Phỏng Vấn

Sunday, 05 April 2020 08:18

Bài Phỏng Vấn Đức Nguyên Giáo Hoàng Benedict XVI Của Ký Giả Peter Seewald Tại Đan Viện Mater Ecclesiae - Chương VII: Tổng Trưởng (Roma 1982-2005) Featured

ĐỨC BENEDICT XVI: CUỘC ĐỐI THOẠI CUỐI CÙNG

(BENOIT XVI: DERNIÈRES CONVERSATIONS)

Bài nói chuyện với Đức Nguyên Giáo Hoàng Benedict XVI

của ký giả Peter Seewald tại Đan Viện Mater Ecclesiae, Vatican

Học viện Đaminh chuyển ngữ

***

Đức Thánh Cha Benedict XVI

khi còn là Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin trong một cuộc họp báo

***

PHẦN II: CHUYỆN NGƯỜI PHỤC VỤ

CHƯƠNG VII: TỔNG TRƯỞNG (Roma 1982 - 2005)

 

LTS: Cuộc giã từ Munich cho thấy rõ Đức Ratzinger gắn bó với thành phố này, cũng như với toàn vùng Bavaria ra sao. Chức giám mục đã biến ngài thành vị mục tử gần gũi với dân chúng. Chưa bao giờ có một hồng y, khi chia tay, lại trở thành chủ đề cho nhiều lời khen ngợi, nhiều thiện cảm từ công chúng, thậm chí cả một buổi phát sóng trực tiếp trên kênh ARD[1].

Thế nhưng, Đức Ratzinger đã có một linh cảm không mấy sáng sủa. Ngài biết rằng, những tin tức sớm đến từ Rôma và mang chữ ký của ngài không chứa đựng các yếu tố tích cực. Và vị Tổng giám mục trẻ của Munich, người được ca ngợi và cảm mến, sớm biến thành “cơ quan giám sát” của Đức Thánh Cha.

***

 

- Thưa Đức Thánh Cha, ngày 25 tháng 11 năm 1981, ngài đã được chọn làm Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin; như vậy, cùng với Đức Giáo hoàng, ngài trở thành người bảo vệ chính về đức tin của Giáo hội Công giáo. Ngài nhận nhiệm vụ tại Rôma ngày 01 tháng 3 năm 1982. Hình như ngài đã tổ chức các cuộc họp quan trọng đầu tiên bằng tiếng Latinh?.

Lúc đó, tôi chưa biết tiếng Ý. Tôi học ngôn ngữ này khi làm việc. Rõ ràng, đó là một điều bất lợi cho tôi. Dù sao đi nữa, tôi đã không thể điều hành các cuộc họp bằng tiếng Ý, vì vậy tôi phải dùng tiếng Latinh.

- Với hy vọng là người ta hiểu được?

Vào thời ấy, tất cả mọi người dự họp đều biết tiếng Latinh, đó không phải là một vấn đề.

- Cuộc gặp gỡ đầu tiên với Đức Gioan Phaolô II tại Vatican diễn ra như thế nào? Phải chăng ngài đã thảo luận về định hướng nền tảng của triều đại Giáo hoàng, và đặc biệt là các nhiệm vụ thuộc phận sự của ngài?

Không. Tôi chỉ gặp ngài trong buổi tiếp kiến hàng tuần. Điều này khiến chúng tôi có thời gian trao đổi. Chúng tôi không trao đổi những suy tư về nguyên tắc. Dù sao, nhiệm vụ một Tổng trưởng phải làm thì hoàn toàn rõ ràng.

- Có lần ngài đã nói, người ta biết nhiều hơn về con người vĩ đại này khi cùng đồng tế Thánh lễ hơn là phân tích tác phẩm của vị ấy. Ngài muốn nói gì vậy?

Khi đồng tế Thánh lễ với ngài, người ta cảm thấy sự gần gũi nội tâm của ngài với Chúa, cảm thấy đức tin sâu sắc trong đó ngài chìm đắm, và đằng sau vẻ bề ngoài, người ta thực sự khám phá ra một con người tin tưởng, cầu nguyện, đồng thời đầy Thần Khí. Hơn nữa, khi đọc sách do ngài viết, người ta cũng thấy được hình ảnh về ngài, nhưng tất nhiên, không phải tất cả cá tính của ngài.

- Các ngài có tính khí rất khác nhau. Tại sao các ngài rất hòa hợp như thế? Hay sự khác biệt này sẽ là nguyên nhân cho sự hòa hợp rất tốt của các ngài?

