Vũ Văn An
Theo linh mục Victor Hoagland, Dòng Khổ Nạn (Passionist), cái chết khổ nhục đau đớn và công khai của Chúa Giêsu qua hình phạt đóng đinh là một câu truyện được các Kitô hữu kể lại vì nó hết sức chủ yếu đối với đức tin của họ. Đây là câu truyện chính Chúa Giêsu đã thuật lại trước hết, Đấng đã sống lại từ cõi chết.
I. CHÍNH NGƯỜI MẠC KHẢI
Như ta thấy ngày nay, Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu sẽ không bao giờ được truyền tụng qua các thế kỷ, nếu chính Chúa Giêsu không biến nó thành một phần trong mặc khải Phục Sinh của Người. Các sử gia thời Người không bao giờ nhắc đến nó; Chúa Giêsu quá vô nghĩa không đủ để họ chú ý. Mà giả dụ Người có đáng để ý chăng nữa, thì câu truyện đóng đinh vẫn khó mà được thuật lại. Rải rác lắm mới có một vài lời nhắc tới việc đóng đinh trong các trước tác của người đương thời với Chúa Giêsu; tất cả những người này đều tởm gớm hành vi man rợ này.
Cả các môn đệ của Chúa Giêsu nữa, để mặc họ, không ai kể lại cho ta câu truyện này cả. Thực thế, các Tin Mừng mô tả các môn đệ của Người hoàn toàn thất vọng bởi các biến cố diễn ra tại Giêrusalem trong những ngày định mệnh kia; họ không muốn thuật lại sự thất bại ê chề ấy, cũng là sự thất bại của chính họ. Ta hãy đọc lại trình thuật nói về hai môn đệ rời thành phố vào ngày Phục Sinh để trẩy đi Emmau (Lc 24:13-35). Họ là những môn đệ muốn vứt lại phía sau cái ký ức khủng khiếp của Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Không, tự ý họ, họ sẽ không bao giờ để lại cho chúng ta câu truyện về những gì chính họ được chứng kiến.
Chính Chúa Giêsu, khi sống lại từ cõi chết, đã dẫn khởi việc thuật lại câu truyện khổ nạn và cái chết của Người, và Người đã thay đổi ý nghĩa của nó mãi mãi.
Các tin mừng Phục Sinh đều mô tả về nó. Hiện ra với các môn đệ vào hôm đó “Chúa Giêsu đến đứng giữa họ và nói: ‘Bình an cho các con’. Khi nói điều đó, Người giơ tay và cạnh sườn Người cho họ thấy. Lúc ấy, các môn đệ rất vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20:19-21). Cuốc bộ với hai môn đệ trên đường Emmau cùng ngày này, Chúa Giêsu nói: “Há không cần thiết sao việc Chúa Kitô phải chịu những sự việc ấy mới vào được vinh quang của Người?’ Rồi bắt đầu với Môsê và mọi tiên tri, Người giải thích cho họ mọi điều Thánh Kinh nói liên quan tới Người” (Lc 24:26-27). Các trình thuật Khổ Nạn như ta có hiện nay trong các Tin Mừng đã phát triển từ việc kể lại đầu tiên bởi Chúa Kitô Sống Lại.
Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu là một câu truyện Phục Sinh, và do đó, nó đem lại niềm hy vọng. Sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu không dấu diếm các thương tích của Người; Người giơ chúng ra cho các môn đệ xem thấy. Chúa Giêsu không bác bỏ các đau khổ và cái chết của Người như một thất bại đáng xấu hổ; Người mặc khải quyền năng Thiên Chúa nơi chúng. Và thay vì là một câu truyện lên án họ, Chúa Giêsu đã làm trái tim các môn đệ bừng cháy lên bằng cách tưởng nhớ tới nó, và đem họ tới niềm vui khôn tả.
Và do đó, chúng ta lưu giữ trong tâm trí cuộc Khổ Nạn của Người như một câu truyện Phục Sinh. Không nên mổ xẻ nó bằng con mắt sử gia, dù nó bắt nguồn từ lịch sử. Đúng hơn, giống các môn đệ Emmau, ta nên nhìn nó từ viễn tượng đau khổ và nan đề của chính ta. Và cũng như đối với các môn đệ xưa, Chúa Kitô Phục Sinh cũng sẽ giúp ta tái giải thích đời ta dưới ánh sáng đời Người. Từ mầu nhiệm này, ơn phúc mênh mông sẽ tuôn chẩy ra: ơn hân hoan, kiên vững và cảm thương.
Các dòng này được viết ra để ta lưu giữ mầu nhiệm vĩ đại trên trong tâm trí. Nó là câu truyện cứu rỗi của ta, câu truyện hy vọng của ta. Như một cuốn sách khôn ngoan và dịu dàng, nó cho ta hay phải suy nghĩ ra sao về cuộc đời, phải sống như thế nào, phải sử dụng thế giới này ra sao, phải chờ mong điều gì, phải hy vọng những gì.
Thánh nữ Julian thành Norwich từng nói: “cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô là niềm an ủi cho ta. Người an ủi ta cách sẵn lòng và nhân hậu và cho hay: mọi sự sẽ đâu vào đó, và mọi loại sự vật đều sẽ đâu vào đó cả”.
Mục tiêu của càc dòng này là chia sẻ niềm an ủi của tình yêu Thiên Chúa, như đã được tỏ hiện nơi cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu.
1. Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu: Lịch sử và ký ức sống động
Theo Cha Donald Senior,C.P., cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu vừa là một biến cố lịch sử bắt nguồn từ quá khứ vừa là một ký ức sống động đầy năng lực đem lại ý nghĩa cho hiện tại.
Là một biến cố quá khứ, cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu diễn ra đâu đó khoảng năm 30 CN trong thế giới đầy biến động của Do Thái Giáo tại Palestine, thế kỷ thứ nhất. Chúa Giêsu, lúc ấy đang là một vị thầy tôn giáo đầy thuyết phục, bị bắt ở Giêrusalem và bị xử đóng đinh công khai, một hình thức tử hình của người Rôma. Các Tin Mừng mô tả cái chết của Chúa Giêsu như đỉnh cao sứ mệnh của Người, hành vi yêu thương và phục vụ vô vị lợi cuối cùng dùng để niêm ấn cho một cuộc đời hoàn toàn dấn thân cho người khác. Cái chết của Chúa Giêsu làm chứng một cách tiên tri cho chính nghĩa công lý của Thiên Chúa. Bất chấp chống đối và thù nghịch nhắm vào mình và sứ mệnh của mình, Chúa Giêsu vẫn trung thành đến tận cùng và cuối cùng đã được tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu mạnh hơn sự chết, làm cho sáng tỏ.
Nhưng đối với đức tin Kitô Giáo, cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu không đơn thuần chỉ là một cái chết anh hùng và thương tâm bị giới hạn vào lịch sử đã qua. Cuộc khổ nạn này tiếp tục sống mãi trong đức tin và cảm nghiệm của cộng đồng Kitô Giáo. Qua hiệp thông huyền nhiệm của Thiên Chúa với nhân loại, các đau khổ của Chúa Giêsu tiếp tục nơi sự đau khổ của mọi con cái Thiên Chúa, cho tới tận thời khắc hiện nay. Người già lo lắng và cô đơn trong viện dưỡng lão hướng mặt về phía tượng chịu nạn treo trên tường. Bậc cha mẹ đớn đau khôn lường vì mất đứa con thân yêu đang khụyu đầu gối như Chúa Giêsu trong Vườn Diệtsimani. Người tị nạn mất nhà mất cửa, mất hết vợ con, vì bạo lực bất nhân và không bút nào tả xiết đang kêu cầu như Chúa Giêsu “Lạy Chúa, Lạy Chúa, tại sao Chúa bỏ rơi con?”. Nhà lãnh tụ dưới sự đe dọa của cái chết vẫn cứ nói sự thật về chế độ bạo tàn vì nhớ lại rằng tiên tri Giêsu vẫn cứ hướng mặt mình về Giêrusalem. Người y tá lau mồ hôi khỏi trán một bệnh nhân AIDS mà nhận ra gương mặt của Chúa Giêsu chịu đóng đinh.
Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu quả là một biến cố lịch sử cuối cùng đã đem ý nghĩa và sức mạnh lại cho toàn bộ sứ mệnh của Người và là một ký ức sống động, một ơn thánh mạnh mẽ đem ý nghĩa và hy vọng lại cho mọi đau khổ của con người. Các trình thuật Tin Mừng về khổ nạn gồm tóm cả hai chiều kích vừa nói, nghĩa là vừa bén rễ các trình thuật của mình trong các lưu truyền lịch sử về những ngày sau hết của Chúa Giêsu vừa mời gọi người đọc tìm thấy nơi cuộc khổ nạn này ý nghĩa tối hậu cho kiếp người và cho dấn thân Kitô Giáo.
Những dòng trình bày ở đây, vì thế chứa đựng cả hai chiều kích trong cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Chúng không dành cho các nhà chuyên môn mà dành cho các Kitô hữu và những người suy tư nào muốn biết nhiều hơn về câu truyện đầy cảm kích này. Qua việc nhắc lại cách mô tả khác biệt sự đau khổ của Chúa Giêsu trong mỗi Tin Mừng, những dòng này muốn mời gọi độc giả bước sâu vào mầu nhiệm khổ nạn và đem các trải nghiệm riêng của mình vào cuộc tiếp xúc sinh tử với điều cốt lõi này của sứ điệp Kitô Giáo. Việc này từng được mọi thế hệ Kitô hữu thực hành bằng lời nói, bằng nghệ thuật và bằng thực hành đạo đức, như chất liệu lòng sùng kính cuộc khổ nạn từng gợi lên cho ta. Đồng thời, việc thông tri có tính lịch sử phát sinh từ việc nghiên cứu các bản văn Tin Mừng sẽ nhắc ta nhớ rằng cái chết của Chúa Giêsu không phải là một bịa đặt do trí tưởng tượng Kitô Giáo tạo ra mà là một biến cố bắt nguồn từ các phức tạp và căng thẳng của thế kỷ thứ nhất trong lịch sử.
2. Dẫn vào các chú giải Tin Mừng Khổ Nạn
Linh mục Donald Senior, C.P., cho rằng các trình thuật khổ nạn cung cấp đỉnh điểm cho cả bốn sách Tin Mừng bằng cách nắm được các chủ đề xuyên suốt toàn bộ việc mô tả cuộc đời Chúa Giêsu cho tới lúc được hoàn tất cách đầy cảm kích. Với những nét khéo léo, các Tin Mừng gia đã kể lại cho ta những giờ phút sau cùng của đời Chúa Giêsu: bữa ăn cuối cùng của Người với các môn đệ; việc Người bị bắt tại Diệtsimani; việc Người bị các lãnh tụ tôn giáo tra vấn; việc Người bị Philatô xử án; và cuối cùng khung cảnh nát lòng của đóng đinh, chết và an táng.
a. Các hoài niệm lịch sử, các nơi thánh
Các trình thuật khổ nạn bắt nguồn từ những ký ức có tính lịch sử của Giáo Hội sơ khai và chắc chắn rất phản ảnh thế giới Do Thái Giáo mà Chúa Giêsu vốn biết và yêu thương. Không như phần lớn câu truyện Tin Mừng được định vị ở miền bắc Galilê nơi Chúa Giêsu thi hành phần lớn thừa tác vụ công khai của Người, các trình thuật khổ nạn diễn ra ở Giêrusalem, thủ đô của tỉnh Giuđêa phía nam và, đối với phần đông người Do Thái kể từ thời Vua Đavít thế kỷ thứ 9 trước CN, là trung tâm có tính bản sắc của đời sống Do Thái.
Tại đây có Đền Thờ, địa điểm thánh thiêng nhất tại Israel nơi thánh nhan Thiên Chúa tỏ tường hơn cả. Cung thánh phía trong Đền Thờ có chứa Hòm Bia Giao Ước, tức chiếc hòm lưu động chứa hai tấm bảng lề luật mà dân Do Thái đem theo trong hành trình sa mạc từ Ai Cập tới Đất Hứa. Không ai được bước quá tấm màn che cung thánh phía trong này mà bước vào nơi tuyệt đối thánh thiêng, ngoại trừ vị thượng tế, là người mỗi năm một lần vào ngày Lễ Yom Kippur, tức ngày xá tội, được vào để thanh tẩy cung thánh này một cách biểu tượng khỏi tác dụng của tội lỗi có thể đã lọt vào nơi đây.
Phụng vụ đền thờ là các tư tế và các thầy Lêvi, là những người bảo quản nền phụng vụ đền thờ và trợ giúp các khách hành hương từ Israel và các nước trong thế giới Địa Trung Hải tới dâng hy lễ và cầu nguyện trong các ngày đại lễ của niên lịch Do Thái Giáo. Thời Chúa Giêsu, đền thờ là một cấu trúc nguy nga, do Hêrốt Đại Vương xây dựng, người đã để lại cả một di sản đồ sộ gồm nhiều dự án xây dựng ồ ạt khắp Israel: thành phố cảng Xêdarê, thủ đô phía bắc Samaria, các lâu đài kiên cố tại Masada và Herodium… Nhưng đền thờ Giêrusalem là công trình tuyệt hảo hơn hết của vị vua này với những bức tường đồ sộ, trang trí tinh xảo và nhất là những quảng trường bao la. Khi Chúa Giêsu tới đây vào khoảng năm 30 CN để hoàn tất sứ mệnh của Người, thì ngôi đền đang ở giai đoạn xây dựng cuối cùng của nó.
b. Giêrusalem, trung tâm chính trị của một bi kịch tôn giáo
Từ thời Vua Đavít, Giêrusalem vốn cũng là một trung tâm chính trị; là thủ phủ của nền quân chủ thống nhất dưới quyền Vua Đavít và Vua Salômôn. Rồi sau đó là thủ phủ của Vương Quốc Giuđêa phương Nam trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, vào thời Chúa Giêsu, Giêrusalem và các tỉnh Giuđêa và Samaria dưới quyền cai trị trực tiếp của Rôma. Đây là những vùng duy nhất của Israel chịu một số phận như thế. Ác-ki-laô, một trong các con trai của Đại Vương Hêrốt, người được Rôma chỉ định làm vua Do Thái chư hầu, là người tàn ác và bất tài, cuối cùng bị người Rôma hạ bệ vào năm 6 CN. Từ đó, một loạt các tổng trấn Rôma thay nhau đảm nhiệm việc cai trị trực tiếp Giuđêa và Samaria, sử dụng thành phố duyên hải Xêdarê Maritima làm thủ đô cai trị và chỉ tới Giêrusalem trong những ngày lễ lớn, nhất là dịp đại lễ theo niên lịch Do Thái Giáo. Năm 30 CN, tổng trấn Giuđêa lúc đó là Phôngxiô Philatô và, theo tập tục, ông phải tới Giêrusalem dự lễ Vượt Qua của Do Thái Giáo.
Thế là sân khấu cho vở bi kịch khổ nạn đạ được xếp đặt. Chúa Giêsu, vị tiên tri quê Galilêa, người chữa bệnh và vị thầy ngoại thường, sẽ đem sứ mệnh của Người tới Giêrusalem. Vài ngày trước ngày lễ, quây quần bởi những người ái mộ và tò mò, Người vào thành phố và đền thờ nguy nga. Ở đấy, đúng theo phong cách một tiên tri, Người thực hiện hàng loạt hành động cảm kích và táo bạo, dám cắt đứt các dịch vụ giúp khách hành hương đổi tiền “dơ” Rôma lấy tiền “sạch” của đền thờ và ngăn cản những ai vào đó để thực hành việc đạo đức. Tất cả các cử chỉ này dường như đều được tính toán như những lời tuyên bố tiên tri rằng đền thờ này, dù tráng lệ nguy nga, cũng sẽ được phá hủy trong thời đại Kitô đang đến.
Tiếng tăm của Chúa Giêsu như một bậc thầy đầy khiêu khích và một người chữa bệnh đáng nể sợ hình như đã tới Giêrusalem trước Người, ta không biết chắc điều này, nhưng chắc chắn hành động tại đền thờ của Người hẳn bị cả người Do Thái lẫn người Rôma coi là nguy hiểm. Dù người Rôma nắm giữ quyền lực tối hậu tại Giuđêa, họ vẫn phải trông nhờ các thẩm quyền Do Thái địa phương: đó là các tư tế hàng đầu và những trưởng lão khác, để duy trị trật tự công cộng. Các lãnh tụ tôn giáo chẳng ưa gì người Rôma và thẩy đều là những người tha thiết đối với việc giải phóng Israel, nhưng họ cũng rất thận trọng đối với bất cứ ai làm cớ cho người Rôma can thiệp và đàn áp hơn, nhất là người nói ra nhiều chủ trương tôn giáo đầy khiêu khích về chính mình và về sứ mệnh của mình.
3. Các trình thuật khổ nạn không phải là các trình thuật kiểu cảnh sát
Các câu truyện về khổ nạn nhất trí với nhau về các giai đoạn căn bản trong những ngày sau cùng của Chúa Giêsu. Người tới Giêrusalem để cùng các môn đệ cử hành Lễ Vượt Qua, là lễ tưởng niệm hàng năm biến cố giải phóng Israel khỏi cảnh nô lệ của Ai Cập và lời khẳng định của họ vào sự giải thoát trong tương lai của Chúa. Đêm trước khi chết, sau bữa ăn sau cùng với các môn đệ, Người cùng với họ đi cầu nguyện ở vườn ôliu trên sườn đồi phía tây Núi Cây Dầu, đối diện với đồi đền thờ. Ở đây, Người bị bắt bởi một băng có vũ khí do các lãnh tụ tôn giáo ủy nhiệm, và rất có thể được cả các thẩm quyền Rôma hỗ trợ. Một trong các môn đệ của Người là Giuđa Iscariốt thông báo tung tích của Người cho các nhà cầm quyền. Khuya đêm đó, Chúa Giêsu bị tra vấn bởi một một cuộc hội họp của các lãnh tụ tôn giáo, có lẽ trong mưu toan lên công thức cho các cáo buộc chống lại Người. Ngày hôm sau, Người bị điệu tới Philatô để lấy khẩu cung chính thức, vì Philatô, hình như lúc đó đang ngụ tại dinh cũ của Hêrốt, có thẩm quyền pháp lý trong những trường hợp như thế này. Sau một chút do dự, Philatô kết án đóng đinh Chúa Giêsu, một hình thức xử tử công khải đầy kinh hãi của Rôma thường chỉ dành cho các trường hợp dấy loạn. Có lẽ Philatô nghĩ Chúa Giêsu là người hơi điên điên nhưng vẫn nguy hiểm, có tham vọng nắm quyền.
Như thường lệ, vụ xử tử diễn ra nhanh chóng. Chúa Giêsu bị đánh rồi bị diễu qua phố xá để tới một ngọn đồi dành cho các vụ xử tử công khai gần nghĩa địa bên ngoài một trong các cổng của Giêrusalem. Ở đấy, Người bị lột trần truồng rồi bị đóng đinh vào thập giá. Đóng đinh là một biến cố công cộng, nhằm nhục mạ nạn nhân bằng một cái chết từ từ và đau đớn và nhờ đó biến chính nghĩa của nạn nhân thành vô giá trị. Chúa Giêsu chết chỉ vài giờ sau khi bị đóng đinh vào thập giá, có lẽ vì nhiều yếu tố hoà lẫn với nhau như sốc, kiệt sức, và bị nghẹt thở từ từ. Một người có thiện cảm với Chúa Giêsu, người dường như sở hữu một chiếc mộ kiểu hang đá tại nghĩa địa đá vôi gần đó, xin được phép tháo xác chúa Giêsu xuống khỏi thập giá và đã chôn Người trước lúc mặt trời lặn, theo phong tục Do Thái.
Đó là những “sự kiện” căn bản không chút tô điểm của những giờ phút cuối cùng của Chúa Giêsu tìm thấy trong các trình thuật khổ nạn. Ấy thế nhưng, nguyên các sự kiện thô sơ này mà thôi chưa lôi kéo được sự quan tâm của các soạn giả Tin Mừng. Đối với họ, điều quan trọng hơn nhiều là ý nghĩa của câu truyện đau thương và chết chóc này: đau khổ này là vì ai. Các trình thuật khổ nạn không phải là các trình thuật kiểu cảnh sát, tức là chỉ tường trình những sự kiện lạnh lùng của một vụ xử tử công cộng, nhưng là thành phần chủ yếu của câu truyện Kitô Giáo về Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, và việc Người chiến thắng sự chết cách hân hoan. Các sách Tin Mừng là lời công bố hay rao giảng, thuật lại bằng hình thức kể truyện ý nghĩa đời sống, sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu đối với chúng ta.
4. Tưởng nhớ câu truyện
Bởi thế, ngay từ thuở đầu của Giáo Hội, các Kitô hữu đã tụ họp nhau không những để tưởng nhớ câu truyện cái chết của Chúa Giêsu mà còn để hiểu sự chết này dưới ánh sáng việc Người sống lại và dưới cái phông lời Thiên Chúa, tức Cựu Ước, vốn là Thánh Kinh của Giáo Hội sơ khai. Khi thuật lại câu truyện cái chết của Chúa Giêsu từ vọng nhìn đức tin phục sinh, các Kitô hữu sơ khai hy vọng hiểu rõ hơn không những về Chúa Giêsu mà cả ý nghĩa của chính việc họ gặp gỡ đau khổ và cái chết. Câu truyện nguyên khởi về khổ nạn mà sau này gây ảnh hưởng cho trình thuật khổ nạn của Thánh Máccô có lẽ đã được lên khuôn trong khung cảnh thờ phượng, không khác Tam Nhật Tuần Thánh khi các Kitô hữu tụ họp nhau hàng năm để cử hành trong cầu nguyện bữa tiệc ly của Chúa Giêsu với các môn đệ, cuộc khổ nạn, cái chết và sự sống lại vinh hiển của Người. Cũng thế, các cộng đồng Kitô hữu tiên khởi nhất cũng đã tụ họp nhau trong tinh thần cầu nguyện và suy gẫm để nhắc lại các biến cố chủ chốt của những ngày định mệnh tại Giêrusalem nhưng cũng để đọc các thánh vịnh và suy gẫm về các tiên tri và các đoạn văn vĩ đại nào trong Sách Thánh của họ có thể đem lại ý nghĩa cho các biến cố ấy. Với thời gian, việc đọc có tính lịch sử này kèm theo các lời nguyện và các bài đọc Sách Thánh đã được hòa lẫn với nhau một cách không thể nào tách biệt nhau được nữa trong các trình thuật khổ nạn được các sách Tin Mừng truyền lại cho ta.
Khi lãnh nhận trách vụ soạn thảo sách Tin Mừng của mình, thánh Máccô hẳn đã có sẵn trình thuật khổ nạn như trên, có thể là một trình thuật được truyền tụng qua ký ức và được trân quí trong việc thờ phượng tại cộng đồng Kitô hữu của chính ngài. Khi Thánh Máccô thuật lại câu truyện về cuộc đời Chúa Giêsu, trình thuật khổ nạn này hẳn đã tạo nên tận điểm và đỉnh cao của nó, một khuôn mẫu sẽ được mỗi sách Tin Mừng khác rập theo.
5. Tinh thần trong đó các trình thuật khổ nạn được viết ra
Do đó, mục đích ở đây là đọc các truyện kể về khổ nạn trong tinh thần chúng được viết ra, với ý hướng không hẳn nhằm chép lại lịch sử đứng đàng sau các bản văn này nhưng đúng hơn để thấm nhập cái hiểu đức tin về sự chết của Chúa Giêsu là điều đã tràn ngập các bản văn này. Mất hút trong sự thân quen đối với các câu truyện mà phần đông chúng ta từng được nghe suốt cả đời này, có thể là sự kiện: mỗi soạn giả Tin Mừng kể lại trình thuật đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu một cách khác nhau hẳn. Vì mỗi soạn giả Tin Mừng viết cho một cộng đoàn Kitô hữu khác nhau và vì mỗi vị được phú cho một văn phong kể truyện độc đáo và một quan điểm đặc thù, nên bốn trình thuật đã ra khác nhau. Giống như bốn nghệ sĩ vĩ đại, mỗi soạn già Tin Mừng sản xuất ra bức chân dung tuyệt hảo về Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Điều này đúng đối với trọn bộ Tin Mừng của họ và cũng đúng đối với cách các vị trình bày cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.
II. CUỘC KHỔ NẠN THEO LỐI NHÌN CỦA TÁC GIẢ TIN MỪNG MACCÔ
Một phần vì Tin Mừng Chúa Nhật Khổ Nạn năm nay trích từ Tin Mừng Máccô, phần khác vì dù gì Tin Mừng này cũng được phần đông các học giả Thánh Kinh coi là Tin Mừng đầu hết, nên chúng tôi xin bắt đầu việc đọc cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu dưới cái nhìn của Tin Mừng này.
Linh mục Donald Senior, C.P., cho rằng: giống như toàn bộ Tin Mừng của ngài, trình thuật Khổ Nạn của Thánh Máccô khá ngắn gọn nhưng cô đọng, chuyển động nhanh và ám ảnh ta không thôi từ biến cố Bữa Tiệc Ly cho tới cái chết và việc chôn cất Chúa Giêsu.
1. Khổ Nạn bắt đầu với lòng trung thành và sự phản bội: Mc 14:1-11
Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Ðức Giêsu và giết đi; vì họ nói: "Ðừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động".
Lúc đó, Ðức Giêsu đang ở làng Bêtania, tại nhà ông Simon Cùi. Giữa lúc Người dùng bữa, có một người phụ nữ đến, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất thứ đắt tiền. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người. Có vài người lấy làm bực tức, nói với nhau: "Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo". Rồi họ gắt gỏng với cô. Nhưng Ðức Giêsu bảo họ: "Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! Ðiều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ, thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô".
Và Giuđa Ítcariốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Giuđa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện.
Thánh Máccô bắt đầu trình thuật Khổ Nạn bằng ba câu truyện âm mưu, phản bội và trung thành. Các kẻ thù của Chúa Giêsu, thông thường là phe Biệt Phái và nay các tư tế và trưởng lão tại Giêrusalem, chưa bao giờ từ bỏ các đặc điểm mà Thánh Máccô vốn dùng để mô tả họ ngay từ đầu Tin Mừng của ngài: Họ từng săn đuổi Chúa Giêsu lúc Người thi hành thừa tác vụ tại Galilê và càng tăng cường hơn nữa sự chống đối của họ đối với giáo huấn của Người khi Người tới Giêrusalem. Giờ đây, lòng thù hận khôn nguôi của họ được đóng ấn bằng một âm mưu sát hại Người.
Tuy nhiên, một yếu tố mới khiến ta rùng mình đã được thêm vào: Giuđa, một trong các môn đệ của Chúa Giêsu, vốn được tuyển lựa, yêu thương và ủy thác tham gia vào sứ mệnh của Chúa Giêsu, đi gặp các lãnh tụ và hứa sẽ phản bội Thầy mình. Các lãnh tụ rất vui và hứa trả cho anh một món tiền hậu hĩnh.
Giữa hai câu truyện trên, Thánh Máccô đã khéo léo và hết sức đặc trưng chen vào một câu truyện tuyệt diệu về lòng trung thành. Khi Chúa Giêsu tới thăm Simong Cùi ở Bethany, trên sườn phía đông của Đồi Cây Dầu, một người đàn bà vô danh đập bể bình dầu thơm đắt tiền, rồi xức lên đầu Chúa Giêsu. Trong Thánh Kinh, chỉ các ông vua và tiên tri mới được xức dầu trên đầu, và Thánh Máccô nhắc tới ký ức ấy ở đây.
Mùi dầu thơm vừa lan khắp phòng, những người hiện diện cạnh Chúa Giêsu đều ngỡ ngàng trước cử chỉ quá hoang phí của người đàn bà. Nhưng Chúa Giêsu bênh vực nàng. Nàng đã làm một hành vi trung thành và yêu thương đích thực. Chúa nói với mọi người “cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng” (14:8). Vì thế, Chúa hứa, nàng sẽ được tưởng nhớ tại bất cứ nơi nào Tin Mừng được rao giảng, người duy nhất trong trọn bộ Tân Ước được hưởng vinh dự này.
Ba cảnh rất tương phản nhau trên đây dẫn độc giả tới tâm điểm của sứ điệp Thánh Máccô. Hai chủ đề chính xuyên suốt trọn bộ trình thuật khổ nạn: một tập chú vào Chúa Giêsu, Đấng cương quyết tự hiến thân vì người khác; chủ đề kia tập chú vào những người vây quanh Chúa Giêsu, một số héo mòn trước nồi nung đau khổ, số khác thành điển hình của đức tin và lòng can đảm.
Khổ nạn vạch trần dụng tâm khủng khiếp của Giuđa và các lãnh tụ, nhưng nó cũng cho ta thoáng thấy tư cách môn đệ chân chính nơi người đàn bà vô danh ở Bethany. Giống Chúa Giêsu, nàng hiểu cả việc Người là ai lẫn việc số phận Người sẽ dẫn tới đâu, và không do dự, nàng đã hành động dựa trên trực giác ấy. Do đó, nàng đã xức dầu thơm để an táng Người và thừa nhận phẩm giá vương đế của Người. Vì tình yêu ấy, nàng sẽ không bao giờ bị quên lãng.
2. Lễ Vuợt Qua cuối cùng: Mc 14:12-31
Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Ðức Giêsu: "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?" Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: "Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: 'Cái phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?' Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta". Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
Chiều đến, Ðức Giêsu tới cùng với Nhóm Mười Hai. Ðang khi dùng bữa, Người nói: "Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy". Các môn đệ đâm ra buồn rầu, và lần lượt hỏi Người: "Chẳng lẽ con sao?" Người đáp: "Chính là một trong Nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung một đĩa với Thầy. Ðã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!"
Cũng đang bữa ăn, Ðức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: "Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy". Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. Người bảo các ông: "Ðây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người. Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày ấy, ngày Thầy được uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa".
Hát thánh vịnh xong, Ðức Giêsu và các môn đệ ra đi lên núi Ôliu. Ðức Giêsu nói với các ông: "Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi sống lại, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em". Ông Phêrô liền thưa: "Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không". Ðức Giêsu nói với ông: "Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần". Nhưng Phêrô lại nói quả quyết hơn: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy". Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy.
Tin Mừng Máccô nổi danh vì cung cách đóng khung cảnh chủ yếu bằng hai câu truyện có liên quan. Điều này thấy rõ ở phần tiếp theo của trình thuật khổ nạn: Các lời Chúa Giêsu phán trên bánh và rượu được đóng khung bởi hai lời tiên báo Giuđa phản bội, còn Phêrô và các môn đệ khác thì sai phạm. Một lần nữa, tập chú kép của Thánh Máccô về Kitô học và việc làm môn đệ, rất đặc trưng trong Tin Mừng của ngài, được trình bày rõ ràng. Việc mừng lễ Vượt Qua là khung cảnh của cả ba câu truyện này. Lễ hành hương vĩ đại này của Israel là để tưởng niệm cuộc xuất hành ra khỏi Ai Cập, tức hành động yêu thương đầy giải phóng của Thiên Chúa vốn là căn bản cho niềm hy vọng của Israel. Do đó, Tin Mừng muốn làm nổi bật sự kiện này: cái chết của Chúa Giêsu, một cái chết sẽ giải phóng người khác, đã được quện chặt vào biến cố Vượt Qua.
Thánh Máccô dùng nghi thức đơn giản của bữa ăn Vượt Qua để công bố bằng chính lời Chúa Giêsu ý nghĩa của khổ nạn. Người cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ mà phán: “Này là mình Thầy” và rồi cầm lấy chén, một lần nữa tạ ơn, trao cho các môn đệ, “Này là máu giao ước của Thầy, sẽ đổ ra cho mọi người…”.
Ở đây, ta thấy ý nghĩa bên trong của mọi hành vi thừa tác của Chúa Giêsu mà Thánh Máccô đã kể trước đó trong Tin Mừng của ngài: việc Người chữa lành đầy cảm thương, việc Người làm bạn với những ai bị bỏ rơi ở bên lề, việc Người giảng dạy một cách mạnh bạo, việc Người đối đầu với sự ác, việc Người nuôi ăn đám đông bị đói. Tất cả những điều này nói lên một cuộc sống hoàn toàn vì người khác, tất cả đều là “bánh bị bẻ ra” và “máu… đổ ra cho mọi người”. Đó chính là tinh thần của sứ mệnh Người, một sứ mệnh cuối cùng sẽ hóa thành chiến thắng và đó cũng là sứ mệnh mà các môn đệ của Người được mời gọi tiếp tục. Nhưng đường còn dài ở phía trước, đau khổ và hồi hướng còn rất cần trước khi họ sẵn sàng. Do đó, lời lẽ long trọng và các cử chỉ hùng hồn của Chúa Giêsu tại Bữa Tiệc Ly đã được đóng khung bằng những lời tiên báo Giuđa sẽ phản bội và các môn đệ còn lại sẽ bỏ rơi Người. Ngay cả Simong Phêrô, người môn đệ đầu tiên của Người (1:16-20) và là lãnh tụ của họ cũng công khai chối Thầy vị sợ hãi và đã bỏ rơi Thầy.
3. Diệtsimani: cầu nguyện và bị bắt: Mark 14:32-52
Sau đó, Ðức Giêsu và các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghếtsêmani. Người nói với các ông: "Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện". Rồi Người đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo. Người bắt đầu cảm thẩy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các ông: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức". Người đi xa hơn một chút, quỵ xuống đất mà cầu xin cho giờ ấy rời khỏi mình, nếu có thể được. Người nói: "Ápba, Cha ơi! Cha có thể làm được mọi sự, xin tha cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha". Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phêrô: "Simon, anh ngủ à ? Anh không thức nổi một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối". Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Các ông chẳng biết trả lời làm sao với Người. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo các ông: "Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con Người bị nộp vào tay phường tội lỗi. Ðứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!"
Ngay lúc đó, khi Người còn đang nói, thì Giuđa, một người trong Nhóm Mười Hai, xuất hiện. Cùng đi với hắn, có một đám đông mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế, kinh sư và kỳ mục sai đến. Kẻ nộp Ðức Giêsu đã cho họ một ám hiệu, hắn dặn rằng: "Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận". Vừa tới, Giuđa tiến lại gần Người và nói: "Thưa Thầy!", rồi hôn Người. Họ liền tra tay bắt Người. Nhưng một trong những kẻ đang có mặt tại đó tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế, làm nói đứt tai.
Ðức Giêsu nói với họ: "Các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt tôi như bắt một tên cướp vậy? Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Ðền Thờ, mà các ông không bắt. Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm". Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. Trong khi đó có một cậu thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh. Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng.
Giờ đây, khung cảnh đã thay đổi: từ thượng lầu tới Diệtsimani, khu rừng ôliu ở bên ngoài thành phố, và tại đây, trong hai cảnh chính, nhịp độ câu truyện khổ nạn đã tăng tốc.
Bóng ma cái chết bạo hành lởn vởn trong đầu Chúa Giêsu và làm Người khốn khổ. Giống như nhiều lần trong Tin Mừng, Chúa Giêsu tìm sức mạnh trong lời cầu nguyện. Đây không hẳn là một lời cầu ngoan ngoãn hay anh hùng mà là một lời cầu nói lên niềm tin nguyên vẹn như từng thấy trong các thánh vịnh: “Ápba, Cha ơi! Cha có thể làm được mọi sự, xin tha cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (14:36). Phần lớn tinh thần của Chúa Giêsu là ở đây: kiên tâm, thân mật sùng kính Thiên Chúa, “Ba” của Người, và các cuộc chiến đấu khốc liệt với sức mạnh sự ác cũng như thần chết từng đánh dấu thừa tác vụ của Người tại Galilê (xem 5:1-20).
Thánh Máccô, trước đó, đã cho các độc giả của ngài hay: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng mà Chúa Thánh Thần vốn ngự bên trong và là Đấng mà tên đã được Thiên Chúa nhắc đến tại Sông Giócđăng (1:9-11) và trên núi Hiển Dung (9:7). Nhưng Chúa Giêsu cũng là con người đích thực, biết sợ chết và tan nát cõi lòng khi nghĩ rằng sứ mệnh của mình sẽ thất bại. Bởi thế, Thánh Máccô đã dám trình bày với ta cảnh này, một cảnh sẽ mãi mãi nằm trong ký ức Kitô Giáo: một lời cầu nguyện nghẹn ngào tuy đầy đức tin nhưng cũng không thiếu sợ hãi từ môi miệng Chúa Giêsu.
Thánh Máccô tiếp tục phương pháp diễn tả các môn đệ đi ngược chiều rõ rệt với Chúa Giêsu. Ba lần, Người tới tìm hỗ trợ bằng sự hiện diện của họ, chỉ để thấy họ ngủ mê ngủ mệt. Tin Mừng cho thấy rõ “giấc ngủ” này không hẳn chỉ vì mỏi mệt sau một lễ lạc lâu dài. Loại ngủ này nguy hiểm hơn nhiều, nó là trạng thái lờ đờ thiêng liêng của những người không nhận ra giờ phút nguy kịch trong lịch sử và do đó không sẵn sàng đương đầu với cơn nguy kịch này. Chúa Giêsu từng cảnh giác các môn đệ về thứ mê ngủ này: “Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. Ðiều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!" (13:35-37).
Giờ phút nguy kịch trên đến rất nhanh. Giuđa và đám đông có trang bị xông vào cảnh tĩnh mịch của Diệtsimani để bắt Chúa Giêsu, người môn đệ bỏ đạo này nhận diện Chúa Giêsu bằng nụ hôn phản bội. Lộn xộn diễn ra sau đó: họ tra tay bắt Chúa Giêsu; trong khi ấy, một “người bàng quan” (một người trong đám đông? một người trong các môn đệ của Người?) rút kiếm ra và chém đứt tai một đầy tớ của vị thượng phẩm.
Chúa Giêsu đối mặt với bức tường bạo hành ấy và lên án nó: “Các ông đem gươm giáo gậy gộc đến bắt tôi như bắt một tên cướp vậy? Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Ðền Thờ, mà các ông không bắt. Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm” (14:49). Biết bao lần cảnh này được lặp lại trong các thế kỷ từ ngày Thánh Máccô soạn tác: bắt người ban đêm; các lực lượng của bạo hành tìm cách giập tắt tiếng nói công lý; bạo hành đẻ ra bạo hành nhiều hơn; thái độ anh hùng đơn độc của vị tử đạo từ khước không phản bội tinh thần Thiên Chúa.
Một lần nữa, Thánh Máccô đã tương phản phản ứng của môn đệ với phản ứng của Chúa Giêsu. Cơn nguy kịch đã diễn ra, và họ chịu không thấu. Tất cả đã bỏ trốn, bỏ rơi Chúa Giêsu, một trong số họ hoảng sợ đến nỗi bỏ cả quần mà chạy trần truồng. Các môn đệ quả đã để phẩm giá mình, ơn gọi của mình và Đấng đã hiến mình để họ được sống ở phía sau.
4. Xưng thú và chối bỏ: thượng hội đồng tra khảo: Mark 14, 53-72
Họ điệu Ðức Giêsu đến vị thượng tế. Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư, tất cả đều tựu lại. Ông Phêrô theo Người xa xa, vào tận bên trong dinh thượng tế, và ngồi sưởi bên đống lửa với bọn lính canh.
Bấy giờ các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Ðồng tìm lời chứng buộc tội Ðức Giêsu để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, vì tuy có nhiều kẻ đưa chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau. Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng: "Chúng tôi nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Ðền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Ðền Thờ Khác, không phải do tay người phàm!" Nhưng ngay về điểm này, chứng của họ không ăn khớp với nhau.
Bấy giờ vị thượng tế đứng lên giữa hội đồng hỏi Ðức Giêsu: "Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?" Nhưng Ðức Giêsu vẫn làm thinh, không đáp một tiếng. Vị thượng tế lại hỏi Người: "Ông có phải là Ðấng Kitô, Con của Ðấng Ðáng Chúc Tụng không?" Ðức Giêsu trả lời: "Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến". Vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: "Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?" Tất cả đều lên án Người đáng chết.
Thế là một số bắt đầu khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm Người vừa nói: "Hãy nói tiên tri đi!" Và bọn lính canh túm lấy Người mà tát túi bụi.
Ông Phêrô đang ở dưới sân, có một người tớ gái của thượng tế đi tới; thấy ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói: "Cả bác nữa, bác cũng đã ở với cái ông Người Nadarét, ông Giêsu đó chứ gì!" Ông liền chối: "Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì!" Rồi ông bỏ đi ra phía tiền sảnh. Bấy giờ có tiếng gà gáy. Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói với những người đứng đó: "Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy". Nhưng ông Phêrô lại chối. Một lát sau, những người đứng đó lại nói với ông: "Ðúng là bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Galilê!" Nhưng ông Phêrô liền thốt lên những lời độc địa và thề rằng; "Tôi thề là không có biết người các ông nói đó!" Ngay lúc đó, gà gáy lần thứ hai. Ông Phêrô sực nhớ điều Ðức Giêsu đã nói với mình: "Gà chưa kịp gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy đến ba lần". Thế là ông oà lên khóc.
