Tuesday, 14 January 2020 04:13

Đức Maria: Mẫu Gương Vâng Phục Của Đức Tin

Đức Giáo Hoàng Benedict XVI

 

Trong cuộc hành trình Mùa Vọng, Đức Trinh Nữ Maria chiếm một địa vị đặc biệt như người chờ đợi, một cách duy nhất, việc thể hiện những lời hứa của Thiên Chúa là chấp nhận Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, trong đức tin và trong xác phàm, trong sự hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa. Hôm nay, tôi muốn cùng anh chị em suy niệm một cách vắn tắt về đức tin của Đức Mẹ Maria từ mầu nhiệm Truyền Tin cao cả.

“Chaîre kecharitomene, ho Kyrios meta sou”, “Hãy vui lên, Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng bà” (Lc 1: 28). Đó là những lời được Thánh Luca kể lại, qua đó Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel nói cùng Đức Mẹ Maria. Thoáng nhìn, từ chaîre “hãy vui lên,” được coi như một lời chào bình thường, thường được dùng trong thế giới Hy Lạp, nhưng khi đọc trong bối cảnh của truyền thống Thánh Kinh, từ này có một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Cùng một từ này xuất hiện bốn lần trong bản Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp và luôn luôn được dùng như một lời công bố vui mừng về sự xuất hiện của Đấng Thiên Sai (x. Xp 3:14, Ge 2: 21; Dcr 9:9, Ac 4:21). Lời Thiên Sứ chào Đức Mẹ Maria là một lời mời vui mừng, một niềm vui cả thể, lời ấy công bố việc chấm dứt nỗi buồn mà thế giới đang phải chịu trước sự giới hạn của cuộc sống, sự đau khổ, cái chết, sự tàn ác và bóng tối của sự dữ, là những điều dường như che khuất ánh sáng của sự tốt lành của Thiên Chúa. Nó là một lời chào đánh dấu sự khởi đầu của Phúc Âm, của Tin Mừng.

Nhưng tại sao Đức Mẹ lại được mời vui mừng theo cách này? Câu trả lời nằm trong phần thứ hai của lời chào: “Chúa ở cùng bà.” Ở đây cũng thế, để hiểu được ý nghĩa của thuật ngữ này, chúng ta phải trở về với Cựu Ước. Trong Sách Xôphônia, chúng ta tìm thấy cách diễn tả này: “Mừng vui lên, hỡi thiếu nữ Sion ... Chúa là Vua của Israel đang ở giữa ngươi ... Chúa là Thiên Chúa ngươi đang ở giữa ngươi, một Đấng Cứu Thế oai hùng” (3:14-17). Trong những lời này có một lời hứa đôi dành cho dân Israel, cho thiếu nữ Sion: Thiên Chúa là Đấng Cứu Thế và sẽ ở giữa dân Người, nơi cung lòng thiếu nữ Sion. Trong cuộc đối thoại giữa thiên sứ và Đức Mẹ, chính lời hứa này được thể hiện: Đức Mẹ Maria được đồng hóa với dân được kết hôn cùng Thiên Chúa, Mẹ thực sự là hiện thân của thiếu nữ Sion; trong Mẹ sự mong chờ việc đến lần sau hết của Thiên Chúa được thể hiện, trong Mẹ Thiên Chúa hằng sống cư ngụ.

Trong lời chào của thiên sứ, Đức Mẹ Maria được gọi là “Đấng đầy ân sủng”; trong tiếng Hy Lạp, từ “ân sủng”, charis có cùng một căn ngữ với từ “niềm vui”. Trong cách diễn tả này nguồn gốc niềm vui của Đức Mẹ cũng được làm sáng tỏ thêm: niềm vui đến từ ân sủng, nghĩa là, từ sự hiệp thông với Thiên Chúa, từ việc có một mối liên hệ sống còn với Ngài, từ việc trở nên nơi cư ngụ của Chúa Thánh Thần, từ việc hoàn toàn được hình thành bởi hành động của Thiên Chúa. Đức Mẹ Maria là tạo vật đã mở rộng cửa cho Đấng Tạo Hóa của mình một cách độc nhất vô nhị, Mẹ đã phó thác mình trong tay Ngài, mà không giới hạn. Mẹ sống hoàn toàn bởi và trong mối liên hệ với Chúa; Mẹ sống trong một thái độ lắng nghe, chú tâm nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong cuộc hành trình của dân Ngài; Mẹ được đưa vào một lịch sử đức tin và hy vọng vào lời hứa của Thiên Chúa, là điều tạo thành kết cấu của cuộc đời Mẹ. Và Mẹ tự ý tuân phục lời Mẹ đã nhận được, tuân phục thánh ý Chúa trong sự vâng phục của đức tin.

Thánh Ký Luca kể lại câu chuyện của Đức Mẹ một cách tinh tế tương tự như câu chuyện của ông Abraham. Như vị Tổ Phụ vĩ đại là cha của các tín hữu, đã đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa để rời bỏ vùng đất mà ông đang sống, nơi an toàn của ông, để bắt đầu cuộc hành trình dẫn đến một vùng đất mà ông không biết và chỉ được sở hữu bằng lời hứa của Thiên Chúa, cũng thế, Đức Mẹ hoàn toàn tín thác vào lời mà sứ giả của Thiên Chúa công bố và trở thành mẫu gương và mẹ của tất cả các tín hữu.

Tôi muốn nhấn mạnh đến một khía cạnh quan trọng khác: việc mở linh hồn ra với Thiên Chúa và hành động của Ngài trong đức tin cũng bao gồm yếu tố bóng tối. Mối liên hệ của con người với Thiên Chúa không xóa bỏ khoảng cách giữa Đấng Tạo Hóa và tạo vật, không loại bỏ điều mà Thánh Tông Đồ Phaolô xác quyết là việc đối diện với sự sâu thằm của sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Phán quyết của Ngài làm sao mà hiểu cthấu, và đường lối của Ngài làm sao mà dò được!” (Rom 11:33). Nhưng chỉ những người như Đức Mẹ - hoàn toàn mở lòng ra cho Thiên Chúa, mới có thể chấp nhận Thánh Ý của Thiên Chúa, ngay cả khi ý ấy còn bí ẩn, thậm chí cả khi nó thường không phù hợp với ý riêng của chúng ta và là một lưỡi gươm thâu qua tâm hồn, như ông già Simêôn nói tiên tri với Đức Mẹ khi dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ (Lc 2:35). Cuộc hành trình đức tin của ông Abraham bao gồm giây phút vui mừng vì hồng ân có con trai của ông là Isaac, nhưng cũng là thời gian của bóng tối, khi phải lên núi Moria để thực hiện một hành vi nghịch lý: Thiên Chúa đòi ông phải hiến tế đứa con trai mà Ngài mới ban cho ông. Trên núi, thiên sứ ra lệnh cho ông: “Đừng động tay vào đứa trẻ! Đừng làm hại nó! Bây giờ Ta biết rằng ngươi kính sợ Thiên Chúa, vì ngươi đã không tiếc con trai của ngươi, con trai duy nhất của ngươi” (St 22:12); lòng hoàn toàn tin tưởng của ông Abraham vào sự trung thành với lời hứa của Thiên Chúa vẫn trọn vẹn ngay cả khi lời Ngài bí ẩn và khó hiểu, hầu như không thể nào chấp nhận nổi. Với Đức Mẹ Maria cũng thế, đức tin của Mẹ sống niềm vui Truyền Tin, nhưng cũng phải đi qua bóng tối của việc đóng đinh của Con Mẹ, để đạt đến ánh sáng của sự Phục Sinh.

Cuộc hành trình đức tin của mỗi người chúng ta cũng giống như thế: chúng ta gặp những giây phút ánh sáng, nhưng chúng ta cũng gặp phải những đoạn đường mà Thiên Chúa dường như vắng mặt, sự im lặng của Ngài đè nặng tâm hồn chúng ta và Thánh Ý của Ngài không phù hợp với ý muốn của chúng ta, với điều chúng ta muốn. Nhưng chúng ta càng mở lòng ra cho Thiên Chúa, càng đón nhận món quà đức tin, càng hoàn toàn đặt niềm tin vào Ngài - như ông Abraham và Đức Mẹ - thì Ngài càng làm cho chúng ta có khả năng hơn để sống bất kỳ tình trạng nào của cuộc sống trong bình an và sự chắc chắn của lòng trung thín và tình yêu của Ngài, nhờ sự hiện diện của Ngài. Nhưng điều đó có nghĩa là đi ra ngoài cái tôi và các dự tính của mình, để Lời Chúa là ánh sáng hướng dẫn những tư tưởng và hành động của mình.

Tôi muốn một lần nữa dừng lại ở một khía cạnh nổi bật trong những tường thuật về thời thơ ấu của Chúa Giêsu như Thánh Luca đã kể lại. Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse đem con trai của các ngài lên Giêrusalem, lên Đền Thờ để dâng hiến Người cho Chúa theo quy định của Lề Luật Môsê: “Tất cả con trai đầu lòng đều phải được thánh hiến cho Chúa” (Lc 2:22-24). Cử chỉ này của Thánh Gia có một ý nghĩa sâu xa hơn nếu chúng ta đọc trong ánh sáng của sự hiểu biết phúc âm về Chúa Giêsu khi Người lên mười hai tuối, sau ba ngày tìm kiếm, được tìm thấy trong Đền Thờ đàm đạo với các vị thầy (Tiến Sĩ). Để trả lời những lời đầy lo lắng của Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse: “Con ơi, sao con lại đối xử với cha mẹ như thế? Con coi, cha con và mẹ đã lo lắng tìm con!” Chúa Giêsu nói một cách bí ẩn: “Tại sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con phải ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2:48-49). Điều đó có nghĩa là, Người như một người con ở nơi mà Chúa Cha sở hữu, ở nhà của Chúa Cha. Mẹ Maria phải canh tân đức tin sâu xa trong đó Mẹ thưa “xin vâng” trong biến cố Truyền Tin; Mẹ phải chấp nhận việc dành ưu tiên cho Cha thật và riêng của Chúa Giêsu; Mẹ phải biết để cho người Con mà Mẹ đã sinh ra được tự do theo đuổi sứ mệnh của Người. Và lời “xin vâng” của Đức Mẹ Maria với Thánh Ý Thiên Chúa, trong sự vâng phục của đức tin, được lặp đi lặp lại trong suốt cuộc đời Mẹ, cho đến giây phút khó khăn nhất, là giây phút của Thánh Giá.

