Saturday, 28 December 2019 11:02

Lc 11,1-13: Lời Kinh Của Chúa - Hình Ảnh Của Thiên Chúa Featured

Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.

 

Bản Văn Tin Mừng: Lc 11,1-13 [1]

1 Có một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông”. 2 Người bảo các ông: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói:

            “Lạy Cha , xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,

            Triều Đại Cha mau đến,

3          xin Cha cho chúng con

            ngày nào có lương thực ngày ấy;

4          xin tha tội cho chúng con,

            vì chính chúng con cũng tha

            cho mọi người mắc lỗi với chúng con,

            và xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.

5 Người còn nói với các ông: “Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: ‘Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, 6 vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả’; 7 mà người kia từ trong nhà lại đáp: ‘Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được’?. 8 Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó.

9 “Thế nên Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. 10 Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. 11 Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? 12 Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? 13 Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”.

***

1.- Ngữ cảnh

Trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem, tác giả Luca ghép vào một giai thoại, trong đó, Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện, vì các ông xin Người.

Hình thức của Kinh Lạy Cha ăn khớp với ngữ cảnh này, vì bản văn được đặt sau lời kinh Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha (Lc 10,21-22),[2] cũng như sau “ví dụ” của Người về tình thương đối với người thân cận (Lc 10,29-37),[3] và việc Người nhấn mạnh trên việc lắng nghe Lời như điều cần thiết duy nhất (Lc 10,38-42).[4] Toàn khối các giai thoại này giới thiệu cho biết thái độ và những tâm tình người Kitô hữu phải có đối với Thiên Chúa.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

     1) Hoàn cảnh (Lc 11,1);

     2) Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (Lc 11,2-4);

     3) Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng hai dụ ngôn (Lc 11,5-13):

          - Dụ ngôn Người bạn quấy rầy (câu 5-8),

          - Sáu khẳng định (câu 9-10),

          - Dụ ngôn Người cha và đứa con (câu 11-13).

3.- Vài điểm chú giải

- Lạy Cha (2): Tác giả chỉ dùng hô-cách Hy Lạp đơn giản: “pater” (x. Lc 10,21), tương đương với từ Aram ’abbâ’. Do chỗ từ này được lưu giữ trong Mc 14,36 (x. Gl 4,6; Rm 8,15),[5] có thể cho rằng kiểu thưa gửi trong bản văn Luca thì “gốc” hơn kiểu trong Matthew (với công thức “Lạy Cha chúng con, Đấng ngự trên trời”).

Một số tác giả như Kittel, Jeremias và Marchel nghĩ rằng, đây rất có thể là một từ ngữ của các em bé.[6] Còn A. Pitta thì cho rằng, không phải chỉ có các em bé mới dùng từ này mà thưa với cha, nhưng cả người lớn cũng dùng để ngỏ lời với cha.[7] Dù sao, vào thế kỷ I, từ này không chỉ được dành cho trẻ em mà cả người lớn.

Gọi “Thiên Chúa”“Cha” không phải là chuyện lạ lùng. Danh xưng “cha” đã có nơi các tôn giáo rất khác nhau, từ dạng thô sơ nhất đến dạng phát triển nhất của người Hy Lạp, Roma và Sémite; Nhưng điều lạ là sử dụng một danh xưng thân mật để thưa với Thiên Chúa. Theo các nghiên cứu của Jeremias và Marchel, ’abbâ’ là một danh xưng thân mật, nên không bao giờ được người Do Thái dùng mà thưa với Thiên Chúa. Đôi khi, cũng rất hiếm, từ này được dùng để nói về Thiên Chúa, chứ không bao giờ để thưa với Thiên Chúa. Và ngay cả nói về Thiên Chúa, các bản “Targumim” (= Bản dịch và diễn giải) cũng rất ngại áp dụng danh hiệu “cha” cho Ngài. Ngược lại, theo chứng từ của Mc 14,36, được củng cố gián tiếp bởi Gl 4,6, Đức Giêsu là người đầu tiên thưa với Thiên Chúa bằng tiếng gọi thân mật “Abba”, và như thế Người tỏ cho thấy tương quan thân tình như là người con với Thiên Chúa, một thứ tương quan kiểu mới mẻ và duy nhất, vô song.[8] Tương quan này được diễn tả rõ ràng trong một vài bản văn Tin Mừng, đặc biệt trong Mt 11,27 // Lc 10,22.[9] Tin Mừng thứ IV triển khai các phương diện khác nhau của tương quan hỗ tương này, một tương quan được vén mở cho thấy không những bằng các lời nói, mà hơn còn bằng công trình chung giữa Chúa Cha và Chúa Con; và công trình chung này đạt tới đỉnh cao khi Đức Giêsu hiến mình trên Núi Sọ. Tin Mừng làm chứng về hai điều:

+ 1/. Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa là tương quan có một không hai, không thể so sánh với bất cứ kiểu tương quan nào; tương quan này hoàn hảo, thâm sâu, hỗ tương; theo nghĩa này, tương quan này chuyên nhất (x. Ga 10,30);[10]

+ 2/. Tuy nhiên, theo một nghĩa khác, tương quan này không độc chiếm, nhưng lại có khả năng thông ban, thông dự vào (x. Ga 6,57; 10,27-28).[11] Đức Giêsu đến chỉ nhắm một mục tiêu là đưa loài người vào trong tương quan Cha-con với Thiên Chúa. Và bởi vì tương quan này không phải là một tương quan bên ngoài như một kiểu liên hệ pháp lý, mà là một thực tại thâm sâu, người ta không thể thông dự vào đó nếu không được một sự thông truyền tinh thần. Vậy toàn thể cuộc sống của Đức Giêsu: sứ vụ, cái chết, sự sống lại của Người chỉ có một mục đích là thông ban Thánh Thần trong tư cách là Thần Khí của Con (x. Gl 4,6). Quả thật, Đức Giêsu là người đầu tiên cầu nguyện với Thiên Chúa bằng danh hiệu này. Nhưng bây giờ, nhờ Thần Khí của Người Con, mỗi tín hữu cũng có thể làm như thế: là con (x. Gl 3,26; 4,6.7),[12] người tín hữu thông dự vào lời cầu nguyện của Chúa Con.

- Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển (2): Dịch sát là “Ước gì Danh Cha được hiển thánh”. Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, câu này không có nghĩa là Thiên Chúa phải bận tâm làm cho loài người coi Danh của Ngài là thánh và không làm ô nhục Danh Ngài. Câu này có nghĩa là: Chính Thiên Chúa phải thánh hóa Danh Ngài; chính Ngài phải hành động cách nào để loài người nhận biết và tuyên xưng đúng như Tên Ngài, tức là như Thiên Chúa và như Cha. Như thế, là xin Thiên Chúa mạc khải bản thân Ngài ra vĩnh viễn cho người ta được thấy Ngài và đến được với Ngài cách chắc chắn.

- [Xin làm cho] Triều Đại Cha mau đến (2): Đây là nội dung chính của lời Đức Giêsu loan báo. Người loan báo Tin Mừng về Triều Đại Thiên Chúa, về quyền chủ tể của Thiên Chúa (Lc 4,43; 8,1; 10,9.11):[13] Thiên Chúa là Chúa Tể duy nhất và tốt lành, sẽ thực hiện công khai vương quyền của Ngài. Lời xin này cầu mong mau đến lúc Thiên Chúa sẽ hiển trị trên tất cả mọi sự cách công khai và hữu hình; Đấng là Cha sẽ là Chúa Tể duy nhất.

- Ngày nào có lương thực ngày ấy (3): Dịch sát là “Xin ban cho chúng con mỗi ngày” (to kath’ hêmeran), hiểu theo nghĩa phân phối.

- Xin tha tội (4): Tác giả Luca đã thay từ “opheilemata” (các món nợ) bằng từ “hamartias” (các tội), có lẽ để cho độc giả Kitô hữu gốc Dân ngoại dễ hiểu lời xin này hơn.

- Bạn (5): Từ ngữ “philos” được dùng nhiều lần khiến chúng ta nhớ đến bối cảnh là lòng hiếu khách của người dân vùng Cận Đông. “Bạn” vừa có nghĩa là người láng giềng và người khách.

