Saturday, 28 December 2019 11:00

Lc 9,18-24: Phêrô Tuyên Xưng Đức Tin Và Đức Giêsu Tiên Báo Cuộc Thương Khó Lần Đầu Featured

Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.

 

Bản Văn Tin Mừng: Lc 9,18-24 [1]

18 Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: “Dân chúng nói Thầy là ai?” 19 Các ông thưa: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại”. 20 Người lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”. 21 Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai.

22 Người còn nói: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”.

23 Rồi Đức Giê-su nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. 24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.

***

1.- Ngữ cảnh

Ngay sau truyện Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông, tác giả Luca đặt truyện Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”. Lời tuyên xưng này dường như được dùng để thay thế cho phản ứng kinh ngạc và lời tung hô mà ta thường thấy tác giả dùng làm kết thúc một truyện phép lạ.

Đàng khác, so với Tin Mừng Marco, lời tuyên xưng của Phêrô được đặt rất gần với câu hỏi tiểu vương Herodias đặt ra về Đức Giêsu (Lc 9,9).[2] Rất có thể tác giả muốn coi lời Phêrô đáp lại câu hỏi của Đức Giêsu cũng là câu trả lời cho câu hỏi được vua Herodias đặt ra trước đó. Cũng vì lý do đó mà ngài đã rút ngắn bản văn bằng cách bỏ ghi chú về địa lý cũng như lời phản đối của Phêrô sau đó cùng với lời Đức Giêsu mắng ông. Lời tuyên xưng của Phêrô không còn là một bước ngoặt quyết liệt như trong Marco (Chương 8), hoặc như bản văn đặt nền móng cho Hội Thánh nữa như trong Matthew (Chương 16), nhưng được dùng như câu trả lời cho vua Herodias.

2.- Bố cục

     Bản văn có thể chia thành ba phần:

          - 1) Phêrô tuyên xưng đức tin (Lc 9,18-21);

          - 2) Đức Giêsu tiên báo Thương Khó (Lc 9,22);

          - 3) Đức Giêsu dạy về người môn đệ (Lc 9,23-27).[3]

3.- Vài điểm chú giải

- Hôm ấy… (18): Công thức dẫn nhập riêng của Luca, dùng để tách biệt hai phần: nhân bánh (trước đám đông); tuyên xưng đức tin (trước các môn đệ). Tác giả Luca không nói tới Caesarea Philippi, vì trung thành với chủ ý giữ Đức Giêsu trong giai đoạn đầu sứ vụ ở trong vòng đất Palestine.

- Cầu nguyện (18): Đây là đề tài quan trọng của Tin Mừng thứ III. Ta có ấn tượng là tất cả các biến cố quan trọng trong cuộc đời Đức Giêsu đều xảy ra trong một bầu khí cầu nguyện. Còn nếu tác giả Luca đã ghép hai lần đề tài cầu nguyện trong phân đoạn Lc 9,18-50, thì đấy là dấu cho thấy ngài coi việc cầu nguyện là việc quan trọng giúp giải thích chuyến đi lên Giêrusalem theo quan điểm thần học.

- Đám đông nói Thầy là ai (18): Đây là điều tác giả Luca đã ghi nhận ở 8,25. Ngài đã gom các ý kiến lại trong hai đoạn văn song song:

- Thầy là Đấng Kitô (20): Đức Giêsu đã được xác định là “Đấng Mesiah” trong bài tường thuật về thời thơ ấu (Lc 2,11);[4] như thế danh hiệu này không mới đối với Kitô hữu đọc Tin Mừng này. Nhưng danh hiệu này được đưa vào đấy là dưới ánh sáng của những gì được nói về Đức Giêsu bên trong chính Tin Mừng. Chính là trong truyện ấy mà chúng ta được tiếp xúc với truyền thống đang thành hình về tư cách Mesiah của Đức Giêsu. Ở Lc 4,41,[5] danh hiệu ấy lại xuất hiện, nhưng là lời bình của tác giả.

