầu, các cơ quan thẩm quyền có thể cho xuất bản tài liệu giáo khoa cho phép hiểu mối liên kết giữa các bài đọc được Sách Bài đọc đề nghị, tất cả các bài đọc này phải được công bố cho cộng đoàn phụng vụ, như phụng vụ của ngày hôm đó dự trù. Phải thông báo cho Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích những vấn đề khác có thể xảy ra và các khó khăn gặp phải.

Hơn nữa, chúng ta không được quên rằng Sách Bài đọc hiện thời của nghi lễ La-tinh cũng mang một ý nghĩa đại kết, vì nó được sử dụng và đồng thời được đánh giá cao bởi những cộng đoàn chưa thông hiệp đầy đủ với Giáo Hội Công Giáo. Vấn đề Sách Bài đọc trong phụng vụ của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương được đặt ra cách khác; Thượng Hội Đồng yêu cầu vấn đề phải được “cứu xét cách có thẩm quyền”[30] theo những truyền thống riêng biệt và những thẩm quyền của các Giáo Hội sui iuris, đồng thời cũng phải lưu ý tới bối cảnh đại kết.

Công bố Lời và thừa tác vụ đọc sách

58. Thượng Hội Đồng về Thánh Thể đã yêu cầu phải quan tâm nhiều hơn nữa đến việc công bố Lời Thiên Chúa.[31] Như mọi người đều biết, trong khi bài Tin Mừng được linh mục hay phó tế công bố, theo truyền thống La-tinh, bài đọc một và bài đọc hai được một độc viên đã được chỉ định, nam hay nữ, công bố. Ở đây, tôi muốn dựa vào ý kiến của các Nghị Phụ; cả trong trường hợp này nữa, các ngài đã nhấn mạnh rằng cần phải quan tâm đào luyện cách thích đáng[32] việc thực thi munus của độc viên trong cử hành phụng vụ[33] và, một cách đặc biệt thừa tác vụ đọc sách, theo nghi lễ La-tinh, là một thừa tác vụ dành cho giáo dân. Các độc viên được giao việc phục vụ này, ngay cả khi không được cắt đặt làm thừa tác viên đọc sách, phải thực sự là những người thích hợp và được chuẩn bị chu đáo. Phải chuẩn bị cho họ về Kinh Thánh và phụng vụ cũng như về khía cạnh kỹ thuật: “Việc huấn luyện về Kinh Thánh phải cho phép độc viên định vị được các bài đọc trong bối cảnh đặc thù của chúng và nắm bắt được, dựa vào ánh sáng của đức tin, trọng tâm của sứ điệp được mạc khải. Việc huấn luyện về phụng vụ phải cung cấp cho độc viên khả năng hiểu được ý nghĩa và cấu trúc của phần phụng vụ Lời Chúa và nhận ra được những liên hệ giữa phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể. Việc chuẩn bị kỹ thuật phải làm cho đọc viên ngày càng có khả năng hơn trong nghệ thuật đọc trước công chúng, hoặc trực tiếp, hoặc dùng những phương tiện khuếch âm hiện đại”.[34]

Tầm quan trọng của bài giảng lễ

59. Mỗi người “đều có bổn phận và nhiệm vụ liên quan tới Lời Thiên Chúa: các tín hữu phải lắng nghe và suy niệm Lời; còn chỉ những ai đã nhận được nhiệm vụ Giáo huấn do bí tích Truyền chức thánh hoặc những ai đã được giao phó cho thi hành thừa tác vụ này”,[35] tức là các Giám mục, các linh mục và các phó tế, thì mới trình bày Lời Chúa. Từ đó, ta hiểu được vì sao Thượng Hội Đồng rất chú ý tới bài giảng lễ. Trong Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Sacramentum caritatis, tôi đã nhấn mạnh rằng “liên hệ đến tầm quan trọng của Lời Thiên Chúa, cần phải cải thiện phẩm chất của bài giảng. Bài giảng lễ ‘là một phần của hành động phụng vụ’; bài giảng lễ có chức năng giúp hiểu biết Lời Thiên Chúa rộng rãi hơn và hữu hiệu hơn trong đời sống các tín hữu”.[36] Quả thế, bài giảng lễ là một việc hiện tại hóa sứ điệp Kinh Thánh, sao cho các tín hữu được đưa đến chỗ khám phá ra sự hiện diện và tính hiệu năng của Lời Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày của họ. Bài giảng phải giúp hiểu Mầu nhiệm đang được cử hành, mời người ta dấn thân cho sứ mạng, khi chuẩn bị cho cộng đoàn tuyên xưng đức tin, cầu nguyện phổ quát và cử hành phụng vụ Thánh Thể. Vì thế, do thừa tác vụ chuyên biệt, những ai được đề cử lo việc giảng dạy, phải rất quan tâm đến bổn phận này. Phải tránh những bài giảng mơ hồ và trừu tượng, che giấu mất tính đơn giản của Lời Thiên Chúa, cũng như phải tránh những kiểu nói lan man lạc đề vô bổ rất có thể lôi kéo chú ý đến người giảng hơn là chú ý đến trọng tâm của sứ điệp Tin Mừng. Các tín hữu phải thấy rõ ràng rằng điều mà vị giảng thuyết đang bận tâm, đó là cho thấy Chúa Kitô, trung tâm của mọi bài giảng. Vì thế, các vị giảng thuyết cần phải quen biết và tiếp xúc chuyên cần với bản văn thánh;[37] họ phải chuẩn bị bài giảng bằng suy niệm và cầu nguyện, để có thể giảng với xác tín và say mê. Thượng Hội Đồng Giám Mục đã khuyến khích lưu ý đến các câu hỏi sau đây: “Các bài đọc được công bố muốn nói gì? Các bài đọc ấy nói gì riêng với tôi? Tôi phải nói gì với cộng đoàn, trong khi quan tâm tới hoàn cảnh cụ thể của họ?”.[38] Vị giảng thuyết “phải là người đầu tiên được thúc bách bởi Lời Thiên Chúa mà ngài loan báo”,[39] bởi vì như thánh Augustinô đã nói: “Người giảng dạy Lời Thiên Chúa ở bên ngoài mà không nghe Lời ấy ở bên trong thì không thể mang lại hoa trái”.[40] Cần đặc biệt chăm sóc bài giảng Chúa nhật và các lễ trọng; nhưng trong các lễ cum populo trong tuần, nếu có thể, xin cũng đừng bỏ cung cấp những suy tư vắn tắt hợp thời giúp các tín hữu đón nhận và làm sinh hoa kết quả Lời họ vừa lắng nghe.

Nên có một quyển Cẩm nang Giảng lễ

60. Giảng dạy một cách tốt đẹp bằng cách dựa trên Sách Bài đọc thật sự là một nghệ thuật cần được trau dồi. Do đó, để tiếp nối với những gì Thượng Hội Đồng trước đã yêu cầu,[41] tôi xin các cơ quan thẩm quyền, khi quy chiếu về quyền Compendium eucharisticum,[42] cũng nghĩ tới các dụng cụ và các phương tiện thích hợp để giúp các thừa tác viên thi hành tác vụ của họ cách tốt nhất, bằng cách chẳng hạn soạn ra một quyển Cẩm nang Giảng lễ, sao cho các vị giảng thuyết có thể có một sự trợ giúp quý báu trong việc chuẩn bị thi hành thừa tác vụ của họ. Như thánh Giêrônimô đã từng nhắc nhở, việc rao giảng phải đi đôi với chứng tá đời sống của mình: “Ước gì các hành vi của anh em không phản bội các lời anh em nói, kẻo khi anh em giảng dạy trong nhà thờ, có người bình luận trong lòng: ‘Thế thì tại sao chính ngài, ngài lại không làm như thế?’[…]. Tinh thần và lời nói phải hài hòa nơi vị linh mục của Chúa Kitô”.[43]

Lời Thiên Chúa, bí tích Hoà Giải và Xức Dầu bệnh nhân

61. Nếu bí tích Thánh Thể chắc chắn ở tại trung tâm của mối liên hệ giữa Lời Thiên Chúa và các Bí tích, cũng nên nêu bật tầm quan trọng của Kinh Thánh đối với các Bí tích khác, nhất là những bí tích có sức chữa lành, Bí tích Hoà Giải hoặc Bí tích Giải Tội và Bí tích Xức Dầu bệnh nhân. Thường trong các Bí tích này, người ta quên quy chiếu về Kinh Thánh, thế mà cần phải dành cho Kinh Thánh một chỗ đứng thuộc về Kinh Thánh. Quả thế, ta không bao giờ được quên rằng “Lời Thiên Chúa là lời hoà giải, vì trong Lời, Thiên Chúa giao hoà mọi sự với chính Ngài (x. 2 Cr 5,18-20; Ep 1,10). Ơn tha thứ đầy từ bi thương xót của Thiên Chúa, đã thành xác phàm nơi Chúa Giêsu, nâng tội nhân trỗi dậy”.[44] Lời Thiên Chúa “soi sáng người tín hữu, để giúp người ấy nhận ra các tội lỗi mình, mời người ấy hoán cải và tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa”.[45] Muốn trải nghiệm sâu sắc hơn sức mạnh hoà giải của Lời Thiên Chúa, nên khuyến khích mỗi hối nhân chuẩn bị xưng tội bằng cách suy ngẫm một đoạn Kinh Thánh thích hợp và bắt đầu việc xưng thú bằng cách đọc hoặc lắng nghe một lời khuyên của Kinh Thánh, như nghi thức riêng đã tiên liệu. Rồi khi bày tỏ lòng thống hối ăn năn, hối nhân nên “dùng một lời kinh được tạo nên bởi các lời rút ra từ Kinh Thánh”,[46] đã được nghi thức tiên liệu. Khi có thể, vào những lúc nào đó trong năm, hoặc khi có cơ hội, nên cử hành việc xưng tội riêng trong những buổi cử hành thống hối, như đã được nghi thức tiên liệu, nhưng phải tôn trọng các truyền thống phụng vụ khác nhau, để có thể dành đủ chỗ cho việc cử hành Lời bằng cách sử dụng các bài đọc thích hợp.

Về Bí tích Xức Dầu bệnh nhân, không được quên rằng “sức mạnh chữa lành của Lời Thiên Chúa là một tiếng gọi mạnh mẽ thúc đẩy người lắng nghe đi tới một cuộc hoán cải thường xuyên”.[47] Kinh Thánh chứa đựng nhiều trang nói tới sự an ủi, sự nâng đỡ và chữa lành do Thiên Chúa can thiệp mang đến. Đặc biệt, nên nghĩ tới sự gần gũi của Chúa Giêsu đối với những người đang đau khổ: chính Người, là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, đã gánh lấy các đau đớn của chúng ta và đã chịu đau khổ vì thương yêu con người, nhờ thế đã đưa lại một ý nghĩa cho bệnh tật và cái chết. Trong các giáo xứ và các bệnh viện, nên tùy hoàn cảnh mà cử hành Bí tích Xức Dầu bệnh nhân trong cộng đoàn. Vào những dịp này, phải dành nhiều chỗ cho việc cử hành Lời Chúa và giúp các tín hữu đau ốm sống tình trạng đau đớn của họ trong đức tin, kết hợp với lễ hy sinh cứu chuộc của Chúa Kitô, Đấng đã giải thoát ta khỏi sự dữ.

Lời Chúa và Các Giờ Kinh Phụng Vụ

62. Trong các hình thức cầu nguyện biết tôn vinh Kinh Thánh, chắc chắn có Các Giờ Kinh Phụng Vụ. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã khẳng định rằng Các Giờ Kinh Phụng Vụ là “một hình thức ưu tiên lắng nghe Lời Thiên Chúa, bởi vì Các Giờ Kinh Phụng Vụ giúp tín hữu tiếp xúc với Kinh Thánh và Truyền Thống sống động của Giáo Hội”.[48] Trước tiên, cần nhắc lại phẩm cách thần học và giáo hội của việc cầu nguyện này. Quả thế, “khi cử hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Hội Thánh thi hành chức vụ tư tế của vị thủ lãnh của mình, dâng lên Thiên Chúa một hiến lễ ngợi khen, nghĩa là dùng miệng lưỡi mà không ngừng (1 Tx 5,17) tuyên xưng danh thánh (x. Dt 13,15). Lời cầu nguyện này là ‘tiếng của chính Hiền Thê ngỏ cùng Lang Quân; và hơn thế nữa, đó là lời cầu nguyện của Đức Kitô, cùng với Nhiệm Thể mình, dâng lên Chúa Cha’”.[49] Về vấn đề này, Công Đồng Vatican II đã khẳng định: “Tất cả những người thực thi lời cầu nguyện này vừa chu toàn trách vụ của Giáo Hội, vừa thông phần vinh dự tối cao của Hiền Thê Chúa Kitô; bởi vì họ đứng trước ngai Thiên Chúa, nhân danh Mẹ Giáo Hội chu toàn việc ca khen Ngài”.[50] Trong Các Giờ Kinh Phụng Vụ, lời cầu nguyện công khai của Giáo Hội, ta thấy được lý tưởng người Kitô hữu là thánh hoá trọn ngày sống, được phân nhịp bằng việc lắng nghe Lời Thiên Chúa và cầu nguyện các Thánh vịnh, nên mọi sinh hoạt đều được quy chiếu vào việc ca ngợi dâng lên Thiên Chúa.

Những ai, vì bậc sống của mình, buộc phải đọc Các Giờ Kinh Phụng Vụ, thì phải trung thành thi hành nhiệm vụ này vì lợi ích của toàn thể Giáo Hội. Các Giám mục, các linh mục và các phó tế hướng tới chức linh mục, đã nhận được từ Giáo Hội sứ mạng cử hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ, buộc phải chu toàn mỗi ngày tất cả các Giờ Kinh.[51] Trong các Giáo Hội Công Giáo Đông phương sui iuris, phải chu toàn bổn phận này tùy các quy định của luật riêng.[52] Ngoài ra, tôi khuyến khích các cộng đoàn sống đời thánh hiến nêu gương sáng trong việc cử hành Các Giờ Kinh Phụng Vụ, nhờ thế họ trở thành một điểm quy chiếu và một nguồn cảm hứng cho đời sống thiêng liêng và mục vụ của toàn thể Giáo Hội.

Thượng Hội Đồng đã ao ước thấy kiểu cầu nguyện này được phổ biến rộng rãi hơn nữa trong Dân Thiên Chúa, nhất là việc đọc các Giờ Kinh Sáng và Giờ Kinh Chiều. Cách làm này sẽ chỉ có thể đưa các tín hữu đến chỗ quen biết hơn với Lời Thiên Chúa. Cũng phải nhấn mạnh đến giá trị của Các Giờ Kinh Phụng Vụ được tiên liệu cho Giờ Kinh Chiều I ngày Chúa nhật và các lễ trọng, đặc biệt trong các Giáo Hội Công Giáo Đông phương. Chính vì thế, tôi khuyến khích, khi có thể, các giáo xứ và các cộng toàn tu sĩ cổ võ cách cầu nguyện này với sự tham dự của tín hữu giáo dân.

Lời Thiên Chúa và Sách Các Phép

63. Cũng thế, khi sử dụng Sách Các Phép, cần lưu ý đến chỗ được tiên liệu cho việc công bố, lắng nghe và giải thích Lời Thiên Chúa, bằng những lời khuyên răn ngắn gọn. Thật thế, trong những trường hợp đã được Giáo Hội tiên liệu và được tín hữu yêu cầu, cử chỉ ban phép lành không được tách khỏi, nhưng phải liên kết theo bản tính riêng với đời sống phụng vụ của Dân Thiên Chúa. Theo nghĩa này, phép lành, dấu chỉ thánh thiêng đích thực, “kín múc ý nghĩa và tính hiệu năng của mình từ việc công bố Lời Thiên Chúa”.[53] Vậy điều quan trọng là cũng tận dụng các hoàn cảnh này để làm gia tăng nơi các tín hữu cơn đói khát mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra” (x. Mt 4,4).

Các gợi ý và đề nghị cụ thể cho việc linh hoạt phụng vụ

64. Sau khi đã nhắc lại một vài yếu tố căn bản trong mối liên hệ giữa phụng vụ và Lời Thiên Chúa, giờ đây, tôi muốn nhắc lại và lượng giá một vài đề nghị và gợi ý đã được các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nêu lên nhằm giúp cho Dân Thiên Chúa ngày một thêm quen thuộc với Lời Thiên Chúa trong khung cảnh các hành vi phụng vụ hoặc ít ra những gì liên hệ đến các hành vi ấy.

a) Cử hành lời Chúa

65. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã khuyến khích tất cả các Mục tử phổ biến trong các cộng đoàn đã được ủy thác cho các ngài những thời khắc dành cho việc cử hành Lời Chúa.[54] Đây là một cơ hội ưu tiên gặp gỡ Chúa. Chính vì thế, một thực hành như vậy chỉ có thể càng mang lại lợi ích hơn nữa cho các tín hữu và nên coi đây là một yếu tố có giá trị của việc mục vụ phụng vụ. Các cuộc cử hành này có một tầm quan trọng đặc biệt đối với việc chuẩn bị Thánh Lễ ngày Chúa nhật, hầu giúp các tín hữu có thể đi sâu hơn vào sự phong phú của Sách Bài đọc, hầu suy ngẫm và cầu nguyện với Kinh Thánh, nhất là trong các mùa phụng vụ quan trọng là Mùa Vọng và Lễ Giáng Sinh, Mùa Chay và Lễ Phục Sinh. Phải khuyến khích mạnh mẽ việc cử hành Lời Thiên Chúa trong các cộng đoàn mà, vì thiếu linh mục, họ không thể cử hành hy lễ Thánh Thể vào những ngày lễ buộc. Vẫn lưu ý đến các chỉ dẫn đã được nêu ra trong Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Sacramentum caritatis liên quan tới các cuộc cử hành ngày Chúa nhật khi không có linh mục,[55] tôi yêu cầu các giới chức có thẩm quyền soạn ra các sách nghi thức, căn cứ vào kinh nghiệm của các Giáo Hội địa phương. Trong những hoàn cảnh như thế, phải cổ võ các buổi cử hành Lời Chúa có khả năng nuôi dưỡng đức tin của các tín hữu, trong khi phải tránh lẫn lộn các cuộc cử hành này với các cử hành Thánh Thể; “đúng ra đây là dịp ưu tiên cầu xin với Thiên Chúa để Ngài gửi đến các linh mục thánh thiện như lòng Ngài mong ước”.[56]

Ngoài ra, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng mời gọi cử hành Lời Thiên Chúa vào các dịp hành hương, các lễ đặc biệt, các ngày tĩnh tâm và các ngày đặc biệt dành cho việc thống hối, đền tạ hay xin tha thứ. Liên hệ đến các hình thức đạo đức bình dân, dù đây không phải là những hành vi phụng vụ và phải tránh lẫn lộn chúng với các cử hành phụng vụ, vẫn nên rút cảm hứng từ các hình thứ này và nhất là các hình thức này phải dành một chỗ đúng đắn cho việc công bố và lắng nghe Lời Thiên Chúa; quả vậy, “lòng đạo đức bình dân phải thấy Kinh Thánh là một nguồn cảm hứng bất tận, những điển hình về cầu nguyện không ai sánh được và những đề nghị về các chủ đề đặc biệt phong phú”.[57]

b) Lời Chúa và sự thinh lặng

66. Nhiều góp ý của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhấn mạnh tới giá trị của sự thinh lặng trong tương quan với Lời Thiên Chúa và việc tiếp nhận Lời trong đời sống các tín hữu.[58] Quả thật, Lời chỉ có thể được công bố và lắng nghe trong thinh lặng, cả bề ngoài lẫn bề trong. Thời đại chúng ta không cổ võ sự tĩnh lặng, nên đôi khi chúng ta có cảm tưởng người ta sợ phải tách mình ra khỏi các phương tiện truyền thông đại chúng, dù chỉ trong khoảnh khắc. Chính vì thế, ngày nay, cần phải giáo dục Dân Thiên Chúa về giá trị của sự thinh lặng. Tái khám phá tính cách trung tâm của Lời Thiên Chúa trong đời sống Giáo Hội có nghĩa là tái khám phá ý nghĩa của sự tĩnh lặng và sự bình an nội tâm. Truyền thống cổ kính của các Giáo Phụ dạy chúng ta rằng các Mầu nhiệm của Chúa Kitô đều có liên hệ với sự thinh lặng;[59] chỉ nhờ thinh lặng, Lời mới đến cư ngụ trong chúng ta, như nơi Đức Maria, vừa là người phụ nữ của Lời vừa là người phụ nữ của thinh lặng. Các nền phụng vụ của chúng ta phải tạo sự dễ dàng cho việc lắng nghe chân chính này: Verbo crescente, verba deficiunt ( Để Lời Thiên Chúa được lớn lên, thì các lời nói của con người phải ít đi).[60]

Ước gì giá trị này đặc biệt rạng sáng lên trong Phụng vụ Lời Chúa, “một cuộc cử hành phải được thực hiện thế nào hầu cổ võ việc suy niệm”.[61] Khi được tiên liệu, sự thinh lặng phải được coi là “một thành phần của cuộc cử hành”.[62] Chính vì thế, tôi khuyến khích các Mục tử cổ võ các giây phút tĩnh lặng, nhờ thế, với ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Lời Thiên Chúa được đón nhận vào trong lòng.

