Sứ Điệp

Sunday, 05 April 2020 06:08

Sứ Điệp Ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Gọi Của ĐGH Benedict XVI – Năm 2009 Featured

SỨ ĐIỆP

NGÀY THẾ GIỚI CẦU CHO ƠN THIÊN TRIỆU LẦN THỨ 46

CỦA ĐỨC THÁNH CHA BENEDICT XVI

Chúa Nhật 03 Tháng 05 Năm 2009

***

***

“Lòng tin tưởng vào sáng kiến của Thiên Chúa và lời đáp trả của con người”

 

 

Thưa chư huynh đệ Giám mục và Linh mục đáng kính.

Anh chị em thân mến!

Đối với Ngày Thế Giới cầu nguyện cho các ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến sắp đến, sẽ được cử hành vào ngày 03/05/2009, Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh, tôi đã chọn mời gọi toàn thể Dân Chúa suy nghĩ về đề tài: “Lòng tin tưởng vào sáng kiến của Thiên Chúa và lời đáp trả của con người”. Lời cổ vũ của Chúa Giêsu đối với các môn đệ của Ngài đang vang dội không ngừng trong Giáo Hội: “Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9,38). Hãy cầu nguyện! Lời kêu gọi cấp bách của Chúa cho thấy làm thế nào lời cầu nguyện cho các ơn gọi phải là không ngừng và tin tưởng. Trên thực tế, chỉ khi được thúc đẩy bởi lời cầu nguyện mà cộng đồng Kitô hữu có thể thực sự “có thêm đức tin và đức cậy vào sáng kiến của Thiên Chúa”.[1]

Ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến là một ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa được lồng vào trong dự phóng tình yêu và cứu độ bao la mà Thiên Chúa có trên mỗi người và trên toàn thể nhân loại. Trong thư gởi cho tín hữu Epheso, thánh Phaolô tông đồ, mà chúng ta tưởng nhớ cách đặc biệt trong Năm Phaolô kỷ niệm hai ngàn năm sinh nhật của ngài, nói: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” (Ep 1,3-4).

Trong lời mời gọi phổ quát nên thánh được nổi bật sáng kiến đặc biệt của Thiên Chúa, Đấng chọn gọi một số người để họ bước theo gần gũi hơn Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô và để họ trở nên những thừa tác viên và những chứng nhân ưu tuyển của Ngài. Thầy đã kêu gọi cách cá nhân các Tông đồ “để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (Mc 3,14-15); những người này, đến lượt mình, đã kết hợp với các môn đệ khác, những cộng tác viên trung thành trong thừa tác vụ truyền giáo. Và chính như thế mà, trong Giáo Hội, qua các thế kỷ, khi đáp lại lời kêu gọi của Chúa và khi chứng tỏ ngoan ngoãn trước tác động của Chúa Thánh Thần, nhiều linh mục và các tu sĩ đã đặt mình hoàn toàn phục vụ Tin Mừng. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa, mà hôm nay, vẫn còn tiếp tục tuyển dụng các thợ cho vườn nho của Ngài. Quả thực trong một số vùng trên địa cầu, người ta lo lắng ghi nhận việc thiếu linh mục và những khó khăn và chướng ngại nổi lên trên con đường của Giáo Hội; thế nhưng, chúng ta được nâng đỡ bằng sự xác tín vững vàng rằng Chúa dẫn dắt Giáo Hội cách chắc chắn trên những nẻo đường của lịch sử hướng đến sự hoàn tất Vương Quốc chung cuộc, Ngài chọn lựa cách tự do và mời gọi bước theo Ngài những người thuộc mọi văn hóa và tuổi tác, theo những ý định khôn dò của lòng thương xót nhân từ của Ngài.