Trong bản văn chúng ta đang tìm hiểu, phản ứng của Đức Giêsu trước lời tuyên xưng của Phêrô (câu 21) là để cấm ông nhắc lại danh hiệu ấy trong thời gian Người còn hoạt động, và lời này chuẩn bị cho độc giả đón lấy các lời có tính điều chỉnh sắp đến ở các câu 22.23-27.28-36.44-45.[6] Đức Giêsu lại không cấm như thế cho quỷ trong Lc 8,28,[7] mà ở đấy độc giả hiểu rằng, đã có một cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và quỷ. Ở đây lời tuyên xưng của Phêrô được bày tỏ trong bối cảnh, là câu hỏi của Đức Giêsu về những gì dân chúng đang nghĩ về Người và những gì các môn đệ đang tin. Như thế, lời này trở thành một câu trả lời quan trọng mang tính Kitô học trong Luca. Và đây là một tư cách Mesiah có hàm chứa đau khổ, sự loại trừ, cái chết, cho dù nó đưa tới sự sống lại (x. câu 22).

“Kitô” phải được hiểu theo nghĩa Do Thái: một nhân vật được xức dầu mọi người đang mong đợi thuộc dòng dõi Đavít, sẽ được Thiên Chúa sai phái đến (x. Lc 2,11). Có thể nói, lâu nay Phêrô đã chứng kiến Đức Giêsu rao giảng về Nước Thiên Chúa, chữa bệnh, với các phép lạ, nay ông chứng tỏ là ông hiểu Đức Giêsu là Đấng xức dầu của Thiên Chúa được cử đến để “khôi phục vương quốc Israel” (Cv 1,6; x. Lc 2,26; 4,41).[8]

- Không được nói điều ấy với ai (21): Đức Giêsu không phủ nhận Người là Đấng được xức dầu của Thiên Chúa, nhưng cấm các môn đệ nói ra vì danh hiệu này có những âm hưởng chính trị. Người sẽ điều chỉnh tiếp bằng Lc 9,22.

- Con Người phải chịu đau khổ (22): Động từ Hy Lạp “dei” (phải) nói lên điều cần thiết vì nằm trong chương trình cứu độ của Chúa Cha.

- Kỳ mục, Thượng tế, cùng Kinh sư (22): Đây là ba nhóm làm thành Thượng Hội Đồng Do Thái tại Giêrusalem (xem thêm: Lc 20,1; 22,52; Cv 4,5; 23,14; 25,15).[9] “Kỳ mục” (presbyterous, “elders”) không chỉ có nghĩa là “những người già” (như ở Cv 2,17),[10] nhưng là một nhóm đặc biệt gồm những vị lãnh đạo cộng đồng Do Thái. “Thượng tế” (archiereis) là thủ lãnh các tư tế phục vụ tại Đền Thờ Giêrusalem, vị chủ tọa Thượng Hội Đồng, và là vị lãnh đạo tối cao của dân Do Thái. Số phức ở đây không có nghĩa là các vị cựu thượng tế, mà là “các tư tế cao cấp”, những vị xuất thân từ các gia đình tư tế. Họ kiểm soát việc tế tự, ngân quỹ, và kỷ luật tư tế tại Đền Thờ. Trong số đó, có “viên lãnh binh Đền Thờ” (Cv 4,1),[11] các vị điều hành sinh hoạt hằng tuần, các trưởng phụ trách việc phục vụ hằng ngày và các vị giám luật Đền Thờ. Còn “kinh sư” (grammateis) là các chuyên viên Luật (có khi Luca cũng gọi là nomikoi, “các nhà thông Luật”; x. Lc 7,30).[12]

- Sẽ được cho trỗi dậy (22): Dịch sát là như thế, để thấy đây là một thái bị động nói quanh để thay tên Thiên Chúa, có nghĩa là “Thiên Chúa làm cho Người trỗi dậy”.