Vâng, có lẽ thế. Đức Giáo hoàng là một con người dễ gần, tìm gặp cuộc sống, hoạt động, và gặp gỡ. Phần mình, tôi cần thinh lặng nhiều hơn, vv. Nhưng chính nhờ khác biệt, chúng tôi bổ sung cho nhau rất nhiều.

- Chắc hẳn, có được điều đó cũng là do các ngài coi trọng lẫn nhau?

Vâng.

- Bởi vì các ngài có những điểm chung?

Chính xác là thế.

- Và các ngài được thúc đẩy bởi cùng một đức tin?

Quả thực như vậy.

- Điều ấy làm cho mọi chuyện tốt đẹp và đơn giản?

Thật vậy. Bởi vì chúng tôi luôn biết rằng chúng tôi có những khát vọng chung.

- Các ngài cũng có những cuộc tiếp xúc riêng ? và cùng nhau du ngoạn, ăn uống, bách bộ?

Chúng tôi có dùng bữa cùng nhau, nhưng luôn luôn trong các nhóm nhỏ. Thực tế, bách bộ thì không.

- Và trượt tuyết cũng không?

(Cười). Không, tiếc thay tôi không trượt tuyết.

- Các ngài xưng hô cách thân mật chứ?

Không.

- Với tư cách Tổng Giám mục Munich hoặc Tổng trưởng ở Rôma, ngài có sứ vụ ở Ba Lan để hỗ trợ phong trào đối lập Solidarnosc?

Không.

- Tuy nhiên, ngài đã thực hiện nhiều chuyến đi Ba Lan trong thời gian này?

Sự thật là thế. Nhưng anh đừng nghĩ rằng tôi đã ... Mối liên hệ thì trực tiếp.

- Ngài đã bị Mật vụ Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức theo dõi. Có một tập tài liệu liên quan đến ngài?

Vâng. Nhưng chẳng có gì hấp dẫn.

- Ngài chủ động đồng hành với “Ostpolitik”[2] của Đức Giáo hoàng chứ?

Chúng tôi đã nói về điều đó. Rõ ràng, dù có mọi ý định tốt, nhưng chính sách Casaroli[3] đã cơ bản thất bại. Đường lối mới của Đức Gioan Phaolô II dựa trên trên kinh nghiệm riêng và sự tiếp xúc cá nhân của ngài với các chính quyền và lực lượng. Chắc hẳn, không ai có thể hy vọng rằng chế độ đó sẽ sớm sụp đổ. Nhưng rõ ràng, thay vì tìm cách dỗ dành bằng những thỏa hiệp, thì cần phải cương quyết chống lại. Đó là quan điểm của Đức Gioan Phaolô II và tôi đồng ý với ngài.

- Các ngài cũng tranh luận chứ?

Không.

- Nhưng các ngài cũng có quan điểm khác biệt. Ví dụ, cuộc gặp gỡ tại Assisi, ngày thế giới cầu nguyện gồm Đức Giáo hoàng và đại diện của tất cả các tôn giáo trên thế giới, đã không lôi cuốn ngài nhiều?

Thật sự là thế. Nhưng chúng tôi không tranh cãi, bởi vì tôi biết rằng ý định của ngài rất tốt, và ngược lại, ngài biết quan điểm của tôi có hơi khác quan điểm của ngài. Trước cuộc gặp thứ hai tại Assisi, ngài báo cho tôi biết rằng ngài muốn tôi tham dự, và tôi đã tham dự. Cuộc gặp thứ hai này được tổ chức tốt hơn cuộc gặp trước. Người ta đã xem xét những ý kiến phản bác của tôi, và cuộc gặp mang một hình thức mà tôi có thể hoàn toàn tán đồng.

- Dường như khi các vấn đề phức tạp nảy sinh, Đức Gioan Phaolô II thốt lên: “Đức Hồng Y Ratzinger nói gì về vấn đề này?”. Mở đầu cuốn sách thứ nhất của chúng ta, Muối cho đời, tôi đã đặt câu hỏi: “Đức Giáo hoàng có sợ ngài không?”

Không. (Bật cười). Nhưng ngài xem vị trí của tôi rất quan trọng. Tôi xin kể cho anh một câu chuyện nhỏ. Ngày kia, một sứ thần hỏi Đức Piô XII về một vấn đề cụ thể, xem vị sứ thần này có phải hành động như mình nghĩ không, ngay cả khi vấn đề ấy không phù hợp hoàn toàn với luật định. Đức Giáo hoàng suy nghĩ một lúc rồi trả lời: “Có. Nhưng Bộ Thánh Vụ theo dõi ngài rồi, thì tôi không thể bảo vệ ngài”. (cười).

