Tông Huấn

Saturday, 04 April 2020 16:01

Tông Huấn Pastores Dabo Vobis (Đào Tạo Linh Mục Trong Hoàn Cảnh Ngày Nay) Của ĐGH Gioan Phaolô II (Ngày 25-03-1992) - (1) Featured

TÔNG HUẤN PASTORES DABO VOBIS

VỀ VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC TRONG HOÀN CẢNH HIỆN NAY

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

GỞI GIÁM MỤC ĐOÀN, HÀNG GIÁO SĨ  VÀ TOÀN THỂ GIÁO HỮU

SAU THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC

NGÀY 25 THÁNG 03 NĂM 1992

***

***

GIỚI THIỆU TÔNG HUẤN

 

I. NHẬN ĐỊNH SƠ KHỞI

Bản dịch Tông Huấn bằng Việt Ngữ, “Những mục tử như lòng mong ước”, mới ra mắt chưa tròn một tháng, với số lượng trên 1000 cuốn, đã cạn sạch. Nhiều nơi còn đặt mua thêm 30, 40, 60… Chắc chắn sẽ có tái bản mặc dầu bản dịch chưa phải là hoàn chỉnh. Được biết có một số giám mục, linh mục và cả nữ tu đang sử dụng tối đa văn bản (đọc đi đọc lại, gạch đích, ghi chú, rút tia đề tài, suy niệm,…) để làm của ăn nuôi sống bản thân, để làm chất liệu hướng dẫn cộng đoàn trong hoàn cảnh hiện tại.

Phải chăng tác phẩm của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến đúng lúc để cứu chữa cơn sốt linh mục, để đáp ứng nỗi khát khao mong chờ rạo rực từ nhiều phía, phía Thiên Chúa, phía Giáo Hội nói chung, phía các linh mục nói riêng, và nhất là cả phía giáo dân nữa: làm sao để có được “những linh mục như lòng mong ước”.

Chúng ta không có quyền nhìn và nghe ngóng sự kiện một cách chủ quan, giàn lược hoặc quá lạc quan. Có thể có những người chỉ vì “sính trí thức” mà chạy theo Tông Huấn để tự chứng tỏ chính mình. Cũng có thể có những người chủ trương cơ hội chỉ trích dẫn và chỉ nhấn mạnh những gì trong Tông Huấn đem lại cho lợi ích cấp thòi. Không thiếu những người lần giờ văn kiện với một thái độ hời hợt và thiển cận. Một số đông sẽ vội vàng bỏ cuộc vì nản chí, vì ngại đương đầu với những khó khăn đòi phải tiến sâu vào ngõ ngách của vấn đề.

II. NHỮNG KHÓ KHĂN

Khó khăn dường như là điều đương nhiên. Thế nhưng không vì vậy mà người Kitô hữu và nhất là người linh mục lại không cùng với Đức Giáo Hoàng tìm hiểu và cảm nghiệm sâu xa nhu cầu bức bách của Giáo Hội hiện nay, một “Giáo Hội là mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ”, một Giáo Hội không lẫn tránh khó khăn nhưng luôn tìm cách đương đầu và vượt qua. Một chi tiết được Tông Huấn lặp đi lặp lại khá nhiều lần là người linh mục vừa “ở trong” Giáo Hội vừa “đứng trước” Giáo Hội: đây lại càng là một thôi thúc để chúng ta nhận định những khó khăn của văn kiện để rồi cũng say mê văn kiện như người soạn thảo đã viêt lên với một tâm hồn dạt dào, tha thiết và say sưa.

1. Phải thú nhận rằng khó khăn thoạt đầu của chúng ta là khó khăn chủ quan của những con người nghiêng chiều về khuynh hướng thực dụng. Chúng ta quen dùng “mì ăn liền”, những bài giảng soạn sẵn, những mẫu suy niệm vắn gọn, mau hấp dẫn và chống lôi cuốn, những áng văn hoa mỹ dành để thưởng thức hơn là đòi phải suy nghĩ bằng tất cả tâm hồn. Đây cũng là nhận xét của Đức Giáo Hoàng ngay trong phần dẫn nhập Tông Huấn: “… Về phần những linh mục ít lâu nay đang thi hành chức vụ của mình, họ dường như rơi vào một sự phân tán thái quá trong những hoạt động mục vụ ngày càng tăng… họ cảm thấy bó buộc phải xét lại lối sống của mình, xét lại những chọn lựa ưu tiên của mình… và đồng thời cảm nghiệm mỗi lúc một sâu sắc sự cần thiết phải có một nền đào tạo trường kỳ”. Trong chương I khi đặt mầu nhiệm linh mục trước những thách đố của thiên nhiên kỳ đang kết thúc, ngài đã nhắc nhở: “truy tầm một sự hiểu biết chính xác và sâu rộng về bản chất và sứ vụ của chức linh mục thừa tác là đường lối phải tuân theo để có thể ra khỏi cuộc khủng hoảng về căn tính linh mục”. Ý thức khó khăn thoạt đầu này, chúng ta mượn lời Thánh Augustinô để cùng khuyến khích nhau đi vào Tông Huấn: Tolle et lege.