- Từ bỏ chính mình (23): Dịch sát là “chối chính mình” (arneomai [h]eauton), có nghĩa là chọn một thái độ sống không lấy mình làm trung tâm, nhưng thật sự cho phép đồng hóa lối sống của mình với Đức Giêsu và sứ mạng của Người.

- Vác thập giá (23): Hình ảnh này sau được áp dụng cho Simôn Kyrène (Lc 23,26).[13] “Vác thập giá” có nghĩa là bắt chước Đức Giêsu khi bị đóng đinh, tức sẵn sàng chịu tử đạo, nhưng cũng có nghĩa là sẵn sàng chịu chống đối và thù nghịch trong cuộc sống mỗi ngày.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Phêrô tuyên xưng đức tin (18-21)

Ngay sau truyện nuôi đám đông là truyện Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Tác giả đã viết gọn lại để cho truyện này trở thành một câu trả lời cho câu hỏi của tiểu vương Herodias.

* Đức Giêsu tiên báo Thương Khó (22)

Đức Giêsu đã tiên báo cuộc Thương Khó-Phục Sinh để điều chỉnh quan niệm về Đấng Mesiah của Phêrô hẳn là còn nhuốm màu sắc chính trị. Và các lời này cũng vẫn cung cấp một câu trả lời cho Herodias. Chúng còn cung cấp một bối cảnh cho mở đầu của bài tường thuật về chuyến đi lên Giêrusalem.

Đức Giêsu cho biết cuộc Thương Khó cũng như Phục Sinh của Người thuộc về chương trình của Thiên Chúa. Chính Chúa Cha quyết định như thế, và Đức Giêsu gắn bó với ý muốn của Cha Người hầu cứu độ nhân loại.

* Đức Giêsu dạy về người môn đệ (23-27)

Tác giả liên kết vào lời loan báo đầu tiên về Thương Khó năm lời khác nói về đời môn đệ (khá giống với Mc 8,34–9,1) được ngỏ với “mọi người”.[14] Có lẽ đây là những lời tách biệt được ghi giữ trong truyền thống. Câu đầu tiên: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (câu 23) là câu căn bản, còn ba câu tiếp theo được đưa vào bằng liên từ “gar” (bởi vì), do đó dịch sát là: “bởi vì ai muốn cứu mạng sống…” (câu 24); “bởi vì người nào được cả thế giới…” (câu 25); “bởi vì ai xấu hổ vì tôi…” (câu 26). Còn trong câu 27, tác giả bỏ chữ “amên” (của Mc 9,1) và thay thế bằng từ “alêthôs” (thật sự), đã làm cho câu này được liên kết chặt chẽ với bốn câu trên và làm thành một đơn vị mạch lạc.

Các câu này cũng là một cách khác để trả lời cho tiểu vương Herodias. Đến ngay sau lời tuyên bố của Đức Giêsu về đau khổ, thân phận bị loại bỏ, phải chết của Người, các lời này cho thấy Người đòi hỏi những kẻ muốn theo Người đến mức nào: làm môn đệ là “bước theo Người”; việc “bước theo” này có ý nghĩa rất phong phú khi nó được đặt sát chuyến đi lên Giêrusalem. Làm môn đệ có nghĩa là hằng ngày chia sẻ thân phận của chính Người: vác thập giá của chính mình mà bước đi đàng sau Người, như một cách chứng tỏ rằng mình không đánh giá mạng sống mình theo lợi nhuận trần thế, như một thái độ tự hào về Người, và như là như một thái độ cho phép người môn đệ hiểu sâu xa hơn các mầu nhiệm của Nước Thiên Chúa.

