Friday, 24 January 2020 01:26

Bí Tích Thánh Tẩy Kitô Featured

Lm. Phêrô Nguyễn Thiên Cung

Giáo phận Phan Thiết

 

 

Linh mục Augustinô Nguyễn Văn Trinh, trong phần “Tạm kết” của tập sách do ngài biên soạn về Bí tích Thánh Tẩy, đã ghi nhận :
 
Chúng ta đã cố gắng:

Thu tập tài liệu về BT Thánh Tẩy;

-   Nhưng chưa tạo nên được một thần học về BT này

-   Lại càng không thể nhìn vào hoàn cảnh Việt Nam để đưa ra nhận định và đóng góp về một thần học mang tính Việt Nam. Tất cả còn chờ ở phía trước.” [1]
 
Thật vậy, mãi cho đến bây giờ, trong lãnh vực thần học về các bí tích nói chung, đặc biệt, bí tích Thánh Tẩy kitô, vẫn con rất nhiều vấn đề chưa giải quyết cách rốt ráo được, và vì thế, cần được nghiên cứu và thảo luận lâu dài thêm nữa. Thí dụ : a) Phải quan niệm như thế nào về tương quan giữa ba bí tích “khai tâm” (Thánh tẩy, Thêm sức và Thánh Thể) ? Những hiệu quả đích thực và trực tiếp của Bí tích Thánh tẩy là gi ? Phải quan niệm thế nào về tương quan giữa Bí tích Thánh Tẩy của Đức Giêsu-Kitô và các bí tích thánh tẩy kitô ? V.v…
 
Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo (từ nay, được viết tắt : GLHTCG) số 1257 viết : “Chính Chúa khẳng định rằng bí tích Rửa Tội là cần thiết để được ơn cứu độ…Thiên Chúa đã ràng buộc ơn cứu độ với bí tích Rửa Tội, nhưng chính Ngài không bị ràng buộc bởi các bí tích của Ngài.” Làm sao dung hòa được giữa việc “Thiên Chúa đã ràng buộc ơn cứu độ với bí tích Rửa Tội” và việc “Thiên Chúa không bị ràng buộc bởi các bí tích của Ngài.” ? Chẳng lẽ Thiên Chúa thất bại trong tất cả các công trình của Ngài (Sáng tạo, Mặc khải vả Siêu độ), nếu nhìn vào tỉ lệ con số những người kitô-hữu trên toàn thế giới (thống kê năm 2012, toàn cầu : 1.052.924.00, 00 công giáo /2.013.132.000, 00 kitô-hữu/7.052.132.000, 00 dân số toàn cầu, tỉ lệ 17, 42%; tại Châu Á : 125.860.000, 00 công giáo/4.115.586.000, 00 không công giáo, tỉ lệ 3, 06% 
[2]) ?
 
Và, ở số 1261 : “Về các trẻ em chết mà chưa được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, Hội Thánh chỉ biết phó dâng các em cho lòng thương xót của Thiên Chúa, như Hội Thánh đã làm trong nghi lễ an táng dành cho các em.”
[3] Điều nầy phải chăng chứng tỏ ngoài bí tích Thánh Tẩy, Thiên Chúa còn nhiều con đường khác, cách thức khác nữa để cứu độ con người ?
 
Làm sao dung hòa được tất cả những điều đó ? Giữa tình yêu nhưng không của Thiên Chúa (Ep 2, 8) và việc “ràng buộc ơn cứu độ với bí tích Rửa Tội” ? Giữa ơn cứu độ phổ quát dành cho tất cả mọi người (1 Tm 2, 4) và những giới hạn, những qui định có tính bắt buộc như vậy ?
 
Nguyên nhân của tình trạng thiếu nhất quán nầy, theo thiển ý, có nhiều, nhưng nói chung, qui tụ quanh những nguyên nhân chính sau đây :
 
1-  Trước tiên, khi nói về sự cần thiết của Phép Rửa, người ta thường đơn thuần chỉ hiểu cách hạn hẹp và nông cạn đó là nghi thức Phép Rửa bằng nước mà không hiểu rằng Phép Rửa của Đức Giêsu-Kitô chính là các Mầu nhiệm Tự hủy nhập thể làm người, Thập giá (chết và Phục sinh) của Ngài, mà nghi thức “dìm trong nước”(Hy ngữ : Baptizein) vốn là một biểu tượng (Lc 12, 50)…
 
2-  Thứ đến, thay vì coi các ân sủng phát sinh từ Bí tích Thánh Tẩy kitô là những tương quan liên vị (giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa-Ba Ngôi và ngược lại; giữa thụ nhân với Đức Giêsu-Kitô và trong Ngài với Thiên Chúa-Ba Ngôi), có vẻ như thần học cổ điển và kinh viện có khuynh hướng coi các ân sủng của Bí tích Thánh tẩy như là những “sự vật” (res, une chose)
[4] hơn là những tương quan tình yêu…
 
3-  Và, trong khi trên thực tế, Bí tích Thánh Tẩy kitô có thể có hai hiệu quả : a) hiệu quả tích cực và trực tiếp là “được trở nên con Thiên Chúa trong Đức Giêsu-Kitô, Con và là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người” và b) hiệu quả tiêu cực hay kèm theo là “được tha thứ tội lỗi” (nếu có), thì có vẻ như, thần học và mục vụ về Bí tích Thánh Tẩy của Giáo Hội kitô trong suốt gần 2000 năm qua hầu như có khuynh hướng muốn xem hiệu quả tiêu cực như là chính yếu và coi hiệu quả tích cực và trực tiếp như là phụ tùy và kèm theo…
 
4-  Sau cùng, do đó, khi đề cập đến sự cần thiết của Bí tích Thánh Tẩy kitô, thần học cổ điển và kinh viện có vẻ như thường lẫn lộn giữa - sự cần thiết của ơn siêu độ được mang lại bởi Đức Giêsu-Kitô trong toàn bộ các mầu nhiệm Sáng tạo, Mặc khải và Siêu độ của Ngài, đặc biệt trong mầu nhiệm Tự hủy khi nhập thể làm người và mầu nhiệm Thập giá (chết và Phục sinh), và - sự cần thiết của các nghi thức, vốn chỉ là biểu tượng của Bí tích Thánh tẩy kitô; hay nói cách khác, lẫn lộn giữa thực tại mầu nhiệm được diễn tả và những công cụ hay phương tiện được sử dụng để diễn tả mầu nhiệm ấy, tức là giữa “signifié” và “signifiant”, giữa “mysterium” và “sacramentum”…
 
Thật ra, mãi cho đến thế kỷ XIII, dưới ảnh hưởng của Alexandre de Halès, Albertô Cả và nhất là Thôma d’Aquin, các hiệu quả của Bí tích Thánh Tẩy kitô mới được phân tích cách khá hệ thống : 1) Tha tội; 2) Tha thứ các hình phạt do tội; 3) Ân sủng thánh hóa và các hồng ân siêu nhiên; 4) Ấn tín; 5) Hội nhập vào Đức Kitô và Hội Thánh.
[5]
 
Còn Sách SGLHTCG
[6] cho biết những Ân sủng của Bí tích Thánh Tẩy như sau : 1) Để tha tội (các số 1263, 1264); 2) Được trở nên “Thụ tạo mới” [thành nghĩa tử của Thiên Chúa, được thông phần bản tính Thiên Chúa, thành chi thể của Đức Kitô, v.v…] (các số 1265, 1266); 3) Được tháp nhập vào Hội Thánh là Thân Thể Đức Kitô (các số 1267, 1268, 1269, 1270); 4) Mối dây bí tích của sự hiệp nhất các kitô-hữu (số 1271); 5) Ấn tín thiêng liêng không thể tẩy xóa (các số 1272, 1273, 1274).
 
Để có thể có được một cái nhìn toàn cục và chính xác về Bí tích Thánh Tẩy kitô, theo thiển ý, có lẽ chúng ta cần “đọc lại” Biến cố Đức Giêsu được thánh tẩy ở sông Giođan, bởi Gioan Tẩy Giả, vốn vẫn được coi như là mô mẫu và nguồn gốc của tất cả mọi bí tích Thánh Tẩy kitô khác, và sau đó “đọc lại” những suy tư thần học của các tác giả TƯ liên quan đến Bí tích nầy…
 

I -  BÍ TÍCH THÁNH TẨY CỦA ĐỨC GIÊSU KITÔ
 
Mc 1, 9-11 : “Hồi ấy, Đức Giêsu từ Nadaret miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Giođan. Vừa lên khỏi nước, Ngài liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng : ‘Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con’.”  
 