Bởi thế, bổn phận đầu tiên của chúng ta là duy trì sống động lời cầu xin của chúng ta, qua lời cầu nguyện không ngừng, để sáng kiến này của Thiên Chúa được thực hiện nơi các gia đình và các giáo xứ, nơi các phong trào và hội đoàn dấn thân trong sứ mệnh tông đồ, nơi các cộng đoàn tu trì và nơi tất cả các cơ cấu của đời sống địa phận. Chúng ta phải cầu nguyện để toàn thể dân Kitô hữu lớn lên trong niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, trong sự xác tín mà “chủ mùa gặt” không ngừng xin một số người dành cuộc sống mình cách tự do để cộng tác chặt chẽ hơn với Ngài vào công trình cứu độ. Và về phía những người được kêu gọi, cần phải có sự lắng nghe chăm chú và một sự phân định khôn ngoan, một sự gắn bó mau mắn và quảng đại với dự phóng của Thiên Chúa, một sự đào sâu những gì là riêng biệt của ơn gọi linh mục và tu sĩ để tương xứng ở đó cách có trách nhiệm và xác tín. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nhắc nhở cách chính xác rằng, sáng kiến tự do của Thiên Chúa đòi hỏi sự đáp trả tự do của con người. Nó hệ tại một lời đáp trả tích cực mà luôn giả thiết trước sự chấp nhận dự phóng mà Thiên Chúa có trên mỗi người và sự cộng tác với dự phóng này; một lời đáp trả mà đón tiếp sáng kiến tình yêu của Chúa và trở nên cho người được kêu gọi một đòi hỏi luân lý dấn thân, một lòng tôn kính biết ơn đối với Thiên Chúa và một sự cộng tác trọn vẹn với kế hoạch mà Ngài theo đuổi trong lịch sử.[2]

Khi chiêm ngắm mầu nhiệm Thánh Thể, mà diễn tả cách cao quý nhất ân huệ tự do được Chúa Cha thực hiện trong Ngôi vị của Con Độc Nhất của Ngài vì ơn cứu rỗi của con người, và sự sẵn sàng ứng trực trọn vẹn và ngoan ngoãn của Chúa Kitô uống cho đến hết “chén” của ý muốn của Thiên Chúa (x. Mt 26,39), chúng ta hiểu rõ hơn làm thế nào “sự tin tưởng vào sáng kiến của Thiên Chúa” khuôn đúc và mang lại giá trị cho “lời đáp trả của con người”. Trong Thánh Thể, ân huệ hoàn hảo thực hiện dự phóng tình yêu vì ơn cứu chuộc thế gian, Chúa Giêsu tự hiến tế cách tự do vì ơn cứu rỗi của nhân loại. Vị tiền nhiệm kính mến của tôi là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết: “Giáo Hội đã lãnh nhận Thánh Thể của Chúa Kitô Chúa của mình không phải như là một ân ban, cho dầu cao quý thế nào, trong số các ân ban khác, nhưng như là ân ban tuyệt hảo, vì Thánh Thể là ân ban chính mình Ngài, của con người của ngài trong nhân tính thánh thiện của mình, và của công trình cứu độ của Ngài”.[3]

Các linh mục được chỉ định lưu truyền mãi mầu nhiệm cứu độ này xuyên qua các thế kỷ cho đến cuộc trở lài vinh quang của Chúa, và chính trong Chúa Kitô Thánh Thể mà các ngài có thể chiêm ngắm khuôn mẫu hoàn hảo của một “cuộc đối thoại ơn gọi” giữa sáng kiến tự do của Chúa Cha và lời đáp trả tin tưởng của Chúa Kitô. Trong việc cử hành Thánh Thể, chính Chúa Kitô đang hành động nơi những người mà Ngài chọn như là thừa tác viên của Ngài; Ngài nâng đỡ họ để lời đáp trả của họ được thể hiện trong một thái độ tin tưởng và biết ơn mà xóa tan đi mọi sợ hãi, thậm chí khi kinh nghiệm về sự yếu hèn bản thần trở nên mãnh liệt hơn (x. Rm 8,26-30) hay bối cảnh thiếu hiểu thấu, thậm chí là bách hại, trở nên gay gắt hơn.

