ỦY BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ
TÀI LIỆU CẢM THỨC ĐỨC TIN
05 - 05 - 2014
***
***
LTS: Ủy ban Thần học Quốc tế (*) vừa hoàn thành một công trình kéo dài hai năm rưỡi về “cảm thức đức tin” của các tín hữu và mối gắn kết của cảm thức ấy với Huấn quyền (**). Gọi tắt là "Cảm thức đức tin trong đời sống Giáo Hội(**). Không lẫn lộn khái niệm này với công luận, tài liệu của Uỷ ban Thần học Quốc tế nhìn nhận rằng có thể có những bất đồng và phác hoạ một lời giải đáp.
***
Dẫn Nhập
1. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, “Thánh Thần chân lý phát xuất từ Chúa Cha” và làm chứng cho Chúa Con (Ga 15:26), mọi người đã nhận phép rửa đều tham dự vào chức vụ tiên tri của Chúa Giêsu Kitô, “chứng tá trung thành và đích thực” (Kh 3:14). Họ có nhiệm vụ làm chứng cho Tin Mừng và cho đức tin tông truyền trong Giáo Hội và trong thế giới. Chúa Thánh Thần xức dầu cho họ và trang bị cho họ để họ đảm nhận ơn gọi cao cả ấy, bằng cách ban cho họ một sự hiểu biết rất bản vị và thâm hậu về đức tin của Giáo Hội. Trong thư thứ nhất của Thánh Gioan, tín hữu được ngỏ những lời này: “anh em đã được Đấng Thánh xức dầu cho, và tất cả anh em đều được hiểu biết”, “việc xức dầu mà anh em đã nhận được (từ Chúa Kitô) đang ở trong anh em, và anh em không cần bất cứ ai dạy dỗ anh em nữa”, “việc Người xức dầu cho anh em đã dạy anh em mọi điều rồi” (1Ga 2:20, 27).
2. Thành thử, tín hữu có được một bản năng đối với chân lý của Tin Mừng, bản năng này giúp họ khả năng nhận biết và tán thành học lý và thực hành Kitô Giáo chân chính, và bác bỏ những gì là sai lầm. Vì được nối kết với hồng ân đức tin từ trong nội tại, bản năng siêu nhiên này được gọi là cảm thức đức tin (sensus fidei), và nó giúp các Kitô hữu khả năng chu toàn ơn gọi tiên tri của họ. Trong bài diễn văn đầu tiên lúc đọc kinh Truyền Tin, Đức Giáo Hoàng Phanxicô trích lời một phụ nữ khiêm nhường và cao niên mà ngài từng gặp trước đây rằng: “Nếu Chúa không tha thứ hết mọi sự, thì thế gian này đâu còn hiện hữu”; và ngài cảm phục nhận xét như sau: “đây chính là sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần ban cho” (1). Cái nhìn thông sáng của người đàn bà là một biểu hiện chói sáng của cảm thức đức tin, là cảm thức, song song với việc giúp ta biện phân phần nào các sự việc của đức tin, còn phát huy sự khôn ngoan đích thực và làm nẩy sinh việc tuyên xưng sự thật, là điều xẩy ra ở đây. Do đó, cảm thức đức tin rõ ràng là một tài nguyên sống còn đối với việc tân phúc âm hóa là việc mà Giáo Hội đang dấn thân vào ở thời đại ta (2).
3. Như một ý niệm thần học, cảm thức đức tin nói tới 2 thực tại khác biệt nhau dù có liên hệ mật thiết với nhau, một đàng là Giáo Hội duy nhất, “cột trụ và chiến lũy của sự thật” (1Tm 3:15) (3), một đàng là các tín hữu cá thể, những người vốn thuộc về Giáo Hội nhờ các bí tích khai tâm, và là những người, nhờ thường xuyên cử hành Thánh Thể, đã tham dự cách riêng vào đức tin và vào đời sống Giáo Hội. Một đàng, cảm thức đức tin nói tới khả năng bản thân của tín hữu biện phân được chân lý đức tin, bên trong hiệp thông Giáo Hội. Đàng khác, cảm thức đức tin cũng có ý nói tới một thực tại có tính cộng đoàn và có tính Giáo Hội, đó là bản năng đức tin của chính Giáo Hội, nhờ đó, Giáo Hội nhận biết Chúa của mình và công bố lời của Người. Theo nghĩa này, cảm thức đức tin được phản ảnh nơi sự đồng thuận của người đã nhận phép rửa trong việc qui phục tín lý đức tin hay một yếu tố nào đó của giáo lý hành động Kitô Giáo (Christian praxis) một cách sống động. Sự đồng thuận (consensus) này đóng một vai trò sống còn trong Giáo Hội: sự đồng thuận của các tín hữu (consensus fidelium) là tiêu chuẩn chắc chắn để ta xác nhận liệu một học lý hay một thực hành đặc thù nào đó có thuộc đức tin tông truyền hay không (4). Trong văn kiện này, chúng tôi sử dụng hạn từ cảm thức đức tin của tín hữu (sensus fidei fidelis), để chỉ khả năng bản thân của người tín hữu biết biện phân chính xác các vấn đề thuộc đức tin, còn hạn từ cảm thức đức tin của các tín hữu (sensus fidei fidelium) là để nói tới bản năng đức tin của toàn thể Giáo Hội. Theo đồng văn này, cảm thức đức tin có ý nói tới cả hai thực tại vừa kể và đối với thực tại thứ hai, hạn từ cảm thức của các tín hữu (sensus fidelium) cũng đã được sử dụng.
4. Sự quan trọng của cảm thức đức tin trong đời sống Giáo Hội vốn đã được Công Đồng Vatican II nhấn mạnh một cách mạnh mẽ. Vì muốn phá bỏ hình ảnh biếm họa về một phẩm trật tích cực và một hàng ngũ giáo dân thụ động, và cách riêng ý niệm cho rằng có sự tách biệt hoàn toàn giữa Giáo Hội giảng dậy (Ecclesia docens) và Giáo Hội học tập (Ecclesia discens), nên Công Đồng đã dạy rằng mọi người đã nhận phép rửa đều tham dự, theo cách riêng của mình, vào ba chức vụ của Chúa Kitô là tiên tri, linh mục và vương đế. Cách riêng, Công Đồng dạy rằng Chúa Kitô chu toàn chức vụ tiên tri của Người không những nhờ phẩm trật mà còn nhờ cả hàng giáo dân nữa.
5. Tuy nhiên, trong việc tiếp nhận và áp dụng giáo huấn của Công Đồng về chủ đề này, nhiều câu hỏi được đặt ra, nhất là về các tranh cãi liên quan tới một số vấn đề tín lý hoặc luân lý khác nhau. Cảm thức đức tin chính xác là gì và làm sao nhận diện được nó? Đâu là nguồn Thánh Kinh của ý niệm này và cảm thức đức tin hành xử ra sao trong truyền thống đức tin? Cảm thức đức tin liên hệ ra sao với huấn quyền trong Giáo Hội của Đức Giáo Hoàng và các giám mục, và với thần học? (5). Đâu là điều kiện để thi hành cảm thức đức tin này cách chân chính? Cảm thức đức tin có phải là một điều gì khác với ý kiến đa số của tín hữu trong một thời và tại một nơi nhất định nào đó không, và nếu khác, thì nó tác động ra sao đối với những người này? Tất cả các câu hỏi này đòi được trả lời nếu ý niệm cam thức đức tin muốn được hiểu một cách trọn vẹn hơn và sử dụng một cách tin tưởng hơn trong Giáo Hội ngày nay.
6. Mục đích của bản văn này không nhằm đưa ra một giải thích thấu đáo cho hạn từ cảm thức đức tin mà chỉ minh giải và đào sâu một số khía cạnh quan trọng của ý niệm chủ yếu này nhằm giải đáp một vài vấn đề, nhất là liên quan tới việc làm thế nào nhận diện được cảm thức đức tin chân chính trong hoàn cảnh có tranh cãi, như khi có căng thẳng giữa giáo huấn của huấn quyền và một số chủ trương cho rằng mình nói lên cảm thức đức tin chẳng hạn. Thành thử, bản văn này sẽ trước hết xem sét các nguồn Thánh Kinh của ý niệm cảm thức đức tin và cách ý niệm này khai triển và hành xử trong lịch sử và truyền thống Giáo Hội (chương một). Bản chất của cảm thức đức tin tín hữu (sensus fidei fidelis) sau đó sẽ được xem xét cùng với các biểu hiện của nó trong cuộc sống bản thân của người tín hữu (chương hai). Bản văn, sau đó, sẽ suy nghĩ về cảm thức đức tin các tín hữu (sensus fidei fidelium) tức là cảm thức đức tin trong hình thức Giáo Hội của nó, trước nhất xem xét vai trò của nó trong việc phát triển học lý và thực hành Kitô Giáo, sau đó tầm quan trọng của nó đối với huấn quyền và thần học, rồi tầm quan trọng của nó đối với cuộc đối thoại đại kết (chương ba). Sau cùng, bản văn sẽ tìm cách nhận diện các tâm hướng (dispositions) cần có để tham dự vào cảm thức đức tin chân chính, và cũng sẽ suy nghĩ về một số áp dụng các điều mới tìm ra này vào sinh hoạt cụ thể của Giáo Hội (chương bốn).