2. Khó khăn cơ bản không thể không nhận ra đó là phạm vi bao la và sâu rộng của vấn đề đào tạo linh mục. Đề tựa của Tông Huấn là: “Việc đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay”. Ngay cả khi chúng ta tự giới hạn khái niệm “đào tạo” vào vấn đề đã là mênh mông rồi. Huống nữa, ở đây, Đức Giáo Hoàng lại mở rộng khái niệm “đào tạo”. Chẳng những đào tạo là đào tạo các ứng sinh linh mục nhưng còn là đào tạo chính các linh mục, ngài coi đó là hai giai đoạn của cùng một tiến trình đào tạo: đào tạo khai đạo (formation initiale) và đào tạo trường kỳ (formation permanente), được khai triển và trình bày trong hai chương cuối là chương V và chương VI.

a/. Chương V lấy hình ảnh Nhóm Mười Hai chung quanh Chúa Giêsu trước khi được sai đi làm kim chỉ nam và là chương dài nhất trong Tông Huấn. Phần I bàn về các chiều kích của việc đào tạo các ứng sinh gồm có: nhân bản, trí thức, thiêng liêng và mục vụ. Phần II đề cập tới các môi trường đào tạo như đại chủng viện, tiểu chủng viện và những hình thức khác. Phần III nhắm tới những người đảm nhận trách nhiệm đào tạo, trước hết là Giáo Hội và Giám Mục, sau đó là cộng đoàn hữu trách ở chủng viện, các giáo sư thần học và chính bản thân ứng sinh.

b/. Chương VI tuy có phần ngắn hơn nhưng có thể được coi như là chương cao điểm. Hình ảnh chỉ đạo cho việc đào tạo trường kỳ trong chương VI là lời khuyên nhủ mà Thánh Phaolô nói với Timôthê: “Cha kêu mời con khơi thắm lại ân huệ mà Thiên Chúa đã đổ xuống trên con”. Tương tự như chương V, chương VI lần lượt bàn về những lý do thần học của việc đào tạo trường kỳ, khai triển các chiều kích đa dạng của việc đào tạo ấy, cũng gồm có nhân bản, thiêng liêng, trí thức và mục vụ, xét tới ý nghĩa sâu xa của việc đào tạo trường kỳ, đề cập tới tuổi tác và điều kiện sống, xác định những thành phần chịu trách nhiệm về việc đào tạo trường kỳ và sau cùng đề nghị thời giờ, hình thức và những phương thế để tổ chức việc đào tạo trường kỳ.

Hai chương V và VI như chúng ta vừa phác hoạ dầu quan trọng cũng chỉ là phần ứng dụng của những phân tích và suy niệm về nền móng. Những phân tích và suy niệm này lại liên hệ và đan kết với nhau một cách chặt chẽ tuy vẫn được chia thành bốn chương.

c/. Chương I có thể ví như một bức hoạ đặt người trẻ ứng sinh cũng như người linh mục vào khung cảnh của thời đại, với những yếu tố tiêu cực cũng như tích cực. Nhưng bức hoạ gắn liền với Tin Mừng: không lẩn tránh sự thật phũ phàng, nhưng cũng không kém lạc quan và nhất là dấu chỉ thời đại không phải để nhận xét suông rồi áp dụng vội vàng, nhưng để nhận ra lời mời gọi, trách nhiệm và bổn phận phải cộng tác, phải không ngừng canh tân và thích nghi. Công cuộc “phúc âm hoá mới” đòi phải có “những nhà phúc âm hoá mới”. Vì linh mục được cất nhắc từ giữa loài người”, nên linh mục và ứng sinh linh mục vừa phải am tường môi trường nhân sinh, phải bén nhạy trước dấu chỉ của thời đại nhưng vừa phải cậy dựa vào lời hứa của Thiên Chúa trung thành, cùng chia sẻ với Giáo Hôi niềm tin tưởng vững chắc và sâu xa vào hoạt động của Chúa Thánh Thần.