- Anh ta cứ lì ra đó (8): “Anaideia” (sự trâng tráo, lì lợm). Có tác giả nghĩ rằng, từ này áp dụng cho người bạn bị quấy rầy, nên phải dịch là “thể diện”.[14] Nhưng giải thích như thế không đúng, bởi vì: cả câu 8 dịch sát là: “dẫu anh không dậy để cho người này (autô) vì là bạn của người này (autou), thì cũng vì sự lì lợm của người này (autou), anh sẽ dậy để cho người này (autô) tất cả những gì người này cần”. Bởi vì đại từ sở hữu “autô” và tính từ sở hữu “autou” (Ở chủ-cách là autos) được dùng để chỉ người đến quấy rầy, nên phải hiểu “anaideia” áp dụng cho người quấy rầy.

- Tất cả những gì anh ta cần (8): Nghĩa là không phải chỉ cho những gì anh ta xin mà thôi.

- Anh em cứ xin thì sẽ được (9): Đây là một trạng thái bị động thay tên Thiên Chúa, nên có nghĩa là: “Anh em cứ xin, thì sẽ được Thiên Chúa ban cho”.

- Cứ tìm thì sẽ thấy (9): Do câu này song song với câu trên, ta hiểu là “sẽ thấy, với sự trợ giúp của Thiên Chúa”.

- Thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó (11): Hiểu là có sự giống nhau về bề ngoài giữa con cá và con rắn. Thỉnh thoảng các ngư phủ trên Hồ Gennesaret dùng cá nhỏ mà câu rắn nước.

- Xin trứng lại cho nó bò cạp (12): Một con bò cạp cuộn càng và đuôi lại thì giống với một quả trứng.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Hoàn cảnh (1)

Trước mắt các môn đệ, hẳn là Đức Giêsu xuất hiện ra như là vị thầy về cầu nguyện. Còn trước mặt Người, các ông quả là những người đang chập chững tập cầu nguyện. Do đó, các ông đã xin Người dạy cầu nguyện. Đàng khác, vào thời Đức Giêsu, các nhóm tôn giáo được phân biệt nhờ có một kiểu cầu nguyện riêng. Lời xin của các môn đệ Đức Giêsu cho thấy các ông ý thức mình là một cộng đoàn.

* Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (2-4)

Đức Giêsu đã ban cho các ông bản văn một kiểu mẫu cầu nguyện. Điều này không có nghĩa là các ông phải luôn luôn dùng những lời này mà thôi. Nhưng với người nào dùng lời kinh này, người ấy được xác định cho biết bầu khí phải quan tâm khi cầu nguyện và được nhắc đến những lời thỉnh cầu phải coi là quan trọng nhất.

Trong lời kinh, chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa và trình cho Ngài các lời thỉnh cầu của chúng ta. Chúng ta không thấy Ngài và tự mình không thể biết là Ngài đang tương quan với chúng ta thế nào. Ngài vô hình, xa cách, rất lạ với ta, ta không thể hiểu Ngài và khám phá Ngài cặn kẽ. Trong cầu nguyện, quan trọng nhất là biết bản chất của tương quan giữa Thiên Chúa và loài người. Phải chăng Thiên Chúa là một Chúa tể quyền lực, có thể nhậm lời ta cầu xin, nhưng Ngài không hề quan tâm đến ta? Lời xin đầu tiên và căn bản nhận được câu trả lời nơi lời đầu tiên của Đức Giêsu: chúng ta phải ngỏ lời với Thiên Chúa như với một “Người Cha”. Thiên Chúa không phải là một Chúa tể xa cách, xa lạ, quyền lực, không muốn biết gì về chúng ta. Ngài đã giao tiếp với chúng ta với mối quan tâm, tình yêu và sự chăm sóc, như một người cha đích thực.