c) Công bố long trọng Lời Thiên Chúa

67. Một gợi ý nữa đã được nêu ra trong Thượng Hội Đồng: công bố long trọng Lời, cách riêng công bố Tin Mừng, nhất là trong các ngày lễ phụng vụ quan trọng, bằng cách sử dụng quyển Sách Tin Mừng để rước kiệu trong nghi thức nhập lễ, rồi được phó tế hay một linh mục đặt lên giá sách để được công bố. Bằng cách đó, ta giúp Dân Thiên Chúa nhận biết rằng “đọc Tin Mừng là đỉnh cao của phụng vụ Lời Chúa”.[63] Khi theo các chỉ dẫn trong Trình bày tổng quát Sách Bài đọc trong Thánh Lễ, nên làm nổi bật việc công bố Lời Thiên Chúa, nhất là bài Tin Mừng, bằng lời hát, đặc biệt trong một số lễ trọng. Nên hát lời chào, lời loan báo mở đầu: “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo…” và lời kết thúc “Đó là Lời Chúa”, để nêu bật tầm quan trọng của điều vừa được đọc.[64]

d) Lời Thiên Chúa trong nhà thờ

68. Để giúp cho việc lắng nghe Lời Thiên Chúa, không được coi thường các phương tiện có thể giúp các tín hữu chú ý hơn. Muốn thế, cần phải quan tâm tới độ vang âm trong các nhà thờ, trong khi vẫn phải tôn trọng các quy tắc phụng vụ và kiến trúc. “Khi xây dựng các nhà thờ, các Giám mục được trợ giúp thích đáng, phải quan tâm làm cho các nhà thờ thành những nơi phù hợp cho việc công bố Lời, suy niệm và cử hành Thánh Thể. Các không gian thánh, cho dù ở bên ngoài hành vi phụng vụ, cũng phải có tính hùng hồn, do trình bày Mầu nhiệm Kitô giáo trong tương quan với Lời Thiên Chúa”.[65]

Phải đặc biệt chú trọng tới giảng đài như là nơi chốn phụng vụ để công bố Lời Thiên Chúa. Giảng đài nên đặt ở một nơi ai cũng thấy để các tín hữu tự nhiên hướng về đó trong phần phụng vụ Lời Chúa. Nên làm giảng đài cố định, như một yếu tố được trang trí hài hoà về thẩm mỹ với bàn thờ, để diễn tả cách hữu hình nghĩa thần học của hai bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể. Các bài đọc, Thánh vịnh đáp ca và công bố Tin Mừng Phục Sinh phải được công bố từ giảng đài; hơn nữa tại đây cũng có thể giảng và đọc lời nguyện các tín hữu.[66]

Ngoài ra, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng cũng đề nghị trong các nhà thờ nên dành một chỗ danh dự để đặt Sách Thánh, ngay cả khi ở ngoài các cuộc cử hành phụng vụ.[67] Quả thế, nên để quyển sách chứa Lời Thiên Chúa có một chỗ danh dự ai cũng thấy ở bên trong đền thờ Kitô giáo, mà không phương hại tới vị trí trung tâm dành riêng cho nhà tạm chứa Mình Thánh Chúa.[68]

e) Chỉ dùng các bản văn Kinh Thánh trong phụng vụ

69. Ngoài ra, Thượng Hội Đồng đã mạnh mẽ nhấn mạnh về một điểm đã từng được luật phụng vụ quy định:[69] không bao giờ được thay thế các bài đọc rút từ Kinh Thánh bằng các bản văn khác, cho dù có ý nghĩa đến đâu về phương diện thiêng liêng hay mục vụ: “Không một bản văn tu đức hay văn chương nào có thể đạt giá trị và sự phong phú chứa đựng trong Kinh Thánh, tức là Lời Thiên Chúa”.[70] Đây là một quy luật cổ xưa của Giáo Hội phải được duy trì.[71] Đứng trước một số lạm dụng, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã từng nhắc lại tầm quan trọng của việc không bao giờ được thay thế Kinh Thánh bằng các bài đọc khác.[72] Cũng nên nhớ rằng Thánh vịnh đáp ca cũng là một Lời Thiên Chúa, và do đó, không được thay thế bằng các bản văn khác, và rất nên hát.

f) Thánh ca phụng vụ cảm hứng từ Kinh Thánh

70. Trong khung cảnh đề cao Lời Thiên Chúa trong cử hành phụng vụ, cũng phải quan tâm đến bài ca dành cho những lúc được tiên liệu theo từng nghi thức, dành ưu tiên cho các bài ca rõ ràng rút cảm hứng từ Kinh Thánh và diễn tả vẻ đẹp của Lời Chúa, bằng sự hoà hợp giữa nhạc và lời. Theo chiều hướng này, nên đề cao các bài ca mà Truyền thống Giáo Hội đã để lại và là những bài tôn trọng tiêu chuẩn này. Tôi nghĩ cách riêng tới tầm quan trọng của bình ca Grêgôriô.[73]

g) Lưu tâm đặc biệt tới những người khiếm thính và khiếm thị

71. Trong bối cảnh này, tôi cũng muốn nhắc lại rằng Thượng Hội Đồng đã khuyến cáo là phải đặc biệt lưu tâm tới những ai vì hoàn cảnh riêng, đang gặp khó khăn, khiến không thể tham gia tích cực vào phụng vụ, như chẳng hạn những người không thấy được hoặc không nghe được. Tôi khuyến khích các cộng đồng Kitô hữu, trong mức độ có thể, tiên liệu các dụng cụ thích hợp để trợ giúp những anh chị em đang chịu đau khổ vì các khó khăn này, để cả họ nữa, họ cũng có khả năng cảm nhận tiếp xúc sống động với Lời Chúa.[74]

LỜi THIÊN Chúa trong ĐỜi SỐng Giáo HỘi

Gặp gỡ Lời Thiên Chúa trong Kinh Thánh

72. Nếu quả thực phụng vụ là nơi ưu tiên để công bố, lắng nghe và cử hành Lời Thiên Chúa, thì cũng đúng là cuộc gặp gỡ này phải được chuẩn bị trong tâm hồn các tín hữu và nhất là phải được họ đào sâu và hấp thụ. Quả thế, đời sống Kitô hữu có đặc tính chủ yếu là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô, Đấng vẫn đang kêu gọi bước theo Người. Chính vì thế, Thượng Hội Đồng Giám Mục đã tái quả quyết nhiều lần về tầm quan trọng của mục vụ trong các cộng đoàn Kitô hữu như là khung cảnh trong đó diễn ra một hành trình cá nhân và cộng đoàn dựa trên Lời Thiên Chúa, hầu Lời Chúa thật sự nằm ở tại nền tảng của đời sống thiêng liêng. Cùng với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, tôi tha thiết mong ước được thấy nở rộ “một mùa xuân mới chan hòa tình yêu hơn đối với Kinh Thánh, từ phía mọi thành phần Dân Thiên Chúa, để việc đọc Kinh Thánh trong tư thế cầu nguyện và trong đức tin cho phép họ đào sâu mối liên hệ với chính bản thân Đức Giêsu”.[75]

Trong lịch sử Giáo Hội, không thiếu những vị thánh đã khuyến cáo là cần phải biết Kinh Thánh để lớn lên trong tình yêu đối với Chúa Kitô. Đây là điều đặc biệt rõ ràng nơi các Giáo Phụ. Thánh Giêrônimô, người hết sức “si mê” Lời Thiên Chúa, đã tự hỏi: “Làm thế nào người ta có thể sống mà không hiểu biết Kinh Thánh, vì nhờ Kinh Thánh, ta mới học biết được chính Chúa Kitô, Đấng chính là sự sống của các tín hữu?”.[76] Ngài biết rõ rằng Kinh Thánh là phương thế “nhờ đó, Thiên Chúa nói với tín hữu mỗi ngày”.[77] Ngài đã khuyên bà Leta, một mệnh phụ Rôma, về việc giáo dục người con gái của mình: “Bà phải đảm bảo là cháu mỗi ngày học được một đoạn Kinh Thánh… Việc đọc Kinh Thánh phải tiếp nối việc cầu nguyện, và việc cầu nguyện phải tiếp nối việc đọc Kinh Thánh… Thay vì các món nữ trang và lụa là, ước gì cháu yêu mến Sách Thánh”.[78] Lời khuyên của thánh Giêrônimô viết cho linh mục Nêpôsianô cũng có thể áp dụng cho chúng ta: “Hãy thường xuyên đọc Sách Thánh; thậm chí, Sách Thánh không bao giờ được rời khỏi tay cha. Hãy học trong đó những điều cha phải giảng dạy”.[79] Theo gương của vị đại thánh này, người đã hiến cả đời để nghiên cứu Kinh Thánh và đã để lại cho Giáo Hội bản dịch Latinh, tức Bản Vulgata (Phổ thông), cũng như gương của tất cả các thánh đã đặt cuộc gặp gỡ Chúa Kitô tại trung tâm đời sống thiêng liêng của họ, ta hãy canh tân nỗ lực đào sâu Lời mà Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội. Như thế, ta có thể nhắm tới “mức độ cao của đời sống Kitô hữu bình thường”,[80] được nuôi dưỡng thường xuyên bằng việc lắng nghe Lời Thiên Chúa, điều mà Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã ước ao vào lúc khởi đầu thiên niên kỷ thứ ba của Kitô giáo.

Linh hoạt công việc mục vụ bằng Kinh Thánh

73. Theo chiều hướng này, Thượng Hội Đồng đã kêu gọi một sự dấn thân mục vụ đặc biệt để nêu bật vị thế trung tâm của Lời Thiên Chúa trong đời sống Giáo Hội, khi đề nghị nên “tăng cường khoa mục vụ Kinh Thánh”, không phải bằng cách đặt khoa này bên cạnh những hình thức mục vụ khác, nhưng phải là “linh hoạt tất cả công việc mục vụ bằng Kinh Thánh”.[81] Vậy vấn đề không phải là thêm một vài cuộc hội họp trong giáo xứ hay trong giáo phận, mà là đảm bảo rằng, trong các sinh hoạt quen thuộc của các cộng đoàn Kitô hữu, trong các giáo xứ, trong các hội đoàn và trong các phong trào, người ta thật sự quan tâm đến việc gặp gỡ riêng tư với Đức Kitô, Đấng thông truyền chính Người cho chúng ta nơi Lời Người. Bởi vì nếu “không biết Kinh Thánh là không biết Đức Kitô”,[82] việc linh hoạt bằng Kinh Thánh tất cả hoạt động mục vụ thông thường và ngoại thường sẽ dẫn đưa đến một hiểu biết lớn lao hơn về con người của Đức Kitô, Đấng mạc khải Chúa Cha và là Mạc Khải viên mãn của Thiên Chúa.

Vậy tôi khuyên các vị Mục tử và các tín hữu hãy ý thức về tầm quan trọng của việc linh hoạt này: đó cũng sẽ là cách thức tốt nhất để đương đầu với một vài vấn đề mục vụ được nêu lên tại Thượng Hội Đồng, chẳng hạn những vấn đề liên quan đến sự tăng nhanh của các giáo phái đang phổ biến một cách đọc Kinh Thánh méo mó và lèo lái. Ở đâu các tín hữu không trau dồi cho mình một sự hiểu biết Kinh Thánh phù hợp với đức tin của Giáo Hội và dựa trên Truyền Thống sống động của Giáo Hội, thì ở đó người ta để lại một khoảng trống rỗng mục vụ, là nơi mà các thực tại như các giáo phái có thể gặp được một vùng đất mầu mỡ để bám rễ. Vì thế, cũng cần phải chuẩn bị chu đáo các linh mục và giáo dân để họ có thể dạy dỗ Dân Thiên Chúa tiếp cận Kinh Thánh một cách chân thực.

Ngoài ra, như đã được nêu bật trong các phiên họp Thượng Hội Đồng, trong sinh hoạt mục vụ, nên tạo cơ hội thuận tiện cho các cộng đoàn nhỏ có thể phát triển, các cộng đoàn này “được tạo nên bởi các gia đình, bám rễ trong các giáo xứ hay được liên kết với các phong trào Giáo Hội hoặc với những cộng đoàn mới”;[83] trong các cộng đoàn này, việc đào tạo, cầu nguyện và hiểu biết Kinh Thánh phù hợp với đức tin của Giáo Hội sẽ được khuyến khích.

Chiều kích Kinh Thánh của khoa huấn giáo

74. Một phương diện quan trọng trong hoạt động mục vụ của Giáo Hội, lúc mà người ta có thể khôn ngoan tái khám phá đặc tính trung tâm của Lời Thiên Chúa, là việc dạy giáo lý; việc giảng dạy giáo lý này, dưới các hình thức và theo các giai đoạn khác nhau, phải luôn luôn đồng hành với Dân Thiên Chúa. Cuộc gặp gỡ của các môn đệ với Đức Giêsu trên đường Emmau được tác giả Tin Mừng Luca mô tả (x. Lc 24,13-35), theo một nghĩa nào đó, biểu thị khuôn mẫu của việc dạy giáo lý tập trung vào việc “giải thích Kinh Thánh”, mà chỉ duy Chúa Kitô mới có thể ban cho (x. Lc 24,27-28), khi chỉ cho thấy Kinh Thánh được hoàn tất nơi bản thân Người.[84] Niềm hy vọng thắng vượt mọi thất bại quả thật đã tái sinh như thế, và làm cho các môn đệ trở thành những chứng nhân xác tín và khả tín của Đấng Phục Sinh.

Trong quyển Cẩm nang tổng quát cho việc dạy giáo lý, chúng ta gặp được những hướng dẫn quý báu để Kinh Thánh là linh hồn của việc giảng dạy giáo lý, nên tôi sẵn lòng khuyến khích nên tham khảo bản văn này.[85] Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh đặc biệt rằng khoa giáo lý “phải thấm nhuần và nắm vững tư tưởng, tinh thần và các thái độ Kinh Thánh và Tin Mừng nhờ việc chuyên cần tiếp xúc với chính các bản văn; điều này cũng muốn nhắc nhớ rằng khoa giáo lý sẽ càng phong phú và hiệu quả hơn, nếu như đọc các bản văn với khối óc và con tim của Giáo Hội”[86] và được gợi hứng từ suy tư và đời sống suốt hai ngàn năm qua của Giáo Hội. Như vậy, chúng ta phải khuyến khích một sự hiểu biết về các nhân vật Kinh Thánh, những biến cố và những diễn ngữ căn bản của bản văn thánh; muốn như vậy, cũng có thể là bổ ích nếu hiểu biết và học thuộc lòng một vài đoạn văn Kinh Thánh – đặc biệt những đoạn văn nói về các Mầu nhiệm Kitô giáo. Công việc dạy giáo lý luôn luôn hàm chứa việc kết hợp Kinh Thánh với đức tin và Truyền thống Giáo Hội, sao cho những lời này được nhận thức là những lời hằng sống, y như hôm nay Đức Kitô vẫn đang sống ở nơi nào có hai hay ba người họp nhau lại nhân danh Người (x. Mt 18,20). Khoa giáo lý phải truyền đạt cách sống động lịch sử cứu độ và các nội dung đức tin của Giáo Hội, ngõ hầu mọi tín hữu đều nhận ra rằng hoàn cảnh sống cá nhân của mình cũng thuộc về lịch sử này.

Trong viễn cảnh này, điều quan trọng là phải nhấn mạnh mối liên hệ giữa Kinh Thánh và sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, như Cẩm nang tổng quát cho việc dạy giáo lý đã khẳng định: “Quả thật, Kinh Thánh, với tư cách là ‘Lời Thiên Chúa được viết dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần’ và Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, với tư cách là cách thế diễn tả đương thời Truyền thống sống động của Giáo Hội và là nguyên tắc chắc chắn để giáo huấn đức tin, cả hai, mỗi bên theo cách thức và uy thế riêng, đều được mời gọi làm phong phú việc giảng dạy giáo lý trong Giáo Hội hiện nay”.[87]

Đào tạo Kinh Thánh cho các Kitô hữu

75. Để đạt được mục đích mà Thượng Hội Đồng đề ra, tức là nhấn mạnh hơn nữa vai trò của Kinh Thánh trong công việc mục vụ của Giáo Hội, các Kitô hữu, đặc biệt là các giáo lý viên, cần phải được đào tạo một cách thích hợp. Về điểm này, cần chú ý đến việc tông đồ Kinh Thánh, một phương pháp rất có giá trị cho mục đích này, như kinh nghiệm của Giáo Hội đã cho thấy. Hơn nữa, các Nghị Phụ của Thương Hội Đồng đã khuyến cáo rằng, nếu có thể qua việc lượng giá những cơ cấu học thuật hiện hành, nên thiết lập những trung tâm đào tạo giáo dân và các thừa sai, tại đó người ta học cách hiểu, sống và loan báo Lời Thiên Chúa. Cũng vậy, ở nơi nào có nhu cầu, nên thiết lập những học viện chuyên môn trong ngành nghiên cứu Kinh Thánh để đào tạo những nhà chú giải có sự hiểu biết thần học vững chắc và nhạy bén với các bối cảnh trong đó họ thi hành sứ mạng.[88]

Kinh Thánh trong những cuộc hội họp của Giáo Hội

76. Giữa muôn vàn sáng kiến có thể có, Thượng Hội Đồng gợi ý rằng trong những cuộc hội họp, ở cấp giáo phận cũng như quốc gia hay quốc tế, tầm quan trọng của Lời Thiên Chúa, của việc lắng nghe và đọc Lời Chúa trong tư thế đức tin và cầu nguyện, phải được nhấn mạnh tối đa. Do đó, trong các Đại Hội Thánh Thể, dù ở cấp quốc gia hay quốc tế, vào những ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới và những cuộc quy tụ khác, thật có lý khi dành những không gian rộng lớn hơn cho các cuộc cử hành Lời Chúa và cho những giờ phút đào tạo về Kinh Thánh.[89]

Lời Thiên Chúa và các ơn gọi

77. Khi nêu bật đòi hỏi nội tại của đức tin là đào sâu mối liên hệ với Đức Kitô, Lời Thiên Chúa ở giữa chúng ta, Thượng Hội Đồng cũng đã muốn nhấn mạnh rằng Lời này kêu gọi từng người một cách riêng tư, và như thế cho thấy rằng chính đời sống là một ơn gọi do Thiên Chúa ban. Nói cách khác, chúng ta đào sâu mối liên hệ Chúa Giêsu, chúng ta càng nhận ra rằng Người đang kêu gọi chúng ta nên thánh, nhờ những chọn lựa dứt khoát đời sống chúng ta đáp trả tình yêu của Người, bằng cách đảm nhận những công việc và những sứ vụ nhằm xây dựng Giáo Hội. Trong viễn cảnh này, ta hiểu được việc Thượng Hội Đồng mời gọi các Kitô hữu đào sâu mối liên hệ của họ với Lời Thiên Chúa, trong tư cách người chịu phép rửa, nhưng còn trong tư cách người được kêu gọi sống theo những bậc sống khác nhau. Ở đây chúng ta chạm đến một trong những điểm mấu chốt giáo huấn của Công Đồng Vatican II, khi Công Đồng nhấn mạnh ơn gọi nên thánh của mọi tín hữu, mỗi người theo bậc sống của chính mình [90]. Chính trong Kinh Thánh mà ơn gọi nên thánh của chúng ta được mạc khải: “Các ngươi phải nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 11,44; 19,2; 20,7). Đến lượt người, thánh Phaolô vạch cho thấy nền tảng của lời kêu gọi này mang tính Kitô học: trong Đức Kitô, Chúa Cha “đã chọn chúng ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, chúng ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” (Ep 1,4). Như vậy, chúng ta có thể nghe lời chào hỏi của thánh nhân gửi về các anh chị em thuộc cộng đoàn Rôma như gửi đến mỗi người chúng ta: “Kính gửi tất cả anh em ở Rôma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được gọi là thánh. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an” (Rm 1,7).

a) Lời Chúa và các Thừa tác viên chức thánh

78. Trước hết, bây giờ khi ngỏ lời với các thừa tác viên chức thánh của Giáo Hội, tôi xin nhắc quý vị lời phát biểu của Thượng Hội Đồng: “Lời Thiên Chúa cần thiết để đào tạo trái tim một người Mục tử nhân lành, thừa tác viên Lời Chúa”.[91] Các giám mục, các linh mục, các phó tế không thể nào nghĩ rằng họ sống được ơn gọi và sứ vụ của mình nếu không cương quyết và liên tục nỗ lực nên thánh, mà một trong những trụ cột của nỗ lực là tiếp xúc với Kinh Thánh.

79. Đối với những ai được ơn gọi vào chức giám mục, là những người đầu tiên có thẩm quyền loan báo Lời Chúa, tôi muốn tái khẳng định điều mà Đức Gioan Phaolô II đã nói trong Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Pastores Gregis. Để nuôi dưỡng và thăng tiến đời sống thiêng liêng của mình, vị Giám mục luôn luôn phải dành chỗ“ưu tiên cho việc đọc và suy niệm Lời Thiên Chúa. Mỗi Giám mục sẽ phải luôn luôn phó thác bản thân và cảm thấy mình được phó thác ‘cho Thiên Chúa và cho Lời ân sủng của Ngài, là Lời có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến’ (Cv 20,32).Chính vì thế, trước khi là người truyền đạt Lời Chúa, vị Giám mục, cùng với các linh mục của mình và thật ra giống như mỗi tín hữu, hơn nữa giống như chính Giáo Hội, phải là người lắng nghe Lời. Ngài phải như ‘ở bên trong’ Lời, để mình được gìn giữ và nuôi dưỡng bởi Lời, như trong lòng mẹ”.[92] Noi gương Đức Maria, Virgo audiens và Nữ Vương của các Tông Đồ, tôi khuyên toàn thể chư huynh trong chức giám mục mỗi vị hãy thường xuyên đọc và chuyên cần học hỏi Kinh Thánh.

