Monday, 06 January 2020 13:37

Khái Quát Lịch Sử Tín Điều Thiên Chúa Tam Vị Nhất Thể Featured

Tác giả: Tấn Hứa

 

Thuật ngữ TRINITAS (TRINITÉ) : THIÊN CHÚA BA NGÔI

(Trích trong “Thuật ngữ triết thần căn bản của Kinh Viện” 1996 của nhóm “Nghiên cứu Học thuyết thánh Thomas Aquinô” trang 63)

Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm chính yếu của Kitô giáo, phân biệt rõ ràng Kitô giáo với mọi tôn giáo khác.

Mầu nhiệm này đề cập đến chính Thiên Chúa, nhất thể tam vị : Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Giáo lý về Ba Ngôi Thiên Chúa được phát sinh và tăng trưởng như một suy tư về mầu nhiệm của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa, tinh thần cực kỳ và tuyệt đối đơn thuần, theo yếu tính là Đấng hoạt động ; yếu tính hoàn hảo của Người hệ tại hoạt động liên lỷ. Sự hiểu biết và tình yêu của Thiên Chúa, những thực tại lập hữu, thể hiện trong những hoạt động nội cố là hiểu biết và yêu mến. Ngôi Con nhiệm xuất từ Ngôi Cha bằng một hành vi hiểu biết, cũng như Chúa Thánh Thần nhiệm xuất do hành vi yêu mến của Chúa Cha và Chúa Con ; tuy là hai Ngôi nhưng là một tình yêu duy nhất lập hữu. Nhiệm xuất thứ nhất là nhiệm xuất của Chúa Con. Nguyên khởi của nhiệm xuất thứ hai là Chúa Cha và Chúa Con, và chung hạn là Chúa Thánh Thần. Vậy như Chúa Con phát xuất từ Chúa Cha, thì Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con như từ một nguyên khởi duy nhất.

Sự phân biệt giữa Ba Ngôi là do tương quan (relatio), nên không phương hại đến sự duy nhất về hữu thể và bản tính ; tương quan trong trường hợp này là tương quan lập hữu, như hiện thể riêng biệt và bất khả hiệp lập. Sự phân biệt Ba Ngôi trong Thiên Chúa là do các tương quan về phát khởi , các tương quan này thì lập hữu như yếu tính Thiên Chúa. Vì thế, có bao nhiêu đối lập thực định, phát sinh do các tương quan, thì có bấy nhiêu Ngôi vị. Có sự đối lập thực định giữa Phụ hệ và Tử hệ, nên có hai Ngôi (Chúa Cha và Chúa Con) ; có đối lập thực định về tương quan giữa chủ xuy chung và thụ xuy hay nhiệm xuy, nhưng chủ xuy chung không đối lập thực sự với Chúa Cha và Chúa Con, nên chỉ còn một ngôi nữa là Ngôi Ba (Chúa Thánh Thần).

***

MẦU NHIỆM THIÊN CHÚA BA NGÔI

Trích trong “Thời sự thần học” số 6 tháng 11 năm 1996, trang 34-54

Có lẽ khi mừng lễ Chúa Ba Ngôi, cả vị chủ tế lẫn các tín hữu đều cảm thấy lễ này khô khan nhất trong năn phụng vụ, bởi vì đó là một mầu nhiệm mà chẳng ai hiểu chi cả. Tuy nhiên, đây chỉ là một ấn tượng sai lầm do một đường lối trình bày thần học trong quá khứ, giới hạn Chúa Ba Ngôi vào những cuộc tranh luận siêu hình chung quanh các khái niệm : bản thể, bản tính, ngôi vị…Sau khi Công đồng Vaticanô II bế mạc, các nàh thần học đã viết lại các triệt về Giáo Hội dựa theo Hiến chế “Lumen Gentium” ; sang thập niên 70, họ quay sang Đức Kitô và tới thập niên 80, thì hướng về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
 
Thực ra, nếu ai để ý thì sẽ thấy rằng các văn kiện quan trọng của công đồng Vaticanô II đều được viết trong bối cảnh của mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi rồi, thí dụ : chính Hiến chế về Giáo Hội só 2-4 ; Sắc Chúa lệnh về Truyền giáo số 2-4. Thần học cận đại muốn để cho mầu nhiệm này trở thành trung tâm của đời sống Giáo Hội, chứ không phải là một vấn đề siêu hình dành cho các nhà triết học.

Thực vậy, Thiên Chúa mặc khải mầu nhiệm Ba Ngôi không như một bái toán đố hiểm hóc để làm nát óc con người, nhưng là để nói lên tình thương của Người muốn gần gũi với con người. Việc trở về nguồn Thánh Kinh rất quan trọng, xét vì không thiếu lần hình ảnh về Thiên Chúa mà chúng ta mang trong đầu làhình ảnh do các triết gia suy luận ra chứ không phải là khuôn mặt Thiên Chúa mà Đức Kitô đã tỏ ra cho chúng ta. Dĩ nhiên khuôn mặt ấy cũng káhc với khuôn mặt gặp thấy nơi các tôn giáo khác, tuy cần tin rằng tất cả đều hướng về Đấng Chủ Tể vạn vật. Hơn nữa, Giáo Hội qua các công đồng và các nhà thần học đã cố gắng và cuối cùng diễn đạt mầu nhiệm Thiên Chúa với những chiều hướng thần học cận đại.

A.Thiên Chúa của Cựu Ước

Trước tiên, cần phải gạt bỏ vài thiên kiếnb, thí dụ như của lạc giáo Marcion (+160) đối chọi Thiên Chúa của Cựu Ước (công thẳng, nghiêm khắc) với Thiên Chúa của Tân Ước (thương yêu, tha thứ). Thực ra, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước đều trình bày cho ta một khuôn mặt đồng nhất về Thiên Chúa, một khuôn mặt sáng tỏ dần dần với sự tiến triển của mặc khải, không phải chỉ có sự tiến triển về mặc khải từ Cựu Ước sang Tân Ước, nhưng còn có sự tiến triển ngay từ trong Cựu Ước nữa.

Các học giả Kinh Thánh chia lịch sử mặc khải của Cựu Ước thành 4 chặng như sau : thời tồ phụ ; thời xuất hành ; thời kiến quốc ; thời phục quốc. Tưởng cũng nên biết là dân Ít-ra-en khám phá ra hình ảnh của Thiên Chúa không phải qua những lý luận siêu hình nhưng là qua những cảm nghiệm về những lần Chúa can thiệp vào lịch sử của họ. Thiên Chúa của Ít-ra-en không phải là một thần linh xa lạ ngự trên chín tầng mây, nhưng là Thiên Chúa gần gũi với đời sống cá nhân cũng như đời sống dân tộc.