Ý thức được cứu rỗi bằng tình yêu của Chúa Kitô, mà mỗi Thánh Lễ nuôi dưỡng nơi các tín hữu và đặc biệt nơi các linh mục, không thể không khơi lên trong họ một sự phó thác tin tưởng vào Chúa Kitô, Đấng đã hiến mạng sống mình vì chúng ta. Do đó, tin vào Chúa và chấp nhận ân huệ của Ngài đưa đến việc phó thác cho Ngài bằng một tâm hồn biết ơn, bằng cách gắn bó với dự phóng cứu độ của Ngài. Khi điều đó xảy đến, thì “người được kêu gọi” vui lòng từ bỏ tất cả và tuân theo ngôi trường của Thầy; một sự đối thoại phong nhiêu như thế được thiết lập giữa Thiên Chúa và con người, một cuộc gặp gỡ huyền nhiệm được thực hiện giữa tình yêu của Chúa, Đấng kêu gọi, và sự tự do của con người đáp trả Ngài trong tình yêu đang khi vang vọng lại nơi mình những lời của Chúa Giêsu: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại” (Ga 15,16).

Cuộc trao đổi tình yêu này giữa sáng kiến của Thiên Chúa và lời đáp trả của con người cũng hiện diện cách tuyệt diệu nơi ơn gọi đời sống thánh hiến. Công Đồng Vatican II nhắc lại: “Những lời khuyên Phúc Âm về đức khiết tịnh để hiến mình cho Thiên Chúa, về đức nghèo khó và vâng lời, đều đặt nền tảng trên lời nói cùng gương lành của Chúa, đã được các Tông Ðồ và các Giáo Phụ, các tiến sĩ và các chủ chăn Giáo Hội khuyên giữ. Các lời khuyên ấy là ân huệ thần linh mà Giáo Hội đã nhận lãnh bởi Chúa mình và luôn gìn giữ nhờ ơn Người”.[4] Cả ở đây nữa, Chúa Giêsu là khuôn mẫu cho một sự gắn bó trọn vẹn và tin tưởng với ý muốn của Chúa Cha, mà mỗi tu sĩ phải nhìn ngắm. Được Ngài lôi kéo, nhiều người nam và người nữ, từ những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, đã từ bỏ gia đình, tài sản, của cải vật chất và tất cả những gì mà con người ước mong, để bước theo Chúa Kitô cách quảng đại và sống cách không thảo hiệp Tin Mừng của Ngài, đã trở nên đối với họ một trường học nên thánh triệt để. Ngày nay nữa, nhiều người đang trải qua con đường đòi hỏi hoàn thiện Tin Mừng này và đang thể hiện ơn gọi của họ bằng việc tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm. Chứng ta của những anh chị em này, trong các đan viện thuộc đời sống chiêm niệm cũng như trong các Dòng tu và hội đời sống tông đồ, nhắc nhở cho dân Chúa “mầu nhiệm của Vương Quốc Thiên Chúa đang hoạt động trong lịch sử rồi, nhưng còn chờ đợi mang lấy chiều kích trọn vẹn của nó trong Nước Trời”.[5]

Ai có thể tự cho là xứng đáng đạt tới thừa tác vụ linh mục? Bằng cách chỉ dựa vào sức mạnh duy nhất của con người, ai có thể ôm lấy đời sống thánh hiến? Một lần nữa, thật hữu ích để nhắc lại rằng lời đáp trả của con người trước tiếng gọi của Thiên Chúa – khi người ta ý thức rằng chính Thiên Chúa có sáng kiến và cũng chính Ngài dẫn dắt dự phóng cứu độ đến hồi kết thúc của nó – không bao giờ giống với sự tính toán sợ hãi của người đầy tớ lười biếng mà, vì sợ hãi, đã chôn vùi dưới đất nén bạc được giao phó cho mình (x. Mt 25,14-30), nhưng được diễn tả bằng một sự gắn bó mau mắn với lời mời gọi của Chúa, như thánh Phêrô đã làm khi ngài đã không do dự thả lưới một lần nữa để tín thác vào lời của Ngài, đang khi ngài vất vả suốt đêm mang không bắt được gì (x. Lc 5,5). Không hề từ bỏ chút nào trách nhiệm cá nhân của mình, lời đáp trả tự do của con người với Thiên Chúa như thế trở nên “đồng trách nhiệm”, trách nhiệm trong và với Chúa Kitô, trong sức mạnh của hành động của Thánh Thần của Ngài; nó trở nên sự hiệp thông với Đấng làm cho chúng ta có khả năng trổ sinh nhiều hoa trái (x. Ga 15,5).