d/. Chương II truy tầm cội nguồn của căn tính linh mục bằng cách nhìn vào chính Chúa Giêsu linh mục, trong tình yêu Chúa Cha và sự thánh hiến của Chúa Thánh Thần, nhìn vào Giáo Hội trong mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ, móc nối với Đức Kitô Đầu và Mục Tử, hướng đến công cuộc phục vụ Giáo Hội và thế giới. Ngài đã xức dầu thánh hiến tôi”.

e/. Chương III khai triển sâu rộng về đời sống thiêng liêng của linh mục một khi được lấp đầy Thánh Thần : “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”. - Cũng như người giáo dân và còn hơn người giáo dân, linh mục được mời gọi nên thánh một cách đặc biệt – Phương thức nên thánh của linh mục là nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử và là thực thi đức ái mục vụ – Đời sống thiêng liêng và thánh thiện ấy phải được biểu lộ trong việc thi hành thừa tác vụ – Sự thánh hiến của linh mục gắn liền với những đòi hỏi triệt để của Tin Mừng : vâng phục, nghèo khó và trinh khiết – Yếu tố định đoạt của một đời sống thiêng liêng Kitô giáo và hơn nữa một đời sống thiêng liêng linh mục, đó là ý thức mình ở trong một Giáo Hội địa phương và xả thân phục vụ Giáo Hội ấy một cách tận tụy – Tin vào ân sủng của Chúa Thánh Thần trong mọi hoàn cảnh.

f/. Chương IV bàn về ơn gọi linh mục trong mục vụ của Giáo Hội. Mẫu mực của ơn gọi linh mục là cuộc gặp gỡ ban đầu giữa Chúa Giêsu với hai môn đệ của Gioan Tẩy Giả: “Hãy đến mà xem”. Mọi ơn gọi Kitô hữu đều phát xuất từ Thiên Chúa và đều là ân huệ của Thiên Chúa dành cho Giáo Hội. Ơn gọi bao gồm cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa đề xướng và con người đáp trả. Làm sao để cổ võ và nuôi dưỡng các ơn gọi (mẫu gương của Anrê trong Tin Mừng Gioan). Mọi thành phần trong Giáo Hội đều có trách nhiệm đối với các ơn gọi linh mục: giám mục, linh mục, gia đình, học đường, giáo dân.

Liệt kê sơ lược dàn bài cùng với những đề tài chính trên đây là để chúng ta nhận thức được tầm mức sâu rộng của Tông Huấn. Tầm mức sâu rộng ấy không cho phép chúng ta dừng lại ở những suy nghĩ phiến diện, hời hợt hoặc xé vụn nhưng ngược lại mời gọi chúng ta đương đầu với khó khăn và nỗ lực đi vào những suy niệm và phân tích của Đức Giáo Hoàng với thái độ chú tâm và với tinh thần Tin Mừng.

3. Hai khó khăn trên không phải là không thể khắc phục nếu chúng ta đánh giá cao và nếu chúng ta ưa chuộng văn kiện quý hoá này. Thật ra, khó khăn đặc biệt của Tông Huấn Pastores dabo vobis là ở chỗ nó được viết ra bằng ngôn ngữ của con tim nên đòi phải được đọc và nghiền ngẫm cũng bằng những rung cảm của con tim. Không giống như thông thường. Tông Huấn về đào tạo linh mục của Đức Gioan Phaolô II không chỉ là thành quả góp nhặt từ quá khứ để lại, từ những nghiên cứu và thảo luận của Thượng Hội Đồng 1990, cũng không chỉ là dùng Quyền Giáo Huấn để đưa ra những chỉ dẫn, khuyên bảo có tính cách giáo thuyết. Hơn thế nữa, ở đây là cả một sự san sẻ những ưu tư, nhận thức và cảm nghiệm sâu xa đã thấm đượm những nhịp đâp của con tim. Người đọc chăm chú có thể lấy làm lạ và ngỡ ngàng tự hỏi: tại sao một Tông Huấn với những đề tài quan trọng và nặng tính chất giáo điều như thế mà lại được diễn đạt một cách say mê và dào dạt kinh nghiệm sống như vậy? Phải chăng chúng ta có quyền coi đây là kiệt tác của Vị Kế Nhiệm Thánh Phêrô thời đại, với biết bao chuyến công du mục vụ ở nhiều nơi trên thế giới, với những tiếp xúc gặp gỡ đậm đà và chân tình cùng các linh mục và giáo dân ở rải rác khắp nơi, với một cái nhìn bao quát và sâu rộng kèm theo mối ưu tư khắc khoải đối với sức sống của Giáo Hội, với những ơn thúc đẩy và soi sáng của một vị Thủ Lãnh Giáo Hội có đời sống nội tâm sâu xa và bén nhạy.