***
CHƯƠNG MỘT
CẢM THỨC ĐỨC TIN TRONG THÁNH KINH VÀ THÁNH TRUYỀN
7. Kiểu nói cảm thức đức tin không có trong cả Thánh Kinh lẫn giáo huấn chính thức của Giáo Hội, cho mãi tới Vatican II. Tuy nhiên, ý niệm cho rằng Giáo Hội như một toàn thể không sai lầm trong niềm tin của mình, vì là thân mình và là hiền thê của Chúa Kitô (xem 1Cor 12:27; Eph 4:12; 5:21-32; Kh 21:9), và rằng mọi chi thể Giáo Hội đều lãnh nhận một việc xức dầu tự nó đã giảng dạy họ (xem 1Ga 2:20, 27), đều được phú ban cho thần khí sự thật (xem Ga 16:13) là một ý niệm được mọi nơi coi là hiển nhiên ngay từ buổi đầu của Kitô Giáo. Chương này sẽ truy nguyên những đường hướng phát triển chính của ý niệm này, trước nhất trong Thánh Kinh và sau đó trong lịch sử tiếp theo của Giáo Hội.
1. Giáo huấn Thánh Kinh
a) Đức tin như một đáp trả Lời Thiên Chúa
8. Trong suốt Tân Ước, đức tin được trình bày như một đáp trả nền tảng và dứt khóat của con người đối với Tin Mừng. Chúa Giêsu công bố Tin Mừng để đem con người tới đức tin: “Thời giờ đã nên trọn, và nước Thiên Chúa đã tới gần; hãy thống hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15). Thánh Phaolô thì nhắc các Kitô hữu tiên khởi nhớ lời ngài loan báo về cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô để đổi mới và thâm hậu hóa đức tin của họ: “Anh chị em thân mến, giờ đây tôi muốn nhắc nhở anh chị em về tin mừng tôi đã công bố cho anh chị em, tin mừng mà anh chị em đã lãnh nhận và đang nắm vững, nhờ đó anh chị em được cứu rỗi, nếu anh chị em giữ đúng như tôi đã loan báo, nếu không, anh chị em chỉ tin uổng công” (1Cor 15:1-2). Cái hiểu đức tin trong Tân Ước bắt nguồn từ Cựu Ước, nhất là từ đức tin của Ápram, người đã tin vào các lời hứa của Thiên Chúa (St 15:6; xem Rm 4:11, 17). Đức tin này là lời đáp trả tự do đối với việc công bố lời Thiên Chúa, và như thế, nó là một hồng ân Chúa Thánh Thần mà những ai tin thực sự cần lãnh nhận lấy (xem 1Cor 12:3). “Việc vâng phục đức tin” (Rm 1:5) là kết quả ơn thánh Chúa, Đấng đã giải thoát con người và ban cho họ tư cách chi thể của Giáo Hội (Gl 5:1, 13).
9. Tin Mừng phát huy đức tin vì nó không chỉ thông truyền tin tức tôn giáo mà còn công bố lời Thiên Chúa, và “sức mạnh cứu rỗi” của Người, một sức mạnh đã thực sự được lãnh nhận (Rm 1:16-17; xem Mt 11:15; Lc 7:22 [Is 26:19; 29:18; 35:5-6; 61:1-11]). Nó là Tin Mừng của Ơn Thánh Thiên Chúa (Cv 20:24), là “mạc khải về mầu nhiệm” Thiên Chúa (Rm 16:25), và là “lời sự thật” (Eph 1:13). Tin Mừng có một nội dung có chất lượng: nước Thiên Chúa đến, Chúa Giêsu chịu đóng đinh sống lại và được hiển dương, mầu nhiệm Thiên Chúa cứu rỗi và hiển dương ta nhờ Chúa Thánh Thần. Tin Mừng có một chủ đề mạnh mẽ: Chính Chúa Giêsu, Ngôi Lời Thiên Chúa, đã sai các tông đồ và các người theo chân các ngài ra đi. Tin Mừng mang hình thức công bố trực tiếp, một cách đầy linh hứng và đầy thẩm quyền, bằng lời và bằng việc làm. Muốn lãnh nhận Tin Mừng, ta cần đáp ứng bằng cả con người mình “hết tâm hồn, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi” (Mc 12:31). Đó là đáp trả của đức tin, vốn là “bảo đảm cho những điều ta hy vọng, xác tín những điều ta không thấy” (Thư Do Thái 11:1).
10. ‘“Đức tin” vừa là hành vi tin hay tín thác vừa là điều được tin hay được tuyên xưng, vừa là fides qua vừa là fides quae. Cả hai khía cạnh này luôn đi đôi với nhau một cách không thể tách biệt, vì tín thác là tán đồng một sứ điệp có nội dung khả niệm, và tuyên xưng không thể bị giản lược vào chuyện môi mép, nó phải phát xuất từ trái tim (6). Cựu và Tân Ước rõ ràng chứng minh rằng hình thức và nội dung của đức tin thuộc về nhau.
b) Các chiều kích bản thân và Giáo Hội của đức tin
11. Sách Thánh chứng minh rằng chiều kích bản thân của đức tin được hòa nhập vào chiều kích Giáo Hội; cả hình thức số ít lẫn hình thức số nhiều của ngôi thứ nhất đều có ở đây: “chúng tôi tin” (xem Gl 2:16) và “tôi tin” (xem Gl 2:19-20). Trong các thư của ngài, Thánh Phaolô thừa nhận đức tin của các tín hữu vừa như một thực tại bản thân vừa như một thực tại Giáo Hội. Ngài dạy rằng ai tuyên xưng “Chúa Giêsu là Chúa” đều được Chúa Thánh Thần linh hứng (1Cor 12:3). Chúa Thánh Thầm tháp nhập mọi tín hữu vào thân thể Chúa Kitô và ban cho họ một vai trò đặc biệt để xây dựng Giáo Hội (xem 1Cor 12:4-27). Trong thư gửi tín hữu Êphêsô, việc tuyên xưng một Thiên Chúa và chỉ một Thiên Chúa mà thôi được nối kết với việc thực sự có đời sống đức tin trong Giáo Hội: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Eph 4:4-6).
12. Trong các chiều kích bản thân và Giáo Hội của nó, đức tin có những khía cạnh có tính yếu tính sau đây:
i) Đức tin đòi thống hối. Trong lời công bố của các tiên tri Do Thái và của Thánh Gioan Tẩy Giả (xem Mc 1:4), cũng như trong lời giảng dạy Tin Mừng của Chúa Giêsu (Mc 1:14 tt) và trong sứ vụ của các Tông Đồ (Cv 2:38-42; 1Tx 1:9tt), thống hối có nghĩa xưng thú tội lỗi của mình và bắt đầu một cuộc sống mới giữa cộng đoàn ký giao ước với Thiên Chúa (xem Rm 12:1tt).
ii) Đức tin vừa được phát biểu vừa được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện và thờ phượng (leiturgia). Cầu nguyện có thể mang nhiều hình thức khác nhau: cầu xin, khẩn nài, ca ngợi, cảm tạ, và tuyên xưng đức tin là một hình thức cầu nguyện đặc biệt. Lời cầu nguyện theo phụng vụ, nổi bật nhất trong cử hành Thánh Thể, ngay từ buổi đầu, đã hết sức chủ yếu đối với đời sống của cộng đồng Kitô hữu (xem Cv 2:42). Cầu nguyện diễn ra cả ở nơi công cộng (xem 1Cor 140 lẫn ở nơi tư riêng (xem Mt 6:5). Với Chúa Giêsu, Kinh Lạy Cha (Mt 6:9-13; Lc 11:1-4) nói lên yếu tính của đức tin. Nó là “bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng” (7). Đáng lưu ý là ngôn ngữ của nó là ngôn ngữ “chúng tôi”.