Đức Giêsu đã phác ra những nét chính để dạy chúng ta biết phải cầu nguyện với Thiên Chúa thế nào. Theo kiểu mẫu của Người, chúng ta thấy có hai khối lời cầu xin. Khối thứ nhất liên hệ trực tiếp đến Thiên Chúa, khối thứ hai liên hệ đến chúng ta và các nhu cầu của chúng ta. Lời cầu “xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”, là xin Thiên Chúa cho chúng ta được đi từ hoàn cảnh đức tin sang hoàn cảnh hưởng kiến. Lời cầu thứ hai xin Thiên Chúa là Cha tỏ quyền Chúa Tể trên mọi sự. Nói chung, hai lầu cầu đầu tiên xin cho có cuộc đảo lộn các tương quan hiện hữu, trong đó Thiên Chúa dường như vắng mặt hoặc ẩn mình. Chúng ta xin Ngài trở nên hữu hình và tỏ ra là Chúa Tể duy nhất mãi mãi.

Khối lời thỉnh cầu thứ hai liên hệ đến các nhu cầu cấp bách nhất của chúng ta: các nhu cầu vật chất (cái ăn cái uống, y phục, nhà cửa). Bên cạnh các nhu cầu vật chất, là các nhu cầu thiêng liêng: “xin tha tội cho chúng con”. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta trách nhiệm, nhưng chúng ta thường xuyên sống vô trách nhiệm, trở thành có lỗi trước mạt Thiên Chúa, chúng ta phạm những thiếu sót đối với người thân cận. Chúng ta không thể tự mình tha các lỗi cho mình. Chúng ta lệ thuộc sự tha thứ của Thiên Chúa nên phải xin Ngài ban cho. Thêm vào lời cầu xin này, Đức Giêsu nối câu: “vì chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”. Người nhắc chúng ta nhớ rằng, chúng ta không thể nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa nếu chúng ta có một tâm hồn đầy cay đắng và hiềm khích (x. Mt 18,23-35).[15]

Cuối cùng, chúng ta xin Thiên Chúa chiếu cố đến sự yếu đuối và mỏng dòn của chúng ta. Trước nhan Thiên Chúa, chúng ta nhìn nhận mình không có sức để đứng vững trong thử thách để trung thành với Ngài. Do đó, chúng ta khiêm tốn xin Ngài trợ giúp, đồng thời diễn tả ước muốn được mãi mãi liên kết với Ngài.

* Đức Giêsu dạy cầu nguyện bằng hai dụ ngôn (5-13)

Sau đó, bằng hai dụ ngôn và sáu khẳng định, Đức Giêsu còn muốn thuyết phục các môn đệ rằng họ có thể cậy dựa vào lòng nhân lành của Thiên Chúa, tức là tin rằng Ngài sẽ nhận lời họ cầu xin. Với hai dụ ngôn, Đức Giêsu vận dụng các hoàn cảnh và kinh nghiệm của loài người để dạy dỗ.

Dụ ngôn thứ nhất vận dụng những tương quan hàng xóm láng giềng ở miền quê: Nếu một người hàng xóm bị quấy rầy còn sẵn sàng giúp đỡ người bạn, chẳng lẽ Thiên Chúa vô cùng tốt lành và không hề có giờ nào không thuận tiện lại không nghe lời con cái Ngài kêu xin?

Trong dụ ngôn thứ hai, Đức Giêsu vận dụng cách thức xử sự của người cha trần thế với con cái: Nếu ngay trong lãnh vực con người, một người cha, tuy có những khiếm khuyết, còn biết cho con cái những của tốt lành, chẳng lẽ Thiên Chúa là “Cha”, Đấng có mọi tình phụ tử, lại không xử sự hơn thế sao?

Cách thức Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện cho hiểu rằng Người biết và luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Dựa trên cái nhìn này, Đức Giêsu mời chúng ta cầu nguyện tha thiết, Người hứa với chúng ta rằng chắc chắn chúng ta sẽ được nhận lời (câu 9-10). Cho tất cả những ai xin bất cứ điều gì, Thiên Chúa sẽ ban Thánh Thần. Ân ban này độc lập với nội dung của từng lời cầu nguyện. Thánh Thần là Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Ngài là Thần Khí làm cho chúng ta thành con Thiên Chúa và giúp chúng ta có thể kêu lên “Cha ơi!”.