Ngay trong phần dẫn nhập, sau khi đã say sưa kêu gọi người Kitô hữu mạnh mẽ tin tưởng vào lời hứa của Chúa, mặc cho biết bao những khủng hoảng, mặc cho sự xuống cấp, mặc cho tình trạng thiếu hụt linh mục trầm trọng, Đức Gioan Phaolô II đã bày tỏ nỗi lòng của mình: “Tôi muốn ngỏ lời tâm huyết (le coeur) với mọi tín hữu và từng tín hữu, cách riêng với các linh mục và với tất cả những ai đã dấn thân vào trách nhiệm tế nhị trong lãnh vực đào tạo linh mục. Qua Tông Huấn này, tôi mong mỏi được tiếp cận tất cả các linh mục và mỗi một linh mục, triều hoặc dòng”. Trong phần kết luận, ngài còn diễn tả rõ hơn : “Ngài (Đức Kitô Mục Tử Nhân Lành) yêu cầu những con tim khác cũng phải chung nhịp đập – những con tim linh mục – “Các ngươi hãy cho họ ăn”. Như vậy không phải lối suy nghĩ và diễn tả của “người slave” làm cho bản văn ra vòng vo và phức tạp cho bằng những lối nẻo của con tim, lắt léo, uốn khúc, có khi chi li, súc tích… Thừa tác vụ linh mục được gọi là “amoris officium” theo kiểu nói của Thánh Augustinô: “Đời sống thiêng liêng của linh mục không là gì khác hơn sự đón nhận “chân lý” của thừa tác vụ linh mục, được coi là amoris officium, trong ý thức và trong tự do, và bởi đó trong trí óc và con tim, trong những quyết định và những hành động”. (cuối số 24).

Con tim có những tỷ lệ ít cần đếm xỉa đến lý trí. Chẳng hạn để giải quyết vấn đề khủng hoảng về căn tính linh mục, chương II nhằm mời gọi linh mục quay về với nguồn cội tột cùng của mình, để đắm mình trong tình yêu của Chúa Cha, để yêu mến nguồn cội cao cả của chính mình: “Đời sống và thừa tác vụ linh mục là sự nối dài đời sống và hoạt động của chính Đức Kitô. Căn tính của chúng ta nằm ở đó, cũng như phẩm giá thực sự của chúng ta, nguồn mạch vui mừng của chúng ta, và niềm tin vững chắc của chúng ta về sự sống” (cuối số 18).

Vấn đề độc thân linh mục cũng được giải quyết vừa mạnh mẽ, cương quyết nhưng cũng vừa nhẹ nhàng và uyển chuyển. Ý thức sáng suốt những chỉ trích và chống đối, không phủ nhận những lỗi phạm, những khó khăn. Tông Huấn chuyển vấn đề sang mặt tích cực, chiêm ngắm một “Đức Giêsu Kitô mong muốn được linh mục yêu mến một cách hoàn toàn và độc chiếm giống như Đức Giêsu Kitô Đầu và Phu Quân đã yêu mến Giáo Hội” (số 29, phần giữa), kêu gọi linh mục “đón nhận bậc sống độc thân với một quyết định tự do và ngập tràn yêu thương”, xác quyết bậc sống độc thân linh mục là có thể thực hiện một cách trung thành nhờ “cầu xin trong sự kết hiệp với Giáo Hội” và gợi lên “lòng tin cậy và can đảm trong việc tiếp tục tiến bước” (cuối số 29).