- Một trong những tài liệu đáng chú ý nhất của ngài khi ngài làm Tổng trưởng là tuyên ngôn Dominus Iesus. Tuyên ngôn trình bày sự độc nhất của Giáo hội Công giáo, đã làm dấy lên những lời chỉ trích mạnh mẽ. Ngày nay người ta vẫn tự hỏi, phải chăng chính ngài soạn thảo tài liệu này?

Cần lưu ý là tôi không bao giờ tự soạn thảo các tài liệu của Bộ, vì vậy người ta không thể nghĩ rằng tôi đã tìm cách để phổ biến và áp đặt nền thần học cá nhân. Đây sẽ là một sản phẩm hữu cơ [tài liệu của cơ quan], kết quả từ nhiều cơ quan có thẩm quyền khác nhau. Tất nhiên, tôi cũng đóng góp phần của mình, chẳng hạn, tôi tu chỉnh trong tinh thần phê bình. Nhưng tôi đã không tự viết bất kỳ tài liệu nào như thế, cả Dominus Iesus và các tài liệu khác.

- Vào thời điểm đó, một số người nghĩ rằng chính Đức Giáo hoàng đã chống lại văn bản này?

Điều này không chính xác. Một ngày kia, ngài gọi tôi và nói: “Tôi sẽ nói về điều này trong một buổi đọc kinh Truyền tin và cho thấy rõ ràng là quan điểm về căn tính của chúng ta là trọn vẹn. Vì vậy, tôi xin chính Đức hồng y vui lòng viết bản văn sứ điệp, để có thể chắc chắn rằng Đức giáo hoàng hoàn toàn đồng ý với Đức hồng y.” Vì vậy, tôi đã soạn cho ngài một văn bản. Và sau đó tôi cảm thấy ngại ngùng. Tôi vẫn không thể diễn tả quá thẳng thắn, đó là không thể. Nội dung thì thẳng thắn trực tiếp, nhưng hình thức cần thanh lịch, tao nhã. Ngài hỏi tôi: “Phải chăng đây là bê tông? Đức Hồng y chắc chắn về điều ấy chứ?” Tôi trả lời: Vâng, thưa Đức Thánh Cha. Nhưng không phải như thế. Do hình thức thanh lịch, tao nhã hơn này mà mọi người đều nói: “A! Đức Thánh Cha cũng đã giữ khoảng cách với hồng y”.

- Có gì từ nghi thức đại sám hối trong năm 2000, qua đó Giáo hội Công giáo đã xin lỗi vì những thiếu sót và sai lầm trong lịch sử Giáo hội ? Phải chăng ngài đã phản đối, như người ta có thể thường đọc thấy điều này?

Không. Tôi đã tham dự. Chắc chắn, người ta có thể tự hỏi xem những việc sám hối này có thật sự đúng đắn hợp lý không. Nhưng Giáo hội, theo kiểu mẫu của các Thánh vịnh và sách Barúc, đã nhận ra những sai lầm trong nhiều thế kỷ, tôi cũng thế, tôi thấy điều đó rất tốt.

- Ý tưởng về sách giáo lý chung đến từ ngài?

Không phải tất cả, nhưng chỉ một phần. Vào thời điểm đó, ngày càng nhiều người đặt vấn đề: Giáo hội có còn một đạo lý chung? Thực tế, không ai biết rõ những gì Giáo hội thực sự tin. Có những xu hướng rất mạnh, ngay cả nơi những người rất dũng cảm, đã nói: “Chúng ta không còn có thể viết sách giáo lý”. Đối với tôi, sự lựa chọn phải rõ ràng: hoặc là chúng ta vẫn có một điều gì đó để nói và cần phải biểu lộ, hoặc là chúng ta không còn gì để nói nữa. Vì vậy, tôi đã đứng về phía ý tưởng này - tin rằng ngay cả bây giờ, chúng ta có thể nói những điều Giáo hội tin và giảng dạy.

- Thông điệp Fides et Ratio, “Đức tin và lý trí”, công bố năm 1998 - Đức Hồng y Ratzinger có viết phần nào không? Không viết phần nào hoặc chỉ một chút?

Một chút thôi. Chúng tôi đưa ra một vài ý tưởng.

- Ngài có một giai thoại yêu thích về Đức Gioan Phaolô II và ngài chứ?