1.Thời tổ phụ

Những chương 12 cho tới 50 của sách Sáng Thế trình bày cho ta cảm nghiệm về Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp. Các tổ phụ sống đới du mục, nay đây mai đó. Nhưng họ biết rằng có một Chúa đi theo họ, một Thiên Chúa đối thoại với họ, một Thiên Chúa hứa hẹn cam đoabn, kết ước với họ, một Thiên Chúa che chở chứ không đe loi trừng phạt, một Thiên Chúa không bị ràng buộc vào một thánh điện nào, không ưa thích những sát tế nhân linh, một Thiên Chúa không để cho con người lợi dụng vào ma thuật. Các tổ phụ gọi ngài bằng những tên quen thuộc với phong tục của họ : El (Chúa, chủ : 46,3 ; 33,20) ; El Roi (Chúa thấy mọi sự : 16,18) ; El Olam (Chúa bền vững : 21,33 ); El Elyon (Chúa cao cả : 14,18-20 ; 22 ); El Shaddai (Chúa quyền phép : 17,1 ; 28,3). Các tổ phụ đáp lại Thiên Chúa với sự tin tưởng vô điều kiện nơi lời hứa của Ngài, tin tưởng đến nỗi chấp nhận lìa bỏ quê hương gia đình để tới vùng đất mà Người hứa, tin tưởng cả lúc xem ra tuyệt vọng.

2.Thời Maisen

Giữa thời các tổ phụ với thời Maisen có khoảng cách hơn kém 7 hay 8 thế kỷ. Các bản văn ghi lại giaiđoạn Thiên Chúa mặc khải cho Maisen khi mà Israel đang sống trong cảnh nô lệ ở Ai Cập. Thiên Chúa đã nghe tiếng cầu cứu của Israel, đã đến giải phóng họ, thể hiện lời hứa vớic ác tổ phụ là sẽ bênh đỡ và ban cho dân một đất riêng làm gia nghiệp. Thiên Chúa mặc khải cho Maisen danh tánh của Người như là “Yahvê”, kẻ luôn hiện diện, sẵn sàng hành động.

Thật vậy, Thiên Chúa tỏ mình ra qua những hành động của Người nhằm bảo vệ Israel : kẻ giải phóng khỏi cảnh nô lệ, kẻ muốn cho con người được tự do. Người cũng muốn cho con người biết sử dụng tự do cách chính đáng khi Người lập giao ước với họ : Người cho họ chìa khoá của tự do, khi con người biết tôn thờ Thiên Chúa thật ; ngược lại, ngày nào con người rời bỏ Người, chạy theo ngẫu tượng do dục vọng mình tạo ra thì chính là lúc con người lại rơi vào tình trạng nô lệ. Khi thiết lập giao ước, Thiên Chúa không những hứa sẽ bảo vệ dân Israel, nhưng còn tỏ ra rằng Người trung tín giữ lời. Lịch sử các giải đoạn kế tiếp cho thấy điều đ1Tân Ước : cho dù Israel thất hứa, nhưng Thiên Chúa vẫnn duy trì lời hứa của mình. Mặt khác, việc Thiên Chúa gần gũi Israel không làm giảm đi tích cách cao siêu của Người : chính Maisen mong được chiêm ngưỡng nhan Người nhưng không được. Người là Đấng Thánh cao cả : Người chủ động trong lịch sử ; con người không thể lèo al1Israel Người theo ý muốn của mình.

3.Thời lập quốc

Sau khi đã vào đất hứa, Israel trở thành không những là một dân (“am”) mà còn là một nước (“goi”) nữa. Thực ra có lẽ cả hai khái niệm “dân”  và “nước” đều có liên hệ với một “tộc”, nghĩa là gia đình máu mủ : cả Israel coi nhau như một gia đình, nhưng nhất là trong liên hệ với Chúa : chính Người là một kẻ thân thích máu mủ, đã xử đối với Israel như con cái.

Sang thời lập quốc, các cơ cấu hành chánh được tổ chức với vau quan triều đình. Tuy nhiên , Thiên Chúa mới là vị Vua thật của Israel : các vua chỉ cai trị dân thay mặt Chúa và có nghĩa vụ phải chăm sóc nhân dân như Chúa. Cũng vào thời này, một thánh điện tại Giêrusalem được cất lên làm nơi thờ phượng Chúa, tượng trưng cho sự hiện diện của Chúa với dân của Người. Thiên Chúa chấp nhận những cơ chế đó, nhưng Người không để mình bị hạn chế trong những khuôn khổ ấy. Qua các ngôn sứ, Người ạhch sách các vua không chu toàn nghĩa vụ của mình là thực hành công lý (bảo vệ người nghèo, người mồ côi góa bụa). Qua các ngôn sứ, Người cũng công kích những lễ nghi hương bái mà không kèm theo việc thực thi các giớir ăn.

Càng ngày Thiên Chúa càng cho thấy Người cao vời, vượt lên trên các thể chế vchính trị và tôn giáo ; hơn thế nữa, Người không phải chỉ là Thiên Chúa của riêng Israel nhưng còn là Chúa của muôn dân. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Khi Israel có lỗi thì Người trách mắng trừng phạt, thận chí Israel đã nếm cảnh vong quốc, lưu đày. Nhưng đồng thời, cũng chính vào lúc bị thử thách như vậy mà Israel khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra dưới những hình ảnh âu yếm của người mục tử, người cha, người mẹ, người hôn phu. Bên cạnh hoàng triều và đền thờ, cũng nên thêm một định chế khác của thời lập quốn, đó là các sứ ngôn. Họ là những người được thân khi Chúa thúc đẩy và sai đến với dân Israel, để làm sống động tiếng nói của Chúa cũng như sự quan tâm của Chúa đối với dân. Qua các ngôn sứ, dần dần phát triển thần học về thần khí Thiên Chúa.