Cụ thể, trong việc đào tạo ứng sinh linh mục, bằng ngôn ngữ của con tim. Tông Huấn đòi phải có “sự quan tâm tới du khách, nghĩa là tới con người cụ thể đang dấn thân trong chuyến du hành đào tạo…”, “lòng yêu mến đích thực và sự tôn trọng chân thành đối với người ứng sinh đang bước tới chức linh mục trong những chiều kích cá vị của mình”. (số 61, phần cuối). Việc đào tạo trường kỳ cũng được đẩy xa tới những ngỏ ngách của con tim như khi đề cập đến tình huynh đệ linh mục ở số 74 phần giữa: Tình huynh đệ linh mục không loại trừ một ai; dầu vậy,…, linh mục có thể và phải dành những ưu tiên cho người nào đang cần giúp đỡ và cần khích lệ nhất. Tình huynh đệ ấy dành một sự quan tâm đặc biệt đối với các linh mục trẻ, duy trì một thái độ đối thoại chân tình và huynh đệ với những linh mục thuộc lứa tuổi trung bình hoặc cao niên cũng như đối với những linh mục nào vì lý do này hay lý do khác đang phải đương đầu với những khó khăn…” Cũng về việc đào tạo trường khi, khi cổ võ những trao đổi và gặp gỡ giữa các linh mục với nhau, Tông Huấn ghi nhận: “Họ sẽ nhờ đó mà chứng tỏ tình yêu của mình đối với toàn thể linh mục đoàn và chứng tỏ niềm hăng say của mình trong việc đáp ứng như cầu của Giáo Hội địa phương là nhu cầu phải có những linh mục được đào tạo hẳn hoi”. (số 76 phần giữa).

Một vài dẫn chứng trong số muôn vàn dẫn chứng khác thiết tưởng tạm đủ để chúng ta cảm phục con tim tràn đầy sức sống được bộc lộ ra trong Tông Huấn lớn lao của Giáo Hội và nhất là để chúng ta cũng đón nhận và đi vào Tông Huấn bằng chính con tim của chúng ta cùng với niềm say mê và nỗi thao thức của những chi thể trong Nhiệm Thể Giáo Hội có Chúa Kitô là Đầu, Mục Tử và Tôi Tớ.

III. MỘT VÀI ĐIỂM NỔI BẬT VÀ LAN TỎA TRONG TÔNG HUẤN

1. Trước hết, trong mạch văn của cái gọi là ngôn ngữ con tim, chúng ta có thể ghi nhận một đức tính mà Tông Huấn luôn kêu mời mặc dầu từ ngữ chỉ được lặp lại nhiều lần khi đề cập tới chiều kích nhân bản và mục vụ của việc đào tạo, đó là tính bén nhạy (sensibilité). Trong số 72, chương V, Tông Huấn viết: “Linh mục phải làm sao để tính bén nhạy nhân bản của mình được nên phong phú nhờ vào một kinh nghiệm ngày càng rộng lớn hơn và để cho Dân Thiên Chúa có thể nói về mình một cách tương tự như tác giả thư gởi tín hữu Do Thái đã nói về Đức Giêsu: Không phải chúng ta có một vị thượng tế bất lực, không cảm thông được những nỗi yếu hèn của chúng ta, trái lại, Ngài đã nếm chịu mọi thử thách, giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi (Dt 4,15)”.

a/. Trọn chương I là để khai triển tính bén nhạy đối với môi trường hoàn cảnh chung quanh : những thách đố của thiên niên kỷ thứ hai. Cần phải nhận thức và nhất là diễn giải tình huống phức tạp hiện nay thì mới trả lời được câu hỏi: “Làm sao để đào tạo các linh mục cho thực sự ngang tầm với hoàn cảnh hiện nay, cho thực sự có khả năng phúc âm hoá thế giới ngày nay?” (số 10). Một tính bén nhạy như thế cần phải đưa theo Tin Mừng, cần phải được “soi sáng và cũng cố nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng mọi nơi mọi lúc khơi dậy sự vâng phục đức tin, lòng dũng cảm tươi vui để nối gót Chúa Giêsu, ơn khôn ngoan để xét đoán mọi sự và không bị một ai xét đoán (x. 1 Cr 2.15)” (số 10, gần cuối).

b/. Bén nhạy đối với Lời Chúa, đối với truyền thống Giáo Hội, đối với Huấn Quyền (số 26, tr.61).

c/. Bén nhạy đối với người nghèo : “Không loại trừ một ai trong việc loan báo và ban phát ơn cứu độ, linh mục biết chú tâm tới những người bé nhỏ, tới các tội nhân, tới hết mọi người sống ngoài lề xã hội…” (số 30, tr. 73)”… giữ mình khỏi mọi thái độ trịch thượng hoặc khỏi việc thi hành một quyền bính nào đó mà không luôn luôn hoặc không chỉ có thể biện minh bằng đức ái mục vụ” (số 60, tr.145). “Các chúng sinh phải tìm kiếm Đức Kitô… nhất là nơi những người nghèo, những người bé nhỏ, những người yếu đau, những người tội lỗi và những người không tin” (số 45, tr.116).

