Khổng Tử cũng xây dựng hệ tư tưởng của mình dựa trên quan điểm chủ đạo trên. Trong đó, ông phát huy đức “Nhân” như là một trọng tâm của đời sống đạo đức con người
Từ thế kỷ 19, sau Kant, người ta không muốn triết học chỉ là một mớ kiến thức vu vơ, một trò chơi luận lý sách vở không ăn nhập gì với thân phận con người trong thời gian và biến hóa của lịch sử.
Thực là ngược đời, cái triết học "giảo hoạt" của Lão tử lại sản sinh ra cái lý tưởng cao thượng nhất về hòa bình, khoan dung, giản phác và tri túc. Giáo huấn của ông gồm bốn điểm
Mặc dầu “căn tính tâm linh của chúng ta thì cao trọng hơn của cải vật chất hay tài năng nhân loại, nhưng căn tính ấy cũng không kém mong manh và giả tạo”. “Kiêu ngạo khiến chúng ta khắt khe và thiếu kiên nhẫn với những kẻ không “hành động” như họ phải làm và cản trở kế hoạch và dự phóng của chúng ta”.
Đời sống thánh hiến nằm ngay ở giao điểm của sự đảo ngược Tin Mừng, nên có thể nói tất cả mọi “chi tiết” của đời sống thánh hiến đều phản ảnh một thách đố.
“Tôn giáo” trong Xã Hội Học có thể dùng như tính từ hoặc như danh từ. Như tính từ, sociologie religieuse là một ngành của mục vụ, nhằm tìm hiểu tình hình thực hành đạo của một đơn vị
“Chiêm niệm” có lẽ là một từ ngữ đặc thù của đạo Công giáo, chứ không thấy dùng trong các tôn giáo khác. Chiêm niệm được dùng để dịch từ “contemplatio” trong tiếng Latinh (chuyển sang tiếng Pháp và tiếng Anh là “contemplation”).
Nói đến các tác phẩm của thánh Thérèse Lisieux, còn gọi là Thérèse Hài Đồng Giêsu, quý vị sẽ nghĩ ngay đến truyện “Một Tâm Hồn” .
Spiritualis là tính từ, gốc bởi danh từ spiritus (cũng như trong tiếng Pháp, spiritual bởi esprit hoặc tiếng Anh spiritual bởi spirit). Thế nhưng spiritus có nghĩa là gì? Nó có thể là: tinh thần, lý tưởng, thần khí, trần trí.
Khi người ta từ cuộc sống bon chen ồn ào ở chốn thị thành bước chân vào khuôn viên một Đan Viện chiêm niệm, điều đầu tiên chắc chắn người ta sẽ cảm nhận được là cả một không gian hoàn toàn thanh vắng yên tĩnh đầy linh thiêng thánh thiện.