4.Thời phục quốc

Sau khi từ nơi lưu đày trở về (năm 538 trước công nguyên),  Israel không những lo khôi phục những thể chế cổ truyền (vương chính đền thờ) nhưng cũng mang thêm những kinh nghiệm mới : một số người cảm thấy mình bị Chúa bỏ rơi ;  số người khác cảm thấy sự nặng nề của việc Thiên Chúa thinh lặng. Những ảcm nghiệm ấy phản ảnh trong những Thánh vịnh ca thán và nhất là trong sách Gióp. Mặt khác, sự chung đụng với các nền văn hóa khác trong thời kỳ lưu đày đã mở rộng nhãn giới của người Do Thái : Thiên Chúa không phải chỉ là Chúa của riêng Israel mà còn là Chúa của cả vũ trụ. Dân Do Thái đã thu nhận những suy tư về nguồn gốc vũ trụ và con người từ các kho tàng khôn ngoan củ Ai Cập, Hy Lạp. Nhờ đó mà bên cạnh hình ảnh của Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử Israel, Cựu Ước có thêm hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và cai quản vũ trụ bằng sự khôn ngoan thượng trí : một Thiên Chúa gần gũi với dân Người như cha, mẹ, hôn phu, nhưng cũng là một Thiên Chúa siêu việt, Đấng Tạo thành, chí thánh.

Kết luận

Trong quá khứ có người muốn nói tới sự mặc khải mầu nhiệm của Chúa Ba Ngôi trong Cựu Ước, chẳng hạn :

- Khi dùng công thức số nhiều để nói về Thiên Chúa (chúng ta : St 1,26 ; 3,22 ; 11,27 ; Is 6,8)                       

- Khi Thiên Chúa hiệnn ra với Abraham dưới hình thức của ba sứ thần (St 18).

- Khi Isaia tuyên xưng Thiên Chúa 3 lần thánh (Is 6,3)

Ngày nay, các nhà chú giải Thánh Kinh cho rằng phươngpháp ấy có vể gượng ép và họ đề nghị cách trình bày như sau : Cựu Ước chỉ nói tới mặc khải một Thiên Chúa duy nhất. Thiên Chúa ấy vừa siêu việt lại vừa gần gũi với con người. Khi muốn diễnn tả sự gần gũi của Thiên Chúa, Cựu Ước sử dụng những hình ảnh hay tư tưởng của những nhân vật môi giới, thí dụ : thiên sứ, Danh Chúa , Vinh quang Chúa, sự Khôn Ngoan, Lời Chúa, Thần Khí Chúa. Đó là những khung chuẩn bị cho sự mặc khải mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi trong Tân Ước.

B. Mặc khải về Thiên Chúa trong Tân Ước

Tân Ước đã trình bày mặc khải về Thiên Chúa qua 4 điểm sau đây :

- Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu

- Đức Giêsu là Con Thiên Chúa

- Thánh Thần

- Những công thức Tam Vị

1. Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã tỏ mình ra là cha của Israel vì yêu thương dân kể cả lúc sửa phạt (Tv 103,10 ; Châm ngôn 3,12). Thiên Chúa cũng tỏ rằng là cha đối với vị vua của Israel, nhất là với vị Cứu Tinh (2 Sm 7,14 ; Tv 2,7 ; 89,27) . Tuy nhiên, phải chăng e9ó chỉ là một hình ảnh so sánh cũng như những nơi Thiên Chúa được ví như mẹ, hôn phu ?

a. Với Đức Kitô thì tình trạng đổi mới.

Đức Kitô đã nóirất nhiều đến Thiên Chúa như là cha nhân lành, lo lắng cho con cái của mình, một người cha đi tìm những đưa con hoang đàng, một người cha săn sóc những đứa con bé nhỏ.    

b. Đức Kitô không những rao giảng Thiên Chúa là Cha,

Nhưng còn thêm rằng Thiên Chúa Cha tác động nơi Người : những lời nói, việc làm của Người là nhân danh Cha (thí dụ tha thứ cho tội nhân). Đặc biệt, Đức Giêsu nói rằng Thiên Chúa là Cha của mình (Cha tôi : Mt 7,21 ; 10,32-33 ; 11,27 ; Lc 10,22 ; 5,17.24). Người gọi Chúa là “abba” (ba) và xưng mình là con của Chúa. Giữa Người với Cha có một liên hệ rất thâm sâu mật thiết : không ai biết Cha bằng con và không ai biết con bằng Cha (Mt 11,25-28 ; Lc 10,21-22 ; Mc 13, 32 ; 14, 36 ; 15, 33-37 ; Lc 23,46). Vì vậy, khi nói với dân chúng, Người cố tình phân biệt : Cha của tôi / Cha của các anh (Mt 5,16 ; Mc 11,25 ; Lc 3,36 ; 14,1 ; Ga 20,17).

Như vậy, ta phải ghi nhận một chi tiết thứ hai nữa về Chúa là Cha. Tân Ước gọi Thiên Chúa là “Cha của Đức Giêsu Kitô” (2 Cr 1,3 ; Gl 1,1.3). Tình Cha đặc biệt này được bộc lộ khi sai Com một mình đến trần gian để cứu nhân loại (Ga 3,16 ; Rm 8,32),  để giao hòa họ (2 Cr 5,18-22) để biến họ thành con cái (Gl 4,4-7). Cha đã ban Con một mình cho nhân loại để chịu khổ đền tội cho nhân loại (Mc 10,45 ; 2 Cr 5,21). Và rồi cũng chính Cha đã cho Đức Kitô sống lại (Cv 3,15.26 ; 4,10 ; 5,20 ; 10,40 ; Rm 4,24 ; 6,4 ; 8,11 ; 10,9). Đức Kitô phục sinh trở về với Cha, lên với Cha (Ga 14,28 ; 16,16.28) và từ đây Người xin Cha ban Thánh Thần đến (Ga 15,26).

Như vậy, Thiên Chúa trong Tân Ước được mặc khải là Cha, không những vì tỏ ra lòng ân cần săn sóc con cái loai người như là Đấng Tạo Hóa quan phòng, nhưng nhất vì là Cha của Đức Kitô, Đấng đã ban Con mình cho nhân loại vì lòng yêu thương nhân loại.

2. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa 

Tương ứng với mặc khải về Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu Kitô, là mặc khải về Đức Kitô là Con Thiên Chúa. Khoa chú giải Kinh Thánh đã ghi nhận rằng có một sự tiến triển giữa lòng Hội Thánh tiên khởi về thân thế của Đức Kitô. Khi Người còn tại thế, các môn đệ nhận ra nơi Người một nhân vật có nhiều uy tín khi giảng dạy cũng nhưkhi hành động (thí dụ khi sửa chữa luật của Maisen, khi tuyên bố tha tội, khi chữa bệnh trừ qủy) ; họ cũng nhận thấy Người có một mối liên hệ đặc biệt vó7Israel Thiên Chúa được Người gọi là “Cha của tôi”. Tuy nhiên, có lẽ sau ngày phục sinh, các Tông đồ mới nhận thức rõ rệt hơn về chân tướng của Người : Đức Giêsu không phải chỉ là một ngôn sứ, nhưng Người là Con Thiên Chúa, đã hiện hữu từ muôn thuở. Lòng tin của Giáo Hội nguyên thủy được phát biểu nơi các tác phẩm của Thánh Phaolô (Rm 1,3 ; 8,3 ; 2 Cr 8,9 ; Gl 4,4 ; Pl 2,6-11 ; 2 Tm 2,8). Đức Kitô là Con Thiên Chúa, đã được Cha ban cho thế gian, chấp nhận thân phận nghèo hèn của con người, vâng phục cho đến chết trên thập giá, và rồi được siêu thăng. Thánh Gioan đã đào sâu chân lý này trong suốt Phúc âm thứ bốn : Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Lời của Chúa đã đến cắm lều giữa chúng ta để nói với chúng ta về Chúa và thông cho ta sự sống của Chúa, ban cho ta khả năng trở thành con cái Chúa. Thánh Gioan cũng nhìn thấy Lời ấy hiện diện trong việc tạo dựng (“mọi sự đã được tác thành nhờ Lời” Ga 1,3). Vao trò của Đức Kitô trong việc tạo dựng vũ trụ cũng được nói tới trong Cl 1,15-16 ; Ep 1,4-5 ; 1 Cr 8,6 ; Dt 1,2.      

3. Chúa Thánh Thần

Trong nguyên ngữ Do Thái , tiếng “ruah” có ba nghĩa : a. gió ; b. không khí ; c. hơi thờ, sinh khí của con người. Con người sống được là nhờ sinh khí, sức sống từ Chúa ban. Mặt khác, tác động của Thiên Chúa được ví với gió, đôi khi êm dịu như cơn gió mát nhưng cũng có lúc mạnh mẽ như vũ bão. (Có lẽ vì muốn dịch sát nghĩa Do Thái mà cha Nguyễn thế Thuấn đã dùng tiếng “thần khí’ hơn là “Thánh Thần”). Thần Khí Chúa tạo dựng trời đất, ban sức sống cho con người , gợi dậy những vị cứu tinh cho dân tộc Israel . Tân Ước đã nói đếnt ác động của Thánh Thần trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.

a. Phúc âm Nhất lãm

Trong Phúc Âm Nhất Lãm, đặc biệt là Phúc Âm thánh Luca, Đức Giêsu được mô tả như người đầy Thánh Thần, từ khi thụ thai trong lòng Đức Đức Maria , và đặc biệt kể từ khi lãnh phép rửa ở sông Hòa Giang : Đức Giêsu hành động dưới sự thúc đầy của Thánh Thần , khi rao giảng Tin Mừng Nước Trời cũng như khi xua đuổi tà thần. Luca còn nói nhiều hơn nữa đến tác động của Thánh Thần trong đời sống của Giáo Hội trong tác phẩm Công vụ Tông đồ.

b. Thánh Phaolô

Chúa Thánh Thần giúp cho ta đi vào mầu nhiệm của Thiên Chúa (1 Cr 1,17-2,16), giúp cho ta tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa (1 Cr 12,3). Thánh Thần là nguyên ủy của những ơn huệ đa dạng trong lòng cộng đoàn : Người là Thần Khí của Thiên Chúa (Rm 8,9 ; 1 Cr 2,11 ; 3,16), thần khí của Đức Kitô (Rm 8,9). Người đến giúp đỡ chúng ta khic ầu nguyện cũng như lúc van lơn rên siết (Rm 8,26-27) . Người là tình yêu đổ rtàn xuống tâm hồn chúng ta (Rm 5,5) , nhờ Người mà chúng ta có thể thưa với Thiên Chúa : Cha ơi !

c. Thánh Gioan

Theo thánh Gioan, Thánh Thần được ban cho chúng ta do Đức Giêsu phục sinh (Ga 7,39-40 ; 19,2.34 ; 20,21-23) như là Đấng An Ủi (14,16-17.26 ; 15,26-27 ; 16, 7-11.13-15) để giúp chúng ta nhớ lại những lời của Chúa Giêsu, để dẫn đưa các môn đệ tới sự thật sung mãn, để làm chứng cho Chúa Giêsu. Thánh Thần là một vị khác biệt Chúa và Đức Giêsu ; Người tác động như một chủ thể do Cha và Đức Giêsu phái đến.
 
C. Những công thức Tam vị

Ngoài những bản văn diễn tả tác động cúu rỗi của Thiên Chúa Cha, Đức Kitô Con Thiên Chúa, Thánh Thần trong Tân Ước còn có những công thức nó đến tác động củ cả ba vị dưới nhiều bối cảnh khác nhau.

a. Bối cảnh của sự cứu rỗi.
 
Trong các bài giảng của các thánh Tông đồ, ta thấy cả ba vị đều tham dự vào công cuộc cứu chuộc : Thiên Chúa Cha đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết và đổ Thánh Thần xuống cho những ai tin vào chứng tá của các Tông đồ, ngõ hầu họ được tha tội (Cv 2,32-22 ; 5,30-32). Thánh Phaolô cũng diễn tả tư tưởng tương tự khi nói tình thương của Chúa được tỏ ra khi để cho Đức Kitô chết thay cho chúng ta  tội nhân, và khi đổ Thánh Thần xuống lòng chúng ta (Rm 5,5-8). Chúng ta cũng đọc thấy hành động yêu thương cứu chuộc của ba vị ở Phúc Âm thánh Gioan  (Ga 3,19) ; thư thứ nhất của Gioan ( 1 Ga 4,9-14), thư Do Thái (9,14). Ba vị không những tỏ mình ra qua tình yêu của thập giá Đức Kitô ; Phúc Âm còn nói tới hành động của ba vị ngay từ khi Nhập thể (những lời truyền tin cho Đức Maria : Lc 1,35 ; Mt 1,20-21) ; khi Đức Giêsu chịu phép rửa, khởi sự hoạt động công khai (Mc 1,10-11).