80. Với các linh mục cũng vậy, tôi muốn nhắc lại lời của Đức Gioan Phaolô II, trong Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Pastores dabo vobis, nói rằng “linh mục trước hết là Thừa tác viên Lời Thiên Chúa. Ngài được thánh hiến và được sai đi để loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người, kêu gọi mỗi người vâng phục đức tin và dẫn đưa các tín hữu đến chỗ hiểu biết và hiệp thông ngày một sâu xa hơn với Mầu nhiệm Thiên Chúa, đã được Chúa Kitô mạc khải và truyền đạt cho chúng ta. Chính vì thế, trước tiên vị linh mục đã phải rất quen thuộc với Lời Thiên Chúa. Biết phương diện ngôn ngữ hoặc chú giải Lời Chúa, thì chưa đủ, dù là cần thiết. Vị linh mục phải đón tiếp Lời Chúa với một tấm lòng vâng phục và cầu nguyện, ngõ hầu Lời Chúa thấm nhuần sâu xa các tư tưởng và các tâm tình của ngài và làm phát sinh nơi ngài một tinh thần mới, ‘tư tưởng của Đức Kitô’ (1 Cr 2, 16)”.[93] Như thế, các lời nói, hơn nữa các chọn lựa và các thái độ của ngài sẽ ngày càng trong suốt với Tin Mừng, sẽ loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng.“Chỉ khi ‘ở lại trong’ Lời Chúa, vị linh mục mới trở thành người môn đệ hoàn hảo của Chúa, mới nhận biết chân lý và mới thật sự tự do”.[94]

Nói tóm lại, ơn gọi linh mục đòi hỏi phải được hiến thánh “trong sự thật”. Chính Đức Giêsu đã yêu cầu như thế với các môn đệ Người: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian” (Ga 17,17-18). Theo một ý nghĩa nào đó, các môn đệ được “lôi cuốn vào trong cuộc sống thân tình với Thiên Chúa do họ được đắm mình vào trong Lời Thiên Chúa. Có thể nói, Lời Thiên Chúa là bể tắm thanh tẩy, là quyền lực sáng tạo biến đổi họ và làm cho họ thuộc về Thiên Chúa”.[95] Bởi vì chính Đức Kitô là Lời Thiên Chúa làm người (Ga 1,14), là “sự thật” (Ga 14,6), nên lời Đức Giêsu cầu xin với Chúa Cha: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ” có ý nghĩa sâu xa nhất: “Xin Cha làm cho họ nên một với con, là Đấng Kitô. Xin liên kết họ lại với con. Xin lôi kéo họ vào trong con. Bởi vì trong thực tế, chỉ có một tư tế duy nhất của Giao Ước Mới, là chính Đức Giêsu Kitô”.[96] Vậy các linh mục cần phải ý thức liên tục và ngày một sâu xa hơn về thực tại này.

81. Tôi cũng muốn được nói về vị trí của Lời Thiên Chúa trong đời sống của những người được gọi lên chức phó tế, không chỉ như bước cuối cùng hướng đến chức linh mục, nhưng một ơn gọi phục vụ liên lỉ. Những Nguyên tắc cơ bản cho việc đào tạo phó tế vĩnh viễn khẳng định rằng “từ chân tính thần học của chức phó tế, rõ ràng rút ra được những nét đặc trưng thuộc linh đạo đặc thù của chức vụ này, chức vụ được giới thiệu chủ yếu như là một linh đạo phục vụ. Khuôn mẫu tuyệt vời nhất là Đức Kitô tôi tớ, Người đã sống hoàn toàn để phục vụ Thiên Chúa, vì lợi ích của loài người”.[97] Trong viễn cảnh này, người ta có thể thấy rằng, trong các chiều kích khác nhau của thừa tác vụ phó tế, “một yếu tố đặc trưng của linh đạo phó tế là Lời Thiên Chúa, mà ngài được kêu gọi làm người rao giảng có thẩm quyền, bằng cách tin điều ngài công bố, giảng dạy điều ngài tin, sống điều ngài giảng dạy”.[98] Vậy, tôi khuyến khích các phó tế nuôi dưỡng đời sống mình bằng việc đọc Kinh Thánh trong tư thế đức tin cùng với việc học hỏi và cầu nguyện. Các ngài phải được dẫn nhập vào “Kinh Thánh và cách giải thích đúng đắn; vào thần học Cựu và Tân Ước; vào tương quan hỗ tương giữa Kinh Thánh và Thánh Truyền; đặc biệt, vào cách sử dụng Kinh Thánh trong việc rao giảng, dạy giáo lý và hoạt động mục vụ nói chung”.[99]

b) Lời Chúa và các ứng viên chức thánh

82. Thượng Hội Đồng đã gán một tầm quan trọng đặc biệt cho vai trò quyết định của Lời Chúa trong đời sống thiêng liêng của các ứng viên hướng đến chức linh mục thừa tác: “Các ứng viên hướng đến chức linh mục phải học biết yêu mến Lời Thiên Chúa. Vậy, Kinh Thánh phải là linh hồn của việc đào tạo thần học của họ, và phải nhấn mạnh đến tác động qua lại cần thiết giữa chú giải, thần học, tu đức và sứ vụ”.[100] Các ứng viên hướng đến chức linh mục thừa tác được mời gọi đi vào một quan hệ cá nhân sâu sắc với Lời Thiên Chúa, đặc biệt bằng Lectio divina, để chính ơn gọi của họ được nuôi dưỡng bằng quan hệ này: chính là trong ánh sáng và sức mạnh của Lời Thiên Chúa mà mỗi ứng viên có thể khám phá, hiểu biết, yêu mến và theo đuổi ơn gọi của chính mình cũng như hoàn thành sứ vụ của mình, nhờ làm tăng trưởng trong lòng mình các tư tưởng về Thiên Chúa, sao cho đức tin, với tư cách là lời đáp trả lại với Lời Chúa, trở thành tiêu chuẩn mới cho việc phán đoán và lượng định con người và sự vật, các biến cố và các vấn đề.[101]

Sự quan tâm đến việc đọc Kinh Thánh trong tư thế cầu nguyện như vậy lại không hề được đưa đến một sự phân đôi tách khỏi việc nghiên cứu mang tính chú giải như một phần của công việc huấn luyện. Thượng Hội Đồng đã khuyến cáo rằng các chủng sinh phải được giúp đỡ một cách cụ thể để thấy mối quan hệ giữa việc học hỏi Kinh Thánh và việc cầu nguyện với Kinh Thánh. Học hỏi Kinh Thánh phải giúp chúng ta ý thức hơn về Mầu nhiệm Mạc Khải của Thiên Chúa và nuôi dưỡng một tư thế đáp trả bằng cầu nguyện với Chúa, Đấng đang lên tiếng nói. Cũng vậy, một đời sống cầu nguyện trung thực chỉ có thể làm lớn lên trong tâm hồn của ứng viên khát vọng được biết ngày càng nhiều hơn nữa Vị Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra, trong Lời của Ngài, là tình yêu vô biên. Do đó, phải ra sức vun đắp trong đời sống các chủng sinh mối quan hệ hỗ tương này giữa học hỏi và cầu nguyện. Nhằm mục đích này, nhờ những phương pháp hỗ trợ cho một việc tiếp cận trọn vẹn, các ứng sinh sẽ được hướng dẫn vào việc học hỏi Kinh Thánh.

c) Lời Thiên Chúa và Đời sống thánh hiến

83. Về Đời sống thánh hiến, Thượng Hội Đồng đã nhắc lại trước tiên rằng đời sống này “phát sinh từ việc lắng nghe Lời Thiên Chúa và đón nhận Tin Mừng như quy luật sống”.[102] Sống theo Chúa Kitô, khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục, đó là một “‘chú giải’ sống động về Lời Thiên Chúa”.[103] Nhờ Chúa Thánh Thần, Kinh Thánh đã được viết ra; cũng chính Ngài đã dùng “một ánh sáng mới để chiếu rọi Lời Thiên Chúa cho các Đấng sáng lập Dòng Tu, nam cũng như nữ. Mọi đặc sủng phát sinh từ Lời Thiên Chúa và mọi quy luật đều muốn là nét diễn đạt từ Lời Chúa”,[104] khai sinh những linh đạo Kitô hữu với đặc điểm là sống triệt để theo Tin Mừng.

Tôi muốn nhắc lại rằng Truyền thống đan tu cổ kính đã luôn luôn coi việc suy niệm Kinh Thánh như một yếu tố cấu thành linh đạo đặc thù của mình, đặc biệt dưới hình thức Lectio divina. Ngày nay cũng vậy, những thực tại cổ xưa hay hiện đại của đời sống thánh hiến chuyên biệt đều được gọi để trở thành những trường học đích thực về đời sống thiêng liêng, tại các nơi đó, người ta đọc Kinh Thánh theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần ở trong Giáo Hội, ngõ hầu toàn thể Dân Thiên Chúa được hưởng nhờ. Vì thế Thượng Hội Đồng nhắc nhở các cộng đoàn đời sống thánh hiến, không bao giờ được thiếu một nền huấn luyện vững chắc về việc đọc Kinh Thánh với niềm tin.[105]

Một lần nữa, tôi muốn làm vọng lại tâm tình ân cần và biết ơn mà Thượng Hội Đồng đã diễn tả đối với những hình thức đời sống chiêm niệm. Những hình thức này, nhờ đặc sủng riêng, đang dâng hiến phần lớn thời gian trong ngày để theo gương Mẹ Thiên Chúa, chăm chú suy niệm những lời nói và việc làm của Người Con của Mẹ (x. Lc 2,19.51), và theo gương Maria người làng Bêtania, ngồi dưới chân Chúa mà lắng nghe Lời Người (x. Lc 10, 38). Tôi đặc biệt nghĩ đến các nam và nữ đan sĩ dòng kín, bằng cách tách mình ra khỏi thế gian, họ được kết hợp mật thiết hơn với Chúa Kitô, tâm điểm của thế giới. Hơn bao giờ hết, Giáo Hội cần đến chứng tá của những người đang cam kết “không ưa chuộng bất cứ điều gì hơn tình yêu của Chúa Kitô”.[106] Thế giới hiện đại thường quá bị thu hút bởi những hoạt động bên ngoài khiến gặp nguy cơ đánh mất chính mình. Bằng đời sống cầu nguyện, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, các nhà chiêm niệm đang nhắc nhở chúng ta rằng con người không sống chỉ bằng cơm bánh, nhưng còn bằng mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra (x. Mt 4,4). Do đó, mọi tín hữu phải ghi nhớ rằng một hình thức sống như thế “đang chỉ cho thế giới hôm nay thấy điều quan trọng nhất, mà thật ra là điều duy nhất mang tính quyết định: có một lý do tối hậu khiến cuộc sống có ý nghĩa, đó là Thiên Chúa và tình yêu sâu thẳm vô phương đạt đáo của Ngài”.[107]

d) Lời Chúa và giáo dân

84. Thượng Hội Đồng rất thường hướng sự chú ý của mình về phía giáo dân, để cám ơn họ đã quảng đại dấn thân truyền bá Tin Mừng tại những môi trường đa dạng của cuộc sống hằng ngày của họ, tại công sở, học đường, gia đình và trong việc giáo dục.[108] Nhiệm vụ này, cắm rễ trong bí tích Rửa Tội, phải có thể phát triển qua một đời sống Kitô hữu ngày một ý thức hơn, khả dĩ trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng ở nơi chúng ta (x. 1 Pr 3,15). Trong Tin Mừng Mátthêu, Đức Giêsu chỉ cho thấy rằng “ruộng là thế gian; hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời” (13,38). Những lời này áp dụng đặc biệt cho giáo dân, họ đang sống ơn gọi nên thánh riêng của mình trong một cuộc sống theo Thánh Thần, được diễn tả “một cách đặc biệt qua việc tháp nhập vào trong các thực tại phàm trầndự phần vào các sinh hoạt trần thế”.[109] Họ cần được đào tạo để biết biện phân ý muốn Thiên Chúa nhờ một cuộc sống thân tình với Lời Thiên Chúa, Lời được đọc và được học hỏi trong Giáo Hội, dưới sự hướng dẫn của các vị Mục tử hợp pháp. Họ có thể đón nhận công việc huấn luyện này tại các trường có những nền tu đức kỳ cựu trong Giáo Hội, mà khởi thủy và nền móng luôn luôn phát xuất từ Kinh Thánh. Tùy theo khả năng, các giáo phận tự mình phải cống hiến công việc huấn luyện theo ý hướng như vậy cho các giáo dân hiện đảm nhận những trách nhiệm đặc biệt của Giáo Hội.[110]

e) Lời Chúa, hôn nhân và gia đình

85. Thượng Hội Đồng cũng đã nhận thấy cần phải nhấn mạnh mối quan hệ giữa Lời Chúa, hôn nhân và gia đình Kitô giáo. Quả thật, “khi loan báo Lời Thiên Chúa, Giáo Hội vén mở cho các gia đình Kitô giáo thấy chân tính đích thực của họ, nói cách khác, họ là gì và phải là gì theo kế hoạch của Chúa”.[111] Vậy không bao giờ được quên rằng Lời Chúa ở tại nguồn cội của hôn nhân (x. St 2,24) và chính Đức Giêsu đã làm cho hôn nhân thành một trong những định chế thuộc Vương quốc của Người (x. Mt 19,4-8), bằng cách nâng điều gì vốn đã được ghi khắc ở nơi nhân tính từ khởi thủy lên đến phẩm giá của một Bí tích. “Trong việc cử hành Bí Tích, người nam và người nữ công bố một lời tiên báo về việc tận hiến cho nhau, tức là trở nên ‘một xương một thịt’, dấu chỉ Mầu nhiệm hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Giáo Hội”(x. Ep 5,31-32).[112] Khi trung thành với Lời Chúa, ta cũng được dẫn đến chỗ ghi nhận rằng vào ngày hôm nay định chế này đang bị công kích về nhiều phương diện bởi não trạng hiện nay. Đối diện với tình trạng lộn xộn nói chung về tình cảm và xuất hiện những cách thức suy nghĩ nhằm tầm thường hóa thân xác con người và sự phân biệt phái tính, Lời Thiên Chúa tái khẳng định rằng con người từ nguồn cội thì tốt lành, đã được tạo thành có nam có nữ, và được mời gọi yêu thương nhau bằng một tình yêu trung thành, hỗ tương và phong phú.

Từ Mầu nhiệm hôn ước lớn lao, phát sinh trách nhiệm cốt yếu của các cha mẹ đối với con cái. Quả thật, sống trung thực tư cách cha mẹ chính là truyền đạt và làm chứng về ý nghĩa của đời sống trong Đức Kitô: qua lòng chung thủy của họ và sự hiệp nhất của đời sống gia đình, vợ chồng là những người đầu tiên công bố Lời Thiên Chúa cho con cái. Cộng đồng Giáo Hội phải nâng đỡ và giúp đỡ họ phát huy việc cầu nguyện trong gia đình, chăm chú lắng nghe Lời Thiên Chúa và hiểu biết Kinh Thánh. Nhằm mục đích này, Thượng Hội Đồng mong ước rằng mỗi một mái ấm gia đình phải có sách Kinh Thánh của mình, Sách phải được đặt ở nơi xứng hợp và được dùng để đọc và cầu nguyện. Các linh mục, các phó tế hay các tín hữu đã được chuẩn bị kỹ lưỡng có thể cung cấp mọi trợ giúp cần thiết. Thượng Hội Đồng cũng đã khuyến cáo là phải tạo lập những cộng đoàn gồm những gia đình, tại đó các tín hữu cùng nhau thực hành việc cầu nguyện và suy niệm chung những đoạn Kinh Thánh được chọn.[113] Ngoài ra, vợ chồng phải nhắc nhở nhau rằng “Lời Thiên Chúa cũng là một sự nâng đỡ quí báu giữa các khó khăn của cuộc sống lứa đôi và gia đình”.[114]

Trong bối cảnh này, tôi muốn nêu bật thêm những gì Thượng Hội Đồng đã căn dặn về vai trò của những các phụ nữ đối với Lời Thiên Chúa. Theo kiểu gọi của Đức Gioan Phaolô II,[115] phần đóng góp của “thiên tài phái nữ” vào việc hiểu biết Kinh Thánh và vào toàn bộ cuộc sống của Giáo Hội, vào ngày hôm nay còn quan trọng hơn là trong quá khứ, và từ nay cũng liên hệ đến lãnh vực nghiên cứu Kinh Thánh. Thượng Hội Đồng đã đặc biệt dừng lại với vai trò cần thiết của người phụ nữ trong gia đình và trong giáo dục, trong việc dạy giáo lý, trong việc thông truyền các giá trị. Quả thế, họ “biết gợi lên khả năng lắng nghe Lời, quan hệ riêng tư với Thiên Chúa và truyền đạt cảm thức về sự tha thứ và chia sẻ Tin Mừng”,[116] cũng như họ biết làm người mang tình yêu đến, mẫu gương của lòng xót thương và kiến tạo hòa bình, truyền đạt lòng nhiệt thành và nhân ái trong một thế giới vốn quá thường phán đoán con người theo những tiêu chuẩn lạnh lùng là bóc lột và lợi nhuận.

Đọc Sách Thánh trong tư thế cầu nguyện và “Lectio divina”

86. Thượng Hội Đồng nhiều lần nhấn mạnh tới việc cần phải có một cách tiếp cận bản văn thánh trong tư thế cầu nguyện, coi như là yếu tố căn bản cho đời sống thiêng liêng của mọi tín hữu, đang dấn thân vào các thừa tác vụ và các bậc sống khác nhau, và đặc biệt nhắc tới Lectio divina.[117]Quả thật, Lời Thiên Chúa nằm ở tại nền tảng của mọi linh đạo Kitô giáo chân chính. Như thế, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã đặt mình vào thế hòa điệu với những gì Hiến chế tín lý Dei Verbum đã khẳng định: “Ước gì các tín hữu sẵn lòng đi đến với chính bản văn Kinh Thánh, hoặc nhờ phụng vụ thánh đầy dẫy Lời Thiên Chúa, hoặc nhờ việc sốt sắng đọc Kinh Thánh, hoặc nhờ những lớp học hỏi thích hợp và những phương tiện khác ngày nay đang phổ biến khắp nơi cách đáng mừng, với sự ưng thuận và chăm lo của các vị chủ chăn trong Giáo Hội. Nhưng họ nên nhớ rằng kinh nguyện phải có kèm theo việc đọc Kinh Thánh”.[118] Khi suy tư như vậy, Công Đồng muốn nhắc lại Truyền thống Giáo Phụ cổ kính vì Truyền thống này đã luôn khuyến khích người ta tiếp cận Sách Thánh trong tư thế đối thoại với Thiên Chúa. Như thánh Augustinô đã nói: “Lời cầu nguyện của bạn chính là lời bạn thưa với Thiên Chúa. Khi bạn đọc Sách Thánh, thì chính Thiên Chúa nói với bạn; khi bạn cầu nguyện, thì chính bạn nói với Thiên Chúa”.[119] Ôrigiênê, một trong những bậc thầy của cách đọc Kinh Thánh này, chủ trương rằng muốn hiểu Kinh Thánh, còn hơn là muốn nghiên cứu Kinh Thánh, cần phải sống thân tình với Chúa Kitô và cầu nguyện. Quả thế, ngài xác tín rằng con đường ưu tiên phải theo để biết Thiên Chúa là tình yêu, và người ta không đạt được một scientia Christi (sự hiểu biết Chúa Kitô) chân thật nếu không say mê Người. Trong Thư gửi cho Grêgôriô, nhà thần học trứ danh thành Alêxanria đã khuyến cáo: “Con hãy chuyên chăm đọc Sách Thánh; hãy kiên trì làm công việc này (...). Khi chuyên chăm đọc Kinh Thánh với ý hướng tin và làm vui lòng Chúa, nếu trong lectio, mà thấy có cánh cửa đóng, con hãy gõ cửa, và người canh cửa sẽ mở ra cho con, người canh cửa mà Đức Giêsu đã nói tới: ‘Người canh cổng sẽ mở cổng cho ông ta’. Khi chuyên chăm làm lectio divina (đọc Sách Thánh) như thế, với lòng ngay thẳng và niềm tín thác không lay chuyển vào Thiên Chúa, con hãy cố tìm hiểu ý nghĩa Sách Thánh, mà ý nghĩa trọn vẹn phần lớn bị che giấu. Tuy nhiên, đừng bằng lòng với việc gõ cửa và tìm kiếm: muốn hiểu sự việc của Thiên Chúa, tuyệt đối cần làm oratio (cầu nguyện). Chính là để khuyến khích chúng ta mà Đấng Cứu Thế không những đã nói: “Cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho” và “Cứ tìm thì sẽ thấy”, nhưng còn nói: “Cứ xin thì sẽ được’”.[120]

Tuy nhiên, về điểm này, ta phải tránh nguy cơ một tiếp cận cá nhân chủ nghĩa, mà phải nhớ rằng Lời Thiên Chúa đã được ban cho chúng ta chính là để xây dựng sự hiệp thông, để nối kết chúng ta lại trong chân lý trong khi chúng ta tiến về với Thiên Chúa. Đây là một Lời ngỏ riêng tư với từng người, nhưng cũng là một Lời có sức xây dựng cộng đoàn, xây dựng Giáo Hội. Vì thế, bản văn thánh phải được luôn luôn tiếp cận trong tinh thần hiệp thông Giáo Hội. Thực thế, phải luôn luôn tiếp cận với bản văn thánh trong sự hiệp thông Giáo Hội. Quả vậy, “điều hết sức quan trọng là phải đọc trong cộng đoàn (...), bởi vì chủ thể sống động của Sách Thánh là Dân Thiên Chúa, là Giáo Hội. (…) Sách Thánh không thuộc về quá khứ, bởi vì chủ thể của Sách Thánh, là Dân Thiên Chúa được chính Ngài linh hứng, vẫn là đoàn Dân ấy, do đó Lời Chúa cũng luôn sinh động nơi chủ thể sống động. Chính vì thế, điều quan trọng là phải đọc và trải nghiệm Sách Thánh trong sự hiệp thông với Giáo Hội, nghĩa là với tất cả các chứng nhân vĩ đại của Lời này, bắt đầu với các Giáo Phụ đầu tiên cho tới các vị thánh thời nay, cho tới Huấn Quyền hiện nay”.[121]

Vì thế, muốn đọc Kinh Thánh trong tư thế cầu nguyện, nơi ưu tiên là phụng vụ, nhất là Bí tích Thánh Thể, khi đó, lúc ta cử hành Mình và Máu Chúa Kitô hiện diện trong Bí tích, chính Lời Chúa cũng hiện diện sống động giữa chúng ta. Theo một nghĩa nào đó, cách đọc Sách Thánh trong tư thế cầu nguyện, cá nhân cũng như cộng đoàn, phải luôn luôn được sống trong liên hệ với cử hành Thánh Thể. Cũng như việc thờ lạy Thánh Thể chuẩn bị, tháp tùng và tiếp nối việc cử hành Thánh Thể,[122] thì việc đọc Sách Thánh trong tư thế cầu nguyện, cá nhân cũng như cộng đoàn, cũng chuẩn bị, tháp tùng và đào sâu những gì Giáo Hội cử hành khi công bố Lời trong khung cảnh phụng vụ. Khi đặt để Lectio và phụng vụ trong quan hệ chặt chẽ như thế, ta có thể nắm vững hơn các tiêu chuẩn phải hướng dẫn việc đọc Lời Chúa trong bối cảnh mục vụ và đời sống thiêng liêng của Dân Thiên Chúa.