+ Kết luận

Tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô của Thiên Chúa” vẫn chưa phải là điều đáng kể, nếu người môn đệ không sống phù hợp với lời tuyên xưng đó. Chỉ khi sẵn sàng “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” Người (Lc 9,23), người ấy mới cảm nghiệm sâu xa nơi bản thân sức mạnh cứu độ của lời tuyên xưng đó, và mới làm chứng được cho người khác rằng Đức Giêsu chính là Cứu Chúa duy nhất mà người ta phải tin vào và bước theo.

5.- Gợi ý suy niệm

1/. Đức Giêsu không yêu cầu các môn đệ cho ý kiến về giáo huấn hoặc một hoạt động nào đó của Người, nhưng cho ý kiến về bản thân Người. Câu hỏi của Người cho thấy đây là điểm có tầm quan trọng số một. Người muốn đưa các ông đến chỗ hiểu biết Người và tuyên xưng về bản thân Người cách không hàm hồ, dị nghĩa. Điều quan trọng không phải là lời Người loan báo, nhưng là chính bản thân Người.

2/. Phêrô tuyên xưng Người là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”, nghĩa là Người là vị Vua và Mục Tử duy nhất, tối hậu và vĩnh viễn của dân Israel. Người được Thiên Chúa cử đến để ban cho dân tộc này và toàn thể nhân loại có sự sống viên mãn. Người chính là Đấng Mesiah được liên kết mật thiết với chính quyền năng ban sự sống, với Thiên Chúa hằng sống.

3/. Tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa ngay sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, điều này không khó. Nhưng tiếp tục tuyên xưng Người như thế, khi chứng kiến Người phải vác thập giá, chịu xử tử và chịu chết, khi chính mình, nếu không đến nỗi phải đổ máu ra mà làm chứng, phải vác thập giá là các khó khăn của một ngày sống, điều này khó hơn nhiều. Nhưng đó là cái giá phải trả để được cùng sống lại với Đức Giêsu.

4/. “Làm người có nghĩa là ‘sống hướng về cái chết’; làm người có nghĩa là phải chết… Sống trong thế giới này, có nghĩa là chết. “Người đã làm người” (Kinh Tin Kính); vậy điều đó có nghĩa là Đức Kitô cũng đã đi đến cái chết. Sự mâu thuẫn thuộc về cái chết của con người đạt tới nơi Đức Giêsu sự sắc bén cùng cực, bởi vì nơi Người, Đấng ở trong một sự hiệp thông trao đổi trọn vẹn với Chúa Cha, tình trạng cô độc tuyệt đối của cái chết hoàn toàn là một sự phi lý […]. Nhưng cũng như mẩu đối thoại này đã làm cho Người ra cô đơn, và cho thấy Người đang đi đến cái chết quái gở ấy, thì nơi Đức Kitô, sự Phục Sinh cũng đã hiện diện chắc chắn rồi. Nhờ cuộc Phục Sinh này, thân phận con người chúng ta được tháp vào trong cuộc trao đổi tình yêu vĩnh củu của Ba Ngôi Thiên Chúa. […] Nhờ Đức Kitô, thân phận con người được đi vào trong chính hữu thể của Thiên Chúa” (Thánh Ambrosius).

5/. Đối với môn đệ của Đức Giêsu, không có niềm vui sâu đậm nào mà không có bóng dáng ơn Chúa Thánh Thần. Nói vậy không có nghĩa là đối với người môn đệ, đường lên Giêrusalem là một hành trình vui vẻ đâu. Hôm nay Đức Giêsu nói cho các môn đệ biết là ai muốn theo Người có thể phải trả một giá đắt là sẽ bị chết. Nếu theo Đức Giêsu là lên đường thắng cuộc, thì chúng ta nên kết luận rằng thắng cuộc là do bởi sự cố gắng của chúng ta. Chúng ta làm việc nhiều, cố gắng nhiều và chúng ta thắng cuộc. Nhưng, ngược lại, khi chúng ta theo chân Đức Giêsu, chúng ta nghiệm lại sự yếu đối, và thất bại như các môn đệ đã gặp. Và rồi, chúng ta lại tìm thấy sự vui vẻ mới, và chúng ta kiên trì trong đau khổ, và điều đó do bởi Thần Khí của Đấng đã hứa là Người sẽ trỗi dậy vào ngày thứ ba phải không? (Siciliano).