iii) Đức tin đem lại hiểu biết. Ai tin người ấy có khả năng nhận biết chân lý của Thiên Chúa (xem Pl 3:10tt). Sự hiểu biết này phát sinh từ việc suy niệm cảm nghiệm của ta về Thiên Chúa, dựa vào mạc khải và tham dự vào cộng đồng tín hữu. Đây là chứng tá của nền thần học khôn ngoan của cả Cựu và Tân Ước (Tv 111:10; xem Cn 1:7; 9:10; Mt 11:27; Lc 10:22).
iv) Đức tin dẫn tới tuyên xưng (marturia). Được Chúa Thánh Thần linh hứng, các tín hữu biết Đấng họ tín thác (xem 2Tm 1:12), và họ có khả năng giải thích niềm hy vọng ở trong họ (xem 1Pr 3:15), nhờ các lời tuyên xưng Tin Mừng đầy tính tiên tri và tông truyền (xem Rm 10:9tt). Họ làm việc này nhân danh họ; nhưng họ làm thế giữa cộng đồng tín hữu.
v) Đức tin bao hàm tin tưởng. Tín thác Thiên Chúa có nghĩa đặt căn bản cho toàn bộ cuộc sống ta trên lời hứa của Thiên Chúa. Trong Thư Do Thái 11, nhiều tín hữu trong Cựu Ước được nhắc tới như những thành phần của một cuộc diễn hành vĩ đại, qua không gian và thời gian, hướng về Thiên Chúa trên trời, được Chúa Giêsu, “Đấng đi tiên phong và là người hoàn thiện đức tin của ta” hướng dẫn (Dt 12:3). Các Kitô hữu là thành phần của cuộc diễn hành này, cùng chia sẻ một niềm hy vọng và xác tín như nhau (Dt 11:1), và “được bao quanh bởi một đám mây chứng nhân vĩ đại” (Dt 12:1).
vi) Đức tin kéo theo trách nhiệm, nhất là việc bác ái và phục vụ (diakonia). Các môn đệ sẽ được nhận biết “qua hoa trái của họ” (Mt 7:20). Các hoa trái này chủ yếu thuộc đức tin, vì đức tin, một nhân đức vốn phát sinh từ việc lắng nghe lời Thiên Chúa, đòi người môn đệ phải vâng theo ý Thiên Chúa. Đức tin công chính hóa (Gl 2:16) là “đức tin hành động qua bác ái” (Gl 5:6; xem Gc 2:21-24). Thực vậy, yêu anh chị em ta chính là tiêu chuẩn đối với tình yêu Thiên Chúa (1Ga 4:20).
c) Khả năng biết và làm chứng cho sự thật của các tín hữu
13. Trong sách Giêrêmia, “một giao ước mới” đã được hứa hẹn; giao ước này bao hàm việc nội tâm hóa lời Thiên Chúa: “Ta sẽ đặt lề luật Ta trong chúng, và Ta sẽ viết luật đó lên trái tim chúng; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không dạy nhau hoặc nói với nhau “hãy biết Thiên Chúa”, vì mọi người trong chúng đều sẽ biết Ta, từ những kẻ thấp hèn nhất tới những kẻ cao cả nhất trong chúng, Thiên Chúa phán như vậy; vì Ta sẽ tha thứ tội lỗi của chúng, và sẽ không nhớ tới tội lỗi của chúng nữa” (Gr 31:33-34). Dân Thiên Chúa cần được tái tạo như mới, tiếp nhận “một tinh thần mới” để có thể nhận biết và tuân theo lề luật (Ed 11:19-20). Lời hứa này được ứng nghiệm trong thừa tác vụ của Chúa Giêsu và trong đời sống của Giáo Hội nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Nó đặc biệt nên trọn trong lúc cử hành Thánh Thể, trong đó, tín hữu lãnh nhận chén “giao ước mới” bằng máu Chúa (Lc 22:20; 1Cor 11:25; xem Rm 11:27; Dt 8:6-12; 10:14-17).
14. Trong diễn văn từ giã ở Bữa Tối Cuối Cùng, Chúa Giêsu hứa sẽ ban cho các môn đệ “Đấng An Ủi”, vốn là Thần Khí Sự Thật (Ga 14:16,26; 15:26;16:7-14). Thần Khí sẽ nhắc các ông nhớ các lời lẽ của Chúa Giêsu (Ga 14:26), giúp họ khả năng làm chứng cho lời Chúa (Ga 15:26-27), “chứng minh rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, công chính và phán xét” (Ga 16:8), và “hướng dẫn” các môn đệ “vào mọi chân lý” (Ga 16:13). Tất cả những điều này xẩy ra nhờ ơn Chúa Thánh Thần qua mầu nhiệm vượt qua, được cử hành trong đời sống cộng đồng Kitô Giáo, nhất là trong Thánh Thể, cho tới ngày Chúa đến (xem 1Cor 11:26). Các môn đệ có một cảm thức linh hứng về sự thật luôn hiện thực trong lời Chúa, nhập thể nơi Chúa Giêsu, và ý nghĩa của lời này đối với ngày nay (xem 2Cor 6:2), và đây là điều thúc đẩy Dân Chúa, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, sẵn sàng làm chứng cho đức tin của họ trong Giáo Hội và trong thế giới.
15. Môsê từng muốn cho mọi người trong dân trở thành tiên tri nhờ tiếp nhận thần khí Chúa (Ds 11:29). Ước muốn này đã trở thành lời hứa cánh chung nhờ tiên tri Gioen và trong biến cố Ngũ Tuần, Thánh Phêrô đã tuyên bố rằng lời hứa ấy đã được ứng nghiệm: “Thiên Chúa nói, trong những ngày sau cùng, Ta sẽ tuôn tràn Thần Khí ta trên mọi thân xác, và con trai con gái các ngươi sẽ nói tiên tri” (Cv 2:17; xem Ge 3:1). Thần Khí được hứa ban ấy (xem Cv 1:8) đã được đổ xuống, giúp tín hữu nói “về những việc làm đầy quyền lực của Thiên Chúa” (Cv 2:11).
16. Lời mô tả đầu tiên về cộng đoàn tín hữu Giêrusalem tổng hợp 4 yếu tố sau đây: “Họ chuyên chăm lắng nghe giáo huấn của các tông đồ, hiệp thông, bẻ bánh và cầu nguyện” (Cv 2:42). Việc chuyên chăm vào 4 yếu tố này đã mạnh mẽ nói lên đức tin tông truyền. Đức tin bám lấy giáo huấn chân chính của các Tông Đồ, là giáo huấn luôn nhắc ta nhớ tới giáo huấn của Chúa Giêsu (xem Lc 1:1-4); nó lôi cuốn các tín hữu vào tình hiệp thông với nhau; nó được đổi mới nhờ cuộc gặp gỡ với Chúa trong lúc bẻ bánh; và nó được dưỡng nuôi nhờ lời cầu nguyện.
17. Trong Giáo Hội Giêrusalem, khi xẩy ra tranh chấp giữa người Hy Lạp và người Do Thái liên quan tới việc phân phối thực phẩm hàng ngày, mười hai tông đồ đã triệu tập “toàn thể cộng đoàn môn đệ” và đưa ra quyết định: “làm vui lòng toàn thể cộng đoàn”. Toàn thể cộng đoàn này đã chọn “bẩy người có tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan” và đặt họ trước mặt các tông đồ. Các vị cầu nguyện rồi đặt tay lên họ (Cv 6:1-6). Khi có vấn đề xẩy ra tại Giáo Hội Antiôkia liên quan tới việc cắt da qui đầu và việc thực hành Lề Luật, thì vấn đề này đã được trình lên cho Giáo Hội mẹ ở Giêrusalem phân xử. Công đồng các tông đồ, từ đó phát sinh, có một tầm quan trọng hết sức lớn lao đối với tương lai Giáo Hội. Thánh Luca mô tả trình tự các biến cố này một cách cẩn thận. “Các tông đồ và các vị trưởng thượng họp nhau để cân nhắc vấn đề” (Cv 15:6). Thánh Phêrô kể lại câu truyện ngài được Chúa Thánh Thần linh hứng đi rửa tội cho Ông Cornêliô và gia đình ông dù họ chưa được cắt da qui đầu (Cv 15:7-11). Thánh Phaolô và Barnaba thuật lại kinh nghiệm truyền giáo của họ tại Giáo Hội địa phương Antiôkia (Cv 15:12; xem 15:1-5). Thánh Giacôbê suy tư về các kinh nghiệm này dưới sự soi sáng của Thánh Kinh (Cv 15:13-18), và đề xuất một quyết định cổ vũ tính hợp nhất của Giáo Hội (Cv 15:19-21). “Thế rồi, các tông đồ và các trưởng thượng, với sự đồng ý của toàn thể Giáo Hội, quyết định chọn một số thành viên tại chỗ và phái họ đi Antiôkia cùng với Phaolô và Barbana” (Cv 15:22). Đối với Thánh Luca, các biến cố này cho thấy một hành động có tính đặc trưng Giáo Hội, bao gồm cả thừa tác mục vụ của các tông đồ và các trưởng thượng lẫn sự tham dự của cộng đoàn, nhờ đức tin mà có đủ tư cách tham dự.