87. Trong các tài liệu được đưa ra trước và trong Thượng Hội Đồng, có nói tới một số phương pháp để giúp tiếp cận Kinh Thánh có kết quả và trong đức tin. Tuy thế, người ta đã lưu ý nhiều nhất đến Lectio divina, là lối đọc “có khả năng mở các kho tàng Lời Thiên Chúa ra cho tín hữu, và như thế cũng tạo ra cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, Lời hằng sống của Thiên Chúa”.[123] Ở đây, tôi muốn nhắc lại vắn tắt những bước căn bản của lectio divina. Nó mở ra bằng việc đọc ( lectio) bản văn, việc này dẫn ta một câu hỏi liên quan đến việc hiểu biết trung thực nội dung của bản văn: tự nó, bản văn Kinh Thánh muốn nói gì? Nếu không có chặng này, bản văn rất có thể chỉ trở thành một duyên cớ để không bao giờ phải ra khỏi các tư tưởng của chúng ta. Sau đó, là suy niệm (meditatio), với câu hỏi: bản văn Kinh Thánh muốn nói gì với chúng ta? Ở đây, mỗi người riêng tư, nhưng cũng trong tư cách là thực tại cộng đoàn, phải để cho mình bị chạm tới và đặt thành vấn đề, bởi vì đây không phải là cứu xét các lời được nói ra trong quá khứ nhưng là trong hiện tại. Rồi người ta đi tới phần cầu nguyện (oratio) với câu hỏi: Ta phải nói gì với Chúa để đáp lại Lời Người? Việc cầu nguyện như là khẩn xin, chuyền cầu, tạ ơn và ngợi khen, là phương cách đầu tiên mà Lời Chúa dùng để biến đổi chúng ta. Cuối cùng, Lectio divina kết thúc bằng sự chiêm ngưỡng (contemplatio), khi đó, ta đón nhận chính cái nhìn của Ngài để phán đoán thực tại như một hồng ân của Thiên Chúa, và chúng ta tự hỏi: Đức Chúa yêu cầu chúng ta phải hoán cải tinh thần, con tim và đời sống như thế nào? Trong Thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô khẳng định: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (12,2). Quả thật, việc chiêm ngưỡng nhắm tạo ra trong ta một cái nhìn thực sự khôn ngoan trên thực tại, như Thiên Chúa nhìn, và kiến tạo trong ta “tư tưởng của Đức Kitô” (1 Cr 2,16). Ở đây, Lời Thiên Chúa xuất hiện như một tiêu chuẩn để biện phân: Lời “sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4,12). Kế đó, cũng nên nhớ rằng Lectio divina không kết thúc trong năng động của nó bao lâu nó chưa mở ra với hành động (actio), thúc đẩy người tín hữu dâng hiến đời mình cho người khác trong tình bác ái.

Các chặng này được tổng hợp và gồm tóm cách tuyệt diệu nơi dung mạo Mẹ Thiên Chúa, là gương mẫu cho tất cả các tín hữu về việc ngoan ngoãn đón tiếp Lời Thiên Chúa, vì ngài “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2,19; x. 2,51), ngài biết tìm ra mối liên kết sâu xa đang hợp nhất các biến cố, các hành động và các sự vật tưởng chừng rời rạc, trong kế hoạch vĩ đại Thiên Chúa.[124]

Ngoài ra, tôi cũng muốn nhắc lại những gì Thượng Hội Đồng đã khuyến cáo về tầm quan trọng của việc đích thân đọc Kinh Thánh, được kể như một hành vi đền tội, chuẩn bị cho chúng ta được hưởng ân xá, theo các điều kiện thường lệ của Giáo Hội, dành cho mình hoặc dành cho những người đã qua đời.[125] Tập tục nhận ân xá[126] có ý nói tới giáo lý về các công nghiệp vô biên của Chúa Kitô, mà Giáo Hội, trong tư cách thừa tác viên của ơn cứu chuộc, được ban phát và áp dụng, nhưng cũng có ý nói tới sự hiệp thông các thánh và dạy ta rằng “ Trong Đức Kitô, chúng ta được liên kết mật thiết với nhau biết bao nhiêu, và cũng thế, đời sống thiêng liêng của mỗi người có thể đem lại lợi ích cho người khác như vậy”.[127] Theo viễn tượng này, việc đọc Lời Thiên Chúa nâng đỡ chúng ta trong hành trình thống hối và hoán cải, giúp chúng ta đào sâu cảm thức thuộc về Giáo Hội và nâng đỡ chúng ta sống thân tình hơn nữa Thiên Chúa. Như thánh Ambrôsiô đã từng nói: khi chúng ta tiếp nhận Sách Thánh trong tay với đức tin và đọc Sách Thánh cùng với Giáo Hội, con người lại quay trở về mà đi dạo với Thiên Chúa trong vườn địa đàng”.[128]

Lời Thiên Chúa và việc cầu nguyện với Đức Mẹ

88. Khi nhớ lại mối liên kết bất khả phân ly giữa Lời Thiên Chúa và Đức Maria Nadarét, cùng với các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, tôi mời gọi hãy cổ võ các tín hữu cầu nguyện với Đức Mẹ, nhất là trong đời sống gia đình; vì việc cầu nguyện này giúp suy gẫm các Mầu nhiệm thánh được Kinh Thánh kể lại. Chẳng hạn, một phương thế rất hữu ích là đọc riêng hay đọc chung Kinh Mân Côi,[129] khi đó ta cùng với Đức Mẹ nhắc lại các Mầu nhiệm trong cuộc đời Chúa Kitô,[130] mà Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã muốn làm phong phú thêm bằng các Mầu nhiệm sự sáng.[131] Việc nên làm là khi công bố từng Mầu nhiệm, ta nên kèm theo một đoạn Sách Thánh ngắn liên quan tới Mầu nhiệm ấy, để khuyến khích việc học thuộc lòng một số đoạn Kinh Thánh ngắn liên quan tới các Mầu nhiệm trong cuộc đời Chúa Kitô.

Ngoài ra, Thượng Hội Đồng cũng khuyến cáo là hãy khuyến khích các tín hữu đọc kinh Truyền Tin. Đây là một kinh vừa đơn giản vừa sâu sắc, giúp ta “hằng ngày tưởng niệm Mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể”.[132] Dân Chúa, các gia đình cũng như các cộng đoàn sống đời thánh hiến rất nên trung thành với lời kinh kính Đức Mẹ này, mà Truyền thống mời gọi chúng ta đọc vào lúc mặt trời mọc, vào giữa ngọ và vào lúc mặt trời lặn. Vì trong kinh Truyền Tin, chúng ta xin Thiên Chúa, qua lời chuyển cầu của Đức Maria, ban cho chúng ta biết noi gương ngài, thực thi ý muốn của Thiên Chúa và biết đón tiếp Lời Thiên Chúa vào trong chúng ta. Cách thực hành này có thể giúp chúng ta củng cố một tình yêu chân thật đối với Mầu nhiệm Nhập Thể.

Còn có những lời kinh cổ xưa của Kitô giáo Đông phương,vẽ lại toàn bộ lịch sử cứu độ, do quy chiếu về Đấng Theotokos, quy chiếu về Mẹ Thiên Chúa, chúng ta nên biết để quý trọng và phổ biến. Chúng ta đặc biệt nghĩ tới các kinh AkathistosParaklesis. Đây là các thánh ca ngợi khen, được hát dưới dạng kinh cầu, thấm nhuần đức tin của Giáo Hội và những gợi nhắc tới Kinh Thánh; các kinh này giúp các tín hữu suy niệm cùng với Đức Maria các Mầu nhiệm của Chúa Kitô. Đặc biệt, thánh ca dâng lên Mẹ Thiên Chúa gọi là Akathistos – nghĩa là khi hát, người ta đứng –, được coi như một trong những cách diễn tả cao độ nhất của lòng sùng kính Đức Mẹ trong truyền thống Bydăngtin.[133] Cầu nguyện bằng những lời này làm cho tâm hồn ta mở rộng và giúp đón nhận sự bình an đến từ trên cao, đến từ Thiên Chúa, sự bình an là chính Chúa Kitô, Đấng được Đức Maria sinh ra để cứu độ chúng ta.

Lời Thiên Chúa và Đất Thánh

89. Khi nhớ tới Lời Thiên Chúa đã thành người phàm trong lòng Đức Maria Nadarét, giờ đây trái tim chúng ta hướng về Miền Đất nơi Mầu nhiệm Cứu chuộc chúng ta đã được hoàn tất, và từ Miền Đất đó, Lời Thiên Chúa đã lan truyền cho đến tận cùng trái đất. Quả thế, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Ngôi Lời đã nhập thể vào một thời điểm chính xác và tại một nơi chốn nhất định, tại một giải đất bên bờ Đế quốc Rôma. Chính vì thế, càng nhìn thấy tính phổ quát và tính duy nhất của con người Đức Kitô, chúng ta càng nhìn với lòng biết ơn Miền Đất nơi Đức Giêsu đã sinh ra, đã sống và đã hiến mạng sống vì tất cả chúng ta. Những viên đá trên đó Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã dẵm lên vẫn còn mang đầy kỷ niệm của Người đối với chúng ta và tiếp tục “hô vang” Tin Mừng. Chính vì thế, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhắc lại thuật ngữ hết sức thích hợp được dùng để gọi Đất Thánh là “Tin Mừng thứ năm”.[134] Thật hết sức quan trọng là phải có những cộng đoàn Kitô hữu tại những nơi đó, cho dù hiện nay có biết bao khó khăn! Thượng Hội Đồng Giám Mục muốn nói lên sự gần gũi sâu xa với tất cả các Kitô hữu đang sống trên Miền Đất của Đức Giêsu, mà làm chứng cho niềm tin của họ vào Đấng Phục Sinh. Tại đó, các Kitô hữu được kêu gọi phục vụ không những như “ngọn hải đăng của lòng tin cho Giáo Hội hoàn vũ, mà còn như một chất men của sự hoà hợp, khôn ngoan, và quân bình trong đời sống của một xã hội, theo truyền thống, đã và vẫn tiếp tục mang tính đa nguyên, đa sắc tộc và đa tôn giáo”.[135]

Ngày nay, Đất Thánh vẫn còn là một mục tiêu hành hương của Dân Kitô hữu, một nơi hành hương để cầu nguyện và đền tội, như từng được chứng thực từ thời xa xưa bởi các tác giả như thánh Giêrônimô.[136] Càng đưa mắt và hướng lòng về Giêrusalem trần thế, lòng chúng ta càng cháy bừng khao khát đối với Giêrusalem trên trời, mục tiêu đích thực của mọi cuộc hành hương, và cháy bừng niềm ước mong tha thiết là được thấy Danh Chúa Giêsu, Danh duy nhất có ơn cứu độ, được mọi người nhìn nhận (x. Cv 4,12).

***

PHẦN BA

VERBUM PRO MUNDO (LỜI CHO THẾ GIỚI)

“Chưa bao giờ có ai thấy Thiên Chúa cả; nhưng Con Một hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18)

 

SỨ MẠnG cỦa Giáo HỘi: Công BỐ LỜi THIÊN Chúa

Lời đến từ Chúa Cha và trở về cùng Chúa Cha

90. Thánh Gioan đã mạnh mẽ nhấn mạnh về nghịch lý căn bản của đức tin Kitô giáo: một đàng, ngài nói rằng “chưa có ai thấy Thiên Chúa bao giờ” (Ga 1,18; x. 1 Ga 4,12). Trí tưởng tượng của ta, các ý niệm của ta hay ngôn từ của ta không bao giờ có thể xác định được hay đo lường được thực tại vô biên của Đấng Tối Cao. Người vẫn là Deus semper maior (Thiên Chúa luôn luôn cao cả). Đàng khác, thánh Gioan lại khẳng định rằng quả thật “Ngôi Lời đã trở nên người phàm” (Ga 1,14). Người Con Một, Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, đã bày tỏ cho chúng ta biết Thiên Chúa, Đấng “chưa có ai thấy bao giờ” (Ga 1,18). Đức Giêsu Kitô đã đến với chúng ta, “đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14), để nhờ Người, chúng ta được ban các hồng ân ấy (x. Ga 1,17); quả vậy, “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,16). Như thế, trong Lời Tựa của Tin Mừng, tác giả Tin Mừng Gioan đã chiêm ngưỡng Ngôi Lời từ tình trạng Người ở với Thiên Chúa cho tới khi trở nên người phàm, và cho tới tận lúc Người trở về cùng Chúa Cha mang theo nhân tính của chúng ta, mà Người đã đảm nhận lấy mãi mãi. Do Người từ Chúa Cha mà đến và trở về cùng Ngài (x. Ga 13,3; 16;28; 17,8.10), Đức Kitô được tỏ ra như “Đấng tường thuật cho chúng ta” về Thiên Chúa (x. Ga 1,18). Thật vậy, như thánh Irênê thành Lyon đã khẳng định, Chúa Con “là Đấng mạc khải Chúa Cha”.[137] Có thể nói Đức Giêsu Nadarét là “nhà chú giải” Thiên Chúa, Đấng “chưa ai thấy bao giờ”. “Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” (Cl 1,15). Ở đây, ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia về tính hữu hiệu của Lời Chúa: như mưa và tuyết từ trời rơi xuống để tưới và làm cho đất ra phì nhiêu, Lời Thiên Chúa cũng thế, “sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Is 55,10t). Đức Giêsu Kitô là Lời chung kết và hữu hiệu này, Lời đến từ Chúa Cha và trở về cùng Ngài, khi đã hoàn toàn thực hiện ý muốn của Ngài trong thế giới.

Loan báo cho thế giới “Logos” về niềm hy vọng

91. Ngôi Lời Thiên Chúa đã thông ban cho chúng ta sự sống thần linh, một sự sống làm thay đổi khuôn mặt trái đất, làm cho mọi sự nên mới mẻ (x. Kh 21,5). Lời của Ngài làm cho chúng ta không những nên những người đón nhận Mạc Khải của Thiên Chúa, nhưng còn là những sứ giả của Ngài. Người là Đấng Chúa Cha sai đến để thực hiện ý muốn của Ngài (x. Ga 5,36-38; 6,38-40; 7,16-18), đang lôi kéo chúng ta đến với Người và làm cho chúng ta thuộc về cuộc đời và sứ vụ của Người. Như thế, Thần Khí của Đấng Phục Sinh làm cho đời sống chúng ta có khả năng loan báo hữu hiệu Lời khắp nơi trên thế giới. Đây chính là kinh nghiệm của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, họ đã thấy Lời được truyền bá nhờ việc rao giảng và làm chứng (x. Cv 6,7). Ở đây, tôi muốn đặc biệt nhắc tới cuộc đời của thánh Tông Đồ Phaolô, một con người hoàn toàn được Chúa chiếm đoạt (x. Pl 3,12) – “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20) – và nhắc tới sứ mạng của ngài: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16), vì ngài ý thức rằng tất cả những gì được mạc khải nơi Đức Kitô, thật sự là ơn cứu độ cho tất cả các Lương Dân, là sự giải thoát đưa ra khỏi ách nô lệ tội lỗi hầu được đi vào hưởng tự do dành cho con cái Thiên Chúa.

Quả thật, điều Giáo Hội công bố cho thế giới chính là Logos về niềm hy vọng (x. 1 Pr 3,15); con người cần “niềm Hy vọng lớn lao” để sống hiện tại của mình, niềm Hy vọng lớn lao là “vị Thiên Chúa có khuôn mặt con người và đã “yêu thương chúng ta đến cùng’ (Ga 13,1)”.[138] Chính vì thế, Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo. Chúng ta không thể giữ lại cho riêng mình những lời ban sự sống đời đời, những lời đã được ban cho chúng ta qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu Kitô: những lời ấy được dành cho tất cả mọi người, cho từng con người. Bất cứ người nào thuộc thời đại chúng ta, biết hay không biết, đều cần đến sứ điệp này. Ước gì chính Chúa, cũng như vào thời ngôn sứ Amốt, làm dấy lên giữa loài người cơn đói khát lời Chúa (x. Am 8,11). Trách nhiệm của chúng ta là truyền đạt những gì chúng ta đã nhận được nhờ ơn Chúa.

Từ Lời Thiên Chúa, phát xuất sứ mạng của Giáo Hội

92. Thượng Hội Đồng Giám Mục đã mạnh mẽ tái khẳng định về nhu cầu phải tăng cường hơn nữa trong Giáo Hội ý thức truyền giáo, là ý thức đã có nơi Dân Thiên Chúa từ thuở ban đầu. Các Kitô hữu đầu tiên đã coi việc loan báo mang tính truyền giáo như là một điều cấp thiết bắt nguồn từ chính bản chất đức tin: họ tin vào một vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của mọi người, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, Đấng đã tự mạc khải trong lịch sử Israel và sau cùng, nơi Con Một của Ngài, và như thế, đưa lại câu trả lời mà mọi người vẫn chờ đợi tận đáy lòng. Các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã hiểu rằng đức tin của họ không thuộc về một truyền thống văn hoá đặc thù, khác biệt tùy theo các dân tộc, nhưng thuộc về lãnh vực chân lý, liên quan đến tất cả mọi người như nhau.

Lại cũng chính là thánh Phaolô đã dùng đời sống ngài mà làm sáng tỏ ý nghĩa của sứ mạng Kitô giáo và tính phổ quát nguyên thủy của sứ mạng này. Chúng ta hãy nghĩ tới đoạn sách Công vụ Tông Đồ nói về Hội đồng Arêôpagô ở Athêna (x. 17,16-34). Vị Tông Đồ Dân Ngoại đã đi vào đối thoại với những con người thuộc các nền văn hoá khác nhau, ngài ý thức rằng Mầu nhiệm Thiên Chúa, Đấng khả tri đồng thời là Đấng vô tri, Đấng mọi người đều nhận thức, dù mù mờ, đã thật sự tự mạc khải trong lịch sử: “Đấng quí vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quí vị” (Cv 17,23). Quả thế, tính mới mẻ trong lời công bố của Kitô giáo nằm ở chỗ ta có thể nói với mọi dân tộc: “Thiên Chúa, Ngài đã đích thân tự tỏ mình ra. Và giờ đây, con đường dẫn tới Ngài đã mở ra. Tính mới lạ của sứ điệp Kitô giáo không hệ tại một tư tưởng, mà là một sự kiện: Thiên Chúa đã tự mạc khải chính mình”.[139]

Lời và Nước Thiên Chúa

93. Do đó, không được coi sứ mạng của Giáo Hội như một thực tại tùy ý hay tùy chọn trong đời sống Giáo Hội. Vấn đề là để cho Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta nên đồng hình đồng dạng với chính Chúa Kitô, và như thế, tham dự vào sứ mạng của Người: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21), để chuyển thông Lời bằng trọn cả đời sống chúng ta. Chính Lời Chúa sai chúng ta đi đến với anh chị em chúng ta: chính Lời soi sáng, thanh tẩy, và hoán cải; còn chúng ta, chúng ta chỉ là những tôi tớ.

Vậy cần phải liên tục tái khám phá ra tình trạng khẩn trương và vẻ đẹp của việc loan báo Lời, để cho Nước Thiên Chúa mà chính Chúa Kitô đã rao giảng, được ngự đến. Theo ý hướng đó, chúng ta hãy tái lập nơi chúng ta ý thức, rất quen thuộc đối với các Giáo Phụ, là việc loan báo Lời có nội dung là chính Nước Thiên Chúa (x. Mc 1,14-15), Nước đó là chính con người Chúa Giêsu (Autobasileia), như Ôrigiênê đã nhắc lại rất khéo.[140] Chúa ban ơn cứu độ cho mọi người thuộc mọi thời đại. Tất cả chúng ta đều hiểu rằng, thật rất cần có ánh sáng của Chúa Kitô chiếu soi mọi lãnh vực của nhân loại: gia đình, trường học, văn hoá, việc làm, việc giải trí và các lãnh vực khác của đời sống xã hội.[141] Vấn đề không phải là rao giảng một lời an ủi, mà là một lời gây nên sự đoạn tuyệt, mời gọi hoán cải, giúp người ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa, nhờ đó làm phát sinh một chồi lộc của một nhân loại mới.

Mọi người đã rửa tội đều có trách nhiệm đối với việc loan báo

94. Vì toàn Dân Thiên Chúa là một dân tộc “được sai đi”, Thượng Hội Đồng đã tái khẳng định rằng “sứ mạng loan báo Lời Thiên Chúa là bổn phận của mọi môn đệ Đức Giêsu Kitô, như hệ quả của phép Rửa của họ”.[142] Không một tín hữu nào trong Chúa Kitô lại có thể thấy mình xa lạ với trách nhiệm này, một trách nhiệm phát xuất từ chỗ ta thuộc về Thân Thể Chúa Kitô theo cách bí tích. Ý thức này phải được thức tỉnh trong mỗi gia đình, giáo xứ, cộng đoàn, hiệp hội và phong trào Giáo Hội. Vậy, Giáo Hội như là Mầu nhiệm hiệp thông hoàn toàn có tính truyền giáo, và mỗi người, tùy theo bậc sống, đều được kêu gọi góp phần rõ ràng vào việc loan báo Chúa Kitô.

Theo sứ mạng riêng của các ngài, các giám mục và linh mục là những người đầu tiên được kêu gọi sống một cuộc sống hoàn toàn lo phục vụ Lời, lo công bố Tin Mừng, cử hành các Bí tích và đào tạo các tín hữu hiểu biết chân thật Kinh Thánh. Các phó tế cũng được kêu gọi cộng tác, theo sứ mạng riêng, vào công cuộc phúc âm hoá này.