 

 

 


[1] Bản Việt ngữ của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh

[2] Lc 9,9: Còn vua Hê-rô-đê thì nói: “Ông Gio-an, chính ta đã chém đầu rồi! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?” Rồi vua tìm cách gặp Đức Giê-su.

[3] Lc 9,23-27: 23 Rồi Đức Giê-su nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. 24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 25 Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì? 26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần. 27 “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa”.

[4] Lc 2,11: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.

[5] Lc 4,41: Quỷ cũng xuất khỏi nhiều người, và la lên rằng: “Ông là Con Thiên Chúa!” Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Ki-tô.

[6] Lc 9,22.23-27.28-36.44-45: 22 Người còn nói: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. 23 Rồi Đức Giê-su nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. 24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 25 Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì? 26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần. 27 “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa”.

28 Khoảng tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê. 29 Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. 30 Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. 31 Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem. 32 Còn ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su, và hai nhân vật đứng bên Người. 33 Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giê-su, ông Phê-rô thưa với Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a”. Ông không biết mình đang nói gì. 34 Ông còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. 35 Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” 36 Tiếng phán vừa dứt, thì chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.

44 “Phần anh em, hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời”. 45 Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì đối với các ông, lời đó còn bí ẩn, đến nỗi các ông không nhận ra ý nghĩa. Nhưng các ông sợ không dám hỏi lại Người về lời ấy.

[7] Lc 8,28: Thấy Đức Giê-su, anh la lên, sấp mình dưới chân Người, và lớn tiếng nói rằng: “Lạy ông Giê-su, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông? Tôi xin ông đừng hành hạ tôi!”.

[8] Cv 1,6: Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”; x. Lc 2,26; 4,41: 26 Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. 4 41 Quỷ cũng xuất khỏi nhiều người, và la lên rằng: “Ông là Con Thiên Chúa!” Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Ki-tô.

[9] Lc 20,1; 22,52: 1 Một hôm, đang khi Đức Giê-su giảng dạy cho dân trong Đền Thờ và loan báo Tin Mừng, thì các thượng tế và kinh sư cùng các kỳ mục kéo đến. 22 52 Sau đó Đức Giê-su nói với các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục đến bắt Người: “Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến?; Cv 4,5; 23,14; 25,15: 5 Hôm sau, các thủ lãnh Do-thái, các kỳ mục và kinh sư họp nhau tại Giê-ru-sa-lem. 23 14 Họ đến gặp các thượng tế và kỳ mục mà nói: “Chúng tôi đã thề độc là sẽ không ăn uống gì, bao lâu chưa giết được tên Phao-lô. 25 15 Khi tôi tới Giê-ru-sa-lem, các thượng tế và các kỳ mục Do-thái đến kiện và xin tôi kết án người ấy.

[10] Cv 2,17: Thiên Chúa phán: Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng.

[11] Cv 4,1: Hai ông còn đang nói với dân, thì có các tư tế, viên lãnh binh Đền Thờ, và các người thuộc nhóm Xa-đốc kéo đến.

[12] x. Lc 7,30: Còn những người Pha-ri-sêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ, và không chịu phép rửa của ông.

[13] Lc 23,26: Khi điệu Đức Giê-su đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giê-su.

[14] Mc 8,34–9,1: 34 Rồi Đức Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 35 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 36 Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì? 37 Quả thật, người ta lấy gì mà đổi lại mạng sống mình? 38 Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, ai hổ thẹn vì tôi và những lời tôi dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy, khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha Người”. 9 1 Đức Giê-su còn nói với họ: “Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết, trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực”.