18. Viết cho tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô cho rằng sự điên rồ của thập giá chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1Cor 1:18-25). Giải thích tại sao nghịch lý này có thể hiểu được, ngài nói: “chúng ta có tâm trí của Chúa Kitô” (1Cor 2:16; ἡμεῖς δὲ νοῦν Χριστοῦ ἔχομεν; nos autem sensum Christi habemus, theo Bản Phổ Thông). “Chúng ta” ở đây chỉ Giáo Hội Côrintô trong hiệp thông với các Tông Đồ như là một phần của toàn thể cộng đồng tín hữu (1Cor 1:1-2). Khả năng nhận ra Đấng Mêxia chịu đóng đinh là khôn ngoan của Thiên Chúa do Chúa Thánh Thần ban cho; nó không phải là một đặc ân của người khôn ngoan và của luật sĩ (xem 1Cor 1:20), nhưng là một đặc ân được ban cho người nghèo, người bị loại ra bên lề, và những ai bị coi là “điên rồ” dưới mắt thế gian (1Cor 1:26-29). Mặc dù thế, Thánh Phaolô vẫn phê phán người Côrintô vì “vẫn còn thuộc xác thịt”, vẫn chưa sẵn sàng dùng “đồ ăn đặc” (1Cor 3:1-4). Đức tin của họ cần phải trưởng thành và tìm được lối phát biểu tốt hơn bằng lời nói và việc làm.
19. Trong thừa tác vụ của ngài, Thánh Phaolô tỏ lòng kính trọng và muốn thâm hậu hóa đức tin của cộng đoàn của ngài. Trong câu 2Cor 1:24, ngài mô tả nhiệm vụ tông đồ của mình như sau: “tôi không muốn hàm ý rằng chúng tôi sai khiến đức tin anh em; đúng hơn, chúng tôi cùng làm việc với anh em để anh em được vui, vì anh em đã bền vững trong đức tin rồi”, và ngài khuyến khích tín hữu Côrintô: “Hãy bền vững trong đức tin của anh em” (1Cor 16:14). Với tín hữu Texalônica, ngài viết một lá thư “để củng cố và khuyến khích anh em vì đức tin của anh em” (1Tx 3:2), và ngài cầu nguyện cho đức tin của các cộng đoàn khác cũng như vậy (xem Cl 1:9; Eph 1:17-19). Không chỉ làm việc để gia tăng đức tin cho người khác, Thánh Tông Đồ biết rằng chính đức tin của ngài cũng cần được củng cố nhờ một loại đối thoại đức tin nào đó: “…để chúng ta cùng khuyến khích nhau bằng đức tin của mỗi người, cả đức tin của anh em lẫn đức tin của tôi” (Rm 1:12). Đức tin của cộng đồng là điểm qui chiếu đối với giáo huấn của Thánh Phaolô và là tiêu điểm đối với thừa tác mục vụ của ngài, tạo ra cả một trao đổi hữu ích hỗ tương giữa ngài và các cộng đoàn của ngài.
20. Trong thư thứ nhất của Thánh Gioan, Truyền Thống tông đồ đã được nhắc tới (1Ga 1:1-4) và độc giả được nhắc nhở tới phép rửa của họ: “Anh em đã được Đấng Thánh xức dầu cho và tất cả anh em đều được hiểu biết” (1Ga 2:20). Thư viết tiếp: “Còn về phần anh em, việc xức dầu mà anh em đã lãnh nhận từ Người vẫn ở trong anh em, và như thế, anh em không cần ai dạy dỗ anh em cả. Nhưng vì việc xức dầu này dạy anh em mọi điều, và việc xức dầu này chân thật, không dối trá, thì theo như nó đã dạy anh em, anh em hãy ở trong Người” (1Ga 2:27).
21. Cuối cùng, trong sách Khải Huyền, trong tư cách tiên tri, Thánh Gioan nhắc đi nhắc lại với các Giáo Hội (xem Kh 2-3) công thức sau đây “Ai có tai hãy lắng nghe Thần Khí đang nói với các Giáo Hội” (Kh 2:7, và các câu khác). Các chi thể Giáo Hội được khuyên nhủ phải lưu tâm tới lời hằng sống của Thần Khí, tiếp nhận lời ấy, và vinh tụng Thiên Chúa. Chính nhờ vâng phục đức tin, vốn cũng là hồng ân Chúa Thánh Thần, các tín hữu có khả năng nhận biết rằng giáo huấn họ đang tiếp nhận quả thực là giáo huấn của cùng một Thần Khí, và đáp ứng đối với các huấn giáo họ nhận được.
2. Sự phát triển của ý niệm cảm thức đức tin và chỗ đứng của nó trong lịch sử Giáo Hội
22. Ý niệm sensus fidelium (cảm thức của các tín hữu) bắt đầu được khai triển cách chi tiết và được sử dụng cách có hệ thống hơn vào thời phong trào Cải Cách, mặc dù vai trò dứt khoát của consensus fidelium (đồng cảm thức của các tín hữu) trong việc biện phân và trong việc khai triển học lý liên quan tới tín lý và luân lý vốn đã được nhìn nhận từ thời giáo phụ và trung cổ. Tuy nhiên, điều vẫn còn cần là phải chú ý nhiều hơn tới vai trò chuyên biệt của người giáo dân trong lãnh vực này. Vấn đề này chỉ được đặc biệt chú ý kể từ thế kỷ 19 trở đi.
a) Thời giáo phụ
23. Các giáo phụ và các nhà thần học của mấy thế kỷ đầu coi đức tin của toàn thể Giáo Hội như một điểm qui chiếu chắc chắn để biện phân nội dung của Truyền Thống tông đồ. Xác tín của họ về tính chắc chắn và thậm chí cả tính vô ngộ của việc toàn thể Giáo Hội biện phân về đức tin và luân lý này được phát biểu trong ngữ cảnh tranh cãi. Các ngài bác bỏ những điều mới lạ rất nguy hiểm do các người lạc giáo đưa ra nhằm so sánh những mới lạ này với những điều được mọi Giáo Hội chủ trương và thực hành (8). Đối với Tertulianô (khoảng các năm 160-225), sự kiện mọi Giáo Hội đều có cùng một đức tin làm chứng cho sự hiện diện của Chúa Kitô và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; những ai lầm lạc quả đã từ bỏ đức tin của toàn thể Giáo Hội (9). Đối với Thánh Augustinô (354-430), toàn thể Giáo Hội, “từ các giám mục tới những người tầm thường nhất trong các tín hữu” đều làm chứng cho sự thật (10). Việc đồng thuận phổ quát của các Kitô hữu luôn hành xử như một qui tắc chắc chắn để xác định đức tin tông truyền: “Securus judicat orbis terrarum [phán đoán của cả thế giới luôn chắc chắn]” (11). John Cassian (khoảng các năm 360-435) chủ trương rằng sự đồng thuận phổ quát của các tín hữu là một luận điểm đủ để bác bỏ những người lạc giáo (12) và Thánh Vincent thành Lérins (qua đời năm 445) đề xuất qui tắc cho rằng đức tin được tuân giữ khắp nơi, mọi thời, và bởi mọi người (quod ubique, quod semper, quod ab omnibus creditum est) (13).
24. Để giải quyết các tranh cãi giữa các tín hữu, các giáo phụ không những nại tới niềm tin chung mà còn nại tới truyền thống thực hành lâu đời nữa. Thánh Giêrôm (khoảng năm 345-420), chẳng hạn, tìm được sự biện minh cho việc tôn kính di hài các thánh trong các thực hành của các vị giám mục và của giáo dân (14) còn Thánh Epiphaniô (khoảng năm 315-403), khi bênh vực đức đồng trinh trọn đời của Đức Mẹ, đã hỏi liệu có ai dám kêu tên ngài mà không thêm tước “đồng trinh” hay không (15).