Khi Đức Giáo hoàng đến Munich trong chuyến thăm nước Đức lần đầu tiên, tôi nhận thấy thời gian biểu của ngài dày đặc, đến nỗi ngài hoạt động liên tục từ sáng sớm đến tận đêm khuya. Tôi tự nhủ: Không thể như thế được. Cần phải thu xếp để ngài có thể nghỉ ngơi một chút. Vì thế, tôi sắp xếp cho ngài có thời gian nghỉ trưa dài. Chúng tôi đến ở tại một căn hộ đẹp trong cung điện. Ngài vừa lên thì gọi điện đề nghị tôi đến ngay. Đến nơi, tôi thấy ngài đang nguyện kinh. Tôi nói: “Thưa Đức Thánh Cha, ngài phải nghỉ ngơi chứ!” Ngài trả lời: “Tôi sẽ được nghỉ ngơi trong cõi đời đời”. Điều đó dường như lập tức làm cho tôi nhận thấy nét tiêu biểu nơi ngài. Tôi sẽ nghỉ ngơi trong cõi đời đời. Hiện tại, ngài không thể dừng lại.

- Có lẽ người ta có thể nói tương tự về ngài. Dù sao, khi tôi có dịp thực hiện cuộc phỏng vấn ngài lần đầu tiên vào tháng Mười năm 1992, ngài thẳng thắn thừa nhận mình kiệt sức, mệt mỏi, và thực tế muốn từ nhiệm, để nhường chỗ cho sức mạnh mới?

Tôi đã bị xuất huyết não vào năm 1991, và tôi vẫn cảm thấy hậu quả nặng nề của nó trong năm 1992. Tôi phải thú nhận là những năm 1991-1993 có chút vất vả mệt mỏi, cả về sức khỏe thể lý lẫn tâm lý. Và sau đó, tôi bình phục.

- Như thường xảy ra. Lần đầu tiên ngài xin phép được từ nhiệm là khi nào?

Để tôi suy nghĩ. Năm 1986, vào cuối nhiệm kỳ năm năm đầu tiên, tôi báo cho Đức Giáo hoàng biết tôi đã kết thúc thời gian phục vụ của mình. Nhưng ngài trả lời rằng không thể như thế được. Tôi lại nộp đơn tha thiết xin nghỉ vào năm 1991. Như đã nói, tôi bị xuất huyết não và thực sự không được khỏe. Tôi nói với ngài: “Lần này, con không thể tiếp tục”. Ngài vẫn trả lời: “Không.”

- Và lần thứ ba?

Thậm chí tôi chưa kịp trình đề nghị của tôi thì ngài đã nói: “Đừng nói với tôi, đừng nói với tôi nói rằng Đức Hồng y muốn từ chức, tôi sẽ không nghe đâu. Đức Hồng y vẫn ở lại bao lâu tôi còn ở đây”.

- Ngài bị bệnh vào tháng 9 năm 1991 nên đã trải qua hơn hai tuần tại Bệnh viện Piô XI ở Rôma. Chính xác điều gì đã xảy ra với ngài?

Bệnh xuất huyết não đã gây hậu quả là làm giảm thị lực mắt trái của tôi. Tôi vẫn còn nhìn thấy, nhưng chỉ nhìn trực diện trước mặt, không thấy hai bên. Vả lại, nhìn chung tôi kiệt sức, đó là hậu quả duy nhất. Nhưng rõ ràng, như thế là đủ khó chịu rồi.

- Ngài có bị di chứng gì không?

Tôi bị giảm thị lực mắt trái một chút, nhìn rất chậm. Nhưng một ngày kia, tôi nghĩ đó là vào năm 1994, thêm vào đó một dạng tắc mạch, lan truyền khắp mắt. Tôi đang ở Maria Eck[4] và chỉ có thể gặp bác sĩ vào ngày hôm sau. Đã quá muộn, và tầm nhìn của tôi đã bị suy giảm nghiêm trọng. Tôi phải điều trị lâu dài, và ở giai đoạn thứ ba, thêm chứng macula[5], vì vậy bây giờ, tôi thực sự bị mù mắt trái.

- Mù hoàn toàn?

Vâng. Thậm chí tôi không nhận biết được sự khác biệt về độ sáng.

- Tại Vatican, ngài không bao giờ thuộc về bất cứ phe nhóm nào. Ngài luôn ghê sợ chuyện tranh giành thế lực. Thái độ xa cách đối với “bộ máy” không làm cho ngài có nhiều kẻ thù?

Tôi không nghĩ thế. Tôi cũng có bạn bè. Mọi người đều biết rằng tôi không làm chính trị, điều đó làm giảm sự thù nghịch. Mọi người biết rằng loại hình này không nguy hiểm.

- Với tư cách là người bảo vệ đức tin, ngài để lại dấu ấn trên triều đại của Đức Gioan Phaolô II không như bất cứ ai khác, kéo dài một phần tư thế kỷ. Ngược lại, Đức Wojtyla thể hiện vai trò nào trong sự tiến triển của Ratzinger?