Trong suốt lịch sử Giáo Hội, đời sống thánh hiến vẫn rạng rỡ do khả năng đảm nhận minh nhiên nhiệm vụ loan báo và rao giảng Lời Thiên Chúa, trong missio ad gentes (đến với muôn dân) và trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, cũng sẵn sàng thích ứng với các tình thế mới mà loan báo Tin Mừng, can đảm và mạnh dạn tiến bước vào những con đường mới và đương đầu với các thách đố mới nhằm công bố hữu hiệu Lời Thiên Chúa.[143]

Giáo dân được kêu gọi thực thi nhiệm vụ ngôn sứ, nhiệm vụ trực tiếp phát xuất từ phép Rửa của họ, và làm chứng cho Tin Mừng trong đời sống hàng ngày, tại bất cứ nơi nào họ sinh sống. Về điểm này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng bày tỏ “lòng quý mến sâu sắc, lòng biết ơn họ và khuyến khích họ dấn thân vào công tác phúc âm hoá mà biết bao giáo dân, nhất là các phụ nữ, đang quảng đại và hăng say cống hiến trong các cộng đoàn rải rác trên khắp thế giới, theo gương thánh Maria Magđalêna, chứng nhân đầu tiên của niềm vui Phục Sinh”.[144] Ngoài ra, Thượng Hội Đồng nhìn nhận với lòng biết ơn là các phong trào Giáo Hội và nhiều cộng đoàn mới, ở trong Giáo Hội, đang là một lực lượng lớn lao làm công việc loan báo Tin Mừng trong thời đại này và là một động viên lớn giúp triển khai nhiều cách thức mới để loan báo Tin Mừng.[145]

Sự cần thiết của “missio ad gentes”

95. Khi khuyến khích tất cả các tín hữu loan báo Lời Chúa, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã tái khẳng định rằng thời đại chúng ta cũng cần dấn thân dứt khoát vào “missio ad gentes” (đến với muôn dân). Dù thế nào, Giáo Hội cũng không thể tự giới hạn vào một hoạt động mục vụ “duy trì” nhằm chăm sóc những người đã biết Tin Mừng của Chúa Kitô. Dấn thân truyền giáo là một dấu chỉ rõ ràng cho thấy sự trưởng thành của một cộng đoàn Giáo Hội. Ngoài ra, các Nghị Phụ đã mạnh mẽ diễn tả ý thức rằng Lời Thiên Chúa là chân lý cứu độ mà mọi người thuộc mọi thời đại đều cần đến. Vì thế, việc loan báo phải minh nhiên. Giáo Hội phải đi đến với tất cả mọi người với sức mạnh của Thần Khí (x. 1 Cr 2,5), và tiếp tục, theo cách thế ngôn sứ, bênh vực quyền của con người, là được tự do nghe Lời Thiên Chúa, trong khi vẫn đi tìm những phương tiện hữu hiệu nhất để công bố Lời, cho dù có bị bách hại.[146] Giáo Hội cảm thấy mình mắc nợ mọi người về việc loan báo Lời cứu độ (x. Rm 1,14).

Loan báo và việc tân phúc âm hoá

96. Trong chiều hướng những gì Đức giáo hoàng Phaolô VI đã diển tả trong Tông huấn Evangelii Nuntiandi, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã có nhiều cách nhắc cho các tín hữu nhớ rằng cần phải có một mùa truyền giáo mới cho toàn Dân Thiên Chúa.[147] Vào buổi bình minh thiên niên kỷ thứ ba, không những vẫn còn nhiều dân tộc chưa biết Tin Mừng, mà ngay cả một số đông Kitô hữu vẫn cần được tái loan báo Lời Thiên Chúa một cách thuyết phục cho họ, để họ có thể trải nghiệm được cụ thể sức mạnh của Tin Mừng. Nhiều anh chị em “đã được rửa tội, nhưng chưa được phúc âm hoá đầy đủ”.[148] Đã thường xảy ra là có những dân tộc đã một thời rất phong phú về đức tin và ơn gọi, nay đánh mất căn tính, do chịu ảnh hưởng nền văn hóa thế tục hoá.[149] Yêu cầu phải có một cuộc tân phúc âm hoá, mà vị Tiền Nhiệm đáng kính của tôi đã cảm nhận sâu sắc, chúng ta cần phải tái khẳng định, không chút sợ hải, trong niềm xác tín về tính hữu hiệu của Lời Chúa. Kiên vững về lòng trung thành của Chúa mình, Giáo Hội không bao giờ mỏi mệt trong sứ mạng loan báo Tin Mừng của Phúc Âm và mời gọi mọi Kitô hữu tái khám phá điều nầy : bước theo Chúa Kitô thì đẹp biết bao.

Lời Thiên Chúa và việc làm chứng của Kitô hữu

97. Các chân trời bao la của sứ mạng của Giáo Hội, tình trạng phức tạp của tình hình hiện tại đòi hỏi hôm nay phải có những phương thức mới mà thông truyền hữu hiệu Lời Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần, tác nhân đầu tiên của mọi hoạt động phúc âm hoá, sẽ không bao giờ thôi hướng dẫn Giáo Hội Chúa Kitô trong hoạt động này. Tuy nhiên, điều quan trọng là mỗi hình thức loan báo phải ghi nhớ trước hết quan hệ nội tại giữa việc thông truyền Lời Chúa và việc làm chứng của Kitô hữu. Chính tính khả tín của việc loan báo tùy thuộc vào điều này. Một đàng, Lời phải thông truyền những gì chính Chúa đã nói với chúng ta; đàng khác, cần phải làm chứng để đưa lại tính khả tín cho Lời này, để Lời này không xuất hiện ra như một thứ triết lý tốt đẹp hay như một không-tưởng, mà là một thực tại người ta có thể sống và là thực tại làm cho người ta sống. Tính hỗ tương này giữa Lời và chứng tá phản ảnh cách thế Thiên Chúa dùng để tự thông truyền chính mình trong công cuộc Nhập thể của Ngôi Lời của Ngài. Lời Thiên Chúa đến với mọi người “qua cuộc gặp gỡ với các chứng nhân đang làm cho Lời nên hiện diện và sống động”.[150] Đặc biệt, những thế hệ trẻ cần được khai mở vào Lời Thiên Chúa “qua việc gặp gỡ và làm chứng chân chính của người lớn, qua ảnh hưởng tích cực của bạn bè và qua cuộc đồng hành vĩ đại của cộng đoàn Giáo Hội”.[151]

Có một tương quan chặt chẽ giữa lời chứng của Kinh Thánh, như là việc chứng nhận Lời Thiên Chúa nêu lên về chính mình, và chứng tá đời sống của các tín hữu. Điều này bao hàm và dẫn tới điều kia. Chứng tá Kitô hữu thông truyền Lời đã được chứng thực trong Kinh Thánh. Phần mình, Kinh Thánh giải thích chứng từ mà Kitô hữu được mời gọi đưa ra bằng chính cuộc sống họ. Những ai gặp được những chứng nhân khả tín của Tin Mừng thì sẽ ghi nhận được tính hữu hiệu của Lời Thiên Chúa nơi những ai đón tiếp Lời.

98. Trong tác động qua lại giữa chứng tá và Lời, chúng ta hiểu được điều Đức giáo hoàng Phaolô VI đã viết trong Tông huấn Evangelii Nuntiandi. Trách nhiệm của ta không giới hạn vào việc đề nghị cho thế giới những giá trị chung; phải đi đến chỗ minh nhiên loan báo Lời Thiên Chúa. Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới trung thành với mệnh lệnh của Chúa Kitô: “Vậy Tin Mừng được công bố bằng chứng tá đời sống chẳng chóng thì chày cũng phải được công bố bằng Lời sự sống. Không có việc phúc âm hoá thực sự nếu thánh danh, giáo huấn, cuộc đời, các lời hứa, Vương Quốc và Mầu nhiệm Đức Giêsu Nadarét, Con Thiên Chúa, không được loan báo”.[152]

Việc loan báo Lời Thiên Chúa đòi phải chứng tá đời sống cá nhân, đây là điều kể từ thuở ban đầu, các Kitô hữu vẫn ý thức. Chính Chúa Kitô là chứng nhân trung thành và chân thật (x. Kh 1,5; 3,14), đã làm chứng cho sự thật (x. Ga 18,37). Ở đây, tôi muốn nhắc lại vô số chứng từ mà chúng ta đã may mắn nghe được trong suốt Thượng Hội Đồng. Chúng tôi hết sức cảm động khi được nghe câu truyện của những người đã sống đức tin và làm chứng hùng hồn cho Tin Mừng, kể cả dưới các chế độ thù nghịch với Kitô giáo hay trong các tình thế bị bách hại.

Tất cả những chuyện đó không được làm chúng ta sợ hãi. Chính Đức Giêsu đã nói cùng các môn đệ: “Tôi tớ không lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,20). Vì thế, tôi muốn cùng với toàn thể Giáo Hội dâng lên Thiên Chúa một thánh ca ngợi khen về chứng tá của biết bao anh chị em, những người thuộc ngay thời đại chúng ta, đã hiến mạng sống mình để thông truyền sự thật về tình yêu Thiên Chúa được mạc khải trong Đức Kitô chịu đóng đinh và đã sống lại. Tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn của toàn thể Giáo Hội đối với các Kitô hữu đã không đầu hàng trước các trở ngại và các cuộc bách hại vì Tin Mừng. Với lòng yêu mến sâu sắc và liên đới, tôi muốn quay về với các tín hữu thuộc mọi cộng đồng Kitô giáo, nhất là tại Á châu và Phi châu, hôm nay đang còn đánh liều mạng sống hoặc chịu đẩy ra bên lề xã hội vì đức tin. Như thế, chúng ta thấy thể hiện tinh thần của các Mối Phúc của Tin Mừng dành cho những người đang chịu bách hại vì Đức Giêsu Kitô (x. Mt 5,11). Đồng thời, chúng tôi không ngừng cất tiếng kêu gọi chính phủ các quốc gia hãy bảo đảm cho mọi người có tự do lương tâm và tự do tôn giáo, cũng như tự do làm chứng công khai về niềm tin của mình.[153]

LỜI THIÊN CHÚA VÀ VIỆC DẤN THÂN VÀO THẾ GIỚI

Phục vụ Đức Giêsu trong “những anh em nhỏ bé nhất” (x. Mt 25,40)

99. Lời Chúa soi sáng cuộc sống con người và thúc bách lương tâm mỗi người xét lại đời sống của mình tận chiều sâu, bởi vì toàn thể lịch sử nhân loại đều ở dưới quyền phán xét của Thiên Chúa: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người” (Mt 25,31-32). Vào thời đại chúng ta, chúng ta thường dừng lại cách hời hợt trước giá trị của khoảnh khắc đang qua đi, y như thể nó không có liên quan gì tới tương lai. Trái lại, Tin Mừng nhắc chúng ta nhớ rằng mọi khoảnh khắc của cuộc sống chúng ta đều quan trọng và phải được sống cách sâu đậm, vì biết rằng mỗi người sẽ phải trả lẽ về cuộc đời của mình. Tại chương 25 của Tin Mừng theo thánh Mátthêu, Con Người sẽ coi bất cứ điều gì chúng ta làm hay không làm cho “những anh em bé nhỏ nhất” của Người (x. 25,40,45) như là làm hay không làm cho chính Người: “Ta đói, các người đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (25,35-36). Vậy chính Lời Thiên Chúa nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta cần phải dấn thân trong thế giới và phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa Kitô, Chúa tể của lịch sử. Khi loan báo Tin Mừng, chúng ta hãy khích lệ lẫn nhau làm điều tốt và dấn thân cho công lý, hoà giải và hoà bình.

Lời Thiên Chúa và dấn thân trong xã hội vì công lý

100. Lời Thiên Chúa thúc đẩy con người xây dựng những liên hệ được linh hoạt bởi sự ngay thẳng và công lý; Lời chứng thực cho giá trị vĩ đại dưới mắt Thiên Chúa của mọi cố gắng nhằm làm cho thế giới nên công bình hơn và đáng sống hơn.[154] Cũng chính Lời Thiên Chúa tố giác không chút mập mờ các bất công và cổ võ tình liên đới và sự bình đẳng.[155] Vậy, dưới ánh sáng của các lời Chúa nói, chúng ta hãy nhận ra “các dấu chỉ thời đại” đang hiện diện trong lịch sử, chúng ta đừng từ chối dấn thân vì những người đang đau khổ và là nạn nhân của tính ích kỷ. Thượng Hội Đồng đã nhắc lại rằng dấn thân cho công lý và nhằm biến đổi thế giới là một đòi hỏi thuộc về bản chất của công cuộc phúc âm hoá. Như Đức giáo hoàng Phaolô VI đã nói, vấn đề là phải “đạt tới và hầu như đảo ngược lại bằng sức mạnh của Tin Mừng các tiêu chuẩn phán đoán, các giá trị quyết định, các tư lợi, các khuôn mẫu tư duy, các nguồn cảm hứng và các kiểu mẫu sống của nhân loại đi ngược lại với Lời Thiên Chúa và kế hoạch cứu độ”.[156]

Nhằm mục đích đó, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã đặc biệt nghĩ tới những người đang dấn thân vào đời sống chính trị và xã hội. Việc phúc âm hoá và phổ biến Lời Thiên Chúa phải gợi hứng cho hoạt động của họ trong thế giới nhằm tìm kiếm điều thiện hảo đích thực cho mọi người, trong thái độ tôn trọng và cổ võ phẩm giá của mọi người. Quả thật, nhiệm vụ trực tiếp của Giáo Hội không phải là tạo ra một xã hội công bình hơn, cho dù Giáo Hội có quyền và có bổn phận can thiệp vào các vấn đề đạo đức và luân lý liên quan tới thiện ích của những con người và những dân tộc. Chính là tín hữu giáo dân, đã được đào tạo tại trường học Tin Mừng, mới có nhiệm vụ can thiệp trực tiếp vào trong hoạt động chính trị và xã hội. Chính vì thế, Thượng Hội Đồng khuyến cáo cổ võ một nền huấn luyện thích đáng theo các nguyên tắc của Giáo huấn xã hội của Giáo Hội.[157]

101. Thêm vào đó, tôi cũng muốn một lần nữa lưu ý mọi người về tầm quan trọng của việc bảo vệ và phát huy các quyền con người của tất cả mọi người, các quyền này dựa trên luật tự nhiên đã được ghi khắc trong trái tim con người, và như thế, là các quyền “phổ quát, bất khả xâm phạm, bất khả nhượng”.[158] Giáo Hội ước mong rằng nhờ việc thừa nhận các quyền này, nhân phẩm sẽ thực sự được nhìn nhận và được mọi người cổ võ,[159] như là một nét được Thiên Chúa Tạo Hoá in lên thụ tạo của Ngài, thụ tạo mà Chúa Kitô đã nhận lấy nơi mình và cứu chuộc bằng việc Nhập thể, bằng cái chết và sự Sống lại của Người. Chính vì thế, việc phổ biến Lời Thiên Chúa chỉ có thể tăng cường việc nhìn nhận và tôn trọng các quyền con người của tất cả mọi người.[160]

Loan báo Lời Thiên Chúa, hoà giải và hoà bình giữa các dân tộc

102. Giữa nhiều lãnh vực cần phải dấn thân, Thượng Hội Đồng tha thiết kêu gọi cổ võ cho hoà giải và hoà bình. Trong bối cảnh hiện nay, hơn bao giờ hết, cần phải tái khám phá ra Lời Thiên Chúa như nguồn hoà giải và hoà bình, vì bằng Lời ấy, Thiên Chúa hoà giải mọi sự với Ngài (x. 2 Cr 5,18-20; Ep 1,10): Chúa Kitô là “bình an của chúng ta” (Ep 2,14), là Đấng phá đổ các bức tường ngăn cách. Một số tham luận tại Thượng Hội Đồng đã cung cấp nhiều thông tin về các xung đột và căng thẳng trầm trọng và đầy bạo lực đang xảy ra trên hành tinh chúng ta. Có những lúc, những tình trạng thù nghịch dường như mang dáng dấp xung đột tôn giáo. Ở đây, tôi muốn khẳng định một lần nữa rằng tôn giáo không bao giờ có thể biện minh cho thái độ bất khoan dung hay chiến tranh. Chúng ta không thể nhân danh Thiên Chúa mà sử dụng bạo lực![161] Các tôn giáo phải khích lệ việc sử dụng lý trí đúng đắn và cổ võ các giá trị đạo đức có thể xây dựng cuộc sống chung với nhau.

Trung thành với công cuộc hoà giải Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô, đã chịu đóng đinh và đã sống lại, người Công Giáo và tất cả mọi người thiện chí phải dấn thân mà nêu lên những tấm gương về hoà giải để xây dựng một xã hội công bình và ổn định.[162] Chúng ta không bao giờ được quên rằng “ở đâu lời con người trở thành bất lực vì sự thắng thế của tranh chấp bạo lực và vũ khí, thì sức mạnh có tính ngôn sứ của Lời Thiên Chúa vẫn có đó và nhắc rằng hoà bình là điều có thể thực hiện, và chính chúng ta phải trở thành khí cụ kiến tạo hoà giải và hoà bình”.[163]

Lời Chúa và đức ái hành động

103. Sự dấn thân cho công lý, hoà giải và hoà bình có gốc rễ tối hậu và nên trọn nơi tình yêu đã được mạc khải cho chúng ta trong Chúa Kitô. Nhờ nghe các chứng từ đưa ra tại Thượng Hội Đồng, chúng ta để ý hơn đến mối dây liên kết giữa việc yêu mến lắng nghe Lời Thiên Chúa và việc phục vụ vô vị lợi anh chị em mình; tất cả các tín hữu phải hiểu là cần “diễn dịch Lời đã nghe thành những cử chỉ yêu thương, vì đây là cách duy nhất làm cho việc loan báo Tin Mừng trở thành khả tín, mặc dù nơi con người vẫn có những yếu đuối mỏng dòn”.[164] Đức Giêsu đã đi qua thế gian này mà làm điều thiện (x. Cv 10,38). Lời Thiên Chúa được ngoan ngoãn lắng nghe trong Giáo Hội sẽ làm sống dậy “đức ái và công bình đối với mọi người, nhất là đối với người nghèo”.[165] Không bao giờ được quên rằng “tình yêu – caritas – luôn luôn cần thiết, ngay trong xã hội công bình nhất… Người nào muốn loại bỏ tình yêu thì cũng sẵn sàng loại bỏ con người trong tư cách là con người”.[166] Vì thế, tôi khuyến khích tất cả các tín hữu thường xuyên suy ngẫm bài ca đức mến mà Tông Đồ Phaolô đã viết và để cho mình được gợi hứng bởi bài ca này: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù; không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được” (1 Cr 13,4-8).

Như vậy, tình yêu đối với người lân cận, bén rễ trong tình yêu Thiên Chúa, hàm ý là chúng ta phải thường xuyên dấn thân trong tư cách cá nhân và cộng đoàn Giáo Hội, địa phương lẫn hoàn cầu. Thánh Augustinô đã khẳng định: “Điều căn bản là hiểu rằng yêu thương là hoàn tất Lề Luật, cũng như hoàn tất toàn thể Kinh Thánh […]. Do đó, những ai tưởng rằng đã hiểu Kinh Thánh, hoặc ít ra một phần nào đó của Kinh Thánh, mà không ra sức dùng trí tuệ mà xây dựng tình yêu vừa đối với Thiên Chúa, vừa đối với người tha nhân, thì chứng tỏ họ chưa hiểu Kinh Thánh”.[167]

Loan báo Lời Thiên Chúa và người trẻ

104. Thượng Hội Đồng đặc biệt chú ý tới việc loan báo Lời Chúa cho các thế hệ trẻ. Ngay bây giờ, người trẻ là những thành viên tích cực của Giáo Hội và họ chính là tương lai của Giáo Hội. Ta thường gặp nơi họ có sự cởi mở bột phát với việc lắng nghe Lời Thiên Chúa và một lòng ao ước chân thành được biết Đức Giêsu. Quả thật, chính là trong thời tuổi trẻ mà phát sinh không kềm hãm được và chân thành những câu hỏi về ý nghĩa đời sống cá nhân mình và hướng đi cho chính cuộc sống của mình. Chỉ duy mình Thiên Chúa mới đưa ra được câu trả lời đích thực cho các câu hỏi này. Sự quan tâm tới thế giới trẻ đòi hỏi phải can đảm loan báo rõ ràng; chúng ta phải giúp những người trẻ có được sự tín nhiệm và thân quen với Kinh Thánh, để Kinh Thánh trở thành như cái la bàn chỉ cho biết con đường phải theo.[168] Chính vì thế, người trẻ cần những chứng nhân và những tôn sư cùng bước đi với họ và đào tạo cho họ biết yêu mến và truyền thông Tin Mừng đặc biệt cho những người trẻ cùng lứa tuổi, và như thế, chính họ cũng trở thành những người loan báo chân chính và đáng tin.[169]

Lời Chúa cũng phải được trình bày cho thấy có những hệ luận về ơn gọi, hầu trợ giúp và định hướng cho người trẻ trong việc chọn lựa đời sống, kể cả chiều hướng dâng hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa.[170] Các ơn gọi chân chính đi vào đời sống thánh hiến hay đời sống linh mục sẽ có được mảnh đất mầu mỡ nhờ trung thành tiếp xúc với lời Chúa. Một lần nữa, tôi xin nhắc lại lời kêu gọi mà tôi đã đưa ra vào buổi đầu triều đại giáo hoàng của tôi, đó là hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô: “Người nào để cho Chúa Kitô đi vào, người ấy chẳng mất gì cả, chẳng mất gì cả, tuyệt đối không mất gì cả trong những điều làm cho đời sống mình nên tự do, tươi đẹp và vĩ đại. Không! Chỉ trong tình bạn này, các cánh cửa đưa vào sự sống mới rộng mở. Chỉ trong tình bạn này, các tiềm năng lớn lao của thân phận con người mới thực sự được giải phóng […]. Các bạn trẻ thân mến: đừng sợ Chúa Kitô! Người không lấy bất cứ điều gì cả, Người cho tất cả mọi sự. Ai hiến mình cho Người, sẽ nhận lại gấp trăm. Vâng, hãy mở ra, hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô – và các bạn sẽ tìm được sự sống chân thật”.[171]