25. Chứng từ của thời giáo phụ chủ yếu quan tâm tới việc làm chứng có tính tiên tri của dân Chúa như một toàn thể, một điều chắc chắn có đặc tính khách quan. Như một toàn thể, các người tin không thể sai lầm trong các vấn đề thuộc đức tin, vì họ đã lãnh nhận việc xức dầu từ Chúa Kitô, tức Chúa Thánh Thần được hứa ban, Đấng trang bị để họ biện phân sự thật. Một số giáo phụ cũng suy tư về khả năng chủ quan của các Kitô Hữu: được đức tin sinh động hóa và được Chúa Thánh Thần ngự bên trong, họ có khả năng duy trì học lý chân thực trong Giáo Hội và bác bỏ sai lạc. Thánh Augustinô, chẳng hạn, lưu ý tới điềm vừa rồi khi ngài quả quyết rằng Chúa Kitô, “thầy dạy nội tâm”, giúp người giáo dân cũng như các mục tử của họ không những lãnh nhận chân lý mạc khải mà còn tán thành chân lý này và thông truyền nó nữa (16).
26. Trong năm thế kỷ đầu tiên, đức tin của Giáo Hội như một toàn thể tỏ ra có tính quyết định đối với việc xác định ra qui điển Thánh Kinh và các học lý quan trọng khác, như về thần tính Chúa Kitô, về việc trọn đời đồng trinh và chức mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, và việc tôn kính và khẩn cầu các thánh. Như Chân Phúc John Newman (1801-1890) từng nhận định, trong một số trường hợp, đức tin của người giáo dân đã đóng một vai trò chủ yếu. Điển hình rõ ràng nhất là trong cuộc tranh cãi thời danh với phái Ariô trong thế kỷ thứ tư. Lạc giáo này bị lên án tại Công Đồng Nixêa (năm 325), tại đây, thần tính của Chúa Giêsu Kitô đã được định tín. Tuy nhiên, từ đó tới Công Đồng Constantinốp (năm 381), vẫn có sự không chắc chắn nơi các giám mục. Trong thời kỳ này, “truyền thống thần linh chủ trương Giáo Hội vô ngộ được tín hữu giáo dân tuyên xưng và duy trì nhiều hơn hàng giám mục nhiều”. “Lúc đó, các chức năng của ‘Giáo Hội giảng dạy’ bị tạm thời đình chỉ. Giám mục đoàn lúc ấy thất bại trong việc tuyên xưng đức tin của mình. Họ nói lung tung, người này chống lại người kia; sau Nixêa, không còn gì là chứng từ chắc chắn, bất biến, nhất quán nữa, như thế đến cả gần 60 năm” (17).
b) Thời trung cổ
27. Chân Phúc Newman cũng nhận định rằng “ở thời sau đó, khi các tu sĩ bác học Dòng Bênêđíctô của Đức [Rabanus Maurus, khoảng 780-856] và của Pháp [Ratramnus, chết khoảng năm 870] bối rối trong việc phát biểu học lý về Sự Hiện Diện Thực Sự, thì Paschasius [khoảng 790 - 860], nhờ được giáo dân hỗ trợ, đã mạnh mẽ chủ trương học lý này (18). Một điều tương tự đã xẩy ra với tín điều do Đức GH Bênêđíctô XII tuyên bố trong tông hiến Benedictus Deus (1336), về việc hưởng vinh phúc (beatific vision) mà linh hồn đã được hưởng sau khi qua luyện ngục và trước ngày phán xét (19): “truyền thống, mà dựa vào đó, việc định tín này được thực hiện, đã được biểu lộ trong sự đồng thuận của các tín hữu, với một sự minh bạch mà truyền thừa giám mục vốn không cung cấp được, cho dù nhiều vị là ‘Sancti Patres ab ipsis Apostolorum temporibus’ (bậc thánh phụ từ chính thời các tông đồ). Phần lớn công lao được gán cho ‘cảm thức của các tín hữu’; không ai hỏi ý kiến và lời bàn của họ cả, nhưng chứng từ của họ đã được thu thập, tâm tư của họ đã được tham khảo, và tôi dám nói rằng sự nôn nóng của họ được nể vì” (20). Việc khai triển liên tục nơi các tín hữu giáo dân đối với niềm tin và sự tôn sùng (mầu nhiệm) Vô Nhiễm Thai của Trinh Nữ Diễm Phúc Maria, dù bị một số nhà thần học chống đối, là một điển hình khác cho thấy vai trò của cảm thức các tín hữu trong thời trung cổ.
28. Các tiến sĩ kinh viện vốn nhìn nhận rằng Giáo Hội, vì là congregatio fidelium (hợp đoàn các tín hữu), nên không thể sai lầm trong các vấn đề đức tin vì hợp đoàn này được Thiên Chúa giảng dạy, luôn kết hợp với Chúa Kitô là đầu của mình, và được Chúa Thánh Thần ngụ cư bên trong. Thánh Tôma Aquinô, chẳng hạn, lấy điều này làm tiền đề dựa vào cơ sở này: Giáo Hội hoàn vũ được cai quản bởi Chúa Thánh Thần, Đấng dạy Giáo Hội “mọi sự thật” như lời Chúa Giêsu hứa (Ga 16:13) (21). Ngài biết rằng đức tin của Giáo Hội hoàn vũ được các vị giáo phẩm phát biểu một cách có thẩm quyền (22) nhưng ngài cũng đặc biệt lưu ý tới bản năng đức tin có tính bản thân của từng tín hữu, điều được ngài thăm dò trong tương quan với nhân đức đối thần tin.
c) Thời Cải Cách và thời hậu Cải Cách
29. Thách thức do các nhà cải cách thế kỷ 16 đặt ra đòi phải chú ý một cách mới mẻ tới sensus fidei fidelium (cảm thức đức tin của các tín hữu), và do đó, việc bàn luận có hệ thống đầu tiên về nó đã được thực hiện. Các nhà cải cách nhấn mạnh tới tính tối thượng của lời Thiên Chúa trong Sách Thánh (Scriptura sola) và chức linh mục của tín hữu. Theo quan điểm của họ, chứng từ bên trong của Chúa Thánh Thần đủ ban cho mọi người đã lãnh nhận phép rửa khả năng tự mình giải thích lời Thiên Chúa; tuy nhiên, xác tín này không làm họ lùi bước trước việc giảng dạy trong các công đồng và ấn hành các sách giáo lý để huấn giáo tín hữu. Các học lý của họ đặt nghi vấn đối với vai trò và tư thế của Thánh Truyền, thẩm quyền giảng dạy của Đức Giáo Hoàng và của các giám mục, và tính vô ngộ của các công đồng. Để trả lời chủ trương của họ rằng lời hứa hiện diện của Chúa Giêsu và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần đã được ban cho toàn thể Giáo Hội, không riêng cho nhóm Mười Hai, mà cho mọi tín hữu (23), các nhà thần học Công Giáo đã tiến tới việc giải thích trọn vẹn hơn việc các mục tử phục vụ đức tin của tín hữu ra sao. Trong diễn trình giải thích này, họ chú ý nhiều hơn tới thẩm quyền giảng dạy của hàng giáo phẩm.
30. Các nhà thần học của phong trào cải cách Công Giáo, nhờ bồi đắp các cố gắng trước đây trong việc khai triển nền Giáo Hội học hệ thống, đã tiếp tục bàn tới vấn đề mạc khải, các nguồn mạc khải và thế giá của chúng. Thoạt đầu, họ trả lời các chỉ trích của các nhà cải cách về một số học lý, bằng cách nại tới tính vô ngộ của toàn thể Giáo Hội, cả giáo dân lẫn giáo sĩ, in credendo (khi tin) (24). Thực vậy, Công Đồng Trent nhiều lần nại tới phán đoán của toàn thể Giáo Hội để bênh vực các khoản bị tranh cãi trong tín lý Công Giáo. Sắc lệnh của công đồng này về Bí Tích Thánh Thể (năm 1551), chẳng hạn, đã chuyên biệt nại tới “cảm thức phổ quát của Giáo Hội” [universum Ecclesiae sensum] (25).