+ Kết luận

Bởi vì Người biết và luôn luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa, bởi vì Người cũng biết ý nghĩa và cùng đích của đời sống chúng ta, Đức Giêsu có thể dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thiên Chúa hơn bất cứ ai trước Người. Trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cung cấp cho chúng ta không những một bản văn kinh nguyện, mà còn cho một kiểu mẫu về các nội dung của lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta được gọi Thiên Chúa là “Cha”: tương quan của Thiên Chúa với chúng ta là như tương quan của một người cha với các con mình. Và chúng ta hoàn toàn có thể tin cậy vào lòng nhân lành của Thiên Chúa. Trong lời cầu nguyện, chúng ta chứng tỏ mình có một hình ảnh về Thiên Chúa và cảm nghiệm thế nào về Ngài. Trong lời cầu nguyện, chúng ta thể hiện tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Trong khi cầu nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là “Cha” (Lc 10,21; 22,42; 23,34-46),[16] bởi vì Người biết Cha như thế. Lời dạy về cầu nguyện cũng đồng thời là một lời dạy về đức tin. Chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa là Cha chúng ta và Ngài tương quan với chúng ta với tất cả sự quan tâm và yêu thương. Chúng ta phải ngỏ lời với Ngài và dâng lên Ngài những lời thỉnh cầu với đức tin này. Nếu chúng ta có một ý tưởng đúng về Ngài, chúng ta sẽ trình với Ngài những lời thỉnh cầu đầy tin tưởng và hy vọng và cậy vào sự giúp đỡ của Ngài.

2. Đức Giêsu dạy chúng ta phải và có thể cầu xin cho có những nhu cầu vật chất. Người không bảo chúng ta xin cho có dư thừa. Lời cầu nguyện Người dạy cũng không thu hẹp lại theo kiểu ích kỷ, Người dạy xin cho “chúng con”, tức là tất cả những ai đang cầu nguyện.

3. Thiên Chúa không đẩy chúng ta vào cám dỗ với mục đích làm cho chúng ta rơi vào tội lỗi. Nhưng Ngài có thể thử thách chúng ta, có thể thử sự bền vững và chắc chắn của chúng ta. Với lời xin cuối cùng, chúng ta được mời gọi loại trừ mọi cao ngạo và tự phụ.

4. Như người bạn đến xin người láng giềng giúp cho một nhu cầu, chúng ta cũng phải ngỏ lời với Thiên Chúa không phải vì những chuyện phù phiếm, nhưng là để trình bày với Ngài những nhu cầu thực tế của chúng ta và của người khác. Đứng trước Thiên Chúa, chúng ta không cần phải tìm kiếm hoặc tính toán so đo về các lời lẽ, nhưng chúng ta có thể nói thẳng ra với Ngài. Và khi cầu nguyện, chúng ta không được mệt mỏi hoặc nản chí. Chúng ta không được bỏ Ngài, không mong được Ngài giúp đỡ, để rồi đi theo đường mình cách cam chịu hoặc tự phụ. Chúng ta cứ phải liên kết với Ngài bằng một lời cầu nguyện kiên nhẫn, đầy niềm tin tưởng và đơn sơ, lặp đi lặp lại và không mỏi mệt.

5. Đức Giêsu cam kết rằng nếu chúng ta tha thiết cầu nguyện, chúng ta sẽ được Thiên Chúa nhận lời. Tuy nhiên, dường như điều này không đúng với kinh nghiệm chúng ta? Thật ra Đức Giêsu bảo đảm rằng Thiên Chúa chỉ ban những của tốt lành, nhưng Người không hề bảo đảm là lời cầu nguyện của chúng ta luôn luôn có nội dung là những ân ban mà chúng ta thấy là tốt lành. Người cha không đưa con rắn cho đứa con xin cá. Nhưng nếu người con xin một con rắn mà nghĩ rằng đó là điều tốt, thì người cha, chính vì ông tốt, ông sẽ không nhận lời xin này. Vậy chính Thiên Chúa phán đoán về các lời thỉnh cầu của chúng ta. Chúng ta không thể qui định cho Ngài cách thức Ngài phải theo mà nhận lời chúng ta. Chỉ có một điều là chúng ta chắc chắn rằng Ngài sẽ nhận lời vào lúc tốt nhất cho chúng ta.