Loan báo Lời Thiên Chúa và di dân

105. Lời Thiên Chúa khiến ta lưu ý tới lịch sử và tất cả những gì lại đâm mầm trong lịch sử này. Chính vì thế, khi bàn đến sứ mạng phúc âm hoá của Giáo Hội, Thượng Hội Đồng cũng đã muốn để ý đến hiện tượng phức tạp của các phong trào di dân, một hiện tượng trong mấy năm gần đây đã đạt tới một tỷ lệ chưa từng có. Ở đây phát sinh những vấn nạn rất tế nhị liên quan đến an ninh của các quốc gia và việc phải đón tiếp những người đi tìm một nơi ẩn náu, những điều kiện sinh sống, y tế và làm việc tốt đẹp hơn. Có rất nhiều người không hề biết Chúa Kitô hoặc có một hình ảnh sai lạc về Người, đến định cư tại các xứ sở có truyền thống Kitô giáo. Đồng thời, có những người thuộc các dân tộc thấm nhuần sâu xa niềm tin Kitô giáo lại di cư đến những xứ sở đang cần được loan báo về Chúa Kitô và một cuộc tân phúc âm hoá. Các tình huống ấy cống hiến nhiều khả thể mới cho việc phổ biến Lời Thiên Chúa. Về điểm này, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã khẳng định rằng di dân có quyền được nghe kerygma (lời rao giảng Tin Mừng), lời này được đề nghị chứ không phải áp đặt cho họ. Nếu họ là Kitô hữu, họ cần được trợ giúp mục vụ thích đáng hầu củng cố đức tin và chính họ trở thành những người đi loan báo Tin Mừng. Ý thức về tính phức tạp của hiện tượng này, tất cả các giáo phận liên hệ phải được động viên để các phong trào di dân cũng được coi như một dịp giúp khám phá ra các hình thái mới để hiện diện và công bố. Điều cũng cần thiết là các giáo phận phải tùy theo khả năng mà tiếp đón và chăm sóc các anh chị em này, để khi đã được Tin Mừng đánh động, chính họ trở thành sứ giả của Lời Thiên Chúa và chứng nhân của Đức Giêsu Phục Sinh, niềm hy vọng của thế giới.[172]

Loan báo Lời Thiên Chúa và những người đau khổ

106. Trong khi Thượng Hội Đồng làm việc, các Nghị Phụ cũng thường xét đến sự cần thiết phải loan báo Lời Thiên Chúa cho tất cả những ai đang đau khổ, về thể lý, tâm lý hoặc thiêng liêng. Quả thật, chính trong những lúc đau khổ, mà phát sinh những câu hỏi nhức buốt nhất trong trái tim con người, những câu hỏi tối hậu về ý nghĩa của chính đời mình. Nếu lời nói của con người dường như trở nên câm nín trước mầu nhiệm sự dữ và đau khổ, và nếu xã hội chúng ta chỉ đánh giá cao sự sống khi nó tương ứng với một số bình diện về hiệu năng và sự thoải mái, Lời Thiên Chúa lại giúp ta thấy rằng ngay những giây phút (đau khổ) này cũng được tình yêu Thiên Chúa “vỗ về” cách nhiệm mầu. Đức tin phát sinh từ cuộc gặp gỡ với Lời Chúa, giúp chúng ta coi đời sống con người đáng được sống trọn vẹn, ngay cả lúc nó bị tan nát vì sự dữ. Thiên Chúa đã dựng nên con người để họ được hạnh phúc và được sống, trong khi bệnh tật và cái chết đã đi vào trong thế giới như là hậu quả của tội lỗi (x. Kn 2,23-24). Nhưng Cha của sự sống là thầy thuốc tuyệt hảo của nhân loại, Ngài không ngừng âu yếm cúi mình xuống trên nhân loại đau khổ. Chúng ta chiêm ngưỡng đỉnh cao của việc Thiên Chúa gần gũi với các đau khổ của con người trong chính Chúa Giêsu, “Lời nhập thể. Người đã chịu đau khổ với chúng ta và đã chịu chết. Bằng cuộc thhương khó và cái chết của Người, Người đã đảm nhận sự yếu hèn của chúng ta nơi Người và đã biến đổi sự yếu hèn ấy cho đến cùng”.[173]

Sự gần gũi của Đức Giêsu với những người đau khổ chưa bao giờ gián đoạn: sự gần gũi này kéo dài trong thời gian nhờ tác động của Chúa Thánh Thần trong sứ mạng của Giáo Hội, trong Lời và trong các bí tích, nơi những con người thiện chí, nơi các sáng kiến bác ái được thực thi bằng tình yêu huynh đệ của các cộng đoàn, khi vén mở cho thấy khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và tình yêu của Ngài. Thượng Hội Đồng tạ ơn Thiên Chúa về chứng tá sáng chói, đôi khi ẩn giấu, của nhiều Kitô hữu – linh mục, tu sĩ và giáo dân – những người đã tiếp tục cho Chúa Kitô, vị thầy thuốc đích thực chữa trị tâm hồn lẫn thể xác, mượn đôi tay, cặp mắt và trái tim! Thượng Hội Đồng còn tiếp tục khuyến khích là hãy tiếp tục chăm sóc những người đau ốm bằng cách đưa lại cho họ sự hiện diện ban sự sống của Chúa Giêsu trong Lời và trong bí tích Thánh Thể. Hãy giúp họ đọc Kinh Thánh và khám phá ra rằng, trong tình trạng của họ, họ có thể tham dự một cách đặc biệt vào những đau khổ có sức cứu chuộc của Chúa Kitô nhằm cứu độ thế giới (x. 2 Cr 4,8-11.14).[174]

Loan báo Lời Thiên Chúa và những người nghèo

107. Kinh Thánh mạc khải sự ưu ái của Thiên Chúa đối với người nghèo và những người cùng quẫn (x. Mt 25, 31-46). Các Nghị Phụ đã thường xuyên nhắc lại rằng điều cần thiết là việc loan báo Tin Mừng, sự dấn thân của các Mục tử và của các cộng đoàn phải quay hướng về các anh em ấy. Quả thế, “những người đầu tiên được quyền loan báo Tin Mừng chính là những người nghèo, những người không những cần cơm bánh, mà còn cần cả lời ban sự sống”.[175] Việc phục vụ do tình yêu, một công việc không bao giờ được thiếu trong các Hội Thánh của chúng ta, phải luôn luôn được kết hợp với việc loan báo Lời Thiên Chúa và việc cử hành các Mầu nhiệm thánh.[176] Đồng thời, phải nhìn nhận và đề cao giá trị của sự kiện này là chính những người nghèo cũng là những tác nhân Phúc âm hóa. Trong Kinh Thánh, người nghèo đích thực là người hoàn toàn ký thác bản thân cho Thiên Chúa và chính Đức Giêsu, trong Tin Mừng, gọi là có phúc những người có “Nước Trời thuộc về” mình (Mt 5, 3; x. Lc 6, 20). Chúa ca tụng con tim đơn sơ của kẻ nhìn nhận Thiên Chúa là của cái chân thật của mình, kẻ đặt nơi Người niềm cậy trông của mình, chứ không phải nơi của cải thế gian. Hội Thánh không được làm cho người nghèo thất vọng: “Các Mục tử được kêu gọi lắng nghe họ, học nơi họ, hướng dẫn họ trong niềm tin của họ và thúc đẩy họ, để họ là những người kiến tạo chính lịch sử của họ”.[177]

Hội Thánh cũng biết rằng có một sự nghèo khó là nhân đức phải trau dồi và chọn lựa tự do, như nhiều vị thánh đã làm, và có một sự bần cùng lại thường là kết quả của những bất công, do tính ích kỷ gây ra, có triệu chứng là sự túng thiếu và đói khát, và nó gây ra các xung đột. Khi Hội Thánh loan báo Lời Thiên Chúa, Hội Thánh biết rằng phải cổ võ một “vòng tròn nhân đức” giữa sự nghèo khó “phải chọn” và sự nghèo khó “phải đánh đuổi”, bằng cách tái khám phá “sự thanh đạm và tình liên đới, như những giá trị Tin Mừng và, đồng thời, phổ quát […] Điều này hàm ẩn những chọn lựa về công lý và nếp sống thanh đạm”.[178]

Lời Thiên Chúa và việc bảo toàn tạo thành

108. Việc dấn thân vào trong thế giới, mà Lời Thiên Chúa đòi hỏi, thúc đẩy chúng ta nhìn bằng cắp mắt mới toàn thể vũ trụ, được Thiên Chúa tạo thành và đã mang trong mình các dấu vết của Ngôi Lời, do Người mọi sự đã được tạo thành (x. Ga 1,2). Quả thật, chúng ta cũng vậy, trong tư cách là Kitô hữu và sứ giả Tin Mừng, chúng ta có một trách nhiệm đối với tạo thành. Nếu, một đàng, Mạc Khải cho chúng ta biết dự phóng của Thiên Chúa trên vũ trụ, đàng khác, Mạc Khải đưa chúng ta tới chỗ tố giác những thái độ sai lầm của con người, khi họ không nhận biết mọi sự như là dấu vết của Đấng Tạo Hóa, mà chỉ như một chất liệu để họ lèo lái không chút áy náy. Theo cách này, con người thiếu sự khiêm tốn cốt yếu giúp họ nhận biết thụ tạo như là một ân ban của Thiên Chúa mà họ phải đón nhận và sử dụng theo kế hoạch của Ngài. Trái lại, sự kiêu căng ngạo mạn của người sống “y như thể Thiên Chúa không hiện hữu”, đưa họ tới chỗ khai thác và làm méo mó gương mặt của thiên nhiên, do không nhìn nhận thiên nhiên là một công trình của Lời tạo dựng. Khởi đi từ cái nhìn thần học này, tôi ao ước lặp lại các khẳng định của các Nghị Phụ, các ngài đã nhắc lại rằng “đón tiếp Lời Thiên Chúa đã được chứng thực trong Kinh Thánh và trong Truyền Thống sống động của Giáo Hội, làm nảy sinh một cách nhìn mới các sự vật, qua việc cổ võ một nền môi sinh học chân chính, bén rễ sâu xa nhất trong sự vâng phục đức tin [...], phát triền một sự nhạy cảm thần học mới mẻ đối với sự tốt lành của mọi sự đã được tạo thành trong Đức Kitô”.[179] Con người cần được giáo dục lại về khả năng kinh ngạc thích thú và nhận biết vẻ đẹp trung thực được tỏ lộ trong các sự vật đã được tạo thành.[180]

LỜi Thiên Chúa và văn hóa

Giá trị của văn hóa đối với cuộc sống con người

109. Lời loan báo của Tin Mừng Gioan liên hệ đến cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời cho thấy dây liên kết bất khả phân ly hiện có giữa Lời Thiên Chúa và những lời con người, xuyên qua những lời này Lời Thiên Chúa được thông ban cho chúng ta. Chính là khởi đi từ nhận định này mà Thượng Hội Đồng Giám Mục đã dừng lại với tương quan giữa Lời Thiên Chúa và văn hóa. Quả thật, Thiên Chúa không tự mạc khải cho con người theo cách trừu tượng, nhưng bằng cách nhận lấy các ngôn ngữ, các hình ảnh và các cách diễn tả gắn liền với các nền văn hóa khác nhau. Đây là một tương quan phong phú đã từng được chứng thực rộng rãi trong lịch sử Hội Thánh. Ngày hôm nay, tương quan này đi vào một giai đoạn mới do sự lan rộng và sự bám rễ của hoạt động Phúc âm hóa giữa lòng các nền văn hóa khác nhau và do những phát triển mới đây của nền văn hóa Tây phương. Điều này trước tiên có hệ quả là sự nhận biết tầm quan trọng của văn hóa trong đời sống của bất cứ người nào. Hiện tượng văn hóa trong các phương diện đa dạng của nó quả thật tỏ ra như là một yếu tố cấu thành kinh nghiệm con người: “Con người luôn luôn sống theo một nền văn hóa riêng, và nền văn hóa này lại tạo ra giữa những con người một dây liên kết cũng riêng cho mình, bằng cách xác định tính chất liên nhân bản và xã hội của cuộc sống con người”.[181]

Dọc theo các thời đại, Lời Thiên Chúa đã gợi hứng cho tất cả các nền văn hóa khác nhau bằng cách làm phát sinh các giá trị luân lý căn bản, những cách thức diễn tả nghệ thuật chọn lọc và các kiểu sống làm mẫu.[182] Chính vì thế, trong viễn tượng một cuộc gặp gỡ mới giữa Kinh Thánh và các nền văn hóa, tôi ước muốn nhắc cho tất cả các tác nhân thuộc thế giới văn hóa rằng họ không có gì phải sợ mở lòng ra với Lời Thiên Chúa, Lời này không bao giờ hủy diệt nền văn hóa đúng đắn, nhưng làm thành một sự kích thích thường hằng trong việc tìm kiếm những cách diễn tả của con người ngày càng thích hợp hơn trong việc tìm những cách thức diễn tả của con người ngày càng thích hợp và có ý nghĩa hơn. Bất cứ nền văn hóa chân chính nào, để thật sự phục vụ con người, đều phải mở ra với siêu việt, và cuối cùng với Thiên Chúa.

Kinh Thánh, một kho báu to lớn cho các nền văn hóa

110. Các Nghị Phụ đã nêu bật tầm quan trọng của việc yểm trợ nơi những người có văn hóa một sự hiểu biết đúng đắn về Kinh Thánh, kể cả trong những môi trường tục hóa và nơi những người không tin;[183] Kinh Thánh chứa những giá trị nhân học và triết học đã từng ảnh hưởng tích cực lên toàn thể nhân loại.[184] Phải tìm lại cho đầy đủ cảm thức về Kinh Thánh như một kho báu to lớn đối với các nền văn hóa.

Hiểu biết Kinh Thánh trong các trường trung học và các đại học

111. Trường trung họcđại học là một khung cảnh riêng cho việc gặp gỡ giữa Lời Thiên Chúa và các nền văn hóa. Ước gì các Mục tử quan tâm đặc biệt đến các môi trường này, bằng cách cổ võ một sự hiểu biết sâu xa Kinh Thánh, sao cho các hệ quả văn hóa phong phú, kể cả cho thời đại chúng ta, có thể nắm bắt được! Ước gì các trung tâm học vấn lệ thuộc các đơn vị Công giáo mang lại được một đóng góp độc đáo – đóng góp này phải được nhìn nhận – cho việc thăng tiến nền văn hóa và việc giáo dục! Cũng không được sao nhãng việc dạy về đạo, bằng cách đào tạo kỹ càng các thầy dạy. Trong nhiều trường hợp, việc dạy đạo này, đối với các sinh viên, là một cơ hội duy nhất để họ tiếp xúc với sứ điệp đức tin. Trong việc dạy này, rất nên cổ võ việc hiểu biết Kinh Thánh, bằng cách đánh tan các thành kiến, cũ và mới, và tìm cách làm cho người ta biết chân lý của Kinh Thánh.[185]

Kinh Thánh qua các cách thức diễn tả nghệ thuật khác nhau

112. Quan hệ giữa Lời Thiên Chúa và các nền văn hóa đã tìm được một lối diễn tả cụ thể trong những khung cảnh khác nhau, đặc biệt trong thế giới nghệ thuật. Chính vì thế Truyền thống quan trọng của Đông và Tây phương xưa nay vẫn trân trọng các diễn tả nghệ thuật được Kinh Thánh gợi hứng, chẳng hạn các nghệ thuật tạo hình (figuratifs), hoặc cả ngành kiến trúc, văn chương và âm nhạc. Tôi cũng nghĩ đến ngôn ngữ cổ xưa được diễn tả bởi các thánh tượng, ngôn ngữ này, khởi đi từ Truyền thống Đông phương, đã dần dà phổ biến khắp nơi trên thế giới. Cùng với các Nghị Phụ, toàn thể Giáo Hội bày tỏ sự trân trọng, sự quý mến và ngưỡng mộ đối với các nghệ sĩ “say mê vẻ đẹp”, đã để mình được gợi hứng bởi các bản văn thánh; các vị ấy đã góp phần vào việc tô điểm các nhà thờ chúng ta, vào việc cử hành đức tin chúng ta, vào việc làm phong phú nền phụng vụ của chúng ta và, đồng thời, nhiều người trong số các vị ấy đã giúp làm cho người ta nhận ra được, trong thời gian và trong không gian, các thực tại vô hình và vĩnh cửu.[186] Tôi khuyến khích các cơ quan có thẩm quyền hãy cổ võ trong Giáo Hội một nền huấn luyện vững chắc cho các nghệ sĩ về Kinh Thánh dưới ánh sáng của Truyền Thống sống động của Giáo Hội và Huấn Quyền.

Lời Thiên Chúa và các phương tiện truyền thông xã hội

113. Cũng có liên hệ đến tương quan giữa Lời Thiên Chúa và các nền văn hóa, là tầm quan trọng của việc sử dụng chuyên chăm và thông minh các phương tiện truyền thông xã hội, cũ và mới. Các Nghị Phụ đã khuyến cáo là nên có một sự hiểu biết thích đáng về các dụng cụ ấy, bằng cách quan tâm đến sự phát triển mau chóng của chúng và đến các bình diện tương tác của chúng và bằng cách đầu tư nhiều năng lực hơn hầu đạt được một thẩm quyền trong các lãnh vực khác nhau, đặc biệt trong lãnh vực người ta gọi là các media mới, chẳng hạn internet. Đã có một sự hiện diện có ý nghĩa của Giáo Hội trong thế giới truyền thông đại chúng và Huấn Quyền Giáo Hội cũng đã nói lên ý kiến của mình nhiều lần về đề tài này kể từ Công Đồng Vatican II.[187] Việc thủ đắc những phương pháp mới để truyền đạt sứ điệp Tin Mừng thuộc về sự căng thẳng thường trực của các tín hữu và, hôm nay, ngành truyền thông đang bung ra một mạng lưới bao trùm toàn địa cầu, khiến đưa lại một ý nghĩa mới cho lời kêu gọi của Đức Kitô: “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (Mt 10,27). Lời Thiên Chúa, ngoài dạng in ấn, cũng phải rền vang xuyên qua các hình thức truyền thông khác.[188] Chính vì thế, cùng với các Nghị Phụ, tôi ước muốn cám ơn những người Công Giáo đang dấn thân với thẩm quyền nhằm hiện diện cách có ý nghĩa trong thế giới các phương tiện truyền thông, mà vẫn ao ước có một sự dấn thân rộng rãi hơn và có phẩm chất hơn.[189]

Trong số các hình thức mới truyền thông đại chúng, ngày hôm nay người ta nhìn nhận rằng vài trò của internet ngày một lớn lên, đây là một diễn đàn (forum) mới trên đó ta phải làm rền vang Tin Mừng, nhưng với ý thức, rằng thế giới ảo sẽ không bao giờ có thể thay thế được thế giới thực hữu và hoạt động Phúc âm hóa sẽ chỉ có thể tận dụng tình trạng ảo mà các phương tiện truyền thông mới cống hiến cho, để thiết lập những quan hệ có ý nghĩa nếu người ta đi tới được một sự tiếp xúc riêng tư là điều không có gì có thể thay thế được. Trong thế giới internet, một thế giới cho phép hàng tỷ hình ảnh xuất hiện trên hàng triệu màn hình trên thế giới, sẽ phải xuất hiện gương mặt của Đức Kitô cũng như sẽ có thể nghe được tiếng nói của Người, bởi vì “nếu không có chỗ cho Đức Kitô, thì không có chỗ cho con người”.[190]

Kinh Thánh và hội nhập văn hóa

114. Mầu nhiệm Nhập Thể một đàng làm cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa luôn thông giao chính mình trong một lịch sử cụ thể, bằng cách nhận lấy các quy tắc (codes) văn hóa được ghi khắc trong lịch sử ấy, nhưng đàng khác, cũng chính Lời ấy có thể và phải được truyền đạt trong các nền văn hóa khác nhau, bằng cách làm biến hình chúng từ bên trong, nhờ điều mà Đức giáo hoàng Phaolô VI đã gọi là Phúc âm hóa các nền văn hóa.[191] Lời Thiên Chúa, cũng như đức tin Kitô giáo, như thế cho thấy một đặc tính liên văn hóa sâu xa, có thể gặp gỡ và làm cho các nền văn hóa khác nhau được gặp gỡ.[192]

Trong bối cảnh này, ta cũng hiểu giá trị của việc hội nhập văn hóa Tin Mừng.[193] Giáo Hội xác tín vững chắc về khả năng nội tại của Lời Thiên Chúa là gặp được tất cả mọi người cho dù bối cảnh văn hóa của họ có thế nào: “xác tín này phát xuất từ chính Kinh Thánh, vì Kinh Thánh, kề từ quyển sách Sáng thế, đã có một định hướng phổ quát (St 1,27-28), sau đó duy trì xác tín đó trong phúc lành đã được hứa ban cho tất cả các dân tộc nhờ Abraham và dòng dõi của ông (x. St 12,3; 18,18) và xác nhận xác tín này vĩnh viễn bằng cách nới rộng cho việc Phúc âm hóa đến ‘tất cả các dân tộc’”.[194] Chính vì thế việc hội nhập văn hóa không được lầm lẫn với các tiến trình hời hợt để thích ứng và càng không được lẫn lộn với một thứ chiết trung mơ hồ làm tan loãng tính độc đáo của Tin Mừng để làm cho Tin Mừng được chấp nhận dễ dàng hơn.[195] Mẫu mực chân chính cho việc hội nhập văn hóa là chính cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời: “một ‘cuộc trao đổi văn hóa’ (acculturation), hoặc ‘hội nhập văn hóa’ (inculturation), sẽ thực sự là phản ánh cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời, khi mà một nền văn hóa, được biến đổi và tái sinh nhờ Tin Mừng, làm sản sinh khởi đi từ chính Truyền thống sống động của mình những cách thức diễn tả độc đáo sự sống, cử hành và những tư tưởng Kitô giáo”,[196] nhờ đâm chồi từ nền văn hóa địa phương, nhờ trân trọng các semina Verbi (hạt giống Lời) và tất cả những gì đang có trong nền văn hóa ấy như là điều tích cực, nhờ mở nó ra với các giá trị Tin Mừng.[197]

Các bản dịch và việc phổ biến Kinh Thánh

115. Nếu việc hội nhập văn hóa Lời Thiên Chúa bắt buộc thuộc về sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới, việc phổ biến Kinh Thánh xuyên qua công việc quý báu dịch thuật ra trong các ngôn ngữ khác nhau là một giai đoạn quan trọng của tiến trình này. Về vấn đề này, ta phải luôn luôn có trong trí điều này là công việc dịch thuật Kinh Thánh đã bắt đầu “ngay từ thời Cựu Ước, khi người ta dịch bằng lời nói bản văn Híp-ri Kinh Thánh ra tiếng A-ram (Nkm 8, 8.12) và, sau này, bằng bản văn viết ra tiếng Hy-lạp. Quả thật, một bản dịch còn hơn chỉ là một sự chuyển ngữ bản văn gốc. Chuyển đi từ một ngôn ngữ sang một ngôn ngữ khác nhất thiết hàm chứa một sự thay đổi bối cảnh văn hóa: các khái niệm không giống nhau và tầm mức của các biểu tượng thì khác, bởi vì chúng đặt vào thế tương quan với các truyền thống tư tưởng khác và những cách sống khác”.[198]

Trong khi Thượng Hội Đồng đang làm việc, người ta đã phải ghi nhận rằng có những Giáo Hội địa phương chưa có một bản dịch toàn bộ Kinh Thánh trong ngôn ngữ riêng của họ. Có biết bao dân tộc hôm nay đang đói khát Lời Thiên Chúa, nhưng đáng tiếc là họ lại chưa có thể đạt tới “một cửa mở rộng rãi đối với Kinh Thánh”[199] như Công Đồng Vatican II đã từng ao ước! Chính vì thế, Thượng Hội Đồng Giám Mục coi điều quan trọng là trước tiên đào tạo các chuyên viên có thể dấn mình việc dịch Kinh Thánh trong ngôn ngữ khác nhau.[200] Tôi khuyến khích đầu tư các tài nguyên vào lãnh vực này. Đặc biệt tôi muốn kêu gọi nâng đỡ sự dấn thân của Liên Hiệp Kinh Thánh Công Giáo để con số các bản dịch Kinh Thánh gia tăng và việc phổ biến các bản dịch này ngày càng lan rộng.[201] Do chính bản tính của công việc này, nên thực hiện nó trong sự cộng tác tối đa với các Hội Kinh Thánh khác.