31. Melchior Cano (1509-1560), người từng tham dự Công Đồng, đã đưa ra khảo luận chi tiết đầu tiên về cảm thức đức tin của các tín hữu (sensus fidei fidelium) để bênh vực việc người Công Giáo tôn kính sức mạnh được chứng minh của Thánh Truyền trong suy luận thần học. Trong khảo luận tựa là De locis theologicis (1564) (các chủ đề thần học) (26), ngài nhận diện sự đồng thuận chung của các tín hữu hiện thời như là một trong 4 tiêu chuẩn để xác định liệu một hoc lý hay một thực hành nào đó có thuộc về truyền thống tông đồ hay không (27). Trong chương về thẩm quyền của Giáo Hội liên quan tới tín lý, ngài cho rằng đức tin của Giáo Hội không thể sai lạc vì Giáo Hội là Hiền Thê (Hs 2; 1Cor 11:2) và là Thân Thể Chúa Kitô (Eph 5), và vì Chúa Thánh Thần luôn hướng dẫn Giáo Hội (Ga 14:16, 26) (28). Cano cũng nhận định rằng hạn từ “Giáo Hội” đôi khi chỉ mọi tín hữu, bao gồm cả các mục tử, nhưng đôi khi chỉ các nhà lãnh đạo và các mục tử (principes et pastores), vì các ngài cũng có Chúa Thánh Thần (29). Ngài dùng chữ này theo nghĩa đầu khi quả quyết rằng đức tin của Giáo Hội không thể sai lầm, Giáo Hội không thể bị lừa đảo khi tin và tính vô ngộ không phải chỉ thuộc Giáo Hội của những thời đã qua mà cả của Giáo Hội hiện tại nữa. Ngài dùng hạn từ “Giáo Hội” theo nghĩa thứ hai khi dạy rằng các mục tử của Giáo Hội không sai lầm khi đưa ra các phán đoán có thế giá về tín lý, vì các ngài được Chúa Thánh Thần phù trợ trong nhiệm vụ này (Eph 4:; 1Tm 3) (30).
32. Thánh Robert Bellarmine (1542-1621), khi bênh vực đức tin Công Giáo chống lại các chỉ trích của Phái Cải Cách, đã lấy Giáo Hội hữu hình, hay “tính phổ quát của mọi tín hữu”, làm điểm khởi hành. Đối với ngài, mọi điều tín hữu coi như nói về đức tin (de fide), và mọi điều các giám mục dạy như thuộc về đức tin, đều nhất thiết đúng và cần phải tin (31). Ngài chủ trương rằng các công đồng của Giáo Hội không thể sai lầm vì chúng có sự đồng thuận này của Giáo Hội phổ quát” (consensus Ecclesiae universalis) (32).
33. Các nhà thần học khác thời hậu Triđentinô tiếp tục khẳng nhận tính vô ngộ của Ecclesia (hiểu như toàn thể Giáo Hội, bao gồm các mục tử) in credendo (khi tin), nhưng họ bắt đầu phân biệt một cách sắc nét các vai trò “Giáo Hội giảng dạy” và “Giáo Hội học hỏi”. Việc nhấn mạnh trước đây tới tính vô ngộ “tích cực” của Ecclesia in credendo dần dần bị thay thế bởi việc nhấn mạnh tới vai tò tích cực của Ecclesia docens (Giáo Hội giảng dạy). Cũng từ đó, người ta hay nói rằng Ecclesia discens (Giáo Hội học hỏi) chỉ có được thứ vô ngộ tiêu cực mà thôi.
d) Thế kỷ 19
34. Thế kỷ 19 là thời kỳ quyết định đối với học lý cảm thức đức tin của các tín hữu. Trong Giáo Hội Công Giáo, sở dĩ có việc này một phần là để trả lời chỉ trích của các đại biểu nền văn hóa hiện đại cũng như của các truyền thống Kitô Giáo khác, một phần cũng vì sự trưởng thành nội bộ, việc gia tăng ý thức lịch sử, quan tân mới mẻ tới các giáo phụ và các nhà thần học trung cổ, và việc tìm hiểu mới mẻ mầu nhiệm Giáo Hội. Trong ngữ cảnh này, các nhà thần học Công Giáo như Johann Adam Möhler (1796-1838), Giovanni Perrone (1794-1876), và John Henry Newman đã lưu ý cách mới mẻ tới cảm thức đức tin của các tín hữu, coi nó như một chủ đề thần học nhằm giải thích việc Chúa Thánh Thần gìn giữ toàn thế Giáo Hội ra sao trong sự thật và biện minh cho các khai triển trong kho tàng tín lý của Giáo Hội. Các nhà thần học làm nổi bật vai trò tích cực của toàn thể Giáo Hội, nhất là sự đóng góp của tín hữu giáo dân, vào việc duy trì và thông truyền đức tin của Giáo Hội; và huấn quyền mặc nhiên xác nhận cái nhìn thấu xuốt này trong diễn trình dẫn tới việc định tín tín điều Vô Nhiễm Thai (1854).
35. Để bảo vệ đức tin Công Giáo chống lại thuyết duy lý, học giả của Tübingen là Johann Adam Möhler, tìm cách mô tả Giáo Hội như một cơ thể sống động và cố gắng khám phá ra các nguyên tắc điều hướng việc khai triển học lý. Theo quan điểm của ngài, Chúa Thánh Thần lên sinh khí, hướng dẫn và kết hợp các tín hữu thành một cộng đồng của Chúa Kitô, làm phát sinh nơi họ một “ý thức” có tính Giáo Hội về đức tin (Gemeingeist hay Gesamtsinn), một điều giống như Volksgeist hay tinh thần quốc gia (33). Cảm thức đức tin này, vốn là chiều kích chủ quan của Thánh Truyền, nhất thiết bao gồm một yếu tố khách quan, tức giáo huấn của Giáo Hội, vì “cảm thức” có tính Kitô của tín hữu, một cảm thức sống trong trái tim họ và hầu như tương đương với Thánh Truyền, không bao giờ tách biệt với nội dung của nó cả (34).
36. Chân phúc John Henry Newman thoạt đầu tìm hiểu cảm thức đức tin của các tín hữu để giải quyết sự khó hiểu của ngài đối với việc khai triển học lý. Ngài là người đầu tiên cho công bố trọn một khảo luận về đề tài sau, tức “Một Khảo Luận về Việc Khai Triển Học Lý Kitô Giáo” (1845). Ngài đã liệt kê các đặc điểm của một khai triển trung thành. Để phân biệt giữa việc khai triển đúng và việc khai triển sai, ngài dùng qui luật của Thánh Augustinô, đồng thuận phổ quát của toàn thể Giáo Hội “Securus judicat orbis terrarum”, nhưng ngài thấy rõ: cần phải có một thẩm quyền bất khả ngộ để gìn giữ Giáo Hội trong sự thật.
37. Sử dụng các thông sáng của Möhler và Newman (35), Perrone lấy lại cách hiểu của các giáo phụ về cảm thức các tín hữu để đáp ứng ý nguyện phổ quát của tín hữu muốn Đức Giáo Hoàng định tín mầu nhiệm Vô Nhiễm Thai của Đức Maria; ngài thấy sự đồng thanh nhất trí, hay conspiratio, của các tín hữu và mục tử của họ là một bảo đảm đối với nguồn gốc tông truyền của học lý này. Ngài chủ trương rằng các nhà thần học nổi danh nhất đều gán một sức mạnh có chứng cớ cho cảm thức của các tín hữu và sức mạnh của một “dụng cụ của truyền thống” có thể bù đắp cho sự thiếu sót của một dụng cụ khác, thí dụ, “sự im lặng của các giáo phụ” chẳng hạn (36).
38. Các nghiên cứu của Perrone đã gây ảnh hưởng lên Đức Piô IX, giúp ngài quyết định tiến tới việc định tín mầu nhiệm Vô Nhiễm Thai. Ảnh hưởng này hiển nhiên ở sự kiện: trước khi định tín, ngài yêu cầu các giám mục khắp thế giới phúc trình bằng văn thư cho ngài hay lòng sùng kính của giáo sĩ và giáo dân của các vị đối với việc tượng thai ra Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm (37). Trong tông hiến định tín, tựa là Ineffabilis Deus (1854), Đức GH Piô IX tuyên bố rằng mặc dù ngài đã biết rõ tâm tư các vị giám mục đối với vấn đề này, ngài vẫn đặc biệt yêu cầu các vị thông tri cho ngài về lòng đạo đức và sùng kính của các tín hữu của các vị đối với khía cạnh này, và ngài kết luận rằng “Thánh Kinh, Thánh Truyền đáng kính, cảm thức thường hằng của Giáo Hội [perpetuus Ecclesiae sensus], sự đồng linh hứng đặc biệt giữa các giám mục Công Giáo và tín hữu [singularis catholicorum Antistitum ac fidelium conspiratio], và các pháp lệnh cùng hiến chế đáng nhớ của các vị tiền nhiệm của ta” thẩy đều đã làm sáng tỏ một cách kỳ diệu và công bố học lý này (38). Ngài đã sử dụng ngôn từ trong khảo luận của Perrone như thế để diễn tả chứng từ chung của các giám mục và các tín hữu. Chân Phúc Newman vốn đã làm nổi bật hạn từ đồng linh hứng conspiratio, và nhận định rằng “hai Giáo Hội, tức Giáo Hội giảng dạy và Giáo Hội học hỏi, được đặt chung với nhau thành một chứng từ kép, minh giải lẫn nhau và không bao giờ chia rẽ” (39).