Khung cảnh lại thay đổi một lần nữa: từ Diệtsimani qua trú sở của Thượng Phẩm, nơi Chúa Giêsu bị các lãnh tụ tra vấn. Văn phong bậc thầy của Thánh Máccô về tường thuật một lần nữa lại hiển hiện. Ngài đóng khung cảnh thẩm vấn bằng cảnh Phêrô chối Chúa, rõ ràng nhằm tương phản nỗi sợ sệt của các môn đệ với lòng can đảm của Chúa Giêsu.
Một loạt các nhân chứng giả được đưa tới để chống lại Chúa Giêsu, nhưng các lời tố cáo của họ mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên, một số người đưa ra lời tố cáo gợi trí nhớ các độc giả Tin Mừng: “Tôi sẽ phá Ðền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Ðền Thờ khác, không phải do tay người phàm!"
Trước đó, Tin Mừng Máccô vốn đã mô tả Chúa Giêsu như một tiên tri nóng như lửa, thanh tẩy Đền Thờ và tiên đoán sự tàn phá của nó (11:15-19; 13:1-2). Thực vậy, Chúa Kitô Sống Lại sẽ là đền thờ mới của Thiên Chúa, là “hòn đá bị loại bỏ” sẽ trở thành viên đá góc của một dân thánh mới, nơi Thiên Chúa sẽ cư ngụ (12:10-11). Lời tố cáo này sẽ được nhớ lại khi màn trong cung thánh bị xé làm hai lúc Chúa Giêsu qua đời (15:38).
Thất vọng vì lời chứng thiếu sót của các nhân chứng, vị thượng phẩm hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi có tính chủ chốt: “"Ông có phải là Ðấng Kitô, Con của Ðấng Ðáng Chúc Tụng không?" Chúa Giêsu không do dự trả lời: "Phải, chính thế”. Và Người thêm một thách thức cho những kẻ chống đối Người: một ngày kia họ sẽ thấy tù nhân của họ đến như “Con Người”, nhân vật ám ảnh kia sẽ bị sỉ nhục và bác bỏ, nhưng rồi sẽ được Thiên Chúa hiển dương và sẽ trở lại vinh quang vào ngày tận thế.
Lời tuyên bố mạnh dạn của Chúa Giêsu về căn tính của mình bị địch thủ bác bỏ như lời phạm thượng; họ kết án tử hình Người và bắt đầu nhục mạ Người. Độc giả nào biết rõ căn tính của Chúa Giêsu sẽ chỉ có thể buồn bã sâu xa mà thắc mắc rằng không biết tại sao ta lại có thể mù quáng đến thế về phương diện thiêng liêng.
Thánh Máccô hướng chú ý của ta từ cảnh Chúa Giêsu đứng trước những kẻ bắt giam Người trở lại với sân trước nhà vị thượng phẩm nơi ông Phêrô mệt mỏi xích lại gần một đám nữ tỳ đang quây quần quanh đống lửa ấm. Trong một chuyển động chậm, ta được chứng kiến cảnh sức mạnh của sợ sệt bẻ gẫy quyết tâm của một môn đệ. Ba lần, Phêrô chối, đến biết Thầy ông cũng không, sau cùng còn văng tục mà thề nữa khi bị tràn ngập bởi sợ hãi. Gà bèn gáy và ông nhớ lại lời cảnh cáo của Chúa Giêsu tại Bữa Tiệc Ly. Hãi hùng hiểu ra sự sai phạm của mình khiến ông òa lên khóc.
Câu truyện quen thuộc với ta đến nỗi ta mất cả khả năng ngỡ ngàng vì nó. Chỉ một câu truyện đầy cảm kích này cũng đủ nói lên trọn bộ sự thất bại ê chề của thân phận môn đệ: nhà lãnh đạo của những người được Chúa Giêsu công khai kêu gọi làm môn đệ đã từ bỏ lòng trung thành với Thầy chí ái.
5. Phiên tòa Rôma: Mark 15:1-15
Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Ðồng. Sau đó, họ trói Ðức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô.
Ông Philatô hỏi Người: "Ông là vua dân Dothái sao?" Người trả lời: "Chính ngài nói đó". Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, nên ông Philatô lại hỏi Người: "Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!" Nhưng Ðức Giêsu không trả lời gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên.
Vào mỗi dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho họ một người tù, tuỳ ý họ xin. Khi ấy có một người tên là Baraba, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. Ðám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. Ðáp lời họ yêu cầu, ông Philatô hỏi: "Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Dothái không?" Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Người. Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Philatô phóng thích tên Baraba thì hơn. Ông Philatô lại hỏi: "Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Dothái?" Họ la lên: "Ðóng đinh nó vào thập giá!" Ông Philatô lại hỏi: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?" Họ càng la to: "Ðóng đinh nó vào thập giá!" Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng thích tên Baraba, truyền đánh đòn Ðức Giêsu, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá.
Các lãnh tụ Do Thái dẫn Chúa Giêsu tới Philatô để Người bị kết án đóng đinh.Thánh Máccô khiến ta chỉ chú mục vào vấn đề duy nhất này: căn tính vua của Chúa Giêsu, vì lần đầu tiên, quyền lực Rôma được đưa vào câu truyện khổ nạn.
Cảnh này đầy nghịch lý. Philatô, người đại diện của quyền lực đế quốc, chạm trán với tù nhân Do Thái tả tơi này và hỏi Người về tham vọng làm “vua Dân Do Thái”. Trong khi dân của Chúa Giêsu bác bỏ vị vua đích thực của họ mà chọn Baraba, một tên sát nhân, thì Philatô, một Dân Ngoại và là người Rôma, rõ ràng tin chắc sự vô tội của Chúa Giêsu và tìm cách thả tự do cho Người.
Bên dưới tất cả các điều trên là vấn đề vương quyền, biểu thức mạnh mẽ nhất của quyền lực chính trị được độc giả của Thánh Máccô biết tới. Philatô và các địch thủ của Chúa Giêsu đồng ý với nhau ở một điều: Chúa Giêsu không hề là vua. Trong đầu óc Philatô, Người là nạn nhân vô hại của lòng ghanh ghét nơi các lãnh tụ Do Thái; đối với các lãnh tụ này, Người là kẻ tự đòi cho mình thẩm quyền tôn giáo một cách sai lầm và nguy hiểm. Ấy thế nhưng cuối cùng, Người vẫn bị chế nhạo vì tham vọng làm vua: một áo khoác mầu tím, một triều thiên bằng gai nhọn, một vương trượng bằng sậy, và những lời tán tụng nhại sau đó trở thành bạo hành. Nhưng độc giả câu truyện khổ nạn của Thánh Máccô biết rằng không phải Chúa Giêsu mà các biểu tượng của quyền lực đế quốc và lạm dụng bị chế nhạo.