Lời Thiên Chúa vượt quá các ranh giới các nền văn hóa

116. Thượng Hội Đồng Giám Mục, trong khi tranh luận về quan hệ giữa Lời Thiên Chúa và các nền văn hóa, đã cảm thấy bị thúc đẩy đến chỗ tái khẳng định những gì các Kitô hữu đầu tiên đã có thể trải nghiệm kể từ ngày lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,1-13). Lời Thiên Chúa có thể xuyên thấu và được diễn tả trong các nền văn hóa và các ngôn ngữ khác nhau, nhưng chính Lời này vượt quá các ranh giới của các nền văn hóa đặc thù bằng cách tạo ra một sự hiệp thông giữa các dân tộc. Lời Chúa mời gọi chúng ta đi đến một sự hiệp thông rộng lớn hơn. “Chúng ta ra khỏi sự chật hẹp của các kinh nghiệm chúng ta và đi vào trong thực tại thật sự có tính phổ quát. Khi đi vào hiệp thông với Lời Thiên Chúa. [...] Đó là ra khỏi các ranh giới của mỗi nền văn hóa trong tình trạng phổ quát đang liên kết tất cả chúng ta lại, hợp nhất chúng ta lại, làm cho tất cả chúng ta nên anh em”.[202] Chính vì thế, loan báo Lời Thiên Chúa luôn luôn yêu cầu, với chúng ta trước tiên, một cuộc xuất hành mới, là rời bỏ các khung cảnh và các lối hình dung giới hạn của chúng ta để dành chỗ cho sự hiện diện của Đức Kitô trong chúng ta.

LỜi Thiên Chúa và đỐi thoẠi liên tôn

Giá trị của đối thoại liên tôn

117. Ý thức rằng Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần, đi vào đối thoại với nhân loại, Giáo Hội nhìn nhận như là một phần chính yếu của việc loan báo Lời, cuộc gặp gỡ với tất cả mọi người thiện chí. Ngày hôm nay, đang khi tránh mọi hình thái chiết trung và tương đối hóa, Giáo Hội tìm cách đối thoại với những con người thuộc những truyền thống tôn giáo khác nhau theo đường hướng đã được Tuyên ngôn Nostra aetate của Công Đồng Vatican II chỉ dẫn, được triển khai bởi Huấn Quyền sau này của các Đức giáo hoàng.[203] Tiến trình mau lẹ của hiện tượng toàn cầu hoá cung cấp cho ta khả thể sống trong một sự tiếp xúc chặt chẽ hơn với những con người thuộc các nền văn hóa và tôn giáo khác. Đây là một cơ may do Chúa quan phòng để cho thấy làm thế nào một cảm thức tôn giáo trung thực có thể cổ võ giữa loài người những quan hệ huynh đệ phổ quát. Điều hết sức quan trọng là các tôn giáo có thể hỗ trợ, trong các xã hội thường là tục hóa của chúng ta, một cái nhìn thấy được Thiên Chúa toàn năng là nền tảng của mọi sự thiện, nguồn không hề cạn kiệt của đời sống luân lý, sự nâng đỡ cho một cảm thức sâu sắc về tình huynh đệ phổ quát.

Xin đan cử một ví dụ, trong Truyền thống Do-thái – Kitô giáo, ta gặp được lời chứng rõ ràng về tình yêu của Thiên Chúa đối với mọi dân tộc Ngài đã quy tụ lại, điều này đã có ngay trong Giao ước chật hẹp với Nôê, trong một vòng ôm to lớn và duy nhất được tượng trưng bằng “cây cung giữa đám mây” (St 9,13.14.16), dân này, theo các lời của các ngôn sứ, Ngài nhắm quy tụ lại thành một gia đình phổ quát duy nhất (x. Is 2,2tt; 42,6; 66,18-21; Gr 4,2; Tv 47). Trong thực tế, ta gặp lại những chứng từ về dây liên kết mật thiết vẫn có trong tương quan với Thiên Chúa và nền luân lý tình yêu đối với mọi người trong nhiều truyền thống tôn giáo lớn.

Đối thoại giữa Kitô hữu và tín đồ Hồi giáo

118. Trong số những tôn giáo khác nhau, Giáo Hội “cũng tôn trọng các tín đồ Hồi giáo, vì họ cùng thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất”.[204] Họ quy chiếu về Abraham và dâng một việc phụng tự lên Thiên Chúa đặc biệt bằng việc cầu nguyện, bố thí và ăn chay. Chúng ta nhìn nhận rằng trong truyền thống Hồi giáo có hiện diện nhiều dung mạo, biểu tượng và chủ đề Kinh Thánh. Trong sự tiếp nối với công trình quan trọng của Đấng Đáng kính Gioan Phaolô II, tôi ước mong rằng các tương quan được gợi hứng bởi sự tin tưởng, đã được thiết lập từ nhiều năm giữa Kitô hữu và tín đồ Hồi giáo, được tiếp tục và triển khai trong một tinh thần đối thoại chân thành và kính trọng.[205] Trong cuộc đối thoại này, Thượng Hội Đồng đã bày tỏ nguyện vọng là chủ đề tôn trọng sự sống như là giá trị căn bản, và chủ đề các quyền bất khả nhượng của người nam người nữ và phẩm giá bình đẳng của họ có thể được đào sâu. Trong khi vẫn quan tâm đến vấn đề quan trọng là phân biệt giữa bình diện xã hội chính trị và bình diện tôn giáo, các tôn giáo phải mang đến phần đóng góp cho sự thiện hảo chung. Thượng Hội Đồng yêu cầu các Hội Đồng Giám mục, tại nơi nào thấy là thuận tiện và có lợi, hãy cổ võ những cuộc gặp gỡ để cho Kitô hữu và tín đồ Hồi giáo hiểu biết lẫn nhau, hầu cổ võ các giá trị mà xã hội đang rất cần để có một cuộc chung sống hòa bình và tích cực.[206]

Đối thoại với các tôn giáo khác

119. Trong hoàn cảnh này, mặt khác, tôi ước muốn bày tỏ lòng tôn trọng của Giáo Hội đối với các tôn giáo truyền thống và các truyền thống thiêng liêng cổ xưa của các châu lục, cũng hàm chứa những giá trị có thể hỗ trợ cho việc hiểu biết giữa những con người và các dân tộc.[207] Chúng ta thường xuyên ghi nhận một sự đồng hưởng với các giá trị cũng được diễn tả trong các Sách tôn giáo của họ, như chẳng hạn sự tôn trọng sự sống, sự chiêm ngưỡng, thinh lặng, sự đơn giản trong Phật giáo; cảm thức về sự linh thánh, hy sinh và ăn chay trong Ấn giáo; và thêm nữa các giá trị gia đình và xã hội trong Khổng giáo. Chúng ta cũng khám phá ra cách thỏa đáng trong các kinh nghiệm tôn giáo khác, một sự lưu tâm chân thành đến sự siêu việt của Thiên Chúa, được nhìn nhận như là Đấng Tạo hóa, cũng như đến việc tôn trọng sự sống, hôn nhân và gia đình và đến cảm thức mạnh về tình liên đới.

Đối thoại và tự do tôn giáo

120. Tuy nhiên, việc đối thoại hẳn sẽ không phong phú, nếu nó không hàm chứa một sự tôn trọng trung thực đối với từng con người, hầu mỗi người có thể tự do gắn bó với tôn giáo của mình. Thượng Hội Đồng Giám Mục, trong khi khuyến khích sự cộng tác giữa các đại diện của các tôn giáo, cũng nhắc lại rằng “cần phải đảm bảo cách hữu hiệu cho mọi tín hữu sự tự do được tuyên xưng đạo giáo riêng của họ riêng tư hay công cộng, cũng như tự do lương tâm”:[208] quả thế, “sự tôn trọng và đối thoại đòi hỏi sự hỗ tương trong mọi lãnh vực, nhất là trong những gì liên hệ đến các tự do căn bản và đặc biệt hơn, tự do tôn giáo. Chúng cổ võ hòa bình và sự đồng thuận giữa các dân tộc”.[209]

***

KẾT LUẬN

 

Lời vĩnh viễn của Thiên Chúa

121. Đến cuối các suy tư này, qua đó tôi muốn thu lượm và đào sâu sự phong phú của Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ XII về Lời Thiên Chúa trong đời sống và sứ mạng của Giáo Hội, tôi còn mong muốn một lần nữa khuyến khích toàn thể Dân Thiên Chúa, các Mục tử, những người sống đời thánh hiến, và các giáo dân dấn thân để ngày càng quen thuộc hơn với Kinh Thánh. Chúng ta không bao giờ được quên rằng ở tại nền của mọi nền linh đạo Kitô giáo chân chính và sống động, có Lời Thiên Chúa được loan báo, được lắng nghe, được cử hành và được suy ngẫm trong Giáo Hội. Việc tăng cường quan hệ với Lời Chúa như thế sẽ càng được thực hiện hăng say nếu chúng ta càng ý thức là, trong Kinh Thánh cũng như trong Truyền thống sống động của Giáo Hội, chúng ta đứng trước Lời vĩnh viễn của Thiên Chúa nói trên thế giới và trên lịch sử.

Như Lời Tựa của Tin Mừng Gioan cho ta chiêm ngưỡng, tất cả những gì đang có đều ở dưới dấu chỉ của Lời. Ngôi Lời trào vọt ra từ Chúa Cha và Người đến cư ngụ giữa người nhà của Người, rồi Người lại trở về cung lòng Chúa Cha để mang theo với Người toàn thể tạo thành, trong Người và do Người, đã được tạo nên. Ngày hôm nay, Giáo Hội sống sứ mạng của mình trong tình trạng chờ đợi nôn nao cuộc tỏ mình vào lúc cánh chung của Hôn Phu: “Thần Khí và Tân Nương nói: ‘Xin Ngài ngự đến!'“ (Kh 22,17). Sự chờ mong này không bao giờ là thụ động, nhưng là một sự căng thẳng có tính truyền giáo trong khi loan báo Lời Thiên Chúa, Lời có sức thanh luyện và chuộc lại mọi người: cả vào ngày hôm nay nữa, Đức Giêsu Phục Sinh đang nói với chúng ta: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15).

Cuộc tân Phúc âm hóa và việc tái lắng nghe

122. Do đó, thời đại chúng ta phải ngày càng là thời đại của một việc tái lắng Lời Thiên Chúa và một cuộc Tân Phúc âm hóa. Tái khám phá ra đặc tính trung tâm của Lời Chúa trong đời sống Kitô hữu làm cho chúng ta cũng tìm lại được ý nghĩa sâu xa nhất của điều mà Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã mạnh mẽ nhắc lại : tiếp tục missio ad gentes và ra sức bắt tay vào công cuộc Tân Phúc âm hóa, nhất là trong các xứ sở mà Tin Mừng đã bị quên lãng hay đang chịu sự lãnh đạm của con số người, lớn hơn do một kiểu chủ nghĩa tục hóa mơ hồ. Ước gì Chúa Thánh Thần thức tỉnh nơi loài người sự đói khát Lời Thiên Chúa và làm dấy lên những sứ giả nhiệt thành và chúng nhân Tin Mừng!

Theo gương vị Tông Đồ vĩ đại của Muôn Dân, đã được biến đổi sau khi nghe tiếng nói của Chúa (x. Cv 9,1-30), cả chúng ta nữa, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa đang thúc bách chúng ta luôn luôn riêng tư, ở đây và lúc này. Sách Công vụ Tông Đồ kể cho chúng ta biết rằng Chúa Thánh Thần dành riêng Phaolô và Barnaba để đi rao giảng và phổ biến Tin Mừng (x. 13,2). Cũng thế, vào ngày hôm nay, Chúa Thánh Thần không ngừng gợi lên những thính giả và sứ giả xác tín có sức thuyết phục của Lời Chúa!

Lời và niềm vui

123. Nếu chúng ta càng biết tỏ ra sẵn sàng với Lời Chúa, chúng ta sẽ càng nhận thấy rằng Mầu nhiệm lễ Hiện Xuống đang ‘hiện hành’ cả hôm nay nữa trong Giáo Hội Thiên Chúa. Thần Khí Chúa tiếp tục ban chan hòa các ân huệ của Người xuống trên Giáo Hội để chúng ta được dẫn tới chân lý toàn vẹn, bằng cách mở chúng ta ra với ý nghĩa của Kinh Thánh và làm cho chúng ta trở thành sứ giả đáng tin của Lời cứu độ. Như thế chúng ta trở lại với Thư thứ nhất của thánh Gioan. Xuyên qua Lời Thiên Chúa, cả chúng ta nữa, chúng ta đã được nghe, được thấy và được chạm đến Ngôi Lời sự sống. Nhờ ân sủng, chúng ta đã nghe được lời loan báo nói rằng sự sống vĩnh cửu đã được biểu lộ, để chúng ta nhận biết rằng chúng ta đang sống trong sự hiệp thông với nhau, với những ai đã đi trước chúng ta dưới ánh sáng đức tin và với tất cả những ai, sống rải rác trên khắp thế giới, đang lắng nghe Lời, cử hành Bí tích Thánh Thể, sống chứng tá bác ái. Tông đồ Gioan nhắc chúng ta rằng: lời loan báo này được truyền thông cho chúng ta để “niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn” (1 Ga 1,4).

Thượng Hội Đồng Giám Mục đã cho phép chúng ta trải nghiệm những gì được chứa đựng trong sứ điệp Gioan: việc loan báo Lời tạo ra sự hiệp thông và mang đến niềm vui. Đây là một niềm vui sâu xa trào vọt ra từ chính trung tâm đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa và được thông truyền cho chúng ta trong Chúa Con. Đây là niềm vui, như ân huệ khôn tả, mà thế gian không thể ban tặng. Ta có thể tổ chức những lễ mừng, nhưng không phải là niềm vui. Theo Kinh Thánh, niềm vui là một hoa quả của Chúa Thánh Thần (x. Gl 5,22), giúp chúng ta đi sâu vào trong Lời và làm cho Lời Chúa đi vào trong chúng ta mà mang hoa quả cho sự sống vĩnh cửu. Khi loan báo Lời Thiên Chúa trong sức mạnh Chúa Thánh Thần, chúng ta cũng ước muốn thông truyền nguồn suối cung cấp niềm vui chân thật, không phải là một niềm vui hời hợt và phù phiếm nhưng là niềm vui trào dâng từ ý thức rằng chỉ mình Chúa Giêsu có những lời ban sự sống đời đời (x. Ga 6,68).

“Mater Verbi et Mater laetitiae”

124. Quan hệ mật thiết giữa Lời Thiên Chúa và niềm vui được biểu lộ hiển nhiên nơi Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta nhớ lại các lời của thánh Êlisabét: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Đức Maria thật có phúc, vì Mẹ có đức tin, vì Mẹ đã tin, và vì trong đức tin này, Mẹ đã đón tiếp vào lòng mình Ngôi Lời Thiên Chúa để ban tặng Người cho thế giới. Niềm vui xuất phát từ Lời bây giờ có thể lan rộng tới tất cả những ai, trong đức tin, để cho mình được Lời Thiên Chúa biến đổi. Tin Mừng Luca qua hai bản văn đã giới thiệu cho chúng ta Mầu nhiệm lắng nghe và niềm vui này. Đức Giêsu khẳng định: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (8,21). Và trước tiếng reo của một người phụ nữ, đang ở giữa đám đông, muốn tôn dương lòng dạ đã cưu mang Người và vú đã cho Người bú, Đức Giêsu vén mở cho thấy bí quyết của niềm vui chân thật: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa! “ (Lc 11,28). Đức Giêsu cho thấy sự cao cả đích thực của Đức Maria, như thể mở ra cho mỗi người chúng ta khả năng sống mối phúc phát sinh từ Lời được lắng nghe và đem ra thực hành. Chính vì thế, cho mọi Kitô hữu, tôi nhắc lại rằng quan hệ riêng tư và cộng đoàn với Thiên Chúa tùy thuộc sự gia tăng của tình thân thiết của chúng ta với Lời Chúa. Cuối cùng, tôi xin ngỏ lời với mọi người, cả những ai đã đi xa Giáo Hội, đã bỏ đức tin hoặc chưa bao giờ nghe được lời loan báo ơn cứu độ. Cho mỗi người, Chúa nói: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20).

Vậy ước gì mỗi một ngày sống của chúng ta được hun đúc bởi cuộc gặp gỡ mới mẻ với Đức Kitô, Ngôi Lời làm người của Chúa Cha: Người ở tại nguồn và ở cuối và “tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1,17). Hãy thinh lặng để lắng nghe Lời Chúa và để suy ngẫm Lời ấy, hầu nhờ hoạt động hữu hiệu của Chúa Thánh Thần, Lời ấy tiếp tục ở lại, sống và nói với chúng ta mọi ngày đời chúng ta. Như thế, Giáo Hội được đổi mới và tươi trẻ lại nhờ Lời Chúa vẫn tồn tại muôn đời (x. 1 Pr 1,25; Is 40,8). Như thế, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có thể đi vào trong cuộc đối thoại hôn ước vĩ đại được dùng để kết thúc Kinh Thánh: “Thần Khí và Tân Nương nói: ‘Xin Ngài ngự đến!’ [...] Đấng làm chứng về những điều đó phán rằng: ‘Phải, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến’ – Amen! Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến!” (Kh 2,17.20).

 

 

Ban hành tại Rôma, cạnh Đền thờ thánh Phêrô,

ngày 30 tháng 9 năm 2010, tưởng nhớ thánh Giêrônimô,

năm thứ sáu Triều Đại của Tôi.

+ BENEDICTUS XVI

Giáo Hoàng

 

 


[1] In Iohannis Evangelium Tractatus, 1,12: CCL 36,7

[2] Thông điệp Veritatis splendor (6-8-1993), số 25: AAS 85 (1993) tr. 1153.

[3] Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Mặc khải của Thiên Chúa Dei Verbum, số 8.

[4] Relatio post disceptationem, số 11: OR bản tiếng Pháp, 11-11-2008, tr. 11.

[5] Số 1.

[6] Đức Bênêđitô XVI, Diễn từ tại Đại hội quốc tế về “Kinh Thánh trong đời sống của Giáo Hội” (16-9-2005): AAS 97 (2005), tr. 956; DC s. 2344, tr. 948.

[7] X. Relatio post disceptationem, s. 10: OR bản tiếng Pháp, 11-11-2008, tr. 14.

[8] Sứ điệp chung kết, III, 6.

[9] Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, s. 24.

[10] Như trên, số 7.

[11] Sách Lễ Rôma, Trình bày tổng quát về Sách Bài đọc trong Thánh Lễ, s. 4.

[12] Như trên, số 9.

[13] Như trên, số 3; x. Lc 4,16-21; 24,25-35.44-49.

[14] Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, s. 102.

[15] X. Đức Bênêđitô XVI, Tông huấn hậu Thượng hội đồng Sacramentum caritatis (22-2-2007), ss. 44-45: AAS 99 (2007), tr. 139-141.

[16] Ủy Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng, Việc giải thích Kinh Thánh trong Giáo Hội (15-4-1993), IV, C, 1; tr. 110; Ench. Vat.13, s. 3123.

[17] Như trên, III, B, 3; tr. 89; Ench. Vat. 13, s.3056.