b. Bí tích Thánh tẩy
 
Một khung cảnh khác là khi Tân Ước nói đến bí tích Thánh ẩy, nhờ đó các tín hữu được thông dự vào cái chết và phục sinh của Đức Kitô (1 Cr 6,11 ; 2 Cr 1,21-22 ; 1 Pr 1,2 ; và công thức rửa tội ở Mt 28,19). Ta cũng gặp thấy công thức Tam vị ở lời nguyện chúc phụng vụ được sách lễ trích dẫn : “Nguyện xin ơn sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và sự thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (2 Cr 13,13).

c. Hội Thánh
 
Đời sống của Giáo Hội cũng là một khung cảnh biểu lộ tác động của ba vị. Giáo Hội ví như một gia đình, nơi đó, Thiên Chúa là Cha, Đức Kitô là đá tảng. Thánh Thần là Đền thờ (Ep 2,19-22). Giáo Hội phải là một, vì có một Cha, một thân thể, một Chúa, một Thánh Thần (Ep 4,4-5), tuy rằng các linh ân thì có nhiều (1 Cr 12,4-6).


Kết luận


Cần phải ghi nhận công của cha Karl Rahner vì đã lưu ý tới vài đặc điểm của sự mặc khải mầu nhiệm Ba Ngôi trong Tân Ước : 1. Tân Ước trình bày Tam vị trong bối cảnh lịch sử cứu rỗi hơn là trong tương quan nội tại (Trinitas oeconomica  hơn là Trinitas immanens). 2. Tân Ước dành tiếng “Thiên Chúa” (Théos, Deus) cho Chúa Cha ; còn Đức Kitô thì được gọi là Chúa (Kyrios, Dominus – tiếc rằng trong tiếng Việt, chúng ta chỉ có một tiếng “Chúa” để dịch cả hai danh từ ấy) ; mãi về sau, thần học mới gọi cả Cha, Con, Thánh Thần bằng một danh xưng “Deus”.

D. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi trong lịch sử Giáo Hội

Giáo Hội đã trình bày chân lý về mầu nhiệm Thiên Chúa như thế nào, và đã gặp những khó khăn gì. Dĩ nhiên, khi nói tới khó khăn, chúng tôi không muốn nói tới những khó khăn thử thách của đời sóng đức tin, chẳng hạn khi gặp đau khổ, khi thấy Thiên Chúa thinh lặng. Chính Đức Giêsu cũng đã nếm những khó khăn ấy trong vưo972người Cây Dầu và trên thập giá (“Abba, Ba ơi, cái gì ba cũng làm được hết ! Xin hãy cất chén này xa con !” Mc 15,34). Tân Ước đã trình bày đạo lý về ba vị trong bối cảnh lịch sử cứu độ. Các tín hữu tiên khởi cũng tuyên xưng đức tin ấy trong khung cảnh của lịch sử cứu độ : khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, khi cử hành Thánh Thể. Tuy nhiên, sau khi đã chấp nhận lời giảng của các thánh Tông đồ cũng như tuyên xưng đức tin của Giáo Hội, người tín hữu sớm muộn gì cũng muốn đi sâu vào mầu nhiệm của Thiên Chúa, đặc biệt khi phải đố chiếu với quan niệm về Thiên Chúa nơi các nền triết học, tôn giáo mà họ quen bết.

1. Thời Giáo phụ
 
a. Những lạc giáo

1. Một phần lớn các kitô hữu tiên khởi đã hấp thụ đức tin về Thiên Chúa duy nhất từ Do Thái giáo. Họ muốn dung h2oa các dữ kiện của Tân Ước với niềm tin về Thiên Chúa duy nhất, và chủ trương rằng chỉ có Chúa Cha mới là Thiên Chúa : còn Đức Giêsu chỉ là người, rồi sau đó được Chúa nhận làm dưỡng tử. Ta có thể xếp trong khuynh hướng nhiều thuyết khác nhau. Tóm lại trong nhản hiệu “Độc nhất ngôi vị” (Monarchianismus), có người cho rằng Đức Giêsu được nhận làm con nuôi của Chúa (Adoptianismus); có người lại cho rằng chỉ có một Thiên Chúa đã xuất hiện dưới nhiều thể thức khác nhau (Modalismus của Sabelliô).

2. Những kitô hữu chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp (Cách riêng là thuyết Tân-Platon) dồng hóa Đức Giêsu với “Hóa công” (Demiurgus) đến cứu con người khỏi vật chất : vị ấy không phải là Thiên Chúa, nhưng ở dưới quyền của Người. Vị ấy không thể làm người được, vì vật chất là cái gì xấu xa tội lỗi. Những thuyết này đưa tới lạc giáo Ngộ Đạo (Gnosticismus) và Ảo Nhân (Docetismus), khi họ cho rằng Đức Kitô không phải la người thật mà chỉ lcó hình dáng con người. Cũng do ảnh hưởng của thuyết Tân-Platon mà nảy ra lạc giáo Arius, theo đó Đức Kitô là thuộc cấp của Chúa Cha và phải lệ thuộc vào Chúa Cha (Subordinationismus).

3.Sau cùng, cũng phải nhắc tới một lạc giáo nữa cho rằng không phải chỉ có một Chúa mà là ba Chúa (Tritheismus).

b. Giáo lý chính thống

Để đáp lại các lạc thuyết vừa nói, Giáo Hội một đàng đã xác định đức tin công giáo qua các tín điều và các bản tuyên xưng đức tin ; đồng thời, các giáo phụ cũng sử dụng những tư tưởng triết học thời đại để diễnt ả mầu nhiệm Thiên Chúa .

1. Ngoài những bản tuyên xưng đức tin vào Cha, Con và Thánh Thần dùng khi cử hành bí tích Rửa Tội (cô đọng lại thành kinh Tin Kính). Giáo Hội còn long trọng tuyên xưng đức tin về thiên tính của Đức Kitô trong các công đồng Nicêa (325) ; Ephêsô (431), Chalcedoin (451) : tuyên xưng về thiên tính của Thánh Thần ở công đồng Constantinople (381).