Mt 3, 13-17 : “Bấy giờ, Đức Giêsu từ miền Galilê đến sông Giođan, gặp ông Gioan để xin ông làm phép rửa cho mình. Nhưng ông Gioan một mực can Ngài và nói : ‘Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi !’ Nhưng, Đức Giêsu trả lời : ‘Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính.’ Bấy giờ ông Gioan mới chiều theo ý Ngài. Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Ngài thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Ngài. Và có tiếng từ trời phán : ‘Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Ngài’.”
 
Lc 3, 21-22 : “Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, và  đang khi Ngài cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Ngài dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng : Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra con.” 
 
Khi lướt qua cả ba tường thuật về biến cố Đức Giêsu được thánh tẩy ở sông Giođan bởi Gioan Tẩy giả (Mc 1, 9-11; Mt 3, 13-17; Lc 3, 21-22), người ta sẽ có thể khám phá ra được cấu trúc, vai trò, vị trí và nội hàm ý nghĩa của Bí tích Thánh Tẩy kitô :
 

1Cấu trúc của Bí tích Thánh Tẩy Kitô
 
Khi phân tích cả ba tường thuật liên quan việc Đức Giêsu được thánh tẩy nơi sông Giođan bởi Gioan Tẩy Giả, người ta khám phá ra được cách khái quát cấu trúc cơ bản của Bí Tích Thánh Tẩy kitô, bao gồm những yếu tố sau đây :
 

a – Đặc tính “thừa tác” (baptême ministériel)
 
Trong khi trong Cựu Ước (viết tắt : CƯ) cho đến Gioan tẩy Giả, phần lớn việc thanh tẩy là do người ta tự mình làm cho mình, việc Đức Giêsu đến “nhờ” Gioan Tẩy Giả thánh tẩy cho Ngài (Mt 3, 13-15) nói lên tính thừa tác của Bí Tích Thánh Tẩy kitô.
 
Tuy nhiên, Gioan Tẩy Giả chỉ là thừa tác viên của Bí Tích Thánh Tẩy kitô khi được chính Đức Giêsu-Kitô giao cho hay ủy thác cho thừa tác vụ nầy, dù có thể chỉ là một lần trong đời của ông mà thôi :
 
Bấy giờ, Đức Giêsu từ miền Galilê đến sông Giođan, gặp ông Gioan để xin ông làm phép rửa cho mình. Nhưng ông Gioan một mực can Ngài và nói : ‘Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi !’ Nhưng Đức Giêsu trả lời : ‘Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính’. Bấy giờ ông Gioan mới chiều theo ý Ngài.” (Mt 3, 13-15).
 
Có thể nói rằng tác viên đích thực của Bí tích Thánh Tẩy kitô chính là Thiên Chúa-Ba Ngôi, đặc biệt, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, hay nói cách khác, Ba Ngôi Thiên Chúa trong cùng lúc vừa là tác nhân (agens) vừa là hiệu quả (effectus) của Bí tích Thánh Tẩy.
 
Là tác nhân (agens), bởi vì chính Chúa Cha và Chúa Thánh Thần “dìm Con” vào thế gian và vào cõi chết, và cũng chính các Ngài làm cho Con phục sinh, trong cùng lúc vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật, hay trở nên Con Người (viết hoa), con người mới; và làm cho Hội Thánh trở nên Thân Mình của Con, “bởi nước và Thánh Thần” (Ga 3, 5).
 
Là hiệu quả (effectus), bởi vì khi tuyên xưng, cử hành và sống Bí tích Thánh Tẩy kitô, tương quan giữa Con (và qua Con là toàn thể nhân loại) với Thiên Chúa-Ba Ngôi được xác tín, được củng cố, được tăng cường cách mạnh mẽ và thân mật sâu sắc hơn. Hiệu quả ở đây, như vậy, là những tương quan hiện sinh tình yêu, chứ không phải là một sự vật gì đó (res, une chose) mà người ta có thể sở hữu và sở đắc một lần rồi thôi. Những tương quan tình yêu nầy, vì vậy, được phát triển và nẩy nở theo qui trình phát triển của những hạt giống trong các dụ ngôn về Nước Thiên Chúa của Đức Giêsu.
 
Nếu Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong cùng lúc vừa là tác nhân vừa là hiệu quả, Chúa Con, cũng vậy, trong cùng lúc vừa là tác nhân vừa là thụ nhân. Là tác nhân, bởi vì ngay từ thưở vĩnh hằng Chúa Con tự nguyện tham gia các công trình tình yêu của Thiên Chúa-Ba Ngôi (Sáng tạo, Mặc khải, Nhập thể, Siêu độ, Thập giá). Là thụ nhân, bởi vì  Đấng “bị dìm vào”, “chết và phục sinh”, “được phục hồi tư cách Con Thiên Chúa”, “được tràn đầy Thánh Thần” chính là Đức Giêsu-Kitô, Con và là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người.
 
Thiên Chúa Cha cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu : thiên ý nầy là kế hoạch yêu thương Ngài đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là qui tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô…” (Ep 1, 9-10).
 

b -  Đặc tính “dấu chỉ” hay “bí tích” (baptême sacramentel)
 
Từ mysterion trong tiếng Hy Lạp được dịch sang tiếng La tinh bằng hai từ là mysterium (mầu nhiệm) và sacramentum (bí tích). Trong cách giải thích về sau nầy, từ sacramentum (bí tích) diễn tả dấu chỉ hữu hình của thực tại ẩn giấu của ơn cứu độ, thực tại ẩn giấu đó được diễn tả bằng từ mysterium (mầu nhiệm). Theo nghĩa nầy, chính Đức Kitô là mầu nhiệm của ơn cứu độ : ‘Mầu nhiệm của Thiên Chúa không là gì khác ngoài Đức Kitô’ [Thánh Augustinô, Epistula 187, 11, 34 : CSEL 57, 113 (PL 33, 845)]. Công trình cứu độ do nhân tính thánh thiện và có sức thánh hóa của Đức Kitô thực hiện là bí tích của ơn cứu độ…” (GLHTCG, số 774).
 
– Yếu tố bí tích (sacramentum)
 
Như vậy, cơ sở nền tảng của các đặc tính “thừa tác” và “bí tích” hay “dấu chỉ” đó chính là sự kiện Đức Giêsu-Kitô trong cùng lúc vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật, và Giáo Hội kitô, Thân Mình của Ngài, cũng vậy, trong cùng lúc vừa vô hình vừa hữu hình, vừa thuộc linh vừa thuộc trần thế.
 
Là Thiên Chúa thật, vì thế, tư cách và cương vị Con Thiên Chúa của Đức Giêsu-Kitô chỉ có thể được xác nhận từ bởi Thiên Chúa mà thôi :
 
Lại có tiếng từ trời phán rằng : ‘Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con’.” (Mc 1, 11; xem thêm Mt 3, 17; Lc 3, 22b).
 
Là người, vì thế, tư cách là “Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn” của Đức Giêsu-Kitô cần được chứng thực vừa bởi con người vừa bởi Thiên Chúa :
 
Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình liền nói : ‘Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian…Tôi đã không biết Ngài, nhưng để Ngài được tỏ ra cho dân Itraen, tôi đến làm phép rửa trong nước’. Ông Gioan còn làm chứng : ‘Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Ngài. Tôi đã không biết Ngài. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa đã bảo tôi : ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần’. Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Ngài là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.” (Ga 1, 29.31-34).
 
Khi nói “Tôi đã không biết Ngài, nhưng để Ngài được tỏ ra cho dân Itraen, tôi đến làm phép rửa trong nước”  (Ga 1, 31) và “Tôi đã không biết Ngài. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi : ‘Ngươi thấy Thần Khí ngự xuống trên ai…” (Ga 1, 33-34), đã hẳn Gioan muốn chứng tỏ cho thấy Bí tích Thánh Tẩy trong nước vốn chỉ là một “dấu chỉ”, một “bí tích” qua đó “được mặc khải ra” cương vị là Con Thiên Chúa và tư cách là Đấng Mêsia của Đức Giêsu-Kitô.
 