[18] X. Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, ss. 48.51.56; Hiến chế tín lý về Mạc Khải của Thiên Chúa Dei Verbum, ss. 21.26; Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội Ad gentes, ss. 6.15; Sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục Presbyterorum ordinis, s. 18; Sắc lệnh về canh tân và thích nghi đời sống dòng tu Perfectae caritatis, s. 6. Trong truyền thống lớn của Giáo Hội, chúng ta tìm thấy những thành ngữ có ý nghĩa như: “Corpus Christi intelligitur etiam […] Scriptura Dei” (Sách thánh [Lời] của Thiên Chúa cũng được xem là Thân mình Đức Kitô): Waltramus, De unitate Ecclesiae conservanda, 13, Nxb W. Schwenkenbecher, Hannoverae 1883, tr. 33; “Thịt của Chúa là một thức ăn đích thực và máu ngài là một thức uống đích thực; điều thiện hảo đích thực được dành cho chúng ta trong cuộc sống hiện tại, là ăn thịt và uống máu ngài, không chỉ trong Bí tích Thánh Thể, nhưng còn trong việc đọc Kinh Thánh. Thật vậy, Lờ Thiên Chúa, được múc lấy từ việc hiểu biết Kinh Thánh Kinh, là một thức ăn đích thực và là một thức uống đích thực”: Thánh Giêrônimô, Commentarius in Ecclesiasten, số 313: CCL 72,278.

[19] J. Ratzinger (Đức Bênêđitô XVI), Đức Giêsu Nadarét, Nxb Flammarion, Paris 2007, tr. 295.

[20] Sách Lễ Rôma, Trình bày tổng quát về Sách Bài đọc trong Thánh Lễ, s. 10.

[21] Như trên.

[22] X. Đề nghị 7.

[23] Thông điệp Fides et ratio (14-9-1998), số 13: AAS 91 (1999), tr. 16.

[24] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, s. 1373-1374.

[25] X. Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, s. 7.

[26] In Psalmum. 147: CCL 78, 337-338.

[27] Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Mac Khải của Thiên Chúa Dei Verbum, s. 2.

[28] Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, ss. 107-108.

[29] Sách Lễ Rôma, Trình bày tổng quát Sách Bài đọc trong Thánh Lễ, s. 66.

[30] Đề nghị 16.

[31] X. Đức Bênêđitô XVI, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Sacramentum caritatis (22-2-2007, số 45: AAS 99 (2007), tr. 140-141.

[32] X. Đề nghị 14.

[33] X. Giáo Luật, đ. 230 §2; s. 204 §1.

[34] Sách Lễ Rôma, Trình bày tổng quát Sách Bài đọc trong Thánh Lễ, s. 55.

[35] Như trên, 8.

[36] Số 46: AAS 99 (2007), tr. 141.

[37] Xem Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Mạc Khải của Thiên Chúa Dei Verbum, s. 25.

[38] Đề nghị 15.

[39] Như trên.

[40] Sermo 179, 1: PL 38, 966.

[41] X. Đức Bênêđitô XVI, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Sacramentum Caritatis (22-2-2007), s. 93: AAS 99 (2007), tr. 177

[42] Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, Compendium Eucharisticum (25-3-2009), Città del Vatican, 2009.

[43] Epistula 52, 7; CSEL 54, 426-427.

[44] Đề nghị 8.

[45] Nghi Thức Thống Hối và Hòa Giải, Các định hướng giáo lý và mục vụ, s. 17.

[46] Như trên, s. 19.

[47] Đề nghị 8.

[48] Đề nghị 19.

[49] Các nguyên tắc và quy luật dành cho Phụng Vụ Các Giờ Kinh, III, 15.

[50] Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, s. 85.

[51] X. Giáo Luật, đđ. 276 §3, 1174 §1.

[52] X. Giáo Luật của Các Giáo Hội Đông Phương, đđ. 377; 473 §1 và 2, 1°; 538 §1; 881 §1.

[53] Sách Các Phép, Dẫn nhập tổng quát, s. 21.

[54] X. Đề nghị 18; Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, s. 35.

[55] X. Đức Bênêđitô XVI, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Sacramentum Caritatis (22-2-2007), s. 75 : AAS 99 (2007), tr. 162-163.

[56] Như trên.

[57] Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, Cẩm nang về lòng đạo đức bình dân và Phụng vụ, Các Nguyên tắc và Định hướng (17-12-2001), s. 87: Ench. Vat. 20, s. 2461.

[58] X. Đề nghị 14.

[59] X. Thánh Ignatiô Antiôchia, Ad Ephesios, XV, 2: Patres Apostolici, Nxb. F.X. Funk, Tübingen, 1901, I, 224.

[60] ThánhAugustinô, Sermo 288, 5: PL 38, 1307; Sermo 120, 2: PL 38, 677.

[61] Giới thiệu tổng quát về Sách Lễ Rôma, s. 56.

[62] Như trên, s. 45; x. Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, s. 30.

[63] Sách Lễ Rôma, Giới thiệu tống quát Sách Bài đọc Thánh Lễ, s. 13.

[64] X. Như trên, s. 17.

[65] Đề nghị 40.

[66] X. Giới thiệu tống quát Sách Lễ Rôma, s. 309.

[67] X. Đề nghị 14.

[68] Đức Bênêđitô XVI, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Sacramentum Caritatis (22-2-2007), 69: AAS 99 (2007), tr. 157.

[69] Giới thiệu tống quát Sách Lễ Rôma, s. 57.

[70] Đề nghị 14.

[71] X. Điều luật 36 của Thượng Hội Đồng Hippone năm 399: Denzinger-Schönmetzer, 186.

[72] X. Đức Gioan-Phaolô II, Tông thư Vicesimus quintus annus (4-12-1988), 13: AAS 81 (1989), tr. 910; Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, Huấn thị Redemptionis sacramentum (25-3-2004), s. 62: Ench. Vat. 22, s. 2248.

[73] X. Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế về Phụng vụ thánh Sacrosanctum Concilium, s. 116; Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, Giới thiệu tống quát Sách Lễ Rôma, s. 41.

[74] X. Đề nghị 14.

[75] Đề nghị 9.

[76] Epistula 30, 7: CSEL 54, 246.

[77] Nt, Epistula 133, 13: CSEL 56, 260.

[78] Nt, Epistula 107, 9, 12: CSEL 55, 300, 302.

[79] Nt, Epistula 52, 7: CSEL 54, 426.

[80] Đức Gioan-Phaolô II, Tông thư Novo Millennio Ineunte (6-1-2001), 31: AAS 83 (2001), tr. 287-288.

[81] Đề nghị 30 ; x. Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Mạc Khải của Thiên Chúa Dei Verbum, s. 24.

[82] Thánh Giêrônimô, Commentariorum. in Isaiam libri, Prol ; PL 24, 17B.

[83] Đề nghị 21.

[84] X. Đề nghị 23.

[85] X. Bộ Giáo Sĩ, Cẩm nang tổng quát cho huấn giáo (15-8-1997), s. 94 ; Đức Gioan-Phaolô II, Tông huấn Catechesi tradendae (16-10-1979), s. 27 : AAS 71 (1979), tr. 1298.

[86] Như trên, s. 127 ; x. Đức Gioan-Phaolô II, Tông huấn Catechesi tradendae (16-10-1979), s. 27 : AAS 71 (1979), tr. 1299.

[87] Như trên, s. 128 : Ench. Vat. 16, s. 936.

[88] X. Đề nghị 33.

[89] X. Đề nghị 45.

[90] X. Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch. 5.

[91] Đề nghị 31.

[92] Số 15 : AAS 96 (2004), tr. 846-847.

[93] Số 26 : AAS 84 (1992), tr. 698.

[94] Như trên.

[95] Đức Bênêđitô XVI, Bài giảng, Lễ dầu 2009 ; OR bản tiếng Pháp, 14-4-2009, tr. 4.

[96] Như trên.

[97] Bộ Giáo Dục Công Giáo, Các quy tắc căn bản để đào tạo phó tế vĩnh viễn (22-2-1998), s. 11 ; Ench. Vat. 17, s. 174-175 ; DC s. 2181, tr. 411.

[98] Như trên, s. 74 : Ench. Vat. 17, s. 263; DC s. 2181, tr. 420.

[99] Xem như trên, s. 81a : Ench. Vat. 17, s. 271; DC, nt.,tr. 421.

[100] Đề nghị 32.

[101] Đức Gioan-Phaolô II, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Pastores dabo vobis (25-3-1992), s. 47 : AAS 84 (1992), tr. 740-742.

[102] Đề nghị 24.

[103] Đức Bênêđitô XVI, Diễn văn cho Ngày thế giới Đời sống thánh hiến lần XI, 2-2-2008 : AAS 100 (2008), tr. 133 ; OR bản tiếng Pháp, 12-2-2008 ; tr. 7; x. Đức Gioan-Phaolô II, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Đời sống thánh hiến (25-3-1996), s. 82 : AAS 88 (1996), tr. 458-460.

[104] X. Đề nghị 24.

[105] X. Đề nghị 24.

[106] Thánh Bênêđitô, Tu luật, IV, 21: SC 181, tr. 456-458.

[107] Đức Bênêđitô XVI, Diễn văn cho các đan sĩ tại đan viện Heiligenkreuz (9-9-2007), OR bản tiếng Pháp, 18-9-2007, tr. 14.

[108] X. Đề nghị 30.

[109] Đức Gioan-Phaolô II, Tông huấn Thượng Hội Đồng Christifideles laici (30-12-1988), s. 17 : AAS 81 (1989), tr. 418.

[110] X. Đề nghị 33.

[111] Đức Gioan-Phaolô II, Tông huấn Thượng Hội Đồng Familiaris consortio (22-11-1981), s. 49 : AAS 74 (1982), tr. 140-141.

[112] Đề nghị 20.

[113] X. Đề nghị 21.

[114] Đề nghị 20.

[115] X. Tông thư Mulieris dignitatem (15-8-1988), s. 31: AAS 80 (1988), tr. 1727-1729.

[116] Đề nghị 17.

[117] X. Đề nghị 9 và 22.

[118] Số 25.

[119] Enarrationes in Psalmos, 85, 7: CCL 39, 1177.

[120] Ôrigiênê, Epistola ad Gregorium, 3: PG 11, 92.

[121] Đức Bênêđitô XVI, Diễn văn cho Đại chủng viện giáo hoàng Rôma (17-2-2007): AAS 99 (2007), tr. 254; OR bản tiếng Pháp, 27-2-2007, tr. 3.

[122] X. Đức Bênêđitô XVI, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Sacramentum Caritatis (22-2-2007), s. 66: AAS 99 (2007), tr. 155-156.

[123] Sứ điệp chung kết, III, s. 9.

[124] X. Sứ điệp chung kết, s. 9.

[125] X. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo,1471-1479.

[126] X. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo,1471-1479.

[127] Đức Phaolô VI, Tông hiến Indulgentiarum doctrina (1-1-1967): AAS 59 (1967), 18-19.

[128] X. Epistula 49, 3: PL 16, 1204.

[129] Xem Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, Chỉ nam về lòng đạo đức bình dân và Phụng vụ, Các nguyên tắc và Định hướng (9-4-2002), ss. 197-202: Ench. Vat. 20, ss. 2638-2643.

[130] X. Đề nghị 55.

[131] X. Đức Gioan-Phaolô II, Tông Thư Rosarium Virginis Mariae (16-10-2002): AAS 95 (2003), tr. 5-36.

[132] Đề nghị 55.

[133] Xem Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, Chỉ nam về lòng đạo đức bình dân và Phụng vụ, Các nguyên tắc và Định hướng (9-4-2002), s. 207; Ench. Vat. 20, ss. 2656-2657.

[134] X. Đề nghị 51.

[135] Đức Bênêđitô XVI, Bài giảng Thánh Lễ tại Thung lũng Giosaphát, Giêrusalem (12-5-2009): AAS 101 (2009), 473l OR bản tiếng Pháp, 19-5-2009, tr. 12.

[136] X. Epistula 108, 14: CSEL 55, 324-325.

[137] Adversus haereses, IV, XX, 20, 7: SC 100, tr. 646-7.

[138] Đức Bênêđitô XVI, Thông điệp Spe Salvi (30-11-2007), s. 31: AAS 99 (2007), tr. 1010.

[139] Đức Bênêđitô XVI, Diễn văn cho các đại biểu thế giới Văn Hoá tại Collège des Bernardins ở Paris (12-9-2008): AAS 100 (2008), tr. 730.

[140] X. In Evangelium secundum Matthaeum 17,7: PG 13, 1197B; Thánh Giêrônimô, Translatio homiliarum Origenis in Lucam, 36: PL 26, 324-325.

[141] X. Đức Bênêđitô XVI, Bài giảng lễ khai mạc cuộc toàn thể lần XII Thượng Hội Đồng Giám Mục(5-10-2008): AAS 100 (2008), tr 757: DC s. 2411, tr. 948.

[142] Đề nghị 38.

[143] X. Bộ Các Tu Hội Đời Sống Thánh Hiến và Các Hội Đời Sống Tông Đồ, Huấn thị Phát xuất lại từ Đức Kitô: Canh tân cam kết sống đời thánh hiến trong ngàn năm thứ ba (19-5-2002), s. 36: Ench. Vat. 21, ss. 488-491.

[144] Đề nghị 30.

[145] X. Đề nghị 38.

[146] X. Đề nghị 49.

[147] X. Đức Gioan-Phaolô II, Thông điệp Redemptoris missio (7-12-1990): AAS 83 (1991), tr. 149-340; và Nt, Tông tư Novo mllennio ieunte (6-1-201), s. AAS 93 (2001), tr. 294-295.

[148] Đề nghị 38.

[149] X. Đức Bênêđitô XVI, Bài giảng lễ khai mạc cuộc họp toàn thể lần XII Thượng Hội Đồng Giám Mục (5-10-2008): AAS 100 (2008), tr. 753-757; OR bản tiếng Pháp, 7-10-2008, tr. 1 và 9.

[150] Đề nghị 38.

[151] Sứ điệp chung kết, s. 12.

[152] Đức Phaolô VI, Tông huấn Evangelii Nuntiandi (8-12-1975), s. 22: AAS 68 (1976), tr. 20.

[153] X. Công Đồng Chung Vatican II, Tuyên ngôn về tự do tôn giáo Dignitatis humanae, ss. 2.7.

[154] X. Đề nghị 39.

[155] X. Đức Bênêđitô XVI, Thông điệp Ngày Hoà Bình Thế Giới 2009; OR bản tiếng Pháp, 16-12-2008, tr. 3-4.

[156] Tông huấn Evangelii Nuntiandi (8-12-1975), s. 19: AAS 68 (1976), tr. 18.

[157] X. Đề nghị 39.

[158] Đức Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in terris (11-4-1963, s. 1: AAS 55 (1963), tr. 259.

[159] X. Đức Gioan-Phaolô II, Thông điệp Centesimus annus (1-5-1991), s. 47: AAS 83 (1991), tr. 851-852; Diễn văn cho Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc (2-10-1979), s. 13: AAS 71 (1979), tr. 1152-1153.

[160] X. Toát yếu Học thuyết xã hội của Hội Thánh, ss. 152-159.

[161] X. Đức Bênêđitô XVI, Thông điệp Ngày Hoà Bình Thế Giới 2007; OR bản tiếng Pháp, 19 đến 26-12-2006, tr. 3.

[162] X. Đề nghị 8.

[163] Đức Bênêđitô XVI, Bài giảng dịp kết thúc Tuần lễ cầu nguyện cho sự hợp nhất Kitô hữu tại đền thờ Thánh Phaolô ngoại thành(25-1-2009): OR bản tiếng Pháp, 27-1-2009, tr. 24.

[164] Nt, Bài giảng dịp kết thúc cuộc họp toàn thể lần XII Thượng Hội Đồng Giám Mục(26-10-2008): AAS 100 (2008), tr. 779; OR bản tiếng Pháp, 28-10-2008, tr. 3.

[165] Đề nghị 11.

[166] Đức Bênêđitô XVI, Thông điệp Deus caritas est (25-12-2005), s. 28: AAS 98 (2006), tr. 240.

[167] De doctrina christiana, I, XXXIV, 40: PL 34, 34.

[168] X. Đức Bênêđitô XVI, Thông điệp cho Ngày Giới Trẻ thế giới lần XXI năm 2006: AAS 98 (2006), tr. 282-286; DC s. 2355, tr. 307-309..

[169] X. Đề nghị 34.

[170] X. Như trên.

[171] Đức Bênêđitô XVI, Bài giảng tánh lễ khai mạc triều đại giáo hoàng (24-4-2005): AAS 97 (2005), tr. 712; DC s. 2337, tr. 549.

[172] X. Đề nghị 38.

[173] X. Đức Bênêđitô XVI, Bài giảng Ngày thế giới Bệnh nhân lần XVII (11-2-2009): OR bản tiếng Pháp, 10-2-2009, tr. 4.

[174] X. Đề nghị 35.

[175] Đề nghị 11.

[176] X. Đức Bênêđitô XVI, Thông điệp Deus caritas est (25-12-2005), s. 25 : AAS 98 (2006), tr. 236-237.

[177] Đề nghị 11.

[178] Đức Bênêđitô XVI, Bài giảng (1-1-2009): OR bản tiếng Pháp, 6-1-2009, tr. 12.

[179] Đề nghị 54.

[180] X. Đức Bênêđitô XVI, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Sacramentum caritatis (22-2-2007), s. 92: AAS 99 (2007), tr. 176-177.

[181] Đức Gioan-Phaolô II, Diễn văn cho UNESCO (2-6-2980), s. 6: AAS 72 (1980), tr. 738; DC s. 1788, tr. 604.

[182] X. Đề nghị 41.

[183] X. Như trên.

[184] X. Đức Gioan-Phaolô II, Thông điệp Fides et ratio (14-9-1998), s. 80: AAS 91 (1999), tr. 67-68.

[185] X. Lineamenta s. 23.

[186] X. Đề nghị 40.

[187] X. Công Đồng Chung Vatican II, Sắc lệnh về các phương tiện truyền thông xã hội Inter mirifica; Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông xã hội, Huấn thị mục vụ Communio et progressio về các phương tiện truyền thông xã hội được phát hành theo các quy định của Công Đồng Chung Vatican II (23-5-1971): AAS 63 (1971), tr. 593-656; Đức Gioan-Phaolô II, Tông thư Sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghệ trong lãnh vực truyền thông (24-1-2005): AAS 97 (2005), tr. 265-274; DC s. 2333, tr. 315-320; Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyến Thông xã hội, Huấn thị mục vụ về kỷ niệm 20 năm ‘Communio et progressioAetatis novae (22-2-1992): AAS 84 (1992), tr. 447-468; nt, Giáo Hội trên internet (22-2-2002): Ench. Vat. 21, ss. 66-95; nt; Luân lý trên internet (22-2-2002): Ench. Vat. 21, s. 96-127.  

[188] X. Sứ điệp chung kết, s. 11; Đức Bênêđitô XVI, Sứ điệp cho Ngày Truyền thông xã hội lần XLIII năm 2009; DC s. 2418, tr. 168-170.

[189] X. Đề nghị 44.

[190] Đức Gioan-Phaolô II, Sứ điệp cho Ngày Truyền thông xã hội lần XXXVI năm 2002, s. 6; DC s. 2265, tr. 203.

[191] X. Tông huấn Evangelii nuntiandi (8-12-1975), s. 20: AAS 68 (1976), tr. 18-19.

[192] X. Đức Bênêđitô XVI, Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Sacramentum caritatis (22-2-2007), s. 78: AAS 99 (2007), tr. 165.

[193] X. Đề nghị 48.

[194] Ủy Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng, Việc giải thích Kinh Thánh trong Giáo Hội (15-4-1993), IV, B; tr. 107.

[195] X. Công Đồng Chung Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội Ad gentes, s. 22; Ủy Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng, Việc giải thích Kinh Thánh trong Giáo Hội (15-4-1993), IV, B.

[196] Đức Gioan-Phaolô II, Diễn văn cho các Giám mục Kenya (7-5-1980), s. 6: AAS 72 (1980), tr. 496; DC s. 1787, tr. 534.

[197] X. Đại Hội Thường Lệ lần XII của Thượng Hội Đồng Giám Mục, Instrumentum laboris, s.56.

[198] Ủy Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng, Việc giải thích Kinh Thánh trong Giáo Hội (15-4-1993), IV, B; tr. 107-108.

[199] Công Đồng Chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Mạc Khải của Thiên Chúa Dei Verbum, s. 22.

[200] X. Đề nghị 42.

[201] X. Đề nghị 43.

[202] Đức Bênêđitô XVI, Bài suy niệm dịp khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục (6-10-2008): AAS 100 (2008), 758-760; OR bản tiếng Pháp, 14-10-2008, tr. 12.

[203] Trong số các can thiệp nhiều loại, ta nhớ đến: Đức Gioan-Phaolô II, Thông điệp Dominum et vivificantem (18-5-1986): AAS 78 (1986), tr. 809-900; Nt, Thông điệp Redemptoris missio (7-12-1990): AAS 83 (1991), tr. 249-340; Nt, Các Diễn văn và các Bài giảng tại Assisi nhân dịp Ngày cầu nguyện cho hòa bình 27-10-1986; DC s. 1929, tr. 1065-1083 và tháng 1-2002 làm vọng lại các biến cố ngày 11-9-2001: DC s. 2255, tr. 837.839-840; Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tuyên ngôn về tính duy nhất và phổ quát cứu độ của Đức Giêsu Kitô và của Giáo Hội Dominus Iesus (6-8-2000): AAS 92 (2000), tr. 742-765.

[204] X. Công Đồng Chung Vatican II, Tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo Nostra aetate, s. 3.

[205] X. Đức Bênêđitô XVI, Diễn văn cho các Đại sứ các nước phần lớn là Hồi giáo bên cạnh Tòa Thánh và cho một vài đại diện cộng đồng Hồi giáo tại Italia (25-9-2006): AAS 98 (2006), tr. 704-706; DC s. 2366, tr. 884-885.

[206] X. Đề nghị 53.

[207] X. Đề nghị 50.

[208] Như trên.

[209] Đức Gioan-Phaolô II, Diễn văn cho người trẻ Hồi giáo tại Casablanca bên Marốc (19-8-1985), s. 5: AAS 7 (1986), tr. 99; DC s. 1903, tr. 943.