2. Khi phát biểu các công thức đức tin, các công đồng đã sử dụng những từ ngữ thần học mà một số giáo phụ đã đề nghị. NHư chúng ta đã biết, Tân Ước chỉ trình bày mầu nhiệm Thiên Chúa trong hoạt động cứu rỗi nhân loại (Chúa Cha sai Con một mình đến cứu chuộc nhân loại)  nhưng không đề cập tới những vấn đề liên hệ tới bản thể của Cha, Con, Thánh Thần , hoặc liên hệ tới tương quan hỗ tương giữa ba vị. Khi phải đối phó vớic ác lạc giáo và các nền triết học, thì các giáo phụ mới bắt đầu tìm tòi những từ ngữ để diễn tả mầu nhiệm Thiên Chúa, làm sao duy trì chân lý về một Thiên Chúa duy nhất (chứ không phải ba Chúa ), nhưng đồng thời không hạ giá Đức Giêsu xuống hàng thụ tạo. Thực vậy, khi phải đương đầu với các lạc giáo, các giáo phụ nhận thức rằng trọng tâm của đức tin Kitô giáo ở chỗ Thiên Chúa không phải là một vị thần xa lạ trên chín tầng mây, nhưng là kẻ rất gần gũi với chúng ta, đã chia sẻ kiếp sống nghèo hèn của chúng ta, đã chết vì chúng ta ngõ hầu cứu chúng ta khỏi hết và đưa chúng ta về với Thiên Chúa. Nếu Đức Giêsu không phải là Con Thiên Chúa, thì chúng ta mong gì sẽ được cha sẻ tình nghĩa với Chúa ?

3. Có thể coi Tertullianô (khoảng 160-220) như là thần học đầu tiên cố gắng để diễn đạt mối tương quan nội tại giữa Ba vị. Tertullianô đã dùng hình ảnh khác nau để phân biệt Cha, Con, Thánh Thần trong một Thiên Chúa duy nhất, khi so sánh ba vị như : gốc rễ – hoa – trái ; mạch nước – dòng nước – suối ; mặt trời – tia sáng – ánh sáng. Ba vị có chung một bản thể (Substantia), bản tính, nhưng chỉ khác nhau (phân biệt nhưng không khác biệt hay tách rời)  qua sự phát hiện (species). Ba vị khác nhau, nhưng lắng nghe nhau : ta gọi sự khác nhau là Ngôi Vị (Persona). Mối liên hệ giữa Ba ngôi vị được Tertullianô giải thích qua từ “Nhiệm xuất” (Processio),  một từ ngữ của phái Ngộ Đạo, nhưng được hoàn chỉnh lại. Dù sao cũng không nên quên rằng khi trình bày tương quan nội tại giữa ba vị, Tertullianô không bỏ qua chiều hướng cứu rỗi của mầu nhiệm này – Đồng thời với Tertullianô sống ở Bắc Phi, Origène một nhà thần học ở Alexandria bên Ai Cập (185-254/255) cũng đã có công đóng góp vào suy tư về liên hệ nội tại giữa Cha với Con : Con có cùng bản thể (ousia) với Cha, sinh bởi Cha từ đời đời. Công đồng Nicêa (325) đã định nghịa Đức Giêsu Kitô, Con một Thiên Chúa, đồng bản thể (homo-ousios) với Cha.

4.Công cuộc suy tư thần học vẫn tiếp tục sau công đồng Nicêa, đặc biệt nhờ ba nhà tiến sĩ Cappadôxia : Basiliô (330-379), Gregorio Nissa (335-385) , Gregoriô Naxianxênô (330-390), với sự phân biệt ba ngôi vị (hypostasis, persona) trong cùng một bản thể (ousia, substantia) . Các vị này cũng đào sâu hơn vai trò của Thánh Thần trong tương quan giữa Cha với Con, chuẩn bị cho công đồng Constantinople (381), tuyên xưng Thánh Thần là Chúa và Đấng ban sự sống.

5.Nhà giáo phụ đã để lại ảnh hưởng sâu đậm hơn cả về thần học Chúa Ba Ngôi (ít là bên Tây Phương) là Thánh Augustinô , với tác phẩm “De Trinitate”. Tác giả đã để ra 25 năm để nghiên cứu, suy nghĩ và biên soạn sách này, gồm 15 quyển. Thánh Augustinô đã lục lọi tất cả những bản văn nói về mầu nhiệm Ba Ngôi  trong Thánh Kinh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Kế đó, thánh nhân giải thích các hạn từ : bản thể (substantia), bản tính (essentia), ngôi vị (persona), tương đối (relativus) , Tuy nhiên, tính cách độc đáo của thánh Augustinô ở chỗ quay về nội tâm của con người, được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa để tìm những cách thức phá biểu mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Augustinô tìm ra những bộ ba nơi con người , thí dụ : người yêu – người được yêu – tình yêu ; trí tuệ – ký ức – ý chí.

6.Để kết luận, ta có thể nói rằng vào cuối thời giáo phụ, thần học về Thiên Chúa Ba Ngôi đã chuyển từ lịch sử cứu rỗi sang tương quan nội tại. Điển hình của sự chuyển hướng là các bản kinh Tin Kính. Các bản kinh Tin Kính cổ truyền được chia làm ba vế : Cha Đấng tạo thành trời đất ; Đức Kitô Con Thiên Chúa nhập thể cứu chuộc nhân loại ; Thánh Thần thánh hoá Hội Thánh. Còn kinh Tin Kính tục gọi là của thánh Athanasiô (bắt đầu bằng chữ “Quicumque”, ra đời cuối thế kỷ V) nhằm nhấn mạnh sự bình đẳng và tương đồng giữa Ba Ngôi : Deus, Dominus increatus, immensus, aeternus.

2. Thời Trung Cổ

Như đã nói trên đây,  những định tín của Giáo Hội về mầu nhiệm Thiên Chúa đã được ân định vào những đại công đồng của thời giáo phụ. Sang thời Trung Cổ, những tuyên tín không có tính cách quan trọng sánh với thời giáo phụ. Ta có thể ghi nhận công đồng Latran IV (1215) chống lại thuyết Nhị Nguy6en của phái Albigense (chủ trương có hai Chúa : Chúa thiện và Chúa dữ) ; công đồng Lyon II (1274) và Florence (1439-1445) giải quyết những lối trình bày khác nhau giữa thần học Đông phương và Tây phương về mối tương quan giữa Thánh Thần với Cha và Con (vấn đề quen gọi là “Filioque”).