– Yếu tố mầu nhiệm (mysterium)
 
Bí tích Thánh Tẩy, như vậy, tự căn nguyên, là một “dấu chỉ” cho thấy có sự hiện diện của một thực tại khác, vốn vô hình vì thuộc linh, chứ không phải tự nó có khả năng tạo ra những thực tại đó, kể cả thừa tác viên của Bí tích nầy, bởi vì thực tại đó không phải là một sự vật gì đó (res, une chose) mà người ta có thể sở đắc chỉ một lần là xong, mà là chính Thiên Chúa-Ba Ngôi, hay nói cách khác là những tương quan với Ngài. Và tương quan hiện sinh nầy vốn như một hạt giống được gieo trồng trên các mãnh đất là con người, và sẽ phát triển lớn dần lên với thời gian.
 
Đó chính là lý do tại sao Đức Giêsu lại nói :
 
Tôi còn một phép rửa phải chịu, và lòng tôi khắc khoải biết bao cho đến khi việc nầy hoàn tất !” (Lc 12, 50).
 
Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm. Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha : xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian.” (Ga 17, 4-5).
 
Khi “đọc lại” cả ba tường thuật TƯ liên quan đến Bí tích Thánh Tẩy của Đức Giêsu-Kitô, người ta khám phá ra hai yếu tố quan trọng làm nên căn tính của Bí tích nầy : a) tư cách Con Thiên Chúa được Đức Giêsu tuyên xưng và sống, và được Thiên Chúa-Ba Ngôi “xác nhận”; b) sự “tái hợp”, “đoàn tụ” “hội nhập” giữa Ba Ngôi Thiên Chúa với nhau và với loài người trong Con và qua Con.
 
(1) Liên quan đến tư cách Con Thiên Chúa của Đức Giêsu-Kitô :
 
Sự kiện Đức Giêsu, Con và là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, Đấng Thánh, hoàn toàn vô tội, nhận lãnh Phép rửa ở sông Giođan, bởi Gioan Tẩy Giả, chứng tỏ cho thấy nguyên nhân và mục đích chính, trực tiếp của Bí tích Thánh tẩy kitô không phải là để được tha tội, mà là để tư cách và cương vị Con Thiên Chúa của Đức Giêsu được tuyên xưng và được sống bởi Con (Mt 3, 15), và được xác nhận và được mặc khải ra bởi Thiên Chúa-Ba Ngôi (Mc 1, 10-11; Mt 3, 16-17; Lc 3, 21-22), và Gioan Tẩy Giả là thừa tác viên đầu tiên được sai đi để làm chứng, và sau đó là “dân Itraen” cũ và mới (Ga 1, 29.31-34).
 
Theo thiển ý, đó mới chính là lý do giải thích sự kiện ngay từ khoảng thế kỷ thứ hai Giáo Hội kitô sơ khai đã cho các em nhỏ nhận lãnh Bí tích Thánh Tẩy kitô, bởi vì tội lỗi, thậm chí, cả điều vẫn được gọi là tội “nguyên tổ”, không bao giờ là nguyên lý, nguyên nhân hay động cơ trực tiếp của các bí tích kitô, kể cả bí tích Thánh Tẩy kitô, mà chính là tình yêu nhưng không (vô điều kiện, vô vị lợi và vô biên) của Thiên Chúa-Ba Ngôi.
 
Thật vậy, qua Mt 3, 15, Đức Giêsu tuyên xưng và sống tư cách Con Thiên Chúa của mình trong tương quan với Cha và như thế là Ngài giữ trọn đức công chính, hay nói theo ngôn ngữ Đông phương là “chính danh” (con cho ra con, cha cho ra cha) :
 
Bấy giờ, Đức Giêsu từ miền Galilê đến sông Giođan, gặp ông Gioan để xin ông làm phép rửa cho mình. Nhưng ông Gioan một mực can Ngài và nói : ‘Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi !’ Nhưng, Đức Giêsu trả lời : ‘Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính.’ Bấy giờ ông Gioan mới chiều theo ý Ngài.
 
Và chính qua cử chỉ vâng phục đó trong tương quan với Cha mà Thiên Chúa-Ba Ngôi xuất hiện và xác nhận tư cách và cương vị Con Thiên Chúa của Đức Giêsu-Kitô :
 
Hồi ấy, Đức Giêsu từ Nadaret miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Giođan. Vừa lên khỏi nước, Ngài liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng : ‘Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con’.”  (Mc 1, 9-11).
 
Vai trò và sứ mạng của Gioan Tẩy Giả thừa tác viên là làm chứng những điều đó :
 
Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình liền nói : ‘Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian…Tôi đã không biết Ngài, nhưng để Ngài được tỏ ra cho dân Itraen, tôi đến làm phép rửa trong nước’. Ông Gioan còn làm chứng : ‘Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Ngài. Tôi đã không biết Ngài. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa đã bảo tôi : ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần’. Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Ngài là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.” (Ga 1, 29.31-34).
 
Thật vậy, cương vị và tư cách Con Thiên Chúa vốn thuộc về cấu trúc hữu thể học của Ngôi Vị thần linh của Đức Giêsu-Kitô, “từ” vĩnh hằng, và cả trong thân phận tự hủy làm người của Ngài, dù có bị che khuất bởi thân phận là người của Ngài, và vì thế, cần được mặc khải ra, tỏ lộ ra, bởi chính Thiên Chúa và bởi những con người của Chúa, bởi Giáo Hội kitô, vốn là Thân Mình của Đức Giêsu-Kitô.
 
Tương quan giữa Bí tích Thánh Tẩy kitô và cương vị Con Thiên Chúa của Đức Giêsu-Kitô, vì thế, không phải là tương quan nhân-quả, mà đúng hơn là dịp, là cơ hội, là hiện trường để Thiên Chúa mặc khải cho (Con, Gioan Tẩy Giả và những người đang hiện diện ở đó, và cho cả tất cả mọi người như chúng ta ngày hôm nay) biết Ngài là Cha của Con, và để Con xác tín mạnh mẽ hơn tương quan phụ-tử đó trong tương quan với Thiên Chúa-Ba Ngôi, và với loài người, trong hiện sinh trần thế của mình.
 
Hay nói cách khác, cũng không phải Gioan Tẩy Giả, thừa tác viên của Bí Tích Thánh Tẩy là người đích thân mang lại những hiệu quả của Bí Tích nầy mà chính Thiên Chúa-Ba Ngôi, vốn là Đấng mặc khải cho thấy cương vị và tư cách “là Con Thiên Chúa” của Đức Giêsu-Kitô, tức là mặc khải cho thấy “tương quan” của Đức Giêsu-Kitô với Thiên Chúa-Ba Ngôi và ngược lại, đó là tương quan phụ-tử.
 
Như vậy, ân sủng được tỏ bày ra trong Bí tích Thánh tẩy kitô, trong trường hợp của Đức Giêsu-Kitô, không phải là một sự vật (res, une chose) mà là những tương quan giữa Ba Ngôi Thiên Chúa với nhau và với loài người. Và tương quan nầy là điều mà Đức Giêsu-Kitô đã tuyên xưng, đã cử hành và đã sống trong suốt cả cuộc đời trần thế của Ngài, cho đến Biến cố Thập Giá (chết và Phục Sinh), và trở thành nguyên nhân và mẫu mực cho tất cả mọi hiện sinh kitô.
 
Ngoài ra, các tác giả TƯ có vẻ như còn muốn nới rộng nội hàm ý nghĩa của Bí tích Thánh Tẩy của Đức Giêsu-Kitô ra hết trương độ và chiều kích phổ quát của nó, khi cho rằng Phép rửa của Đức Giêsu-Kitô không chỉ bắt đầu từ việc Ngài được Gioan Tẩy Giả cử hành nơi sông Giođan và được kết thúc nơi Mầu nhiệm Thập Giá (chết và Phục sinh) thôi, mà còn bắt đầu từ mầu nhiệm Sáng tạo, Nhập thể, Mặc khải và Siêu độ của Con, và chấm dứt với Biến cố Quang Lâm của Con Người (viết hoa) : đó cũng chính là quá trình làm con người và làm Con Thiên Chúa của Đức Giêsu-Kitô :
 
Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Ngài, vì Ngài thế nào, chúng ta sẽ thấy Ngài như vậy.” (1 Ga 3, 2).
 
(2) Sự “tái hợp” hay “đoàn tụ” giữa Thiên Chúa-Ba Ngôi với nhau và với loài người trong Con và qua Con :
 
Bí tích Thánh Tẩy của Đức Giêsu-Kitô, ngoài ra, còn là “hiện trường” trong đó diễn ra cuộc gặp gỡ, tái hợp, đoàn tụ giữa Ba Ngôi Thiên Chúa với nhau và với loài người trong Đức Giêsu-Kitô, Con và là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người. Đó chính là điều cả ba tường thuật về biến cố Đức Giêsu được thánh tẩy ở sông Giođan bởi Gioan Tẩy Giả đều ghi nhận.
 
Hồi ấy, Đức Giêsu từ Nadaret miền Galilê đến, và được ông Gioan làm phép rửa dưới sông Giođan. Vừa lên khỏi nước, Ngài liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng : ‘Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con’.”  (Mc 1, 9-11; xem Mt 3, 16-17; Lc 3, 21-22).
 
Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm. Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha : xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian.” (Ga 17, 4-5).
 

c - Bí tích Thánh Tẩy “nhân danh Chúa Giêsu” hay “nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa” (baptême trinitaire)
 
Chiều kích nầy được diễn tả khá rõ ràng nơi Mt 3, 13-15 :
 
Bấy giờ, Đức Giêsu từ miền Galilê đến sông Giođan, gặp ông Gioan để xin ông làm phép rửa cho mình. Nhưng ông Gioan một mực can Ngài và nói : ‘Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi !’ Nhưng Đức Giêsu trả lời : ‘Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính’. Bấy giờ ông Gioan mới chiều theo ý người.” (Mt 3, 13-15).
 
Ở đây, Gioan làm phép rửa là do yêu cầu của Đức Giêsu hay nhân danh Ngài. Như vậy, chính nhờ nhân danh Đức Giêsu mà phép rửa nầy, được cử hành bởi Gioan Tẩy Giả, mang giá trị kitô.
 
Ngoài ra, khi trả lời cho thái độ ngại ngần của Gioan Tẩy Giả : “Nhưng Đức Giêsu trả lời : ‘Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính’.” (Mt 3,15), có vẻ như Đức Giêsu muốn cho thấy sở dĩ Ngài đến xin Gioan làm phép rửa cho mình là vì muốn tuân theo Thánh Ý của Cha, qua đó Đức Giêsu cho thấy cảm thức của Ngài về tương quan phụ-tử với Chúa Cha của Ngài.
 
Cả chính Gioan Tẩy Giả khi làm phép rửa nầy cũng là vì vâng theo Ý của Đấng đã sai ông làm phép rửa trong nước :
 
Tôi đã không biết Ngài. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi : ‘Ngươi thấy Thần Khí ngự xuống trên ai…” (Ga 1,33-34).
 
Như vậy, là cả “thụ nhân” (Đức Giêsu) cả thừa tác viên (Gioan Tẩy Giả) của Bí tích Thánh Tẩy đều làm phép rửa nhân danh Thiên Chúa-Ba Ngôi. Và chính nhờ vậy, mà những tương quan hiện sinh giữa con người (cả “thụ nhân” và thừa tác viên) với Thiên Chúa-Ba Ngôi và với nhau, và ngược lại, được cử hành, được tuyên xưng và được sống.
 
Chính yếu tố “nhân danh Chúa Giêsu-Kitô” và “nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa” khiến cho Bí tích Thánh tẩy kitô khác với các phép rửa khác, kể cả của Gioan Tẩy Giả. Và, cũng chính vì thế, mà chỉ Bí tích Thánh Tẩy kitô mới có khả năng tha tội, bởi vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội.  
 
Như chúng tôi đã phân tích trong phần thừa tác viên của Bí tích Thánh tẩy kitô trên đây, Bí tích Thánh Tẩy kitô không chỉ được diễn ra “nhân danh Chúa Giêsu-Kitô” và qua Ngài “nhân danh Thiên Chúa-Ba Ngôi”, mà chính Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, trong cùng lúc, vừa là tác nhân (agens) vừa là hiệu quả (effectus) của Bí tích nầy; và Chúa Con, trong cùng lúc vừa là tác nhân vừa là thụ nhân của Bí tích Thánh Tẩy Kitô.


2 – Vai trò và vị trí của Bí tích Thánh Tẩy của Đức Giêsu Kitô trong hiện sinh Kitô
 
Sau Biến cố Thập Giá (chết và Phục sinh) và Thăng thiên của Đức Giêsu-Kitô, các cộng đoàn Giáo hội sơ khai bắt đầu tiến hành nỗ lực “đọc lại” toàn bộ những gì liên quan đến con người và cuộc đời của Ngài (lời nói, hành vi, cử chỉ, thái độ, cung cách ứng xử, các biến cố trong cuộc đời của Ngài, v.v…), đặc biệt, Bí tích Thánh Tẩy của Ngài.
 
Nỗ lực “đọc lại” nầy giúp các cộng đoàn Giáo hội sơ khai khám phá ra rằng để được siêu độ hay được trở nên con Thiên Chúa, điều duy nhất cần thiết là con người phải “ở trong” Đức Giêsu-Kitô, Con và là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, và rồi từng bước khám phá ra, một đàng, a) vị trí, vai trò và chức năng của Đức Giêsu-Kitô phục sinh như là “nguyên lý”, là “trung gian” và là “cùng đích” của tất cả những Công trình Sáng tạo, Mặc khải, Siêu độ, tức là của toàn thể hiện sinh kitô; b) bí tích Thánh Tẩy của Đức Giêsu-Kitô như là mô mẫu và nguồn gốc của Bí tích Thánh Thẩy kitô; và đàng khác, vai trò và vị trí của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong hiện sinh thánh tẩy kitô.
 

a – Vai trò và vị trí của Đức Giêsu Kitô trong hiện sinh kitô
 
- “Là nguyên lý
 
Trước tiên, trên cơ sở hữu thể học, trong tư cách là Con Thiên Chúa vĩnh hằng, Đức Giêsu-Kitô là Nguyên lý hiện hữu của tất cả mọi Thụ Tạo, đặc biệt, con người :
 
Thiên Chúa phán : ‘Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta…Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa’…” (St 1, 26-27).
 
Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Ngài, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình…Ngài có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Ngài.” (Cl 1, 15-17).
 
Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa…Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài, thì chẳng có gì được tạo thành.” (Ga 1, 1.3a).
 
Thứ đến, trên cơ sở thuộc linh hay kitô, trong tư cách là Con Người Mới, tràn ngập Thần Khí sự sống vĩnh hằng, sau biến cố Thập Giá (chết và Phục sinh), hay nói cách khác sau khi hoàn tất Phép Rửa của mình (Lc 12, 50), Đức Giêsu-Kitô trở nên Nguyên lý và Nguyên nhân phổ quát và duy nhất của sự sống vĩnh hằng, của ơn siêu độ của tất cả mọi người :
 
Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống.” (1 Cr 15, 21-22).
 
Đức Giêsu-Kitô cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Ngài là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Ngài đứng hàng đầu. Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Ngài, cũng như muốn nhờ Ngài mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Ngài đổ ra trên Thập Giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1, 18-20).
 
– “Là Trung gian
 
Không chỉ là Nguyên lý của Hiện hữu của các Thụ tạo, của Sự sống vĩnh hằng, của ơn Siêu độ, của tư cách con Thiên Chúa, bởi vì là Ân Sủng của tất cả mọi ân sủng Thiên Chúa ban cho các Thụ tạo, đặc biệt, con người, Đức Giêsu-Kitô phục sinh còn là Trung gian của tất cả mọi ân sủng (con Thiên Chúa, mang bản tính Thiên Chúa, có sự sống tình yêu vĩnh hằng, được siêu độ, v.v…).
 
Hay nói cách khác, cũng như ở nơi Đức Giêsu-Kitô, cương vị Con Thiên Chúa của Ngài cũng như tương quan của Ngài với Thiên Chúa-Ba Ngôi không phải có được do việc Ngài được Thánh Tẩy ở sông Giođan bởi Gioan Tẩy Giả, mà ngay từ vĩnh hằng, Ngài đã là như thế, và mãi mãi vẫn là thế, trong tương quan với Thiên Chúa-Ba Ngôi, nơi con người cũng vậy, người ta có được những ân sủng đó (tư cách con Thiên Chúa, được siêu độ, v.v…), không phải đơn giản và thuần túy chỉ từ Bí tích Thánh tẩy bằng nước không thôi, mà là kể từ khi con người được tạo dựng nên “trong” Đức Giêsu-Kitô (Ga 1, 3) và được ơn siêu độ phổ quát “trong” Ngài và “nhờ” Ngài trong Mầu nhiệm Thập giá [chết và Phục sinh] (Cl 1, 18-20).
 
Vì đây là những tương quan liên vị, vì thế, sự “ở trong Đức Giêsu-Kitô” nầy hẳn mang nhiều cấp độ và hình thái khác nhau : a) cấp độ “ở trong Đức Kitô” trên cơ sở hữu thể học [ordre ontologiquement christique]; b) cấp độ “ở trong Đức Kitô” trên cơ sở ơn siêu độ phổ quát [ordre universellement christique]; c) cấp độ “ở trong Đức Kitô” trên cơ sở Ngài được tuyên xưng [ordre personnellement christique].
 
(1) Cấp độ “ở trong Đức Kitô” trên cở sở hữu thể học [ordre ontologiquement christique] : tự căn tính nguyên thủy, con người vốn được tạo dựng nên và hiện hữu trong Con vốn là Ngôi Lời Thiên Chúa :
 
Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Ngài, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình…Ngài có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Ngài.” (Cl 1, 15-17).
 
Khi nói “tất cả đều tồn tại trong Ngài” (Cl 1, 17), đã hẳn, Phaolô muốn nói ngay từ thưở khai nguyên, tất cả mọi Thụ Tạo, đặc biệt, con người, đều có tương quan hữu thể học với Thiên Chúa-Ba Ngôi qua Con và trong Con, vốn là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Cũng như những tương quan huyết tộc (phụ-tử, mẫu-tử, huynh đệ) giữa con người với nhau, vốn là điều gì đó nằm ngay trong cấu trúc hữu thể học và không thể nào đảo ngược được, hay đổi khác được, dù người ta có muốn hay không, có có ý thức về hay không, cũng vậy, tương quan giữa các Thụ Tạo, đặc biệt, con người với Thiên Chúa-Ba Ngôi là điều gì đó nằm trong căn tính nguyên thủy của các Thụ Tạo : đó là điều mà ngôn ngữ Đông Phương vẫn gọi là tương quan tam tài (Thiên-Địa-Nhân hòa). Như vậy, trên cơ sở tất cả mọi thụ tạo đều được Thiên Chúa-Ba Ngôi tạo dựng nên, vì thế, tất cả mọi người, không phân biệt, đều là con của Thiên Chúa…
 
(2) Cấp độ “ở trong Đức Kitô” trên cơ sở ơn siêu độ phổ quát [ordre universellement christique] :
 
Trong Biến cố Thập Giá (chết và Phục sinh), khi mà sự dâng hiến tự hủy đến tột cùng, qua đó tình yêu của Con đối với Cha cũng đạt đến đỉnh điểm, nhân tính của Đức Giêsu-Kitô trở nên một với thần tính của Ngài, hay nói cách khác, nhân tính của Ngài mà vốn là hiện thân của toàn thể nhân loại được thần linh hóa, một lần là vĩnh viễn, và đó là cơ sở của ơn siêu độ phổ quát của Đức Giêsu-Kitô đối với toàn thể nhân loại mọi nơi và mọi thời. Toàn thể nhân loại mọi nơi và mọi thời, trong Đức Giêsu-Kitô, đều được siêu độ, đều được trở nên con Thiên Chúa, và nếu phải xa cách Ngài vì tội lỗi thì được tha thứ và giải hòa lại với Ngài, trong và qua Mầu nhiệm Thập giá (chết và Phục sinh)…
 
Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống.” (1 Cr 15, 21-22).
 
Đức Giêsu đáp : ‘…Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.’ Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Ngài sẽ phải chết cách nào.” (Ga 12, 32-33).
 
Thiên Chúa muốn cho mọi người đều được siêu độ và nhận biết chân lý.” (1 Tm 2, 4).
 
Quả thật, Đức Giêsu chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Ngài đã thánh hóa được nên hoàn hảo.” (Dt 10, 14).
 
Trong Đức Giêsu-Kitô, chúng ta được ơn siêu độ.” (Ep 1, 7). 
 
Đó chính là lý do tại sao Giáo Hội trước sau như một vẫn khẳng định Đức Giêsu-Kitô là Đấng siêu độ duy nhất và phổ quát, hay nói cách khác, ơn siêu độ nơi mầu nhiệm Thập Giá (chết và Phục sinh) của Đức Giêsu-Kitô là dành cho toàn thể nhân loại mọi nơi và mọi thời…
 
(3) Cấp độ “ở trong Đức Kitô” trên cơ sở Ngài [và trong Ngài, Thiên Chúa-Ba Ngôi] được tuyên xưng [ordre personnellement christique] :
 
Cũng như ở nơi loài người, việc có tương quan huyết tộc phụ-tử và mẫu-tử giữa người nầy với người nọ và việc nhận ra những ai có tương quan huyết tộc đó với nhau là hai việc khác nhau.
 
Trong ngôn ngữ triết học, đó là sự khác biệt giữa hai khái niệm hiện hữu (existence) và hiện diện (présence). Người ta có thể hiện hữu bên nhau mà không hiện diện đối với nhau. Người ta có thể “hiện hữu trong” Đức Giêsu-Kitô và qua Ngài trong Thiên Chúa-Ba Ngôi, nhưng có thể người ta vẫn chưa cảm nhận ra được sự hiện diện của nhau. Chỉ có tình yêu mới làm cho người ta hiện diện đối với nhau, dù không hiện hữu bên nhau, như người Việt Nam chúng ta vẫn ví von : “Hữu duyên, thiên lý năng tương ngộ; vô duyên, đối diện bất tương phùng.”, tức là khi yêu nhau thì dù có xa cách nhau ngàn vạn dặm về mặt không gian, người ta vẫn luôn có nhau, hiện diện đối với nhau; còn khi không yêu nhau, thì dù có ở gần bên nhau về mặt không gian, vẫn chẳng là gì đối với nhau cả…
 
Ở hai cấp độ (1) và (2), người ta chỉ mới hiện hữu trong Đức Giêsu-Kitô, nhưng có thể chưa cảm nhận ra được cách rõ ràng sự hiện diện của Ngài. Ở cấp độ (3), chính khi tuyên xưng, khi nói ra danh Đức Giêsu-Kitô và qua Ngài, Thiên Chúa-Ba Ngôi, khi cử hành và khi sống những tương quan hiện sinh với các Ngài, trong Bí tích Thánh Tẩy, người ta bắt đầu nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa-Ba Ngôi trong tương quan với họ, và chính điều nầy mang lại sự sống tình yêu vĩnh hằng cho con người. 
 
Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn siêu độ.” (Rm 10, 9-10).
 
Hễ ai tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở lại trong người ấy và người ấy ở lại trong Thiên Chúa.” (1 Ga 4, 15).
 
Điều làm nên căn tính và giá trị của Bí tích Thánh tẩy kitô chính là hành vi đó được cử hành “nhân danh Chúa Giêsu” hay “nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Chính khi những tương quan đó được tuyên xưng, trong Bí tích Thánh tẩy, tương quan cá vị giữa thụ nhân và Đức Giêsu-Kitô và Ba Ngôi Thiên Chúa được khẳng định, được xác định, được cử hành và được sống. Đó chính là nguồn gốc của sự “tái sinh”. Và đó chính là sự sống tình yêu vĩnh hằng.
 
Và chính trong ý nghĩa đó mà Bí tích Thánh Tẩy kitô trở nên “hiện trường” trong đó con người trong Đức Giêsu-Kitô (và cả trong Thân Mình của Ngài là Hội Thánh) được “đoàn tụ”, được “tái hợp”, được “gặp gỡ” với Thiên Chúa-Ba Ngôi.
 
Bí tích Thánh Tẩy kitô như vậy không chỉ đưa thụ nhân hội nhập vào trong một cộng đoàn nhỏ bé nào đó thôi, thậm chí kể cả Giáo Hội là Thân Mình của Đức Kitô
[7], mà còn vào trong tương quan phụ-tử với Thiên Chúa-Ba Ngôi trong Con là Đức Giêsu-Kitô.
 
– “Là Cùng đích
 
Thiên Chúa phán : ‘Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta…Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa’…” (St 1, 26-27).
 
Khi nói con người được tạo dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Thiên Chúa, St 1, 26-27 muốn cho thấy Đức Giêsu-Kitô, Con và là Ngôi Lời Thiên Chúa vĩnh hằng và làm người là mô mẫu để con người phải trở thành (Rm 8, 29), bởi vì Đức Giêsu-Kitô chính là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (1 Cr 11, 7; 2 Cr 4, 4; Cl 1, 15).
 
Hay nói cách khác, con người chỉ là người khi con người trở nên giống như Đức Giêsu-Kitô. Và con người chỉ trở nên giống như Đức Giêsu-Kitô khi “ở trong” Ngài.
 
Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Ngài, vì Ngài thế nào, chúng ta sẽ thấy Ngài như vậy.” (1 Ga 3, 2).
 
Chính trên cơ sở đó mà Đức Giêsu đã có thể khẳng định :
 
Đức Giêsu đáp : ‘Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Ngài và đã thấy Ngài’.” (Ga 14, 6-7).
 
Cách chung, có thể nói rằng toàn bộ các sách TƯ đều là những nỗ lực suy tư về Bí tích Thánh Tẩy kitô, nhưng đặc biệt nhất, là hai tác giả TƯ : Tác giả sách Tin Mừng thứ tư (Ga) và Thánh Phaolô, với những góc nhìn và điểm nhấn có thể khác nhau, nhưng nền tảng căn cơ vẫn là dựa trên “phép rửa của Đức Giêsu-Kitô”.
 
Trên cơ sở Đức Giêsu-Kitô là Ân Sủng của tất cả mọi ân sủng Thiên Chúa ban cho loài người, tư cách con Thiên Chúa của tất cả mọi người đều dựa trên cương vị Con Thiên Chúa của Đức Giêsu-Kitô, hay nói cách khác, tất cả mọi người chỉ nhận được ân sủng là con Thiên Chúa nhờ, bởi và trong Đức Giêsu-Kitô, Con và là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người mà thôi.
 
Đàng khác, bởi vì tự cấu trúc hữu thể học, tất cả mọi người vốn được tạo dựng nên “theo hình ảnh Thiên Chúa” và “giống như Thiên Chúa” (St 1, 26-27), thế mà, hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình lại chính là Đức Giêsu-Kitô (1 Cr 11, 7; 2 Cr 4, 4; Cl 1, 15), vì thế, điều đó có nghĩa, tự cấu trúc hữu thể học, tất cả mọi người đều là anh em với Đức Giêsu-Kitô, nghĩa là tư cách con Thiên Chúa của con người chỉ có được khi “ở trong” Ngài và trở nên con Thiên Chúa cũng có nghĩa là được ơn siêu độ :
 
Trong Đức Giêsu-Kitô, chúng ta được ơn siêu độ.” (Ep 1, 7). 
 
Hiện sinh thánh tẩy của Đức Giêsu-Kitô, vì thế, trở thành mô mẫu của hiện sinh thánh tẩy kitô, và là cơ sở của chính Bí tích Thánh Tẩy kitô.
 

b – Vai trò và vị trí của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong hiện sinh thánh tẩy kitô
 
Trong “vĩnh hằng” cũng như trong Kế đồ tình yêu diễn ra trong Lịch Sử, Ba Ngôi Thiên Chúa luôn hiệp nhất với nhau nên Một (Ga 10, 30 : “Tôi và Chúa Cha, Chúng tôi là Một.”), trong Bí tích Thánh Tẩy kitô cũng vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa luôn ở trong nhau, luôn có nhau, luôn hành động chung với nhau, vì thế, khi được “ở trong” Đức Giêsu-Kitô, con người trong cùng lúc cũng được “ở trong” Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
 
– Vai trò và vị trí của Chúa Cha

Như đã được lưu ý trên đây, cũng như trong Bí tích Thánh tẩy của Đức Giêsu-Kitô, trong Bí tích Thánh Tẩy kitô cũng vậy, Chúa Cha trong cùng lúc vừa là tác nhân (agens) vừa là hiệu quả (effectus) của hiện sinh thánh tẩy kitô, hay nói cách khác, chính Chúa Cha vừa là Đấng “dìm” con người vào mầu nhiệm tự hủy và thập giá, vừa ban cho loài người tư cách con Thiên Chúa trong Con của Ngài, tức là tương quan phụ-tử với Ngài; và con người khi tình nguyện, chủ động “dìm mình” vào mầu nhiệm tự hủy mình đi nơi thập giá qua hành vi tuyên xưng, cử hành và sống tư cách là con Thiên Chúa, con của Cha, con người trong cùng lúc vừa trở thành tác nhân (agens) của Bí tích Thánh tẩy kitô, vừa trở nên hiệu quả (effectus) của Bí tích nầy, tức là trở nên con Thiên Chúa, con của Cha.
 
Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu-Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Ngài đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Ngài đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Ngài, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Ngài. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Ngài, Ngài đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu-Kitô…” (Ep 1, 3-5). 
 
– Vai trò và vị trí của Chúa Thánh Thần
 
Trong Bí tích Thánh Tẩy của Đức Giêsu-Kitô, trong tương quan với Ngài, Chúa Thánh Thần trong cùng lúc vừa là tác nhân (agens) vừa là hiệu quả (effectus).
 
+ Là “tác nhân”
 
Là tác nhân ngay trong việc Chúa Con nhập thể làm người :
 
Sứ thần đáp : ‘Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa’.” (Lc 1, 35; xem thêm Mt 1, 18.20).
 
Là tác nhân trong Phép Rửa của Đức Giêsu-Kitô :
 
Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, và đang khi Ngài cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Ngài dưới hình dáng chim bồ câu.” (Lc 3, 21-22a).
 
Là tác nhân trong việc huấn luyện để Đức Giêsu-Kitô quen chiến đấu và chiến thắng, quen với Thập giá :
 
Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Ngài được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỉ cám dỗ.” (Lc 4, 1-2a; xem thêm Mc 1, 12).
 
Là tác nhân của quyền năng (Lc 4, 14) và của niềm hân hoan (Lc 10, 21) của Đức Giêsu-Kitô :
 
Được quyền năng của Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê và tiếng tăm Ngài Ngài đồn ra khắp vùng lân cận.” (Lc 4, 14).
 
Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói.” (Lc 10, 21a).
 
+ Là “hiệu quả”
 
Thật vậy, trong Bí tích Thánh Tẩy của Đức Giêsu-Kitô, Chúa Thánh Thần trong cùng lúc vừa là tác nhân vừa là hiệu quả.
 
Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Ngài vô ngần vô hạn. Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Ngài. Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy.” (Ga 3, 34-36).
 
Đức Giêsu nói: ‘…Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống ! Như Kinh Thánh đã nói : Từ lòng Ngài, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống’. Đức Giêsu muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Ngài sẽ lãnh nhận, vì Thần Khí chưa có, bởi Đức Giêsu chưa được tôn vinh.” (Ga 7, 37-39). 
 
Thần học cổ điển và kinh viện vốn có khuynh hướng sự vật hóa (chosifier) các ân sủng của các bí tích kitô nói chung, đặc biệt, của các bí tích khai tâm, vì thế, thường cảm thấy không mấy thoải mái với truyền thống Giáo Hội tách các “bí tích khai tâm” hay đúng hơn là các “bí tích nhập môn” ra thành ba bí tích Thánh tẩy, Thêm sức và Thánh Thể. Thực ra, các ân sủng của các bí tích khai tâm hay nhập môn là những tương quan với Chúa Cha, Chúa Thánh Thần và Chúa Con. Trong bí tích Thánh tẩy, điểm nhấn là tương quan với Thiên Chúa-Ba Ngôi nói chung; trong bí tích Thêm sức, điểm nhấn là tương quan của người kitô-hữu với Chúa Thánh Thần; còn trong bí tích Thánh Thể, điểm nhấn là tương quan với Đức Giêsu-Kitô và Thân Mình của Ngài là Giáo Hội kitô. Đó là những tương quan tình yêu giữa các đối tác vốn là những ngã vị, vì thế, chúng phải được phát sinh và triển nở theo qui luật quá trình phát triển của những hạt giống, như vốn được đề cập đến rất nhiều trong các dụ ngôn về Nước Thiên Chúa của Đức Giêsu…
 

3 – Ý nghĩa trọn vẹn của Bí tích Thánh Tẩy của Đức Giêsu Kitô
 
Đối với các tác giả TƯ, ý nghĩa của Bí tích Thánh Tẩy của Đức Giêsu-Kitô không hẳn chỉ giới hạn nơi việc Ngài được nhận lãnh Phép rửa nơi sông Giođan bởi Gioan Tẩy Giả, mà còn bao trùm luôn toàn bộ các mầu nhiệm Sáng tạo, Mặc khải, Nhập thể, Siêu độ và Quang lâm.
 
Và điều nầy, trước tiên, được hé lộ cho thấy nơi Lc 12, 50 : “Tôi còn một Phép rửa phải chịu, và lòng tôi khắc khoải biết bao cho đến khi việc nầy hoàn tất !”
 
Thật vậy, Mầu nhiệm Đức Giêsu-Kitô “bị dìm xuống” (Hy ngữ : Baptizein) đã được các tác giả TƯ, hay đúng hơn, các cộng đoàn Giáo Hội kitô sơ khai coi như là đã khởi đầu từ những mầu nhiệm Tự hủy, Sáng tạo, Mặc khải, Nhập Thể  và Siêu độ và chỉ chấm dứt trong Ngày Quang Lâm :
 
Đức Giêsu-Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa., nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” (Pl 2, 6-9).
 
Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Ngài, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình và vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Ngài và cho Ngài. Ngài có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Ngài. Ngài cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Ngài là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Ngài đứng hàng đầu. Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện nơi Ngài, cũng như muốn nhờ Ngài mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1, 15-20).
 
Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu-Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Ngài đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Ngài đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Ngài, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Ngài. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Ngài, Ngài đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu-Kitô…” (Ep 1, 3-5).
 
Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Ngài…Lúc muôn loài đã qui phục Đức Kitô, thì chính Ngài, vì là Con, cũng sẽ qui phục Đấng bắt muôn loài phải qui phục Ngài; và như vậy, để Thiên Chúa là tất cả trong mọi người và trong mọi sự.” (1 Cr 15, 25.28).
 
Đó chính là Bí tích Thánh Tẩy của tất cả mọi bí tích thánh tẩy kitô. Và chỉ trong chân trời đó mà người ta mới có thể hiểu được nhu cầu cần thiết tuyệt đối của Bí tích Thánh Tẩy kitô đối với ơn siêu độ loài người, mọi nơi và mọi thời.
 

II – BÍ TÍCH THÁNH TẨY CỦA ĐỨC GIÊSU KITÔ NHƯ LÀ MÔ MẪU VÀ NGUỒN GỐC CỦA TẤT CẢ MỌI BÍ TÍCH THÁNH TẨY KITÔ

1 – Là “mô mẫu”
 
Điều nầy có nghĩa các Bí tích Thánh Tẩy để là “kitô” phải hội đủ những yếu tố của Bí tích Thánh Tẩy của Đức Giêsu-Kitô :
 

a - Đặc tính “thừa tác” (baptême ministériel)
 
Sách GLHTCG hiện nay qui định :
 
Thừa tác viên thông thường của bí tích Rửa Tội là Giám mục, linh mục, và trong Giáo Hội La tinh, cả phó tế nữa. Trong trường hợp khẩn thiết , thì bất cứ người nào, kể cả những người chưa chịu Phép Rửa, mà có ý hướng cần thiết, đều có thể cử hành Phép Rửa, bằng cách sử dụng công thức Rửa Tội nhân danh Chúa Ba Ngôi…” (số 1256).
 

b -  Đặc tính “dấu chỉ” hay “bí tích” (baptême sacramentel)
 
Sách GLHTCG khẳng định :
 
Ý nghĩa và ân sủng của Bí tích Rửa Tội được trình bày rõ ràng trong các nghi thức cử hành. Khi chăm chú theo dõi các cử chỉ và lời nói của cuộc cử hành, các tín hữu được khai tâm về các sự phong phú mà bí tích nầy biểu lộ và thực hiện nơi mỗi người tân tòng.” (số 1234; nên xem tiếp các số 1235 đến hết 1243).
 

c -  Đặc tính kitô hay “ba ngôi” (baptême trinitaire)
 
Sách GLHTCG cho biết :
 
Bí tích Rửa tội không những rửa sạch mọi tội lỗi, mà còn làm cho người tân tòng trở nên ‘một thụ tạo mới’, thành nghĩa tử của Thiên Chúa, ‘được thông phần bản tính Thiên Chúa’, thành chi thể của Đức Kitô và đồng thừa tự với Ngài, và thành đền thờ Chúa Thánh Thần.” (số 1265).
 
Chúa Ba Ngôi Chí Thánh ban cho người chịu Phép Rửa ơn thánh hóa, ơn công chính hóa:

-         làm cho người đó có khả năng tin vào Thiên Chúa, trông cậy Ngài và yêu mến Ngài nhờ các nhân đức đối thần;

-         làm cho người đó có khả năng sống và hành động theo sự tác động của Chúa Thánh Thần nhờ các hồng ân của Chúa Thánh Thần;

-         làm cho người đó tăng trưởng trong điều thiện hảo nhờ các nhân đức luân lý.

Như vậy, toàn bộ cơ cấu của đời sống siêu nhiên của Kitô hữu  đều bắt nguồn từ bí tích Rửa Tội.” (số 1266).
 

2 – Là “nguồn gốc”
 
Điều nầy có nghĩa tất cả mọi giá trị của Bí tích Thánh tẩy kitô đều được kín múc từ nơi Bí tích Thánh Tẩy của Đức Giêsu-Kitô, hay nói cách khác, từ chính Mầu nhiệm Tự hủy (nhập thể, Thập giá [chết và Phục sinh]) của Đức Giêsu-Kitô, Con và là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, được tuyên xưng, được cử hành và được sống trong hiện sinh kitô, như được phản ảnh bởi Phaolô :
 
Anh em không biết rằng : khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Ngài sao ? Vì được dìm vào trong cái chết của Ngài, chúng ta đã cùng được mai táng với Ngài. Bởi thế, cũng như Ngài đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới…Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ sống với Ngài : đó là niềm tin của chúng ta.” (Rm 6, 3-4.8).
 
Anh em đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu Phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Ngài, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Ngài trỗi dậy từ cõi chết.” (Cl 2, 12).
 
Thật vậy, trong Bí tích Thánh Tẩy kitô, không phải thừa tác viên, cũng không phải các nghi thức phụng vụ bên ngoài, mà chính Đức Giêsu-Kitô, khi được tuyên xưng, mới ban cho thụ nhân tư cách là con Thiên Chúa và sự sống tình yêu vĩnh hằng trong tương quan với Thiên Chúa-Ba Ngôi và với loài người, và nếu có tội thì sẽ được tha :
 
Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn siêu độ.” (Rm 10, 9-10).
 
Đó chính là lý do cho thấy tại sao các tác giả TƯ nói chung, đặc biệt, Ga và Phaolô, đều lưu ý vai trò nguyên lý, trung gian và cùng đích của Đức Giêsu-Kitô trong Bí tích Thánh Tẩy kitô.
 
Là “nguyên lý”, vì thế, trong Bí tích Thánh Tẩy kitô, Đức Giêsu-Kitô chính là Đấng ban cho chúng ta ân sủng được là con Thiên Chúa và dẫn đưa chúng ta vào sự sống tình yêu vĩnh hằng của Thiên Chúa-Ba Ngôi.
 
Là ‘trung gian”, vì thế, chỉ trong Bí tích Thánh Tẩy của Đức Giêsu-Kitô, hay đúng hơn, chỉ trong Ngài, tất cả mọi Bí tích Thánh Tẩy kitô mới có được giá trị và hiệu năng kitô đích thực.
 