Đối diện với tất cả những điều này, chúng ta có thể tự hỏi: làm thế nào mà Đức Mẹ có thể sống con đường này cùng Con Mẹ với một niềm tin rất mạnh mẽ như thế, ngay cả trong bóng tối mà không mất lòng hoàn toàn tín thác vào hành động của Thiên Chúa? Có một thái độ cơ bản mà Đức Mẹ áp dụng trước những gì xảy ra trong cuộc đời Mẹ. Trong lúc Truyền Tin, Mẹ bối rối khi nghe những lời của Thiên Sứ, sự sợ hãi mà một người cảm thấy khi được sự gần gũi của Thiên Chúa chạm đến, nhưng không phải là thái độ của những người sợ hãi trước những gì Thiên Chúa có thể đòi hỏi. Đức Mẹ suy nghĩ, Mẹ tự hỏi về ý nghĩa của lời chào này (x. Lc 1:29). Từ Hy Lạp được sử dụng trong Tin Mừng để xác định “sự suy nghĩ” này là “dielogizeto,” gợi lại gốc của từ “dialogue - đối thoại”. Điều này có nghĩa là Đức Mẹ có một cuộc đối thoại thân mật với Lời của Thiên Chúa đã được công bố, Mẹ không kể đến Lời ấy cách phiến diện, nhưng Mẹ ngừng lại, để cho Lời ấy thấm vào trí khôn và tâm hồn Mẹ ngõ hầu hiểu những gì Chúa muốn từ Mẹ, là ý nghĩa của lời công bố. Chúng ta tìm thấy một lời khác nói về thái độ nội tâm của Đức Mẹ trước hành động của Thiên Chúa, cũng trong Tin Mừng Thánh Luca, khi Chúa Giêsu sinh ra, sau khi các mục đồng thờ lạy. Thánh Luca khẳng định rằng Đức Mẹ Maria “giữ tất cả những điều ấy và suy nghĩ trong lòng” (Lc 2:19), trong thuật ngữ Hy Lạp là symballon, chúng ta có thể nói rằng Mẹ “giữ chung lại”, Mẹ “bỏ chung lại” trong lòng Mẹ tất cả những biến cố đã xảy ra cho Mẹ; Mẹ đặt từng biến cố một, từng chữ một, từng thực thể một trong toàn bộ và so sánh chúng, gìn giữ chúng, trong khi nhìn nhận rằng tất cả đến từ Thiên Chúa. Đức Mẹ Maria không ngừng lại ở một sự hiểu biết hời hợt đầu tiên về những gì đang xảy ra trong cuộc đời Mẹ, nhưng Mẹ có thể nhìn một cách sâu sắc hơn, Mẹ để cho mình được chất vấn bởi các biến cố, Mẹ khai triển chúng, phân biệt chúng và đạt được sự hiểu biết mà chỉ một mình đức tin có thể đảm bảo. Chính lòng khiêm nhường sâu xa của sự vâng phục của đức tin của Đức Mẹ Maria, Đấng đón chào vào chính mình ngay cả những điều Mẹ không thể hiểu về hành động của Thiên Chúa, để mặc cho Chúa khai mở trí khôn và tâm hồn Mẹ. Bà Elizabeth, người họ hàng Mẹ, đã thốt lên: “Phúc cho ai đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói cùng mình” (Lc 1:44). Chính vì đức tin của Mẹ mà muôn thế hệ sẽ gọi Mẹ là có phúc.

Các bạn thân mến, Đại Lễ Giáng Sinh của Chúa mà chúng ta sắp cử hành, mời gọi chúng ta sống khiêm nhường và trong sự vâng phục của đức tin. Vinh quang Thiên Chúa không biểu lộ trong chiến thắng và quyền lực của một vị vua, không tỏa sáng trong một thành phố thời danh, nơi cung điện xa hoa, nhưng ngự trong cung lòng của một trinh nữ, tỏ lộ trong sự nghèo nàn của một Hài Nhi. Sự toàn năng của Thiên Chúa, ngay cả trong đời sống của chúng ta, hoạt động với sức mạnh, thường âm thầm, của chân lý và tình yêu. Như thế, đức tin cho chúng ta biết rằng sức mạnh của Hài Nhi ấy cuối cùng sẽ khắc phục được sự huyên náo của các quyền lực thế gian.