Chúng ta nhận thấy một lời đáp trả tượng trưng của con người, một lời đáp trả tin tưởng hoàn toàn vào sáng kiến của Thiên Chúa, trong tiếng “Xin Vâng” (“Amen”) quảng đại và trọn vẹn mà Đức Nữ Trinh Nazareth đã thưa lên trong sự gắn bó khiêm tốn và cương quyết với những ý định của Đấng Tối Cao mà thần sứ đã truyền tin cho Mẹ (x. Lc 1,38). Sự mau mắn của tiếng “Xin Vâng” (“oui”) của Mẹ cho phép Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của Đấng Cứu Độ của chúng ta. Tiếp đến, Đức Maria đã phải lập lại biết bao lần khác tiếng “Xin Vâng” (“Fiat”) đầu tiên này, cho đến giây phút cao điểm Chúa Giêsu bị đóng đinh, đang khi Mẹ “đứng kề thập giá”, như thánh sử Gioan ghi lại, tham dự vào nỗi đau đớn ghê gớm của người Con vô tội của mẹ. Và chính trên thập giá, Chúa Giêsu đang hấp hối đã ban Mẹ cho chúng ta như là người Mẹ và giao phó chúng ta như là những người con cho Mẹ (x. Ga 19,26-27), đặc biệt Mẹ của các linh mục và của các tu sĩ. Tôi xin phó thác cho Mẹ những ai lắng nghe tiếng gọi của Thiên Chúa bước đi trên con đường thiên chức linh mục thừa tác hay đời sống thánh hiến.

Các bạn thân mến, các bạn đừng nản lòng trước những khó khăn và nghi ngại; hãy phó thác cho Thiên Chúa và bước theo Chúa Giêsu cách trung thành, và các bạn sẽ là chứng nhân của niềm vui vọt lên từ sự kết hiệp thân mật với Ngài. Bắt chước Đức Trinh Nữ Maria, mà các thế hệ tung hô là diễm phúc bởi vì Mẹ đã tin (x. Lc 1,48), các bạn hãy dấn thân bằng tất cả nghị lực thiêng liêng của các bạn để thực hiện dự phóng cứu độ của Cha trên trời, bằng cách vun trồng như Mẹ, trong tâm hồn của các bạn, khả năng kinh ngạc thán phục và thờ lạy Đấng có quyền thực hiện “những điều cao cả” bởi vì danh Ngài là Thánh (x. Lc 1,49).

 

Ban hành tại Vatican, ngày 20 tháng Giêng năm 2009

+ BENEDICTUS XVI

Giáo Hoàng

 

- Lm. Giuse Trần Ðức Anh, O.P.,

chuyển ý từ bản tiếng Italia.

 

 


[1] Đức Giáo Hoàng Benedict XVI, Tông huấn Sacramentum Caritatis (Bí tích tình yêu), Ngày 22-02-2007, số 26.

[2] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2062.

[3] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông Điệp Ecclesia de Eucharistia (Giáo Hội từ Bí tích Thánh Thể), Ngày 17-04-2003, số 11.

[4] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), số 43.

[5] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Vita Consecrate (Đời sống thánh hiến), Ngày 26-03-1996, số 1.