6. Không có gì lạ nếu khi dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là “Cha”, Đức Giêsu lại hứa là những ai ngỏ lời với Thiên Chúa sẽ được Ngài ban Thánh Thần. Nếu chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa trong đức tin, chúng ta đã đang cầu nguyện trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần rồi. Và khi cầu nguyện như thế, chúng ta đã sẵn sàng để cho mình được thấm nhuần sâu xa hơn bởi Thần Khí này, để cho Ngài trở nên sống động trong ta, và càng ngỏ lời với Thiên Chúa như là Cha chúng ta trong niềm tin tưởng trọn vẹn hơn. Điều quan trọng hơn mỗi lời xin và mỗi sự nhận lời, đó là tương quan chúng ta thiết lập với Thiên Chúa trong cầu nguyện. Lời kinh dâng lên với đức tin đã là một sự nhận lời rồi, bởi vì khi đó dây liên kết chúng ta với Thiên Chúa được đào sâu thêm và tăng trưởng hơn: Thiên Chúa ban Thánh Thần cho những ai cầu nguyện và đón tiếp họ vào trong sự hiệp thông ngày càng sống động và thân tình hơn với Ngài. Bởi vì Người biết và luôn luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa, bởi vì Người cũng biết ý nghĩa và cùng đích của đời sống chúng ta, Đức Giêsu có thể dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thiên Chúa hơn bất cứ ai trước Người.

 

 

 

 


[1] Bản Việt ngữ của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh

[2] Lc 10,21-22: 21 Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. 22 “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho”.

[3] Xem: http://catechesis.net/index.php/thanh-kinh/tan-uoc/cac-sach-tin-mung/tm-luca/3458-lc-10-25-37-ai-la-nguoi-than-can-cua-toi

[4] Xem: http://catechesis.net/index.php/thanh-kinh/tan-uoc/cac-sach-tin-mung/tm-luca/3470-lc-10-38-42-nguoi-khach-muon-gi

[5] Mc 14,36: 36 Người nói: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn”.

x. Gl 4,6: 6 Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi!”.

Rm 8,15: 15 Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi!”.

[6] G. Kittel, “Vabba”, GLNT, vol. I, col. 15-18; J. Jeremias, Abba. Studien zu neutestamentlichen Theologie und Zeitgeschichte (Gũttingen 1966), pp. 15-67; W. Marchel, Abba, Père (Roma 1963, 1971).

[7] A. Pitta, Lettera ai Romani. Nuova versione, introduzione e commento (I Libri biblici – Nuovo Testamento 6; Figlie di San Paolo; Milano 2001), pp. 298.

[8] Cf. Jeremias, Abba, pp. 58-67.

[9] Mt 11,27: 27 “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.

Lc 10,22: 22 “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho”.

[10] x. Ga 10,30: 30 Tôi và Chúa Cha là một”.

[11] x. Ga 6,57; 10,27-28: 57 Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. 10 27 Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. 28 Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi.

[12] x. Gl 3,26; 4,6.7: 26 Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. 4 6 Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi!” 7 Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.

[13] Lc 4,43; 8,1; 10,9.11: 43 Nhưng Người nói với họ: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó”. 8 1 Sau đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai. 10 9 Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”. 11 “Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”.

[14] Xem Bản dịch Kinh Thánh Tân Ước của Nhóm Phiên Dịch CGKPV, 1995.

[15] x. Mt 18,23-35: 23 Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. 24 Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. 25 Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. 26 Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: “Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết”. 27 Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. 28 Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: “Trả nợ cho tao!” 29 Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: “Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh”. 30 Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. 31 Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. 32 Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, 33 thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” 34 Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. 35 Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.

[16] Lc 10,21; 22,42; 23,34-46: 21 Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. 22 42 “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha”. 23 34 Bấy giờ Đức Giê-su cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm. 35 Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” 36 Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống 37 và nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi!” 38 Phía trên đầu Người, có bản án viết: “Đây là vua người Do-thái”. 39 Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” 40 Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! 41 Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” 42 Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” 43 Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. 44 Bấy giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. 45 Mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ngay chính giữa. 46 Đức Giê-su kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở.