HỘI ĐỒNG TÒA THÁNH VỀ GIA ĐÌNH
CẨM NANG DÀNH CHO CÁC CHA GIẢI TỘI
VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LUÂN LÝ LIÊN HỆ ĐẾN ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN
12 - 02 - 1997
***
***
LỜI NÓI ĐẦU
Qua Giáo Hội của Người, Đức Giê-su tiếp tục sứ mạng đã lãnh nhận từ Chúa Cha. Người sai nhóm Mười Hai đi loan báo Nước Trời, kêu gọi người ta ăn năn, sám hối và canh tân (metanoia) (xc. Mc 6,12). Đức Giê-su Phục sinh truyền giao cho họ quyền hoà giải của Người: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì tội ấy được tha"(Ga 20,22-23). Nhờ việc thông ban Thánh Thần mà Đức Ki-tô thực hiện, Giáo Hội tiếp tục loan giảng Tin Mừng, mời gọi người ta hoán cải và trao ban bí tích tha tội, nhờ đó, hối nhân được giao hoà với Thiên Chúa, với Giáo Hội, và nhận thấy con đường cứu độ mở ra trước mắt họ.
Bộ Cẩm nang này bắt nguồn từ sự nhạy cảm mục vụ đặc biệt của Đức Thánh Cha. Chính người đã giao cho Hội Đồng Tòa Thánh về Gia Đình nhiệm vụ chuẩn bị tài liệu. Với kinh nghiệm của một linh mục, một giám mục, người đã nhận thấy tầm quan trọng của những hướng dẫn chắc chắn và rõ ràng mà các thừa tác viên Bí tích Hòa giải có thể quy chiếu khi đối thoại với các linh hồn. Đạo lý phong phú của Huấn Quyền Giáo Hội về đề tài hôn nhân và gia đình, đặc biệt từ Công Đồng Va- ti-ca-nô II, đã gợi lên nhu cầu soạn một tổng hợp rõ ràng về một số vấn đề luân lý liên quan đến đời sống hôn nhân.
Nếu về mặt đạo lý, Giáo Hội đã nắm chắc những đòi hỏi của Bí tích Sám hối, thì không thể phủ nhận rằng đã và đang có một khiếm khuyết nào đó trong việc mang những giáo huấn đó ra thực hành mục vụ. Bởi vậy, những dữ kiện đạo lý là nền tảng đỡ nâng cho cuốn "Cẩm nang" này, và chúng tôi không cần nhắc lại ở đây, mặc dầu chúng được nhắc đến trong các đoạn khác nhau. Chúng ta biết rõ tất cả sự phong phú đó được cống hiến với cộng đồng Ki-tô hữu qua Thông điệp Humanae Vitae, được sáng tỏ nhờ Thông điệp Veritatis Splendor, và các Tông Huân: Familiaris Consortio và Reconciliatio et Paenitentia. Chúng ta cũng biết Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo đã đưa ra một bản tóm tắt súc tích và hữu hiệu lập trường của Giáo Hội về các đề tài này.
"Gợi lên sự hoán cải và sám hối trong tâm hồn con người, mang cho họ hồng ân hoán cải là sứ mạng chuyên biệt của Giáo Hội Sứ mạng này không phải chỉ giới hạn vào việc đưa ra một vài phát biểu lý thuyết, hay trình bày một nền luân lý cao vời không kèm theo những nghị lực hoạt động, nhưng cần phải được diễn tả qua các công việc mục vụ rõ ràng, nhắm tới việc thực hành sự thống hối và hòa giải cụ thể" (Tông Huấn Reconciliatio et Paenitentia, số 23).
Chúng tôi hân hạnh trao vào tay các linh mục tài liệu này, đã được soạn thảo theo lời yêu cầu của Đức Thánh Cha, và được sự cộng tác chuyên môn của các giáo sư thần học cũng như các vị chủ chăn.
Chúng tôi cám ơn tất cả những người đã đóng góp vào việc thực hiện tài liệu này. Chúng tôi đặc biệt ghi ơn Bộ Giáo Lý Đức Tin và Tòa Xá Giải Tông Tòa.
LỜI GIỚI THIỆU
1. Mục đích của tài liệu
Công đồng Va-ti-ca-nô II đã định nghĩa gia đình là thánh điện gia thất của Giáo Hội và là "tế bào sống đầu tiên của xã hội".[1] Gia đình là đối tượng ưu tiên của mối quan tâm mục vụ của Giáo Hội. "Trong một giai đoạn lịch sử mà gia đình đang bị nhiều sức ép tìm cách hủy diệt, hay ít ra là muốn làm nó méo mó đi, Giáo Hội, vì biết rằng lợi ích của xã hội và lợi ích riêng của mình đều được liên kết mật thiết với lợi ích của gia đình, nên đã ý thức một cách mạnh mẽ và bức thiết rằng mình có sứ mạng công bố cho mọi người biết ý định của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình"[2].
Trong những năm gần đây, qua lời của Đức Thánh Cha, qua sự động viên tinh thần của các mục tử và của các tín hữu, Giáo Hội đã ngày một gia tăng sự quan tâm nhằm giúp đỡ toàn thể cộng đoàn các tín hữu, nhận ra với lòng tri ân và với đức tin sung mãn, những hồng ân mà Thiên Chúa tặng ban cho người nam và người nữ được liên kết với nhau trong Bí tích Hôn nhân, ngõ hầu họ có thể chu toàn con đường nên thánh chân thực và làm chứng nhân đích thực của Tin Mừng trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống.
Bí tích Thánh Thể và Bí tích Sám Hối đóng vai trò nền tảng trên con đường hướng tới sự thánh thiện của hôn nhân và gia đình. Bí tích Thánh Thể củng cố sự kết hợp với Đức Ki-tô, Đấng là nguồn của ân sủng và sự sống; Bí tích Sám Hối tái tạo sự thông hiệp hôn nhân và gia đình mỗi khi nó bị phá hủy[3] ; hoặc gia tăng và hoàn thiện mối dây đó, vốn bị tội lỗi đe dọa và xâu xé.
Để giúp những đôi hôn nhân nhận biết con đường nên thánh và thực thi sứ mạng của họ, điều căn bản là lương tâm họ phải được huấn luyện, ý muốn của Thiên Chúa phải được thể hiện trong khung cảnh đặc biệt của đời sống hôn nhân, nghĩa là trong mối thông hiệp vợ chồng và phục vụ sự sống. Ánh sáng Tin Mừng và ân sủng bí tích là những yếu tố không thể thiếu trong việc nâng đỡ và làm sung mãn tình yêu hôn nhân, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo. Quả vậy, "Bởi một ân huệ đặc biệt của ân sủng và của tình thương, Chúa đã đoái thương chữa trị, cải thiện và nâng cao tình yêu ấy"[4].
Khi mà những đôi vợ chồng yêu cầu và lãnh bí tích Hòa Giải, đó là một biến cố cứu độ rất quan trọng để cho họ đón nhận những đòi hỏi của tình yêu đích thực và kế hoạch của Thiên Chúa trong đời sống hàng ngày của mình. Đó là cơ hội để đào sâu đức tin thêm sáng ngời và hỗ trợ quý giá để thực hiện chương thình của Chúa trong đời mình.
"Chính bí tích sám hối hay hòa giải đã mở đường cho mỗi người, ngay cả khi họ bị đè nặng bởi tội lỗi. Trong bí tích này, mỗi người có thể cảm nghiệm được lòng khoan dung cách độc đáo nhất, đó là tình yêu mạnh mẽ hơn tội lỗi"[5].
Bởi vì việc trao ban bí tích được uỷ thác cho thừa tác vụ các linh mục, nên tài liệu này được viết đặc biệt cho các cha giải tội và cố gắng đưa ra một vài hướng dẫn thực hành về việc xưng tội và xá giải cho các tín hữu trong những vấn đề khiết tịnh hôn nhân. Đặc biệt hơn, tập "Vademecum ad praxim confessariorum" này còn muốn đưa ra một điểm tham chiếu cho các hối nhân sống đời vợ chồng. Như thế, mỗi ngày họ càng có thể nhận thấy ích lợi lớn lao của việc thực hành Bí tích Hòa giải, và sống ơn gọi làm cha mẹ có trách nhiệm, hợp với luật Thiên Chúa đã được Giáo Hội giảng dạy. Tập sách này cũng nhằm giúp ích cho những ai đang chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân.
Vấn đề sinh sản có trách nhiệm là chuyện đặc biệt tế nhị trong giáo huấn luân lý Công Giáo liên quan đến đời sống hôn nhân, và nhất là trong trường hợp ban Bí tích Hoà giải, khi mà đạo lý phải đối chiếu với những hoàn cảnh cụ thể của con người và với chặng đường thiêng liêng của mỗi tín hữu. Quả vậy, cần phải nhắc lại những điểm tham chiếu vững chắc để có thể giải quyết mục vụ bằng những phương pháp mới để ngừa thai và tính cách trầm trọng của toàn bộ vấn đề [6]. Tài liệu này không có ý nhắc lại toàn bộ giáo huấn của Thông điệp Humanae Vitae, Tông Huấn Famliaris Consortio và các văn kiện khác thuộc Huấn Quyền thông thường của Đức Giáo Hoàng, nhưng chỉ đưa ra những đề nghị và những chỉ dẫn nhằm tới thiện hảo thiêng liêng của người tín hữu đến lãnh Bí tích Hòa Giải, giúp vượt qua những dị đồng và do dự có thể xảy ra nơi các cha giải tội.
2. Đạo lý của Giáo Hội về đức khiết tịnh hôn nhân
Truyền thống Ki-tô giáo luôn luôn bảo vệ sự thiện hảo và chân thật của việc kết hợp vợ chồng và của gia đình, trái với nhiều lạc thuyết nảy sinh ngay từ thuở ban đầu của Giáo Hội. Được Thiên Chúa muốn ngay từ lúc tạo đựng, được Đức Ki-tô đem trở về với nguồn cội của mình và được đưa lên hàng bí tích, hôn nhân bao hàm sự thông hiệp mật thiết giữa người vợ và người chồng trong tình yêu và cuộc sống, hướng tới lợi ích của con cái mà Thiên Chúa muốn trao cho họ. Vì lợi ích của lứa đôi, của con cái và của xã hội, nên sợi dây liên kết tự nhiên này không còn tùy thuộc vào quyết định của con người nữa[7].
Đức khiết tịnh hôn nhân "bao gồm sự toàn diện của con người và sự toàn vẹn của việc trao ban"[8]. Qua đó, giới tính "trở thành bản vị và nhân bản khi nó được hội nhập vào mối tương quan giữa bản vị và bản vị, và trong sự trao ban trọn vẹn và mãi mãi cho nhau giữa người nam và người nữ" [9]. Vì ảnh hưởng tới mối quan hệ mật thiết giữa đôi vợ chồng, nhân đức này đòi buộc "toàn bộ ý nghĩa của việc trao hiến cho nhau cũng như việc sinh sản con cái" phải được duy trì trong khung cảnh tình yêu đích thực[10]. Bởi vậy, trong số những nguyên tắc luân lý nền tảng về đời sống hôn nhân, cần nhớ rằng điều Thiên Chúa đã muốn từ lúc khởi đầu và con người không thể tự tiện bẻ gãy, đó là: "sự liên hệ không thể phân ly giữa hai ý nghĩa của đời hôn nhân: sự hiệp nhất và truyền sinh con cái" .[11]
Trong thế kỷ này, các Đức Giáo Hoàng đã liên tiếp đưa ra nhiều văn kiện bàn về các chân lý luân lý chính yếu liên quan tới đức khiết tịnh hôn nhân. Trong số đó, đặc biệt phải kể đến Thông điệp Casti Connubii (1930) của Đức Pio XI[12] nhiều diễn từ của Đức Pio XII[13], Thông điệp Humanae Vitae (1968) của Đức Phao lô VI [14], Tông huấn về Familiaris Consortio (1981) [15], Thư gửi các Gia Đình Grattissimam Sane [16] và Thông điệp Evangelium Vitae (1995) của Đức Gio-an Phao-lô II. Cùng với các văn kiện này, Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes (1965) [17] và Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo (1992) [18] cũng rất xứng đáng để bàn tới một cách đặc biệt. Ngoài ra, phù hợp với giáo huấn vừa kể, phải nói tới một số tác phẩm của các Hội Đồng Giám Mục, cũng như của các mục tử và các thần học gia, đã phát triển và đào sâu vấn đề đó. Cũng cần phải nhắc tới tấm gương của nhiều đôi vợ chồng, chẳng hạn: họ đã dốc tâm sống tình yêu con người theo đường lối Ki-tô giáo, đó là sự đóng góp hiệu quả nhất cho việc Phúc Âm hóa gia đình.
3. Các "thiện hảo” của hôn nhân và sự trao ban bản thân
Nhờ bí tích hôn nhân, các đôi vợ chồng nhận được từ Đức Ki-tô, Đấng Cứu Chuộc, món quà của ân sủng, kiện cường và nâng cao sự thông hiệp tình yêu chung thủy và phong phú. Sự thánh thiện mà họ được mời gọi để vươn tới tiên vàn là một hồng ân được ban.
Những người được mời gọi để sống trong bậc hôn nhân thực hiện ơn gọi tình yêu qua việc trao ban cho nhau [19], được diễn tả cách xứng đáng bằng ngôn ngữ của thân xác [20]. Sự trao hiến cho nhau giữa hai vợ chồng dẫn tới việc trao tặng sự sống cho con cái, như là hoa trái. Con cái là dấu chỉ và là chóp đỉnh của tình yêu hôn nhân[21].
Việc tránh thai, bởi vì trực tiếp chống lại việc truyền sinh, là sự phản bội và bóp méo tình yêu trao biếu của hôn nhân, "làm biến chất giá trị của việc trao hiến trọn vẹn" [22] và nghịch với kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa, mà đôi vợ chồng được ơn tham gia vào.
***
CẨM NANG DÀNH CHO CÁC CHA GIẢI TỘI
Cuốn cẩm nang này bao gồm một tổng hợp những luận đề mà các cha giải tội cần lưu ý trong khi cử hành Bí tích Hòa giải, hầu có thể giúp các đôi hôn nhân cách hữu hiệu hơn trong việc sống thiên chức làm cha mẹ theo đường hướng của Ki-tô giáo, trong các cảnh huống cá nhân và xã hội của họ.
I. SỰ THÁNH THIỆN TRONG HÔN NHÂN
1. Tất cả mọi Ki-tô Hữu phải được giáo dục để xác tín về lời mời gọi nên thánh của họ. Thực vậy, lời mời gọi đi theo Chúa Ki-tô được dành cho hết mọi người và mỗi tín hữu phải vươn tới sự sung mãn của đời sông Ki-tô hữu, và tới sự hoàn thiện của đức ái trong từng bậc sống riêng của mình [23].
2. Đức ái là linh hồn của sự thánh thiện. Tự bản chất, đức ái - một ân huệ mà Chúa Thánh Thần phú ban trong tâm hồn - thu nhận và nâng cao tình yêu nhân loại và làm cho tình yêu ấy có khả năng hiến thân trọn vẹn. Đức ái làm cho sự hy sinh trở thành dễ chấp nhận hơn, làm cho cuộc chiến đấu tâm linh trở thành nhẹ nhàng hơn và làm cho sự hiến dâng bản thân thành vui sướng hơn [24].
3. Con người bằng sức riêng của mình không thể thực hiện việc trao hiến bản thân cách hoàn hảo được. Họ có khả năng làm được điều này nhờ ân sủng của Chúa Thánh Linh. Thực vậy, chính Đức Ki-tô là Đấng mặc khải chân lý nguyên thủy của hôn nhân; và đang khi giải thoát con người khỏi sự chai lì của con tim, Ngài đem lại cho họ khả năng thực hiện trọn vẹn chân lý ấy [25].
4. Trên con đường nên thánh, người Ki-tô hữu cảm nhận cả sự yếu đuối của con người lẫn lòng nhân hậu và thương xót của Thiên Chúa. Vì thế, nguyên tắc cơ bản của việc thực hành các nhân đức Ki-tô giáo - và như vậy cũng là của nhân đức khiết tịnh trong đời sống hôn nhân - dựa trên đức tin, làm cho ta nhận ra lòng từ bi của Thiên Chúa, và nhờ vào sự thống hối, làm cho ta khiêm tốn đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa [26].
5. Các đôi vợ chồng trao hiến bản thân toàn vẹn trong đời sống hôn nhân, và trong việc kết hiệp vợ chồng. Đối với các Ki-tô hữu, việc kết hiệp này được ân sủng của bí tích làm cho sinh động. Việc kết hiệp vợ chồng và sự truyền sinh là những phận vụ riêng của sự nên thánh trong đời sông hôn nhân[27].
II. GIÁO HUẤN CỦA HỘI THÁNH VỀ VIỆC SINH SẢN CÓ TRÁCH NHIỆM
1. Các đôi hôn phân phải được kiện cường trong nhận thức về giá trị và sự cao trọng vô song của sự sống con người, và họ cần được giúp đỡ để có thể dấn thân vào việc kiến tạo gia đình riêng của họ thành một đền thánh của sự sống[28]. “Trong việc truyền sinh của con người, Thiên Chúa hiện diện theo một thể thức hoàn toàn khác biệt với các việc sinh sản khác trên mặt đất" [29].
2. Các bậc cha mẹ cần phải nhìn nhận sứ vụ của mình như một danh dự và trách nhiệm, vì họ trở nên những cộng tác viên của Thiên Chúa trong việc ban hiện hữu cho một con người mới, được tác tạo giống hình ảnh Thiên Chúa, được cứu chuộc và được tiền định, trong Chúa Ki-tô, để hưởng đời sống hạnh phúc vĩnh cửu [30]. Chính trong vai trò là những người cộng tác với Thiên Chúa, Đấng truyền ban hình ảnh của mình cho thụ tạo mới, mà chúng ta nhận ra sự cao cả của các đôi vợ chồng sẵn sàng cộng tác với "tình yêu của Đấng Tạo Hóa và Cứu Độ, Đấng mà qua họ sẽ ngày càng mở rộng và làm phong phú cho gia đình của Ngài".[31]
3. Từ đó phát xuất niềm vui và thái độ kính trọng của các Ki-tô hữu đối với thiên chức làm cha mẹ. Trong các văn kiện gần đây của Giáo hội, chức vụ làm cha mẹ được gọi là có "trách nhiệm" nhằm nhấn mạnh ý thức cũng như sự quảng đại của các đôi hôn nhân trong sứ vụ truyền sinh của họ - sứ vụ tự nó mang một giá trị vĩnh cửu - cũng như nhằm gợi lên vai trò của họ như là những nhà giáo dục nữa. Điều chắc chắn là các đôi vợ chồng có thẩm quyền để quyết định - sau khi đã đắn đo suy nghĩ với tinh thần đức tin cũng như sau khi đã bàn hỏi thích đáng - về tầm kích của gia đình họ, và quyết định cách thức cụ thể để thực hiện tầm kích đó trong sự tôn trọng những tiêu chuẩn luân lý về đời sống hôn nhân[32].
4. Giáo Hội luôn dạy rằng, việc ngừa thai tự bản chất là điều xấu; nó được hiểu như là mỗi hành vi vợ chồng chủ ý ngăn cản việc thụ thai. Giáo Huân này cần phải được tuân thủ cách dứt khoát và không thể thay đổi. Việc ngừa thai đối nghịch trầm trọng với đức khiết tịnh hôn nhân, nó tương phản với sự thiện hảo của việc truyền sinh (khía cạnh truyền sinh của hôn nhân); nó cũng tương phản với sự trao hiến hỗ tương của đôi vợ chồng (khía cạnh hiệp nhất của hôn nhân), làm tổn thương tình yêu đích thực và chối từ vai trò tối thượng của Thiên Chúa trong việc truyền ban sự sống của con người.[33]
5. Một điều xấu luân lý riêng biệt và trầm trọng hơn được cấu thành khi dùng những phương tiện gây hậu quả sảy thai, làm ngăn cản sự tiến triển của phôi mới vừa thụ tinh hay thậm chí gây ra việc phá thai trong thời kỳ đầu mang thai.[34]
6. Tuy nhiên, khác hẳn với mọi phương thức ngừa thai là thái độ của các đôi vợ chồng luôn sẵn sàng đón nhận hồng ân sự sống, họ chỉ giao hợp trong thời kỳ không thể thụ thai vì được hướng dẫn bởi ý thức đúng đắn về việc làm cha mẹ có trách nhiệm. Điều này đúng cả về mặt nhân học cũng như luân lý vì được xây dựng trên một quan niệm khác về nhân vị và tính dục.[35]
Có những đôi vợ chồng sau nhiều năm vẫn sống hòa hợp với kế hoạch của Đấng Tạo Hóa và khi có lý do chính đáng tương xứng, họ đã sử dụng các phương pháp được gọi chính xác là “tự nhiên”. Chứng từ của họ khẳng định rằng các đôi vợ chồng có thể sống được cả những đòi hỏi của đức khiết tịnh lẫn của đời sống vợ chồng, trong sự hòa hợp và hiến dâng trọn vẹn của cả hai người.
III. NHỮNG ĐƯỜNG HƯỚNG MỤC VỤ CHO CÁC CHA GIẢI TỘI
1. Khi bàn về vấn đề sinh sản có trách nhiệm cho các hối nhân, cha giải tội phải lưu ý đến 4 khía cạnh sau :
a. Theo gương Thiên Chúa tình yêu, Đấng “luôn đoái thương đến tất cả những người con hoang đàng, những cảnh khốn cùng của nhân loại và nhất là tất cả những cảnh khốn cùng luân lý, tội lỗi”[36].
b. Phải khôn ngoan dè dặt khi đặt câu hỏi về những tội đó.
c. Hãy giúp đỡ và khuyến khích các hối nhân để họ có thể đạt được lòng sám hối chân thành và xưng thú đầy đủ các tội trọng.
d. Hãy động viên cổ vũ để giúp họ tiến bước dần dần trên con đường nên thánh.
2. Thừa tác viên Hoà giải phải luôn ý thức rằng bí tích đã được thiết lập dành cho những người tội lỗi. Do đó, nếu không có chứng cớ hiển nhiên ngược lại, thừa tác viên hãy tiếp nhận các hối nhân đến tòa giải tội với giả định là họ có thiện ý, phát xuất từ tấm lòng tan nát dày vò (Tv 50,19), tuy với cấp độ khác nhau, nhưng họ muốn được giao hòa với Thiên Chúa nhân từ[37].
3. Khi gặp một hối nhân đã lâu không xưng tội, và tỏ ra là đang ở trong tình trạng nghiêm trọng, thì trước khi đặt câu hỏi trực tiếp và cụ thể đến những vân đề liên quan tới việc sinh sản có trách nhiệm và sự khiết tịnh nói chung, thừa tác viên cần giúp cho họ hiểu rõ những bổn phận của họ theo cái nhìn đức tin. Vì thế, nếu việc thú tội quá cụt ngủn và máy móc, thừa tác viên cần phải giúp cho hối nhân biết ôn lại cuộc đời mình trước mặt Thiên Chúa, và cùng với những câu hỏi tổng quát về các nhân đức và về các bổn phận thích hợp với những điều kiện cá nhân của họ [38], nhắc cho họ một cách tích cực lời mời gọi đạt đến sự thánh thiện của tình yêu, và tầm quan trọng của những bổn phận của họ về phương diện sinh sản và giáo dục con cái.
4. Khi hối nhân đặt câu hỏi hoặc muôn tìm hiểu rõ về những điều cụ thể ngay cả khi họ chỉ hàm ý mà thôi, thì cha giải tội phải trả lời cho họ cách “tương thích ”, nhưng luôn luôn giữ sự cẩn trọng và khôn ngoan,[39] và không thừa nhận những ý kiến sai lầm.
5. Cha giải tội có bổn phận khuyên răn các hối nhân về những sai phạm nghiêm trọng về luật của Thiên Chúa cách khách quan, và cần biết chắc rằng họ thực sự muốn được Thiên Chúa tha thứ với quyết tâm kiểm điểm đời sống và sửa đổi lối sống của họ. Việc tái phạm các tội ngừa thai tự nó không là cớ để từ chối ban bí tích. Tuy nhiên, không thể ban bí tích khi hối nhân thiếu lòng ăn năn chân thành hay sự quyết tâm chừa tội[40].
6. Hối nhân nào thường xuyên xưng tội với cùng một linh mục, thì ngoài việc xá giải, họ còn muốn tìm một điều gì khác nữa. Cha giải tội cần có những hướng dẫn giúp hối nhân trau dồi các nhân đức Ki-tô giáo, và từ đó thánh hóa đời sống hôn nhân của họ [41]. Hẳn là điều này sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu có được mối tương quan của việc linh hướng đích thực, ngay cả khi không muốn gọi như thế.
7. Về phía hối nhân, bí tích Hòa giải đòi phải có lòng ăn năn chân thành, việc xưng thú đầy đủ hết các tội trọng và lòng quyết tâm, với ơn Chúa giúp, sẽ không tái phạm nữa. Nói chung, linh mục giải tội không cần phải tra hỏi về những tội đã phạm do vô tri bất khả thắng (ignorantia invincibilis) hay vì một sai lầm không có lỗi (error non culpabilis) trong phán đoán. Mặc dù những tội đó không thể bị quy trách, nhưng chúng vẫn là điều xấu và sự rối loạn. Điều này cũng áp dụng cho sự xấu xa khách thể của việc ngừa thai : nó du nhập một thói quen nguy hại cho đời sống lứa đôi.Vì thế, cần cố gắng tìm ra đường hướng thích hợp nhất để tháo gỡ lương tâm khỏi những sai lầm nói trên[42], những sai lầm ấy đi ngược lại bản chất của đời sống hôn nhân là một sự trao biếu hoàn toàn.
Dù biết rằng việc giáo dục lương tâm diễn ra trước hết trong các lớp huấn giáo tổng quát và chuyên biệt cho các đôi vợ chồng, nhưng cũng nên cần thiết phải giúp đỡ các đôi vợ chồng, kể cả trong Bí tích Hoà giải, xem xét lại những bổn phận riêng biệt của họ trong đời sống hôn nhân. Khi nào thấy cần phải hỏi hối nhân, thì cha giải tội phải làm cách khôn khéo và kính trọng họ.
8. Hẳn nhiên nguyên tắc sau đây vẫn còn giá trị, kể cả trong phạm vi khiết tịnh hôn nhân, theo đó, tốt hơn nên để cho hối nhân hành động theo lòng ngay trong những trường hợp sai lầm do vô tri bất khả thắng về phía chủ thể (ignorantia subjective invincibilis), khi nào thấy trước rằng hối nhân, dù vẫn muốn sống hoà hợp theo những quy tắc của đời sống đức tin nhưng sẽ không thể thay đổi được nếp sống, và sẽ bắt đầu thực sự phạm tội. Tuy vậy, trong những trường hợp này, cha giải tội phải cố gắng giúp hối nhân luôn ân cần đón nhận kế hoạch của Thiên Chúa trong cuộc đời mình, thậm chí trong cả những yêu sách nữa, nhờ lời cầu nguyện, nhắc nhớ và khuyến khích họ đào luyện lương tâm, và nhờ giáo huấn của Giáo hội.
9. “Luật tiệm tiến” trong mục vụ - đừng lẫn lộn với “sự tiệm tiến về luật” có khuynh hướng giảm thiểu các đòi hỏi luật đặt ra cho chúng ta - cốt ở việc đòi phải có sự đoạn tuyệt dứt khoát với tội lỗi cũng như phải có sự tiến bộ hướng tới kết hiệp hoàn toàn với ý định của Thiên Chúa và những đòi hỏi âu yếm của Người.[43]
10. Ngược lại, không thể nào chấp nhận được đề nghị táo bạo đòi đặt sự yếu đuối của mình làm tiêu chuẩn của chân lý đạo đức. Ngay từ lời tuyên bố đầu tiên của Đức Giê-su, các Ki-tô hữu nhận thấy rõ là có một sự “bất tương xứng” giữa luật luân lý, theo tự nhiên và theo Tin Mừng, với khả năng của con người. Họ hiểu cách đúng đắn rằng việc nhìn nhận ra sự yếu hèn của mình là con đường cần thiết và chắc chắn mở cánh cửa của lòng Chúa khoan nhân.[44]
11. Không được từ chối ban bí tích xá giải cho những người nào hối cải sau khi đã phạm tội nặng chống lại sự khiết tịnh của hôn nhân, và tỏ ý muốn chiến đấu để khỏi phạm tội nữa, cho dù vẫn sa đi ngã lại. Theo giáo huấn được qui định và việc thực hành đã được các thánh Tiến sĩ và các cha giải tội áp dụng đối với những thường hối nhân, thì cha giải tội cần phải tránh thái độ thiếu tin tưởng hoặc nơi ơn Chúa tác động hoặc nơi tâm linh của hối nhân, khi đòi hỏi những cam kết tuyệt đối mà sức người không thể làm được, về nếp sống trọn hảo trong tương lai.[45]
12. Khi hối nhân đó tỏ ý muốn chấp nhận giáo huấn luân lý, đặc biệt trong trường hợp của người năng lãnh Bí tích Hòa giải và bày tỏ niềm tín thác vào sự trợ giúp linh thiêng mà bí tích đó đem lại, thì điều tốt hơn hết là làm cho họ thấm nhuần niềm tín vào Đấng quan phòng; đồng thời giúp đỡ họ để họ thành thực tự vấn lương tâm mình trước Thiên Chúa. Vì mục đích này, cần phải xác minh mức độ chắc chắn của những động lực thúc đẩy việc hạn chế sinh sản, và tính hợp pháp của những phương thế được chọn để làm trì hoãn hoặc tránh việc thụ thai.
13. Những khó khăn đặc biệt được nêu ra trong những trường hợp đồng phạm tội của chồng hoặc vợ đáp ứng làm cho việc kết hiệp vợ chồng không đưa tới việc thụ thai. Trước hết, cần phân biệt sự cộng tác đúng nghĩa, khác với sự bức bách hoặc áp đặt bất công của một trong hai phía mà phía kia thực sự không thể cưỡng lại được[46]. Việc cộng tác này có thể là được phép khi hội đủ ba điều kiện sau :
a. Khi hành vi hợp tác của người phối ngẫu tự bản chất không phải bất hợp pháp;[47]
b. Khi hội đủ những lý do tương đối nghiêm trọng trong sự cộng tác vào việc phạm tội của người phôi ngẫu;
c. Khi tìm cách giúp cho phía kia từ bỏ hành vi như thế (bằng kiên nhẫn, cầu nguyện, yêu mến và đối thoại mặc dù không nhất thiết là ngay lúc đó, hoặc không nhất thiết trong mọi trường hợp riêng lẻ).
14. Hơn nữa, cần cẩn thận lượng định việc cộng tác vào điều xấu khi sử dụng những phương tiện có thể đưa tới hiệu quả phá thai [48].
15. Những đôi vợ chồng Ki-tô giáo là những nhân chứng về tình yêu Thiên Chúa trong thế giới này. Vì vậy nhờ đức tin trợ giúp và thậm chí dù họ có cảm nghiệm về sự yếu đuối của thân phận con người, họ vẫn phải tin rằng mình có thể tuân hành ý Chúa trong đời sống hôn nhân nhờ vào ân sủng của Người. Việc thường xuyên và kiên trì tìm kiếm sự trợ lực từ lời cầu nguyện, từ Thánh Thể và từ Bí tích Hòa Giải, là không thể thiếu trong việc đạt tới sự tự chủ.[49]
16. Trong việc huấn giáo và chuẩn bị cho các đôi tiến tới hôn nhân, các linh mục cần phải duy trì những tiêu chuẩn đồng nhất liên quan đến tội ngừa thai, cả trong giáo huấn cũng như trong thực hành Bí tích Hòa giải, theo sự trung thành tuyệt đối với Huấn quyền của Giáo hội.
Các giám mục phải đặc biệt chú tâm và thận trọng trong vấn đề này, vì tín hữu thường cảm thấy vấp phạm khi gặp cảnh thiếu thống nhất trong phạm vi giáo lý lẫn trong bí tích hòa giải[50].
17. Mục vụ xá giải sẽ mang lại hiệu quả hơn nếu được kết hiệp với huấn giáo liên tục và xuyên suốt trong ơn gọi của Ki-tô hữu đối với tình yêu hôn nhân, và trong những chiều kích vui mừng và trách nhiệm, trong ân sủng của Chúa và cố gắng của cá nhân[51]; và nếu có các vị tư vấn và các trung tâm để cha giải tội có thể dễ dàng hướng các hối nhân tới học biết thích đáng về những phương pháp tự nhiên.
18. Để những chỉ thị luân lý liên quan đến việc sinh sản có trách nhiệm có thể thực hiện được cách cụ thể, điều cần thiết là công việc cao quí của các cha giải tội phải được bổ túc bằng những giáo huấn [52]. Sự soi sáng tỉ mỉ các lương tâm liên quan đến tội phá thai chắc hẳn là một phần không thể thiếu của nhiệm vụ này.
19. Đối với việc xá giải về tội phá thai, buộc luôn phải để ý đến những qui tắc của Giáo luật. Nếu sự hối lỗi là thành thật và nếu cảm thấy khó có thể gửi hối nhân đến nhà chức trách có thẩm quyền, nơi được dành riêng cho quyền xá giải các vạ - thì các cha giải tội có thể xá giải theo Giáo luật điều 1357 - đồng thời với việc đề nghị một số việc sám hối thích đáng, và phải nói cho hối nhân biết cần phải có thượng cầu; nếu tiện thì chính cha giải tội sẽ thảo và xúc tiến điều đó [53].
Kết luận
Đặc biệt vào thời nay, Giáo hội coi một trong những nhiệm vụ chính yếu của mình là công bố mầu nhiệm thương xót được mặc khải ở cấp độ tối cao nơi Ngôi vị của Đức Giê-su Ki- tô, và chuyển lòng thương xót cho cuộc sống [54].
Khung cảnh long trọng cho việc tuyên bố và thực hiện lòng thương xót là việc cử hành Bí tích Hòa giải. Trong năm đầu của tam niên chuẩn bị cho thiên niên kỷ thứ ba này, hướng về Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ duy nhất của thế gian, hôm qua, hôm nay và mãi mãi (xc. Dt 13,8), có thể dành một cơ hội thuận tiện để canh tân mục vụ và đào sâu giáo lý nơi các giáo phận, và đặc biệt tại những thánh địa được nhiều khách hành hương thăm viếng, nơi mà bí tích tha thứ được trao ban quảng đại nhờ có đông đảo các cha giải tội.
Ước gì các linh mục luôn sẵn sàng cho sứ vụ này. Hạnh phúc vĩnh cửu của các đôi hôn nhân dựa trên tác vụ đó. Phần lớn niềm an bình và hạnh phúc đời này của họ cũng dựa vào tác vụ đó.
Ước gì các linh mục thực sự là nhân chứng sống động về tình thương của Chúa Cha cho các đôi hôn nhân.
Vatican, ngày12 tháng 2 năm 1997
Alfonso Card. López Trujillo
Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về gia đình
Francisco Gil Hellin
Thư ký
(Học Viện Đaminh Chuyển Ngữ)
[1] Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh về Tông đồ Giáo dân, Apostolicam Actuositatem, 18-11-1965, số 11.
[2] Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris Consortio, 22-11-1981, số 3.
[3] Xc. Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris Consortio, 22-11-1981, số 58.
[4] Công đồng Va-ti-ca-nô II, Hiến chế Gaudium et Spes, 07-12-1965, số 49.
[5] Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Dives in Misericordia, 30-11-1980, số 13.
[6] Cần để ý đến hiệu quả gây phá thai của những dược phẩm mới. Xc. Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Evangelium Vitae, 25-03-1995, số 13.
[7] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, Gaudium et Spes, 07-12-1965, số 48.
[8] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, 11-10-1992, số 2337.
[9] Sđd.
[10] Công đồng Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, Gaudium et Spes, số 51.
[11] Phao-lô VI, Thông điệp Humanae Vitae, 25-7-1968, số 12.
[12] Pi-ô XI, Thông điệp Casti Connubii, 31-12-1930.
[13] Pi-ô XII, Huấn từ dành cho hội nghị của Hiệp hội Công giáo các nữa hộ sinh Ý-đại-lợi, 02-10-1951; Diễn văn dành cho Phong trào gia đình và các Hiệp hội gia đình đông con, 27-11-1951.
[14] Phao-lô VI, Thông điệp Humanae Vitae, 25-7-1968.
[15] Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris Consortio, 22-11-1981.
[16] Gio-an Phao-lô II, Thư gửi các gia đình Gratissimam Sane, 2-2-1994.
[17] Công đồng Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, Gaudium et Spes, 07-12-1965.
[18] Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, 11-10-1992.
[19] Công đồng Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, Gaudium et Spes, 07-12-1965, số 24.
[20] Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris Consortio, 22-11-1981, số 32.
[21] Xc. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2378; Xc. Thư gửi các gia đình Gratissimam Sane, 2-2-1994, số 11.
[22] Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris Consortio, 22-11-1981, số 32.
[23] “Lối sống và nghề nghiệp thì có nhiều nhưng sự thánh thiện thì chỉ có một - sự thánh thiện đó được thực thi bởi những người được Thần Khí của Thiên Chúa thúc đẩy, tuân theo tiếng gọi của Chúa Cha, thờ phượng Ngài trong tinh thần và chân lý, noi gương Chúa Ki-tô, Đấng nghèo khó, khiêm nhường và vác thập giá, ngõ hầu họ được xứng đáng dự phần vào vinh quang của Người. Tuy nhiên, mỗi người tùy theo ân sủng và nhiệm vụ riêng của mình, cần phải tiến bộ không ngừng theo con đường của đức tin sống động, gợi lên đức cậy và hoạt động qua đức mến" (Công đồng Va-ti-ca-nô II, Hiến chế tín lý về Giáo hội, Lumen Gentium, 21-11-1964, số 41).
[24] “Đức ái là linh hồn của sự thánh thiện mà hết mọi người được mời gọi bước lên”. (Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 826). “Tình yêu là nguyên nhân làm cho con người tìm thấy sự sung mãn qua sự trao hiến bản thân cách chân thành. Yêu có nghĩa là hiến trao và đón nhận những gì không thể mua bán được, mà chỉ là trao hiến cách nhưng không và hỗ tương” (Gio-an Phao-lô II, Thư gửi cho các gia đình Cratissimam Sane, 2- 2-1994, số 11)
[25] Xc. Gio-an Phao-lô II, Tông Huấn Familiaris Consortio, 22-11-1981, số 13.
Tuân giữ luật Chúa trong những trạng huống cụ thể có thể là chuyện khó khăn, rất khó khăn nữa là khác, nhưng điều ấy không phải là không thể. Đây là giáo huấn thường hằng của truyền thống Giáo Hội (Gio-an Phao- lô II, Thông điệp Veritatis Splendor, 6-8-1993, số 102).
“Thật là một sai lầm rất lớn khi kết luận rằng qui tắc mà Giáo Hội dạy tự nó chỉ là một “lý tưởng”, sau đó được thích ứng, được xếp đặt tương xứng và sắp xếp cho phù hợp với những khả năng cụ thể của con người, tùy theo sự "đánh giá những điều thiện ích khác nhau có liên hệ đến. Nhưng thế nào là “khả năng cụ thể của con người” ? Và chúng ta đang nói đến con người thế nào ? Về con người đang bị dục vọng thống trị hay con người được Đức Ki-tô cứu chuộc ? Vì đây là trọng tâm vấn đề: thực tại ơn cứu chuộc của Đức Ki-tô. Đức Ki-tô đã cứu chuộc chúng ta ! Điều này có nghĩa là: Người đã ban cho chúng ta khả năng thực hiện chân lý toàn vẹn về hữu thể của chúng ta. Người đã giải thoát sự tự do của chúng ta khỏi sự thống trị của dục vọng. Và nếu con người đã được cứu độ đó phạm tội lần nữa thì đó không phải là do sự bất toàn của hành vi cứu độ nơi Đức Ki-tô, nhưmg là do ý muốn của con người muốn loại trừ chính mình ra khỏi ân sủng phát xuất từ hành động cứu chuộc. Mệnh lệnh của Thiên Chứa chắc chắn là tương xứng với khả năng của con người : nhưng với khả năng của con người đã được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần, những người đó nếu có phạm tội cũng luôn có thể được lãnh ơn tha thứ và vui hưởng sự hiện diện của Chúa Thánh Thần” (Gio-an Phao-lô II, Diễn Từ cho các tham dự viên của khóa học về sinh sản có trách nhiệm, 01-03-1984)
[26] "Nhìn biết tội lỗi của mình", hơn thế nữa, khi đi sâu hơn vào sự nhận thức bản ngã, nhìn biết mình là một tội nhân, có khả năng phạm tội và có khuynh hướng phạm tội, đó là bước chính yếu đầu tiên trong tiến trình quay trở về với Thiên Chúa (...). Thực vậy, việc hòa giải với Thiên Chúa bao hàm sự dứt khoát và sáng suốt khước từ tội lỗi mà mình đã phạm. Điều đó bao hàm việc thống hối theo nghĩa đầy đủ nhất của hạn từ này : hối hận, bày tỏ sự ăn năn, chấp nhận một thái độ của người thống hối ; đó chính là thái độ của người bắt đầu chuyến trở về với Cha. Trong những hoàn cảnh cụ thể của thận phận con người tội lỗi, mà trong đó không thể có sự cải hoán mà không có việc nhìn nhận tội riêng của mình, tác vụ hòa giải của Giáo Hội can thiệp vào từng trường hợp với mục tiêu sám hối đặc biệt, nghĩa là, đem con người trở về với sự : "tự nhận biết chính mình". (Gio-an Phao-lô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục thế giới, Reconciliatio et Paenitentia, 2-12-1984, số 13).
“Khi nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta không dừng lại trước tội lỗi hay lùi lại trước những xúc phạm của chúng ta, nhưng tình yêu ấy lại càng tỏ ra ân cần và quảng đại hơn nữa; khi nhận ra tình yêu của Người đã đi quá xa đến nỗi là nguyên nhân dẫn đến cuộc vượt qua và tử nạn của Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng đã ưng thuận cứu chuộc chúng ta bằng chính giá máu của mình, thì chúng ta reo lên trong tâm tình biết ơn rằng: “Vâng, Chúa giàu tình thương”, và thậm chí: “Chính Chúa là Tình thương ”.(Sđd. số 22).
[27] “Ơn gọi phổ quát để nên thánh cũng dành cho đôi bạn và cha mẹ Ki-tô hữu. Đối với họ, ơn gọi này được thể hiện rõ qua bí tích mà họ đã cử hành và được thực hiện một cách cụ thể trong những thực tại riêng biệt của đời sống hôn nhân và gia đình. Chính trong cuộc sống ấy mà phát sinh ân sủng, và đòi hỏi của một linh đạo xác thực và thâm sâu của đời sống hôn nhân và gia đình, một linh đạo được gợi hứng từ những chủ đề về sáng tạo, giao ước, thập giá, phục sinh và dấu chỉ bí tích”. (Gio-an Phao-lô n, Tông huấn Fammliaris Consortio, 22-11-1981, số 56).
“Tình yêu vợ chồng chân chính được thu nhận vào trong tình yêu Thiên Chúa, được hướng dẫn và được làm phong phú nhờ quyền năng cứu chuộc của Chúa Ki-tô và hoạt động cứu rỗi của Giáo Hội, với kết quả là đôi vợ chồng được dẫn dắt cách hữu hiệu đến cùng Thiên Chứa, cũng như được nâng đỡ và kiện cường trong sứ mạng cao cả làm cha làm mẹ. Bởi đó, đôi vợ chồng được củng cố và, có thể nói, được thánh hiến cho những nhiệm vụ và phẩm giá trong bậc sống của họ nhờ vào một bí tích đặc biệt. Trong khi thực hiện vai trò hôn nhân và gia đình của mình nhờ hiệu lực của bí tích này, đôi vợ chồng được thấm nhuần tinh thần Đức Ki-tô, và toàn bộ đời sống của mình được tràn đầy niềm tin, cậy, mến. Vì vậy, họ càng thăng tiến gần hơn đến sự trọn vẹn của họ và sự thánh hiến lẫn nhau; và cùng nhau tôn vinh Thiên Chúa”. (Công đồng Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, Gaudium et Spes, 7-12-1965, số 48).
[28] “Giáo Hội xác tín rằng sự sống con người, mặc dù yếu đuối và đau khổ, nhưng luôn luôn là hồng ân tuyệt vời do lòng nhân từ của Thiên Chúa. Chống lại chủ nghĩa bi quan và ích kỷ đang phủ một bóng đen trên toàn thế giới, Giáo Hội đứng về phía sự sống : nơi mỗi sự sống con người, Giáo Hội khám phá ra nét cao đẹp của lời đáp "Xin vâng", của tiếng "Amen", là chính Chúa Ki-tô. Đối nghịch với tiếng “không” đang quật ngã và gây đau khổ cho thế giới, Giáo Hội thưa bằng lời "Xin vâng" sống động này, nhờ đó Giáo Hội bảo vệ nhân loại và thế giới khỏi những ai đang âm mưu chống lại và làm hại sự sống”. (Gio-an Phao-lô II, Tông Huấn Familiaris Consortio, 22-11-1981, số 30).
“Nhất thiết phải trở về với quan niệm gia đình như một đền thánh của sự sống. Gia đình thật là thánh thiêng : đó là nơi mà sự sống, một hồng ân của Thiên Chúa, có thể được đón nhận một cách thích hợp và được bảo vệ chống lại bao nhiêu sự tấn công xảy ra, và có thể phát triển hợp với điều tạo nên sự tăng triển con người đích thực. Đối lại với cái gọi là "văn minh sự chết”, gia đình là trung tâm của “văn minh sự sống”” (Gio-an Phao-lô II, Thông Điệp Centesimus Annus, 1-5-1991, số 39).
[29] (Gio-an Phao-lô II, Thư gửi các gia đình Gratissimam Sane, 2-2-1994, số 9).
[30] “Thiên Chúa đã phán : "Đàn ông ở một mình không tốt” (St 2,18), và “Người là Đấng ... từ buổi đầu, đã dựng nên một người nam và một người nữ" (Mt 19,4); vì muốn làm cho con người trở nên một công cụ đặc biệt tham gia vào công việc tạo dựng của Người, Thiên Chúa đã chúc lành cho người nam và người nữ rồi nói "Các ngươi hãy gia tăng, sinh sản" (St 1,28). Không có ý đánh giá thấp những mục đích khác của hôn nhân, nhưng người ta có thể nói rằng tình yêu hôn nhân đích thực và toàn thể cơ cấu đời sống gia đình, kết quả của tình yêu đó, thì được hướng đẫn để làm cho đôi hôn nhân sẵn sàng cộng tác một cách can đảm với tình yêu của Đấng Tạo Hóa và Cứu Độ, Đấng mà qua họ sẽ làm tăng triển phong phú gia đình của Người” (Công đồng Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, Gaudium et Spes, 7-12-1965, số 50).
"Gia đình Ki-tô giáo là một sự hiệp thông giữa những cá vị, là dấu chỉ và hình ảnh về sự hiệp thông của Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Hoạt động truyền sinh và giáo dục con cái phản ánh công việc tạo dựng của Chúa Cha" (Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2205).
“Cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh sản là góp phần chuyển thông hình ảnh của Thiên Chúa, và bất cứ ai sinh ra bởi người nữ” thì đều mang hình ảnh đó” (Gio-an Phao-lô II, Thư gửi các gia đình Gratissimam Sane, 2 -2-1994, số 8).
[31] Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Evangelium Vitae, 25-3-1995, số 43; xc. Công đồng Vaticanô II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, Gaudium et Spes, 7-12-1965, số 50.
[32] “Các đôi hôn nhân nên coi đó như sứ vụ riêng của mình là để chuyển đạt sự sống con người và để giáo dục con cái; họ nên nhìn nhận rằng, bằng cách đó, họ đang cộng tác vào tình yêu của Thiên Chúa - Đấng Sáng Tạo - và theo một nghĩa nào đó, họ là “người giải thích” tình yêu đó. Vì thế họ hãy chu toàn nhiệm vụ của họ với trách nhiệm của con người và của người Ki-tô hữu, và với lòng kính trọng Thiên Chúa, với suy tư, họ hãy tạo nên những phán đoán ngay thẳng, cân nhắc thiện ích của chính họ và của những người con đã hoặc sẽ được sinh ra, đánh giá những điều kiện sinh sống của thời đại và hoàn cảnh sống của họ về mức độ vật chất và tinh thần, và sau hết bảo vệ thiện ích của gia đình, xã hội và Giáo hội. Nói cho cùng, chính đôi hôn nhân là người phải đạt đến khả năng phán đoán này trước Thiên Chúa. Các đôi bạn Ki-tô hữu nên nhận biết rằng trong hoạt động của mình, không được phép chỉ theo sở thích riêng nhưng phải được hướng dẫn bởi lương tâm hoà hợp với luật Thiên Chúa, tuân theo huấn quyền của Giáo Hội, “có thẩm quyền giải thích” luật Thiên Chúa dưới ánh sáng Tin Mừng. Luật Thiên Chúa tỏ rõ ý nghĩa đầy đủ của tình yêu hôn nhân, bảo vệ và thúc đẩy tình yêu ấy đến sự hoàn thiện nhân bản đích thực.” (Công đồng Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, Gaudium et Spes, 7-12-1965, số 50).
“Khi bàn đến vấn đề hòa hợp giữa tình vợ chồng với việc truyền sinh có trách nhiệm, thì tính cách luân lý không chỉ tùy thuộc vào thiện ý và việc định giá những động cơ của nó, nhưng phải dựa vào tiêu chuẩn khách quan, một tiêu chuẩn được rút ra từ bản tính của nhân vị và của hành vi nhân linh ; tiêu chuẩn ấy tôn trọng ý nghĩa toàn vẹn của sự trao hiến và sinh sản con cái trong khung cảnh tình yêu đích thực. Tất cả những điều này chỉ có thể khi đức khiết tịnh hôn nhân được thực hiện nghiêm túc. Trong những vấn nạn về việc điều hòa sinh sản, những con cái của Giáo Hội, trung thành với những nguyên tắc này, cấm không được dùng những phương pháp đã bị quyền giáo huấn của Giáo Hội bác bỏ.”(Công đồng Va-ti-ca-nô II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, Gaudium et Spes, 7-12-1965, số 51).
“Xét về những điều kiện thể lý, kinh tế, tâm lý và xã hội, vai trò cha mẹ có trách nhiệm được thể hiện, hoặc qua việc quyết định có suy nghĩ và quảng đại để làm phát triền một gia đình đông con, hoặc qua việc quyết định tránh thời kỳ có thể thụ thai hoặc thậm chí trong một thời gian hạn định nào đó vì những tác động quan trọng và trong tinh thần tôn trọng luật luân lý.
Vì vậy, vai trò làm cha mẹ có trách nhiệm cũng, và đặc biệt bao hàm một mối tương quan thâm sâu hơn với trật tự luân lý khách quan đã được Thiên Chúa thiết lập, mà một lương tâm ngay thẳng là “người giải thích” trung thành của trật tự luân lý ấy. Việc thực hành sứ vụ làm cha mẹ có trách nhiệm cũng bao hàm rằng, người chồng và người vợ ý thức đầy đủ những nghĩa vụ của mình với Thiên Chúa, với chính họ, với gia đình và xã hội, trong bậc thang của những giá trị đúng đắn.
Vì vậy, trong trách vụ truyền sinh, họ không được tự do hoàn toàn theo ý nguyện, như thể họ có quyền ấn định con đường lương thiện để theo trong một cách thức hoàn toàn tự ý; nhưng họ phải hướng hành động của mình tuân theo ý định tạo thành của Thiên Chúa, được diễn tả trong bản chất duy nhất của hôn nhân và của những hành động trong đời sống đó, và được bộc lộ trong giáo huấn thường hằng của Giáo Hội.” (Phao-lô VI, Thông điệp Humane Vitae, 25-7-1968, số 10).
[33] “Thông Điệp Humanae Vitae tuyên bố là không được phép làm “mọi hành vi nào, dù là trước hay sau khi có quan hệ vợ chồng, dù là trong sự phát triển của những hệ quả tự nhiên của nó, với chủ ý, dù là như mục tiêu hay như phương thế, nhằm ngăn cản sự truyền sinh xảy ra”. Thông điệp thêm rằng "Không thể biện mình cho những quan hệ vợ chồng cố ý ngăn cản sự thụ thai bằng cách nại tới những lý do hợp pháp như: phải chọn một sự xấu kém hơn, hay là những hành vi ngăn cản thụ thai tạo nên một toàn bộ nơi những hành vi thụ thai đã có trước hay sẽ có sau, và do đó, cùng chia sẻ sự tốt luân lý của toàn bộ. Thực ra, nếu đôi khi dược phép làm ngơ trước một sự ít xấu hơn hầu tránh một sự xấu tệ hơn hoặc để mưu cầu làm một sự thiện tốt hơn thì cũng không được phép, cho dù có những lý do rất quan trọng, làm một điều xấu để sinh ra điều tốt, nghĩa là thực hiện một hành vi tự bản chất là sự rối loạn (và do đó không xứng đáng với con người), dù với chủ ý là để bảo vệ hay cổ võ các thiện ích của cá nhân, gia đình hay xã hội. Vì thế thật sai lầm khi cho rằng việc quan hệ vợ chồng cố tình ngăn cản không cho thụ thai (do đó tự bản chất là xấu), có thể trở thành tốt khi đặt trong toàn bộ của đời sống vợ chồng có sinh sản”. (Phao-lô VI, Thông điệp Humanae Vitae, 25-7-1968, số 14)
“Khi những đôi vợ chồng, bằng cách dùng những phương tiện ngừa thai, tách rời hai ý nghĩa mà Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, đã ghi khắc trong hữu thể người nam và người nữ, cũng như trong tính năng động của việc giao hợp, họ hành động như "người có quyền" trên kế hoạch của Thiên Chứa, họ "điều khiển" và làm suy thoái tính dục con người - và điều đó xức phạm đến nhân phẩm của chính họ và người bạn đường của họ - vì làm biến đổi giá trị của việc trao hiến cho nhau “trọn vẹn”. Như vậy, cách biểu lộ tự nhiên diễn tả sự trao hiến cho nhau trọn vẹn giữa vợ và chồng thì được đề cao, còn việc ngừa thai là một cách biểu lộ đi ngược lại hẳn, và tự nó không nói lên sự dâng hiến trọn vẹn cho người kia. Điều này không những từ chối đón nhận sự sống, mà còn làm sai lệch sự thật nội tại của tình yêu hôn nhân được mời gọi để trao ban chính nó cho toàn thể ngôi vị”. (Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris Consortio, 22-11- 1981, số 32)
[34] “Con người phải được tôn trọng và đối xử như một nhân vị ngay từ khi được thụ thai. Bởi thế, ngay từ khi còn là phôi thai, thai nhi phải được hưởng những quyền lợi của một con người, mà trong các quyền đó, trước hết là quyền bất khả xâm phạm đến sự sống của mọi con người vô tội” (Bộ Giáo Lý Đức tin, Huấn thị về việc tôn trọng sự sống con người mới sinh và giá trị của việc sinh sản, Donum Vitae, 22-2-1997, số 1).
“Càng lúc người ta càng nhận thấy rõ rằng có sự liên quan chặt chẽ về mặt tâm lý giữa việc ngừa thai và phá thai. Điều này được xác định cách đáng báo động hơn nữa qua sự gia tăng bào chế các dược chất, qua các dụng cụ đặt trong tử cung và các loại thuốc tiêm chích được phân phát cách dễ dàng như các dụng cụ ngừa thai, nhưng thực tế lại là các phương tiện phá thai ngay trong giai đoạn tăng trưởng sơ khởi của con người mới” (Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Evangelium Vitae, 25-3-1995, số 13).
[35] “Khi có những lý do chính đáng phát sinh từ những điều kiện thể lý và tâm lý của đôi vợ chồng hay những điều kiện khách quan để hạn chế sinh sản, Giáo hội dạy rằng điều đó là đuợc phép miễn là để ý đến chu kỳ tự nhiên nội tại trong chức năng sinh sản để chung sống vợ chồng chỉ trong thời kỳ không thể thụ thai, và trong chiều hướng điều hòa sinh sản mà không vi phạm các nguyên tắc luân lý đã được nói đến.
Giáo hội luôn trung thành với chính mình khi cho rằng việc tránh thai nhằm vào thời kỳ không thụ thai là hợp pháp, trong khi cùng lúc lên án việc sử dụng các phương tiện trực tiếp chống lại sự sinh sản là luôn luôn bất hợp pháp, dù rằng những cách thức ấy được gợi hứng từ những lý do xem ra là đúng đắn và ngay chính. Thực ra, có những khác biệt căn bản giữa hai trường hợp trên ; trong trường hợp thứ nhất, đôi vợ chồng đã lợi dụng hợp pháp khuynh hướng tự nhiên ; trường hợp sau, họ làm ngăn trở tiến trình tự nhiên. Quả là trong cả hai trường hợp, đôi vợ chồng đã cùng thuận theo chủ ý tránh có con vì những lý do xem ra hợp lý, khi cố tìm cách tránh không cho thụ thai. Nhưng cũng thật đúng rằng chỉ trong trường hợp đầu thì họ mới có thể từ chối việc giao hợp trong thời kỳ có thể thụ thai, khi đó, vì những lý do chính đáng, việc sinh sản là không đáng mong ước, khi họ vẫn quan hệ vợ chồng trong suốt thời kỳ không thê thụ thai để biểu lộ tình cảm và gìn giữ lòng chung thủy với nhau. Qua cách làm đó, họ minh chứng cho một tình yêu chân thật và trọn hảo". (Phao-lô VI, Thông điệp Humanae Vitae, 25-7-1968, số 16).
“Khi đôi bạn, qua việc nhằm đến những thời kỳ không thể thụ thai, tôn trọng mối liên hệ không tách rời giữa hai ý nghĩa hiệp nhất và truyền sinh của tính dục nơi con người, là họ đã hành động như những “thừa tác viên” trong kế hoạch của Thiên Chúa và họ “thụ hưởng” hoạt động tính dục của mình hợp với tính năng động độc đáo của sự trao hiến trọn vẹn trong hôn nhân mà không hạ thấp hay làm sai lạc đi.” (Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris Consortio, 22-11-1981, số 32).
“Tiến trình giáo dục việc bảo vệ sự sống bao gồm việc đào tạo các đôi bạn về sự sinh sản có trách nhiệm. Trong ý nghĩa đúng đắn của nó, việc sinh sản có trách nhiệm đòi hỏi đôi bạn phải tuân theo tiếng gọi của Chúa và phải hành động như người giải thích trung thành kế hoạch của Người. Việc này sẽ làm được khi gia đình biết quảng đại đón nhận những mầm sống mới và khi đôi bạn vẫn ở trong thái độ cởi mở và phục vụ đối với sự sống, cả khi vì những lý do chính đáng và sự tôn trọng luật luân lý, họ chọn lựa việc tránh thụ thai, dù tạm thời hay vô thời hạn. Luật luân lý bắt buộc họ, trong mọi trường hợp, phải biết làm chủ những xu hướng của bản năng và dục vọng nơi họ, và phải tôn trọng những quy luật sinh lý được ghi khắc ngay trong con người họ. Chính thái độ tôn trọng này làm cho hợp thức việc sử dụng các phưong pháp tự nhiên để điều hòa sự thụ thai hầu giúp đôi bạn thực hiện trách nhiệm trong việc truyền sinh” (Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Evangelium Vitae, 25-3-1995, số 97).
[36] Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Dives in Misericordia, 30-11-1980, số 6
[37] “Khi cử hành Thánh Thể tại bàn thờ cũng như khi cử hành các bí tích, linh mục, thừa tác viên của bí tích sám hối, hành động “nhân danh Chúa Ki- tô”. Chúa Ki-tô, Đấng hiện diện qua linh mục và hoàn tất nhiệm tích tha tội, tỏ ra như người anh của nhân loại, là vị thượng tế đầy nhân từ, là mục tử luôn tìm đến những con chiên lạc, là vị lương y chữa lành và bổ sức, là vị thầy duy nhất dạy chân lý và chỉ rõ những con đường của Chúa, là thẩm phán của người sống và kẻ chết, Đấng xét xử theo sự thật chứ không theo dáng vẻ bề ngoài" (Gio-an Phao-lô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục thế giới, Reconciliatio et Paenitentia, 2-12-1984, số 29).
Khi cử hành bí tích sám hối, linh mục chu toàn thừa tác vụ của vị Mục tử Tốt lành đi tìm con chiên lạc, của người Sa-ma-ri tốt lành băng bó các vết thương, của người cha chờ đón và nhận lây đứa con hoang đàng trở về, của vị thẩm phán chí công không thiên vị ai và luôn xét đoán cách công bằng và nhân hậu. Tóm lại, linh mục là dấu hiệu và dụng cụ của lòng từ ái nơi Thiên Chúa đối với tội nhân”. (Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 1465).
[38] Bộ Thánh Vụ, Normae quaedam de agendi ratione confessariorum circasextum Decalogi praeceptum, 16-5-1943.
[39] “Khi đặt các câu hỏi, linh mục giải tội phải khôn ngoan và thận trọng, để ý đến điều kiện và tuổi tác của hối nhân ; lại phải tránh hỏi tên người đồng phạm” (Giáo Luật điều 979).
“Vì thế, khoa sư phạm đặc thù của Hội Thánh phải luôn gắn liền và không bao giờ tách lìa khỏi đạo lý này. Với cùng một xác tín như của vị tiền nhiệm, tôi xin lặp lại: “Không bỏ bớt điều gì trong đạo lý cứu độ của Đức Ki-tô là một hình thức trổi vượt của đức ái đối với các linh hồn” (Gio-an- Phao-lô II, Tông huấn Familiaris Consortio, 22-11-1981, số 33)
[40] Denzinger-Schonmetzer, Enchiridion Symbolorum, 3187.
[41] “Việc thú tội với linh mục là một phần chủ yếu của Bí tích Giải tội: “Khi xưng tội, các hối nhân phải kể ra mọi tội trọng mà mình biết rằng đã phạm sau khi đã xét mình cách nghiêm chỉnh, dù các tội này rất kín đáo và chỉ phạm đến hai giới răn sau cùng của bản Thập Giới, thế nhưng đôi khi các tội này làm cho linh hồn bị trọng thương hơn hết, và nguy hiểm hơn các tội ta phạm mà người khác biết rõ”. (Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 1456)
[42] “Trái lại, nếu sự vô tri bất khả thắng hoặc nếu chủ thể luân lý không có trách nhiệm về sự sai lầm của mình, thì điều xấu người đó phạm phải sẽ không bị quy trách cho người đó; dù sao, đó vẫn là một điều ác, một khiếm khuyết, một sự mất trật tự. Vậy người ta phải sửa chữa lỗi đó theo lương tâm luân lý” (Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 1793).
“Điều xấu đã phạm do nguyên nhân là một sự vô tri bất khả thắng hoặc là một sai lầm không có lỗi về phán đoán thì có thể không bị quy trách cho người vi phạm, Thế nhưng, ngay cả trong trường hợp này, điều xấu vẫn cứ là điều xấu, vẫn cứ là một sự xáo trộn đối với chân lý về điều thiện” (Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Veritatis Splendor, 18-8-1993, số 63).
[43] “Ngoài ra, được sự nâng đỡ bởi niềm khát vọng chân thành và tích cực muốn hiểu biết hơn nữa những giá trị đã được luật Thiên Chúa bảo vệ và cổ võ, đôi hôn nhân cũng được mời gọi không ngừng tiến tới trong khung cảnh đời sống luân lý của mình. Họ cũng phải được nâng đỡ bởi một lòng tự nguyện ngay chính và quảng đại để thể hiện những giá trị đó trong những chọn lựa cụ thể của mình. Tuy nhiên, họ không thể coi luật đó chỉ đơn thuần như một lý tưởng sẽ đạt được trong tương lai - bởi vì họ phải coi luật đó như một mệnh lệnh của Chúa Ki-tô để mà vượt qua những trở ngại nhờ lòng trung kiên. Và vì thế, điều người ta thường gọi là “luật tiệm tiến” hay sự tiến bộ từng bước, không thể đồng hóa với điều gọi là “sự tiệm tiến của luật” như thể là có những cấp độ hay những hình thức giáo huấn khác nhau trong luật của Thiên Chúa được áp dụng riêng cho những cá nhân và những trường hợp khác nhau. Theo ý định của Thiên Chúa, tất cả những đôi vợ chồng đều được mời gọi nên thánh trong bậc hôn nhân, và ơn gọi cao quý này được chu toàn trong mức độ con người có khả năng đáp trả mệnh lệnh của Thiên Chúa nhờ lòng cậy trông vào ơn Chúa và lòng quyết tâm của chính đôi vợ chồng. Trong chiều hướng đó, nhờ khoa sư phạm của Hội Thánh, tiên vàn, các đôi vợ chồng sẽ hiểu rõ được rằng giáo huấn của Thông điệp Humanae Vitae cốt yếu đưa ra quy tắc về sinh hoạt tính dục, và họ phải cố gắng tạo ra được những điều kiện cần thiết để tuân giữ quy tắc đó” (Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris Consortio, 22-11-1981, số 34).
[44] "Chính trong bối cảnh này mà có sự mở ngỏ đúng mức vào lượng từ ái của Thiên Chúa dành cho tội nhân biết hoán cải và vào niềm thông cảm đối với sự yếu đuối của con người. Niềm thông cảm này không bao giờ có nghĩa thoái nhượng hoặc cân đỡ một cách sai lạc điều thiện và điều ác để thích nghi nó với các hoàn cảnh. Hối nhân được coi là có thái độ nhân bản nếu biết nhìn nhận sự yếu đuối của mình và cầu xin lượng từ ái đối với lỗi phạm của mình; trong khi đó thì ngược lại, không thể nào chấp nhận thái độ con người lấy sự yếu đuối của mình để làm tiêu chuẩn đo lường chân lý về điều thiện, và lấy đó để tự biện minh cho mình là đủ, thậm chí không cần phải nại đến Thiên Chúa và lượng từ ái của Nguời. Thái độ như vậy làm băng hoại nền luân lý của toàn thể xã hội, bởi vi nó dạy phải nghi ngờ về tính khách quan của luật luân lý nói chung và một sự từ chối tính tuyệt đối của những lệnh cấm luân lý liên quan đến những hành vi nhân linh nhất định, và cuối cùng nó sẽ gây xáo trộn hết mọi phán đoán về giá trị” (Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Veritatis Splendor, 18-8-1993, số 104).
[45] “Nếu cha giải tội không nghi ngờ về sự thành tâm của hối nhân đến xin ơn xá giải, thì không được từ chối và trì hoãn ban bí tích” (Giáo luật điều 980).
[46] “Hội thánh biết rõ rằng không thiếu những trường hợp vợ hoặc chồng đành chịu phạm tội chứ không phải là chủ ý phạm tội, khi vì một nguyên nhân nghiêm trọng, vợ hoặc chồng miễn cưỡng chứ không thuận nhận sự đảo lộn trật tự luân lý. Trong trường hợp này thì không phải là tội, tuy vậy, do luật đức ái đòi hỏi, mỗi bên không nên bỏ qua việc khuyên can và ngăn cản bạn mình đừng phạm tội ” (Piô XI, Thông điệp Casti Connubli, AAS 22 (1930), 561).
[47] Xin coi Denzinger-Scholmetzer, Enchiridion Symbolorum, 2795, 3634.
[48] “Theo quan điểm luân lý, không bao giờ được minh nhiên cộng tác vào việc xấu. Sự cộng tác như vậy sẽ xảy ra khi một hành động, hoặc do chính bản tính của nó, hoặc do hình thức mà nó mang lấy trong một hoàn cảnh cụ thể có thể được xác định như một sự tham gia trực tiếp vào một hành vi chống lại sự sống của người vô tội, hoặc đồng tình với ý định vô luân của người phạm tội đó” (Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Evangelium Vitae, 25-3-1995, số 47).
[49] “Tuy nhiên, kỷ luật này phù hợp với sự tinh tuyền của các đôi hôn nhân, nhưng không làm hư hại đến tình yêu hôn nhân, hơn nữa còn trao cho nó một giá trị nhân bản cao hơn. Thế nhưng, nó đòi phải nỗ lực liên lỉ; nhờ vào ảnh hưởng rộng rãi của nó, đôi vợ chồng phát triển toàn vẹn nhân vị của mình, được phong phú hơn trong những giá trị tinh thần. Kỷ luật đó mang lại cho đời sống gia đình những hoa trái về sự an lạc và bình yên, đồng thời giúp giải quyết dễ dàng những vấn nạn khác; nó làm tăng sự quan tâm lẫn nhau giữa vợ chồng; giúp cả hai thoát ra khỏi tính ích kỷ, kẻ thù của tình yêu và làm tăng thêm ý nghĩa trong trách nhiệm của họ. Nhờ đó, cha mẹ có khả năng gây ảnh hưởng sâu đậm hơn và hiệu quả hơn trong việc giáo dục con cái; trẻ em và thanh niên lớn lên với một sự lượng định ngay thẳng về những giá trị nhân bản, và trong sự phát triển an lạc và hài hòa về tinh thần và khả năng cảm thông của chúng” (Phao-lô VI, Thông điệp Humanae vitae, 25-7-1968, số 21).
[50] Đối với các linh mục, “nhiệm vụ đầu tiên - đặc biệt là trong trường hợp của những người giảng dạy thần học luân lý - là trình bày không mập mờ giáo huấn của Giáo hội về vấn đề hôn phối. Trong việc thực hành sứ vụ của mình, các cha phải là người đầu tiên sống gương mẫu về sự vâng lời một cách trung thành cả trong nội tâm lẫn thể hiện ra bên ngoài đối với huấn quyền của Giáo hội. Như các cha đã rõ, sự vâng lời đó đòi buộc không chỉ vì những lý do đã nêu ra trước đây, nhưng hơn thế nữa, còn do sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, được trao ban cách đặc biệt cho các mục tử trong Giáo hội, để các ngài có thể diễn tả chân lý. Các cha cũng biết rằng vì sự an bình của những lương tâm, và vì sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu, điều quan trọng nhất, cả trong lãnh vực luân lý cũng như trong tín lý, là tất cả đều phải hướng về huấn quyền của Giáo hội, và tất cả phải nói cùng một ngôn ngữ. Ở đây, với tất cả tấm lòng, chúng tôi gợi lại nơi các cha lời cầu khẩn thành lâm của thánh Phao-lô Tông đồ : "Anh em thân mến, nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tôi tha thiết kêu gọi anh em tất cả hãy đồng tâm nhất trí, và đừng có sự bất hòa trong anh nhưng anh em hãy sống hòa thuận một lòng, một ý với nhau" (1 Cr 1,10).
“Không làm giảm bớt tí nào đạo lý cứu độ của Đức Ki-tô là hình thức bác ái cao cả đối với các linh hồn. Nhưng điều này phải được đồng hành bởi lòng kiên nhẫn và nhân hậu, như chính Chúa đã nêu gương trong việc đối xử với con người. Người đến không phải để kết án nhưng để cứu độ, Người thực sự không nhân nhượng đối với điều xấu, nhưng nhân hậu đối với mọi người” (Phao-lô VI, Thông điệp Humanae Vitae, 25-7-1968, số 28-29).
[51] “Trước vấn đề điều hòa sinh sản chính đáng, cộng đoàn Hội thánh ngày nay phải có nhiệm vụ khơi dậy những xác tín và đưa ra sự trợ giúp cụ thể cho những ai muốn thực hiện nghĩa vụ làm cha mẹ một cách thật sự có trách nhiệm.
Trong lãnh vực này, Hội thánh bày tỏ sự vui mừng vì những kết quả mà các nghiên cứu khoa học đã đạt được, nhằm đến vấn đề nhận biết chính xác hơn chu kỳ thụ thai của phụ nữ, Hội thánh thúc đẩy để những nghiên cứu ấy được phát triển một cách quyết liệt và sâu xa hơn nữa, Hội thánh cũng không quên tha thiết kêu gọi trách nhiệm của nhiều người - các bác sĩ, các chuyên viên, các cố vấn gia đình, các nhà giáo dục và các đôi vợ chồng - những người có thể giúp đỡ các đôi vợ chồng sống tình yêu của họ, trong sự tôn trọng cơ cấu và các mục tiêu của sinh hoạt vợ chồng nhằm diễn tả tình yêu đó. Điều này có nghĩa là cần có những cố gắng rộng lớn hơn, quyết liệt hơn và có hệ thống hơn nữa để làm cho người ta nhận biết, tôn trọng và áp dụng những phương pháp tự nhiên giúp điều hòa sinh sản.
Một chứng tá giá trị nhất có thể và phải được rút ra từ những đôi vợ chồng, những người thực hiện tốt việc tiết dục định kỳ, đã đạt đến một tinh thần trách nhiệm cá nhân chín chắn hơn đối với tình yêu và sự sống. Như Đức Phao-lô VI đã viết: "Chúa đã trao phó cho các đôi bạn trách vụ làm cho người ta thấy được sự thánh thiện và dịu dàng của lề luật đang nối kết mối tình đôi bạn yêu thương nhau với việc họ cộng tác vào tình yêu của Thiên Chúa, tác giả của sự sống con người” (Gio-an Phao-lô II, Tông huấn Familiaris Consortio, 22-11-1981, số 35).
[52] “Ngay từ thế kỷ đầu tiên, Giáo hội đã quả quyết mọi hình thức phá thai có chủ ý đều là xấu. Giáo huấn này không hề thay đổi và sẽ không thể thay đổi được. Có thể nói, việc phá thai trực tiếp, nghĩa là được nhằm tới như là mục đích hoặc như một phương thế, là điều trái ngược cách nghiêm trọng với luật luân lý” (Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 2271; xc. Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn về việc phá thai, 18-11-1974).
"Tính nghiêm trọng về mặt luân lý của việc chủ tâm phá thai được thể hiện rõ rệt trong tất cả sự thật của nó, nếu chứng ta nhận rằng đây là một hành vi giết ngưởi, và cách riêng, khi chúng ta xem xét những yếu tố đặc biệt có liên quan. Kẻ bị loại trừ đi là một con người mới bắt đầu sự sống. Người ta không thể tưởng tượng được còn ai vô tội hơn thế nữa” (Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Evangelium Vitae, 25-3-1995, số 58).
[53] Phải nhớ rằng, năng quyền xá giải ở tòa trong đối với loại tội này cũng như đối với tất cả các vạ không dành riêng cho Tòa thánh và chưa tuyên bố, thì thuộc quyền “Ipso jure” (chiếu theo luật) của các giám mục, kể cả hiệu tòa, thuộc về vị xá giải của giáo phận hay của một Hội kinh sĩ (Giáo Luật điều 508), cũng như các linh mục tuyên uý bệnh viện, nhà tù và hành trình hàng hải (Giáo Luật điều 566 §2). Các cha giải tội thuộc Dòng Hành khất hay thuộc một số Dòng tu hiện đại nào đó được hưởng đặc quyền tha vạ liên quan đến tội phá thai.
[54] Xc. Gio-an Phaolô II Thông điệp Dives in Misericordia, 30-11-1980, số 14.