Chúa Giêsu là vua nhưng là một vị vua mà quyền lực không được phát biểu bằng bóc lột hay “áp đặt quyền bá chủ lên người khác” (10:42) mà là hiến mạng sống cho họ. Trước đó, trong hành trình lên Giêrusalem, Chúa Giêsu vốn thúc giục các môn đệ của Người đừng thi hành thứ quyền lực ấy mà chỉ thi hành các quyền lực mà nguồn gốc và ý hướng là hiến mạng sống cho người khác, là quyền lực vốn sinh động hóa chính Chúa Giêsu (10:42-45). Bởi thế, câu truyện khổ nạn đã lên án mọi hình thức quyền lực gian dối.
6. Đóng đinh: Mc 15:16-47
Lính điệu Ðức Giêsu vào bên trong dinh, tức là dinh tổng trấn và tập trung cả cơ đội lại. Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. Rồi chúng chào bái Người: "Vạn tuế đức vua dân Dothái!" Chúng dùng cây sậy đập đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. Chế giễu chán, chúng lột áo điều Người ra để đóng đinh vào thập giá.
Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Simon, gốc Kyrênê. Ông là thân phụ hai ông Alêxanđê và Ruphô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Ðức Giêsu. Chúng đưa Người lên một nơi gọi là Gôngôtha, nghĩa là Ðồi Sọ.
Chúng trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. Bản án xử tội Người viết rằng: "Vua người Dothái". Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp.]
Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Ê, mi là kẻ phá Ðền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!" Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với nhau: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Ông Kitô vua Ítraen ấy, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin". Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.
Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. Vào giờ thứ chín, Ðức Giêsu kêu lớn tiếng: "Êlôi, Êlôi, lama sabácthani!" Nghĩa là: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: "Kìa hắn kêu cứu ông Êlia". Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: "Ðể xem ông Êlia có đến đem hắn xuống không. Ðức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. Bức màn trướng trong Ðền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa".
Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Maria Mácđala, bà Maria mẹ các ông Giacôbê thứ và Gioxê, cùng bà Salômê. Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Ðức Giêsu khi Người còn ở Galilê. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Giêrusalem, cũng có mặt tại đó.
Chiều đã đến, mà vì hôm ấy lại là ngày sửa soạn, tức là áp ngày sabát, nên ông Giôxép tới. Ông là người thành Arimathê, thành viên có thế giá của hội đồng, và cũng là người vẫn mong đợi Triều Ðại của Thiên Chúa. Ông đã mạnh dạn đến gặp tổng trấn Philatô để xin thi hài Ðức Giêsu. Nghe nói Người đã chết, ông Philatô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi viên đại đội trưởng đến, hỏi xem Người đã chết lâu chưa. Sau khi nghe viên sĩ quan cho biết sự việc, tổng trấn đã cho ông Giôxép lãnh lấy thi hài. Ông này mua một tấm vải gai, hạ xác Ðức Giêsu xuống, lấy tấm vải ấy liệm Người lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi đá, rồi lăn tảng đá lấp cửa mộ. Còn bà Maia Mácđala và bà Maria mẹ ông Gioxê, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người.
Trong trình thuật Máccô, đoạn kết thúc đã đến rất nhanh; câu truyện được thuật lại trong ít chữ, như thể quá đau lòng không tìm được lời để viết thêm. Philatô từ bỏ cố gắng thả Người ra và đã kết án Người chịu đóng đinh. Chi tiết cuộc hành quyết cho thấy Chúa Giêsu bị đưa lên Golgôtha, nơi Người được cung cấp một loại thuốc mê nhưng Người từ chối; Người bị lột áo xống và bị đóng đinh vào thập giá. Hai kẻ nổi loạn cùng bị đóng đinh cạnh Chúa Giêsu, mỗi kẻ một bên, tạo thành một hàng xóm buồn bã. Chiếc bảng nhỏ trên thập giá ghi hàng chữ chế giễu: “Vua người Do Thái”.
Trong khi ngắm Người qua đời, hàng loạt những châm chọc được ngỏ với người trên thập giá: đe dọa phá đền thờ; có khả năng cứu người khác nhưng lại không có khả năng tự cứu mình. Thánh Máccô mô tả lời châm chọc cuối cùng bằng một giọng hết sức mỉa mai: “Ông Kitô vua Ítraen ấy, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin” (15:32). Nhưng độc giả của Thánh Máccô biết rằng quyền lực của Chúa Giêsu được chứng minh không phải bằng cách đập bể tan tành cây thập giá mà bằng cách mang lấy nó, hiến mạng sống cho người khác. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì? Quả thật, người ta lấy gì mà đổi lại mạnh sống mình?” (8:34-37).
Bóng tối trùm phủ Golgôtha và trong cảnh mù mịt ấy, lời than cuối cùng của Chúa Giêsu vang lên: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?". Đó là câu đầu của Thánh Vịnh 22, lời cầu nguyện vĩ đại của đức tin đau khổ Do Thái Giáo. Trình thuật khổ nạn của Thánh Máccô vốn được mô tả như một “vượt qua đêm đen”: Chúa Giêsu bị lột hết các môn đệ, hết tự do, hết phẩm giá, hết sự sống khi Người trao đi từng sợi hữu thể của Người vì thế giới.
Và như thế, trong trình thuật của Thánh Máccô, Chúa Giêsu chết với một tiếng kêu không lời nhưng vang vọng khắp ngọn đồi thương đau, xé đôi màn trong đền thờ và đốt lên ngọn lửa đức tin trong trái tim viên bách quản. Chứng nhân bất ngờ này nhìn thấy trong cung cách chết của Chúa Giêsu cho người khác cả một mạc khải chân thực của Thiên Chúa. Việc nhìn thấy Chúa Giêsu chịu đóng đinh đã bật khởi trong ông lời tuyên xưng đức tin trọn vẹn đầu tiên trong Tin Mừng: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa" (15:39). Một mạc khải đầy ngạc nhiên: quyền lực Thiên Chúa được biểu lộ không qua những người phi thường xuất chúng mà qua cái chết vị tha vì yêu thương.
Thánh Máccô hay để ý những điều khó xẩy ra. Các môn đệ được tuyển chọn đều chạy trốn. Nhưng đứng xa xa là những môn đệ trung thành khác, những phụ nữ vốn theo chân Người ở Galilê và cùng tới Giêrusalem với Người. Từ nay, họ ở với Người qua cái chết và việc mai táng, không bao giờ bỏ rơi Người. Hai người trong số họ, Maria Magđalêna và Maria, Mẹ Giosê, sẽ canh chừng phần mộ của Người và sẽ là những người đầu tiên khám phá ra ngôi mộ trống và biết chắc Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần (16:1-8). Những môn đệ “khó có” này đã tự chứng minh mình chân thực trong khi các môn đệ lỗi lạc khác đã sai phạm. Họ sẽ là các môn đệ đem sứ điệp hân hoan và hòa giải của Chúa Kitô Phục Sinh đến cho các môn đệ sai phạm.