Là “cùng đích”, vì thế, tất cả mọi Bí tích Thánh Tẩy kitô chỉ đạt đến được cùng đích của mình nơi Đức Giêsu-Kitô mà thôi.
 
Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng cương vị Con Thiên Chúa của Đức Giêsu-Kitô là do tự bản chất, do tự nguồn gốc thần linh, tuy nhiên, trong thân phận tự hủy làm người,tư cách Con Thiên Chúa của Ngài cũng phải kinh qua một quá trình “sở đắc” lại từ từ, và quá trình đó trở thành mô mẫu cho tất cả mọi quá trình sở đắc tư cách con Thiên Chúa trong Đức Giêsu-Kitô của tất cả mọi người.
 
Trong ngôn ngữ của Ga, đó là quá trình tái sinh “bởi Ơn Trên” (Ga 3, 3), “bởi nước trường sinh” (Ga 4, 10.13-14) và “bởi nước và bởi Thần Khí” (Ga 3, 5) :
 
Đức Giêsu trả lời : ‘Thật, tôi bảo ông : không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên’. Ông Nicôđêmô thưa : ‘Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được ? Chẳng lẽ người đó có thể vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao ?’ Đức Giêsu đáp :  ‘Thật, tôi bảo thật ông : không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí’…” (Ga 3, 3-5).
 
Và quá trình “tái sinh” nầy được Ga diễn tả như là quá trình vượt qua từ con người cũ đến con người mới (2, 1 – 4, 42); từ bóng tối đi qua ánh sáng (9, 1 – 10, 42); từ cõi chết đi vào cõi sống (4, 43 – 5, 47; 6, 1 – 7, 1; 11, 1-54; 12, 1-50).
 
Về phần mình, Phaolô triển khai và đào sâu việc sở đắc tư cách con Thiên Chúa, sở đắc sự sống thuộc linh và vĩnh hằng nhờ niềm tin nơi Đức Giêsu-Kitô và nhờ được “ở trong” Ngài và “ở trong” Thân Thể của Ngài là Giáo Hội kitô (1 Cr 12, 12-13.27; đối chiếu với Gl 3, 27-28). Có thể nói rằng Phaolô chính là tác giả đầu tiên trong TƯ khẳng định việc tất cả mọi người chỉ được siêu độ trong Đức Giêsu-Kitô (1 Tx 4, 16; Gl 2, 17; 1 Cr 1, 2; 1 Cr 1, 30; 1 Cr 4, 17; Rm 6, 8).
[8]

III – NỘI HÀM Ý NGHĨA CỦA BÍ TÍCH THÁNH TẨY KITÔ VÀ PHỤNG VỤ CỦA GIÁO HỘI
 
Những nghi thức diễn nghĩa nội hàm của Bí tích Thánh tẩy kitô tuy có một số thay đổi theo giòng thời gian, nhưng nói chung, có tính thống nhất.
 
Để được “tái sinh”, được trở thành con người mới, thụ nhân phải “vượt qua”, phải chết đi con người cũ của mình, điều nầy được diễn tả qua nghi thức phụng vụ  “dìm mình trong nước” (Hy ngữ : “Baptizein”). Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, “nước” chủ yếu là biểu tượng của sự sống và sự chết, vì thế, người ta hẳn có thể hiểu được điều mà Đức Giêsu nói trong Lc 12, 50  vốn ám chỉ cái chết và sự phục sinh của Ngài trong Biến cố Thập Giá : “Tôi còn một phép rửa phải chịu, và lòng tôi khắc khoải biết bao cho đến khi việc nầy hoàn tất !”
[9]
 
Sau khi “tái sinh”, thụ nhân sẽ được trở thành “con người mới”, được “mặc lấy Đức Kitô (Gl 3, 27), con người của ánh sáng, và điều nầy được diễn tả qua hai nghi thức phụng vụ “mặc áo trắng” và được trao cây nến sáng (Mt 5, 14)
[10].
 

Tạm kết
 
Những phân tích trên đây, trước tiên, đã chứng tỏ cho thấy quá trình sống bí tích Thánh Tẩy của Đức Giêsu cũng là quá trình sống và thể hiện tư cách “là Con” của Ngài, trong tương quan với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, và tư cách “là anh cả” trong tương quan với tất cả mọi người chúng ta. Và đó cũng chính là quá trình sống bí tích Thánh Tẩy và quá trình “làm con Thiên Chúa” của mỗi người kitô-hữu chúng ta, bởi vì theo Kinh Thánh, chúng ta chỉ là con Thiên Chúa khi được “ở trong Con Thiên Chúa” là Đức Giêsu-Kitô mà thôi : “Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu-Kitô.” (Ga 3, 26); đồng thời đó cũng là quá trình làm người của mỗi người trong tương quan với tất cả mọi người, vốn là anh em của mình, vì cùng có một Vị Cha chung là Thiên Chúa.
 
Thứ đến, cho thấy tất cả mọi người, vốn đã được tạo dựng nên “theo hình ảnh Thiên Chúa” và “giống như Thiên Chúa” (St 1, 26-27), đều được “ở trong” Con và là Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, tuy với nhiều cấp độ khác nhau, nhưng không phải là những ai đó “xa lạ” với Thiên Chúa-Ba Ngôi và với tất cả chúng ta. Vấn đề ở đây, tuy đã “hiện hữu” trong nhau, nhưng, về phía con người, có thể chưa “hiện diện” đối với nhau, hay nói cách khác, chưa biết nhau, chưa là gì đối với nhau, chưa ý thức, chưa xác tín được những tương quan Tạo hóa-Thụ tạo, Phụ-tử với Thiên Chúa và huynh đệ với tất cả mọi người. Bí tích Thánh Tẩy kitô, vì thế, chính là hiện trường trong đó con người có thể tuyên xưng, cử hành và sống những mối tương quan đó một cách cụ thể và với niềm xác tín. Tuy vậy, Bí tích Thánh Tẩy kitô không chỉ giới hạn nơi những nghi thức phụng vụ được cử hành một lần trong đời sống, mà kéo dài trong suốt cả hiện sinh kitô của con người, và trong suốt cả quá trình của Lịch Sử, vì đây là những tương quan tình yêu giữa các đối tác tình yêu với nhau, cho đến Ngày Quang Lâm…
 
Sau cùng, sống Bí tích Thánh tẩy kitô, cũng chính là thực hành điều mà Phaolô đã nói : “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi…” (Gl 2, 20a).
 
Và đó chính là ý nghĩa của sứ mạng mà Đức Chúa của chúng ta, Đức Giêsu-Kitô đã trao phó cho Giáo Hội kitô và cho mỗi người kitô-hữu chúng ta :
 
Đức Giêsu đến gần, nói với các ông : Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế’.” (Mt 28, 18-20)…
 
      


 


[1] Xem Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh, Bí tích học, Tập I : Rửa tội, bản lưu hành nội bộ 2002, trg. 485.

[2] Nguồn : Báo Hiệp Thông, bản tin của Hội đồng Giám Mục Việt Nam, số 73, trg. 35-36.

[3] Xem Tuyên ngôn “The Hope of Salvation for Infants who Die Without Being Baptized” của Ủy Ban Thần học Quốc tế ra ngày 19-01-2007 về việc loại bỏ khái niệm “limbo” (nơi vẫn được cho là dành cho các em nhỏ chết mà chưa được rửa tội !).

[4] Xem Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh, Id., trg. 368.

[5] Xem Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh, Id., trg.  402.

[6] Trong bài nầy, chúng tôi sử dụng bản dịch của Úy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Nxb. Tôn Giáo 2010.

[7]  Đức Giáo Hoàng BÊNÊĐICTÔ XVI, trong sắc lệnh ký ngày 22 tháng 2 năm 2013, ra lệnh trong nghi thức Rửa tội trẻ em, sau khi ngõ lời với người đỡ đầu, thay vì nói “Cộng đoàn kitô-hữu (communitas christiana) rất vui mừng đón nhận con”, thì từ nay phải nói “Hội Thánh Thiên Chúa (Ecclesia Dei) rất vui mừng đón nhận con”.

[8] Xem Lm. Augustinô Nguyễn Văn Trinh, Id. trg. 91-99).

[9] Xem GLHTCG, số 1238.

[10] Xem GLHTCG, số 1243.