39. Sau đó, khi viết cuốn “Về Việc Tham Khảo Tín Hữu Trong Các Vấn Đề Học Lý” (1859), Chân Phúc Newman muốn chứng minh rằng tín hữu (phân biệt với các mục tử của họ) có vai trò riêng và tích cực của họ trong việc bảo tồn và chuyển giao đức tin. “Truyền thống Tông Đồ được giao phó cho toàn thể Giáo Hội với mọi thành phần của nó và hành xử per modum unius (theo phương thức hợp nhất)”, nhưng các giám mục và các giáo dân làm chứng cho nó theo nhiều cách thế khác nhau. Ngài nói rằng truyền thống “tự biểu lộ cách khác nhau tùy mỗi thời: đôi khi do miệng hàng giám mục, đôi khi do các nhà thần học, đôi khi do dân chúng, đôi khi do phụng vụ, nghi thức, nghi lễ, và phong tục, biến cố, các cuộc tranh luận, các phong trào, và tất cả những hiện tượng khác bao gồm dưới tên lịch sử” (40). Đối với Chân Phúc Newman, “trong kiểu nói pastorum et fidelium conspiratio, có một điều gì đó không thuộc một mình các mục tử” (41). Trong tác phẩm này, Chân Phúc Newman trích dẫn khá dài các luận điểm đã được Giovanni Perrone đề xuất một thập niên trước đó để ủng hộ viêc định tín mầu nhiệm Vô Nhiễm Thai (42).
40. Hiến chế Pastor Aeternus của Công Đồng Vatican I, trong đó, huấn quyền vô ngộ của Đức Giáo Hoàng đã được xác định, đã không hề làm ngơ cảm thức đức tin của các tín hữu; trái lại, đã tiền giả thiết nó. Bản thảo đầu tiên của hiến chế, tựa là Supremi Pastoris, mà từ đó hiến chế kia được khai triển, có một chương dành cho tính vô ngộ của Giáo Hội (chương 9) (43). Tuy nhiên, khi trình tự làm việc thay đổi để giải quyết vấn đề vô ngộ của Đức Giáo Hoàng, thì cuộc thảo luận về nền tảng kia đã được hoãn lại và không bao giờ được tiếp tục nữa. Tuy thế, trong lời tường trình (relatio) của ngài về việc định tín tính vô ngộ của Đức Giáo Hoàng, Đức Giám Mục Vincent Gasser có giải thích rằng ơn trợ giúp đặc biệt dành cho Đức Giáo Hoàng không đặt ngài ra ngoài Giáo Hội và không loại bỏ việc tham khảo và hợp tác” (44). Ngài nói: việc định tín mầu nhiệm Vô Nhiễm Thai là một thí dụ về một trường hợp “khó đến nỗi, để được thông tri, Đức Giáo Hoàng thấy cần phải hỏi ý kiến các giám mục, như một phương thế bình thường, xem tâm tư các Giáo Hội ra sao” (45). Trong một thuật ngữ nhằm loại bỏ chủ nghĩa Pháp Giáo (Gallicism), hiến chế Pastor Aeternus quả quyết rằng các định tín tín lý ex cathedra của Đức Giáo Hoàng liên quan tới đức tin và luân lý là không thể sửa đổi được “do chính chúng chứ không do sự đồng thuận của Giáo Hội [ex sese non autem ex consensu ecclesiae]” (46), nhưng điều này vẫn không làm cho sự đồng thuận của Giáo Hội (consensus Ecclesiae) ra dư thừa. Điều bị loại bỏ là lý thuyết cho rằng một định tín như thế đòi phải có sự đồng thuận này, đến trước hoặc đến sau, như một điều kiện nếu nó muốn có tư thế thẩm quyền (47). Để trả lời cuộc khủng hoảng của phe duy hiện đại, một sắc lệnh của Văn Phòng Thánh, tựa là Lamentabili (1907), đã xác nhận tính tự do của Ecclesia docens (Giáo Hội giảng dạy) đối với Ecclesia discens (Giáo Hội học hỏi). Sắc lệnh bác bỏ đề xuất cho phép các mục tử chỉ được dạy những gì đã được tín hữu tin (48).
e) Thế kỷ 20
41. Các nhà thần học Công Giáo trong thế kỷ 20 đã thăm dò học lý cảm thức đức tin của các tín hữu (sensus fidei fidelium) trong ngữ cảnh nền thần học về Thánh Truyền, vốn là một Giáo Hội học đổi mới, và nền thần học về giáo dân. Họ nhấn mạnh rằng “Giáo Hội” không đồng nhất với các mục tử của mình; nhờ hành động của Chúa Thánh Thần, toàn thể Giáo Hội đều là chủ thể hay “cơ quan” của Thánh Truyền; và tín hữu giáo dân có vai trò tích cực trong việc chuyển giao đức tin tông truyền. Huấn quyền ủng hộ các khai triển này cả trong lúc tham khảo để định tín việc Đức Nữ Trinh Diễm Phúc Maria vinh hiển được triệu về trời lẫn trong việc Công Đồng Vatican phục hồi và xác nhận học lý cảm thức đức tin.
42. Năm 1946, theo khuôn mẫu của vị tiền nhiệm, Đức GH Piô XII gửi thông điệp Deiparae Virginis Mariae tới toàn thể giám mục thế giới yêu cầu các vị thông tri cho ngài hay “về lòng sùng kính của giáo sĩ và giáo dân chư huynh (xem sét cả đức tin và lòng đạo đức của họ) đối với việc Triệu Về Trời Trinh Nữ Rất Diễm Phúc Maria”. Như thế, ngài đã tái xác nhận tập tục tham khảo tín hữu trước khi đưa ra một đính tín tín lý, và, trong tông hiến Munificentissimus Deus (1950), ngài nhắc đến “câu trả lời gần như đồng thanh” ngài đã nhận được (49). Niềm tin vào việc Triệu Đức Maria Về Trời, quả thực, “đã bén rễ hoàn toàn vào tâm trí tín hữu” (50). Đức GH Piô XII nói tới “giáo huấn đồng điệu (concordant) của thẩm quyền tín lý bình thường của Giáo Hội và đức tin đồng điệu của giáo dân Kitô Giáo” và, liên quan tới niềm tin vào việc Triệu Đức Maria Về Trời, ngài nói, như Đức GH Piô IX từng nói liên quan tới niềm tin vào việc Đức Maria Vô Nhiễm Thai, rằng có một “singularis catholicorum Antistitum et fidelium conspiratio” (sự động linh hứng đặc biệt giữa cá mục tử và các tín hữu). Ngài còn nói thêm rằng sự đồng linh hứng này cho thấy “một cách hoàn toàn chắc chắn và vô ngộ” rằng việc Triệu Đức Maria Về Trời là “một chân lý được Thiên Chúa mạc khải và được chứa đựng trong kho tàng thần linh mà Chúa Kitô đã ủy thác cho Hiền Thê của Người gìn giữ và giảng dạy một cách vô ngộ” (51). Như thế, cả trong hai trường hợp, các định tín của Đức Giáo Hoàng đều đã xác nhận và cử hành các niềm tin sâu sắc của tín hữu.