Tôi đã học cách suy nghĩ với sự sâu rộng hơn từ các quan điểm, nhất là trong cuộc đối thoại giữa các tôn giáo. Chúng tôi có những trao đổi đặc biệt khi chuẩn bị các thông điệp về luân lý và sách giáo lý. Tầm nhìn phong phú và quan niệm mang tính triết lý hơn của ngài chắc chắn đã mở rộng cái nhìn cá nhân của tôi.

- Ai là người quyết định giao cho ngài việc soạn thảo bản suy niệm đường thánh giá vào Thứ Sáu Tuần Thánh năm 2005 tại hí trường Colosseo, , trong đó ngài nói về nhiều vết nhơ trong Giáo hội, và về sự phản bội Đức Kitô? Phải chăng đó là ý tưởng của Đức Giáo hoàng?

Đó là ý tưởng của Đức Giáo hoàng. Chính Đức Giáo hoàng muốn điều đó.

- Đức Giáo hoàng đã bày tỏ trên văn bản của ngài?

Không, Đức Giáo hoàng đã không còn có thể làm điều ấy, ngài bị bệnh nặng và quá kiệt sức.

- Hàng triệu người còn nhớ lễ tang của Đức Giáo hoàng, họ đã nhìn thấy những hình ảnh phát trên truyền hình khắp thế giới, hoặc tại chỗ trên Quảng trường thánh Phêrô, nơi tập trung từ ba đến năm triệu người tham dự. Quan tài bằng gỗ đơn giản, gió lật các trang sách Tin Mừng được đặt bên trên, lễ an táng xúc động do ngài chủ sự. Ngài cảm thấy thế nào? Những tư tưởng nào nảy lên trong ngài?

Sự ra đi của Đức Giáo hoàng rõ ràng làm tôi vô cùng xúc động, bởi vì chúng tôi rất thân thiết, gần gũi. Đối với tôi, ngài là một con người quyết đoán. Tôi cũng tham dự vào đường dài thập giá của ngài, và khi tôi đến thăm ngài tại bệnh viện Gemelli, tôi biết ngài không thể kéo dài thêm nữa. Hiển nhiên, thật là xúc động sâu xa khi một người như vậy sẽ ra đi mãi mãi. Đồng thời, tôi biết rằng ngài vẫn ở đó. Ngài sẽ chúc lành cho chúng ta từ cửa sổ trên trời, như tôi đã nói tại Quảng trường thánh Phêrô. Đó không phải là một công thức, nhưng thực sự diễn tả ý thức thâm sâu rằng cho tới hôm nay, ngài vẫn chúc lành cho chúng ta, ngài vẫn ở đó và tình bạn này vẫn tiếp tục theo một cách khác.

 

 

 

***

XEM THÊM

 

* Phần I: CHUÔNG THÀNH RÔMA

- Chương I: Những ngày bình yên tại Đan Viện Mater Ecclesiae, Vatican

- Chương II: Từ Chức

- Chương III: Tôi không từ bỏ Thập Giá

* Phần II: CHUYỆN NGƯỜI PHỤC VỤ

- Chương I: Gia đình và Thời thơ ấu

- Chương II: Chiến tranh

- Chương III: Sinh viên, linh mục giúp xứ, giảng viên

- Chương IV: Tập sự và ngôi sao thần học

- Chương V: Công đồng: Giữa mơ ước và chấn thương

- Chương VI: Giáo sư và Giám mục

- Chương VII: Tổng trưởng

* Phần III – GIÁO HOÀNG CỦA CHÚA GIÊSU

- Chương I: Và bỗng nhiên làm Giáo Hoàng

- Chương II: Những khía cạnh của việc làm Giáo Hoàng

- Chương III: Tông du và gặp gỡ

- Chương IV: Những thiếu sót và các vấn đề...

* Kết luận

- Tiểu sử

 

 

 

 

 

 


[1] Chuỗi kênh truyền hình địa phương của Đức.

[2] Chính sách bình thường hóa quan hệ giữa Tây Phương với Đông Âu và Liên Xô.

[3] Hồng Y Agostino Casaroli, người được coi là kiến trúc sư chính sách của Vatican với các quốc gia phương Đông dưới thời Đức Gioan XXIII và Phaolô VI, và là Hồng Y Quốc vụ khanh thời Đức Karol Wojtyla từ 1979 đến 1980.

[4] Đan viện Phanxicô ở Siegsdorf, Bavaria.

[5] Macula lutea, hay vệt vàng, chứng suy võng mạc.