Về phía thần học, tác giả nổi bật hơn cả tù thời Trung Cổ trở đi là Thánh Tommaso Aquinô. Thánh tiến sĩ đã trình bày về mầu nhiệm Thiên Chúa ở nhiều tác phẩm khác nhau, nhưng nhất là trong quyển “Tồng luận thần học”. Sau đây là vài nguyên tắc về phương pháp.

a. Một nguyênt ắc quan trọng khi nói về Thiên Chúa là đường lối loại suy (analogia) : giữa Thiên Chúa với thực tại loài người Constantinople Hội Thánh điểm vừa giống nhau (xét vì Người là nguyên nhân của hết mọi loài hiện hữu) nhưng cũng có những điểm khác nhau (xét vì chúng ta là hữu thể bất toàn, còn Người thì thập toàn), vì vậy mà chúng ta có thể dùng những tư tưởng của thế giới này để hiểu biết phần nào những thực tại về Thiên Chúa.

b. Khi nói đến mầu nhiệm Thiên Chúa , dưa vào mặc khải và đức tin công giáo, thánh Tômmasô quả quyết có một Thiên Chúa duy nhất, Chủ tể của muôn vật hữu hình và vô hình.

c. Bàn đến mối liên hệ giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, thánh Tommasô lấy lại những từ ngữ mà các giáo phụ đã để lại, thí dụ : sự “xuất phát – processio” của Lời và Thánh Thần từ Cha (được giải thích qua sự so sánh với hành vi hiểu biết và yêu mến) ; sự “tương giao – relatio” như là nguồn gốc của sự phân biệt giữa Ba Ngôi, nhất là thánh Tommasô đã xác định rõ rệt hơn khái niệm triết học về “ngôi vị – persona”.

d. Khi nói đến tác động ngoại tại của Ba Ngôi, Tommasô dựa vào Tân Ước để nói tới những lần phái đi (sai đi : missio): Con được Cha sai đến thế gian ; Thánh Thần được Cha và Con sai đi. Cũng nên biết là ngoài sự hiện diện của Thiên Chúa trong công trình tạo dựng và cứu chuộc, Tommasô cũng nói tới sự hiện diện của Ba Ngôi trong tâm hồn tín hữu sống trong ơn nghĩa Chúa (quen gọi là “inhabitatio”).

E. Những đường hướng hiện đại của thần học về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi

Những tín điều căn bản về một Chúa Ba Ngôi đã được ấn định từ thời các giáo phụ, còn những suy tư hệ thống thì đạt tới cao điểm với thánh Tommasô. Vào thời cận đại, Giáo Hội phải đương đầu với những triết thuyết Duy Ý (Idealismus), bấ khả tri (Agnosticismus) , Vô Thần (Athéismus), cho nên đã phải dồng nỗ lực vào việc bênh vực khả năng của lý trí Việt Nam có thể nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa. Tiếc rằng khi trình bày hình ảnh Thiên Chúa, các sách thần học dựa vào những suy luận của lý trí hơn là dựa trên mặc khải Kitô giáo. Thậm chí sách Giáo lý soạn tạo Rôma dưới thời Đức Piô Xdd trả lời câu hỏi “Đức Chúa Trời là ai ?” như thế này :  “Thiên Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành, Đấng tạo dựng và chủ tể trời đất”, mà chẳng đá` động chi đến mầu nhiệm Ba Ngôi hết !

Bằng một giọng dí dỏm, Juan Luis Segundo viết rằng : đối với nhiều kitô hữu , một Chúa có hai hay ba Ngôi, hay là một ngôi với ba Chúa cũng chẳng ăn thua gì đến đức tin và đời sống cả. Trong số những tác giả đã góp phần vào việc chuyển hướng thần học về mầu nhiệm Thiên Chúa của Kitô giáo, ta phải kể đầu tiên là cha Karl Rahner.

Cha Rahner đã ghi nhận rằng mặc khải đã trình bày mầu nhiệm Tam Vị theo chiều hướng lịch sử cứu rỗi (Trinitas oeconomica) hơn là theo chiều hướng nội tại (Trnitas immanens). Mầu nhiệm Tam Vị đượcmk qua vệc Đức Giêsu Con Thiên Chúa nhậ[ thể sống giữa chúng ta và tỏ cho ta biết khuôn mặt thực của Thiên Chúa như là Cha. Như thế mầu nhiệm Tam Vị phải được đặt làm trọng tâm của đời sống Kitô giáo, chứ không phải là câu hỏi xa xỉ của các nhà siêu hình học. Chúng ta có thể nói được rằng tư tưởng của Rahner đã gây ảnh hưởng không nhỏ trong các văn kiện của công đồng Vaticanô II. Mầu nhiệm Ba Ngôi được nói tới trong khung cảnh của lịch sử mặc khải (Hiến chế mặc khải số 2) trung khung cảnh của sứ mạng truyền giái và sự thông hiệp Hội Thánh (Hiến chế về Hội Thánh số 2-4 ; Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo số 2-5), trong khung cảnh của lịch sử cứu độ và cử hành Phụng vụ (Hiến chế về phụng vụ số 5-7) ; Sắc lệnh về hiệp nhất số 15); đó là chưa kể những đoạn văn khác nói về Đức Kitô, Đấng mặc khải Chúa Cha hoặc là về vai trò của Thánh linh trong Hội Thánh.

Từ công đồng Vaticanô II các sách viết về mầu nhiệm Thiên Chúa đềi khởi đầu với lịch sử cứu rỗi. Nhiều tác giả không bắt đầu với thiên “De Deo Uno” để khám phá ra bản chất của Thiên Chúa rồi sang thiên “De Deo Trino” nói về tương quan giữa Ba Ngôi như trước nữa, nhưng họ bắt đầu với Thiên Chúa mặc khải cho dân Israel, rồi sang tới Đức Kitô như kẻ đã mặc khải Thiên Chúa trong Tân Ước ; sau cùng mới nói tới mầu nhiệm Ba Ngôi. Khỏi nói chắc ai cũng đoán được đa số các nhà thần học gần đây đã giảm thiểu những káhi niệm siêu hình (bản thể, ngôi vị, nhiệm xuất, tương quan) ; nói cách khác, họ ít để ý tới tương quan nội tại giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.

1. Thiên Chúa Ba Ngôi đã tỏ mình ra như thế nào ?

Phúc Âm có một quang cảnh mặc khải trang trọng khi Đức Giêsu lãnh phép rửa ở sông Hòa Giang. Tuy nhiên, một khuynh hướng trong thần học cận đại đã chú trọng vào sự mặc khải của Ba Ngôi nơi thập giá của Đức Kitô và nơi biến cố Phục sinh.

a. Thần học về Thập Giá (Theologia crucis)

Thần học về thập giá bắt nguồn từ Jũrgen Moltmann, thuộc Giáo Hội Luther và đã được nhiều nhà thần học công giáo hưởng ứng. Theo Moltmann, thập giá không phải chỉ là nơi Đức Kitô chết để đền tội cho chúng ta ; thập giá của Đức Kitô chính là nơi mặc khải mầu nhiệm Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ mình nơi thập giá không phải như là Đệ Nhất động cơ bất biến (theo kiểu suy luận của các nàh triết học Hy Lạp) nhưng như là một Thiên Chúa đã chia sẻ sự đau khổ của con người : chính Chúa Con đã chịu đau khổ giống như bao người khác, nhất là đau khổ bị Thiên Chúa bỏ rơi (Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! sao Chúa bỏ con ?” : đối lại, ta cũng có thể nói rằng nơi thập giá của Đức Kitô, Chúa Cha cũng đau khổ vì cái chết của Con mình. Tuy nhiên nhiệm xuất) ; theo ông, tất cả nơi Thiên Chúa đều chỉ là “biến cố”. Lập luận này có nguy cơ rơi vào thuyết của Hegel, dần dần không còn có sự cách biệt giữa Thiên Chúa với lịch sử thế giới nữa. Tuy nhiên, Moltmann đã mở ra một chiều hướng suy tư thần học được một số nàh thần học công giáo còn đang theo đuổi. Dù sao, Moltmann đã lưu ý về sự khác biệt giữa khuôn mặt Thiên Chúa của Kitô giáo với quan niệm của triết học Hy Lạp về Thượng đế. Theo triết học Hy Lạp, Thượng Đế cố định bất biến (immobilis , immutabilis) ; tuy nhiên, mặc khải Kitô giáo cho thấy rằng Thiên Chúa đã đi vào lịch sử con người, đã nhập thể, đã chịu đau khổ và chịu chết. Các nhà thần học thấy cần phải đào sâu thêm vấn đề này dựa theo mặc khải chứ không thể căn cứ hoàn toàn trên lý luận siêu hình. Thiên Chúa đau khổ với con người, nhưng theo một cách thức riêng của Thiên Chúa. Người đau khổ không phải vì bất toàn như con người, nhưng đau khổ theo nghĩa là vì Người là Tình yêu muốn trao ban : Tình yêu ấy đã vấp phải sự kháng cự của tội lỗi con người, nhưng rồi tình yêu ấy sau cùng đã thắng. Thiên Chúa biểu lộ sự toàn năng không phải qua sự dương oai thi võ, nhưng qua việc tạo dựng con người và chấp nhận đối thoại với con người, một thụ tạo yếu ớt, ươn ngạnh. Quả thực, Thiên Chúa của Kitô giáo khác biệt với hình ảnh mà các triết gia Hy Lạp đã gán cho Người.

b. Biến cố Phục sinh
 
Một khuynh hướng khác nhấn mạnh đến sự mặc khải của mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nơi biến cố Phục sinh của Đức Kitô.

a. Theo  cha Ghislain Lafont (Peut-on connaitre Dieu en Jésus-Christ “ Paris 1969), nơi mầu nhiệm Vượt Qua của thập giá và phục sinh  của Đức Kitô. Chúng ta thấy Thiên Chúa tỏ mình như là trao ban cho nhau : chính từ nơi đây mà ta nhận biết Đức Kitô là Con của Cha từ muôn thuở ; từ  nơi đây mà ta biết Thánh Thần được trao ban để dẫn đưa chúng ta đến sự hiểu biết sự thực toàn vẹn về Đức Kitô.

b. Cha F.X.Durrwell (Le Père, Dieu en son mystère ; Paris 1987) cũng muốn nhìn Thiên Chúa Ba Ngôi mặc khải nơi mầu nhiệm Phục sinh, nơi mà Cha đã hiến tế, nghĩa là tràn đầy tinh thương với nhân loại : Cha cũng chịu đau khổ với Con vì tình trạng của con người. Cha cũng là nguồn mạch của sự chịu khổ của Con, bởi vì Con đã học tình thương nơi Cha. Sự Phục sinh biểu lộ việc Con được sinh ra, hoàn tất trong lịch sử việc được sinh ra ngay từ nguyên thủy. Do đó mối tương quan giữa Ba Ngôi được diễn tả như sau : kẻ sinh, kẻ được sinh và sự sinh.

c. Khía cạnh nộit ại của mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi
 
Bên cạnh những tác phẩm chú trọng đến khía cạnh lịch sử cứu rỗi của mầu nhiệm Ba Ngôi, chúng ta cũng nên ghi nhận những tác giả đào sâu khía cạnh nộit ại của mầu nhiệm đó.

Thí dụ cha H.W.Nicolas (De la Trinité à la Trinité, Paris 1985) hoặc trình bày lại khái niệm “Ngôi vị – Persona) cho hợp vớin tâm thức thời nay, thí dụ cha Francois Bourassa : ngôi vị có nghĩa là chủ thể hiện hữu, có ý thức và tự do, sống tương giáo với các ab3người vị khác (Xem thâm : A.Milano, Persona in teologia, Napoli 1984 ; La Trinità dei teologi e dei filosofi, Napoli 1987). Cũng trong chiều hướng đó mà một số tác giả khác không chỉ muốn trình bày Thiên Chúa dưới ý niệm :hiện hữu” siêu hình (Ipsum esse subsistens). Nhưng còn bổ túc với những ý niệm năng động hơn : tình thương (Chúa là Tình yêu ; 1 Ga 4,8.16), thông hiệp, trao ban, đón tiếp, tự do, trung tín.

d. Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo

Sách Giáo lý Hội Thánh công giáo nói tới mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi như là Trung Tâm của đức tin Kitô giáo ở các số 232-267. Ngoài ra một số tác động của Thiên Chúa được phân tích dưới kh1ia cạnh Ba Ngôi, thí dụ : sự tạo dựng (số 290-292), sự phục sinh của Đức Kitô (số 648-650). Ba Ngôi cũng là chủ thể của phụng vụ (số 1077-1112) và của lời cầu  nguyện (số 2565 ; 2627 ; 2780 ; 2789).