43. Linh mục Yves M.-J. Congar (1904-1995) đóng góp đáng kể vào việc khai triển học lý cảm thức đức tin của tín hữu (sensus fidei fidelis) và cảm thức đức tin của các tín hữu (sensus fidei fidelium). Trong cuốn Jalons pour une Théologie du Laïcat (các cột mốc cho một nền thần học về giáo dân, 1953), ngài thăm dò học lý này về phương diện người giáo dân tham dự vào chức năng tiên tri của Giáo Hội. Linh mục Congar rất quen thuộc với công trình của Chân Phúc Newman và theo đuổi cùng một đường lối (nghĩa là ba chức vụ của Giáo Hội, và cho rằng cảm thức của các tín hữu là một biểu thức của chức vụ tiên tri) tuy không qui chiếu thẳng vào Newman (52). Ngài mô tả cảm thức của các tín hữu như là hồng ân Chúa Thánh Thần “ban cho hàng giáo phẩm cùng với toàn bộ tín hữu”, và ngài phân biệt thực tại khách quan của đức tin (là thực tại tạo nên thánh truyền) với khía cạnh chủ quan là ơn đức tin (53). Trong khi các tác giả trước đây nhấn mạnh tới sự phân biệt giữa Ecclesia docens và Ecclesia discens, thì linh mục Congar quan tâm tới việc chứng tỏ tính hợp nhất hữu cơ của hai thực tại này. Ngài viết “Giáo Hội yêu và tin, tức toàn bộ tín hữu, là vô ngộ trong việc sở hữu đức tin sống động, chứ không phải trong một hành vi hay phán đoán đặc thù” (54). Giáo huấn của hàng giáo phẩm là để phục vụ hiệp thông.
44. Giáo huấn của Công Đồng Vatican II đã phản ảnh sự đóng góp của cha Congar nhiều cách. Chương một của hiến chế Lumen Gentium, về “Mầu Nhiệm Giáo Hội”, dạy rằng Chúa Thánh Thần “ngụ cư trong Giáo Hội và trong trái tim các tín hữu, như trong một đền thờ”. “Trong khi hướng dẫn Giáo Hội theo đường mọi chân lý (xem Ga 16:13) và hợp nhất Giáo Hội trong hiệp thông và trong công việc thừa tác, Người ban cho Giáo Hội những hồng ân khác nhau có tính phẩm trật và đặc sủng, và nhờ thế, điều hướng Giáo Hội; và Người trang trí Giáo Hội bằng các hoa trái của Người (xem Eph 4:11-12; 1Cor 12:4; Gl 5:22) (55). Sau đó, chương hai tiếp tục nói tới Giáo Hội như một toàn thể, như “dân Thiên Chúa”, trước khi phân biệt người giáo dân với người được thụ phong. Đoạn LG 12, tức đoạn nhắc tới cảm thức đức tin, dạy rằng, vì lãnh nhận được “sự xức dầu từ Đấng Thánh (xem !Ga 2:20, 27), toàn bộ tín hữu… không thể sai lầm trong các vấn đề đức tin”. “Thần Khí sự thật” khơi dậy và duy trì “một cảm thức siêu nhiên về đức tin” (supernaturali sensu fidei)”, được thấy rõ khi “toàn bộ dân Chúa… ‘từ các giám mục tới người tín hữu rốt hết’ biểu lộ một đồng thuận phổ quát trong các vấn đề đức tin và luân lý”. Nhờ cảm thức đức tin, “được thẩm quyền giáo huấn thánh thiện (huấn quyền) hướng dẫn và nhờ vâng theo huấn quyền này, Dân Thiên Chúa tiếp nhận được không phải chỉ là lời phàm nhân, mà thực sự là lời Thiên Chúa (xem 1Tx 2:13”. Theo sự mô tả này, cảm thức đức tin là một khả năng tích cực hay một mẫn cảm nhờ đó, họ có khả năng tiếp nhận và hiểu được “đức tin đã một lần dứt khoát được ban cho các thánh (xem Giuđa 3)”. Thực vậy, nhờ cảm thức này, người ta không những “luôn gắn bó với đức tin”, mà còn “đào sâu nó hơn nữa bằng một phán đoán đúng đắn, và áp dụng nó một cách trọn vẹn hơn vào đời sống hàng ngày”. Nó là phương thế để dân Chúa tham dự vào “chức vụ tiên tri của Chúa Kitô” (56).
45. Hiến chế Lumen Gentium, trong các chương ba và bốn sau đó, đã lần lượt mô tả việc Chúa Kitô thi hành ra sao chức vụ tiên tri của Người: không những qua các mục tử của Giáo Họi, mà còn qua cả các tín hữu giáo dân nữa. Hiến chế dạy rằng “cho tới lúc tỏ hiện trọn vẹn vinh quang của Người”, Chúa Giêsu chu toàn chức vụ này “không những nhờ hàng giáo phẩm là những người giảng dạy nhân danh Người và bằng quyền năng của Người, mà còn nhờ hàng giáo dân nữa”. Liên quan tới hàng sau, hiến chế nói tiếp: “Do đó, không những Người lập họ làm nhân chứng và ban cho họ cảm thức đức tin và ơn lời nói [sensu fidei et gratia verbi instruit] (xem Cv 2:17-18; Kh 19:10) để sức mạnh Tin Mừng tỏa chiếu trong cuộc sống gia đình và xã hội hàng ngày”. Được các bí tích tăng cường, “người giáo dân có thể và phải thực hiện công trình phúc âm hóa thế giới đầy giá trị” (57). Ở đây, cảm thức đức tin được trình bày như hồng ân Chúa Kitô ban cho tín hữu, và một lần nữa, được mô tả như một khả năng tích cực nhờ đó tín hữu có khả năng hiểu, sống và công bố các chân lý của mạc khải Thiên Chúa. Nó là căn bản đối với công việc phúc âm hóa của họ.
46. Cảm thức đức tin cũng được nhắc tới trong giáo huấn của Công Đồng về việc phát triển học lý, trong ngữ cảnh chuyển giao đức tin tông truyền. Văn kiện Dei Verbum viết rằng Truyền Thống tông đồ “tiến triển trong Giáo Hội với ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần”. “Có sự phát triển trong việc thông hiểu các thực tại và lời lẽ được chuyển giao” và Công Đồng nhận diện được 3 cách việc này xẩy ra: “nhờ việc chiêm niệm và nghiên cứu của các tín hữu , những người luôn suy nghĩ những việc này trong tâm hồn (xem Lc 2:19, 51)”; “nhờ việc hiểu thấu các thực tại thiêng liêng mà họ vốn cảm nhận [ex intima spiritualium rerum quam experiuntur intelligentia]”; và “nhờ lời giảng dạy của những vị (các giám mục) đã tiếp nhận… đặc sủng chân lý chắc chắn” (58). Dù đoạn này không nêu đích danh cảm thức đức tin, nhưng việc chiêm niệm, việc nghiên cứu và cảm nghiệm của tín hữu mà đoạn này nhắc tới tất cả đều rõ ràng có liên hệ với cảm thức đức tin, và phần lớn các nhà bình luận đều nhất trí rằng các nghị phụ công đồng cố ý nại tới lý thuyết về phát triển học lý của Newman. Khi đọc bản văn này dưới sự soi sáng của mô tả cảm thức đức tin ở Lumen Gentium 12 như là nhạy cảm (appreciation) đức tin do Chúa Thánh Thần khơi dậy, nhờ thế tín hữu, khi được các mục tử hướng dẫn, đã luôn gắn bó với đức tin, thì người ta thấy rõ: cùng một ý niệm đã được phát biểu. Khi nhắc đến “hòa điệu đáng lưu ý” nên có giữa các giám mục và giáo dân trong việc thực hành và tuyên xưng đức tin được truyền từ các tông đồ, Dei Verbum thực sự đã sử dụng chính các kiểu nói có trong các định tín của cả hai tín điều về Đức Mẹ, tức “singularis fiat Antistitum et fidelium conspiratio” (nên có sự đồn glinh hứng giữa các mục tử và tín hữu) (59).
47. Từ thời Công Đồng, huấn quyền luôn nhắc lại những điểm chủ yếu trong giáo huấn của Công Đồng về cảm thức đức tin (60) và đồng thời cũng đề cập một vấn đề mới, đó là, tầm quan trọng của việc không giả thiết coi công luận bên trong (hoặc bên ngoài) Giáo Hội nhất thiết đồng nghĩa với cảm thức đức tin (của các tín hữu). Trong tông huấn hậu thượng hội đồng, Familiaris Consortio (1981), Đức GH Gioan Phaolô II xem sét vấn đề: “cảm thức siêu nhiên về đức tin” có liên hệ ra sao với việc “đồng thuận của các tín hữu” và với ý kiến đa số trong các khảo cứu xã hội và thống kê. Ngài viết rằng: cảm thức đức tin “không hệ duy nhất hay nhất thiết ở việc đồng thuận của tín hữu”. Nhiệm vụ của các mục tử Giáo Hôi là “phát huy cảm thức đức tin nơi mọi tín hữu, khảo sát và phán đoán một cách có thẩm quyền tính chân chính trong các phát biểu của nó, và giáo dục tín hữu trong việc biện phân phúc âm một cách trưởng thành hơn nữa” (61).