“Linh mục cần phải có khả năng hiểu biết sâu xa lòng trí con người, trực giác được những khó khăn và những vấn đề, tạo điều kiện dễ dàng cho sự gặp gỡ và đối thoại, đạt được lòng tin cậy, sự cộng tác, phát biểu được những phán đoán lành mạnh và khách quan” (số 43, tr. 109).

“Linh mục cần phải lớn lên trong việc tiếp xúc thường ngày với người khác và trong việc chia sẻ cuộc sống với họ mỗi ngày,… hiểu được những nhu cầu và đón nhận những lời kêu cứu, có thể trực giác những yêu cầu không được phát biểu thành lời…” (số 72, tr. 176).

d/. Bén nhạy đối với Giáo Hội, “khuyến khích Giáo Hội địa phương sống đậm đà hơn chiều kích phổ quát của Giáo Hội ấy” (số 31, tr.76), “nhằm giúp xây dựng toàn thể cộng đoàn, mọi đặc sủng riêng biệt đều được sắp xếp cho sự phục vụ cộng đoàn ấy” (số 31, tr.77).

Tất cả sự bén nhạy nói trên nhờ “mặc lấy những tâm tình của Đức Kitô”, nhờ “nên đồng hình dạng với Ngài”, nhờ thông phần vào đức ái mục vụ của Ngài, nhờ hoạt động “nhân danh” “thay mặt” Ngài.

2. Ba khái niệm luôn được móc nối với nhay là: hiệp thông, tính phổ quát và tư thế ứng trực (communion, universalité, disponibilité).

Ngay trong phần dẫn nhập, Tông Huấn đã nêu bật kinh nghiệm cụ thể của Thượng Hội Đồng Giám Mục: “kinh nghiệm riêng biệt về sự hiệp thông giữa các giám mục trong tinh thần phổ quát nhờ đó mà cảm thức về Giáo Hội phổ quát cũng như trách nhiệm của các giám mục đối với Giáo Hội phổ quát và đối với sứ vụ của Giáo Hội, được củng cố, trong mối hiệp thông thân ái và thiết thực chung quanh Thánh Phêrô”. Từ nhận định về hoàn cảnh Giáo Hội, trong đó có “sự kiện này là càng ngày người ta càng thuộc về Giáo Hội một cách không trọn vẹn và có điều kiện, gây ảnh hưởng tiêu cực cho sự nở rộ các ơn gọi hướng đến chức linh mục, cho ý thức mà linh mục có về căn tính và về thừa tác vụ của mình” (số 7, tr.18). Đức Gioan Phaolô II đã đề cao tính “tương giao” tính “hiệp thông” của thừa tác vụ linh mục trong Giáo Hội.

Tính chất thiết yếu “tương giao” ấy là “do bởi chức linh mục phát sinh từ nơi sâu thẳm Mầu Nhiệm khôn tả của Thiên Chúa, nghĩa là từ tình yêu của Chúa Cha, từ ân sủng của Chúa Giêsu Kitô và từ ơn hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, người linh mục qua bí tích được hội nhập vào sự hiệp thông với giám mục và với các linh mục khác, để phục vụ Dân Thiên Chúa là Giáo Hội và để dẫn dắt mọi người đến với Chúa Kitô” (số 12, tr.30).

Do đó, thừa tác vụ được điều phối mang “bản chất cộng đồng” và chỉ có thể được hoàn thành như là “công trình tập thể”. Đời sống thiêng liêng cũng được suy niệm trong chiều hướng hiệp thông ấy: từ việc nên đồng hình dạng với Đức Kitô Đầu và Mục tử, đức ái mục vụ cho đến sống các lời hứa vâng phục, khó nghèo, và trinh khiết… Tất cả đều mang chiều kích cộng đồng. Chính vì thế, trong Giáo Hội là mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ, linh mục phải sống với ý thức mình thuộc về Giáo Hội phổ quát qua Giáo Hội địa phương, và phải xả thân phục vụ Giáo Hội một cách tận tụy. Toàn thể Giáo Hội phải chăm lo cho ơn gọi linh mục, vì ơn gọi linh mục là từ trong Giáo Hội và để phục vụ Giáo Hội (chương IV). Hai chương V và VI cũng luôn nêu dẫn chiều kích hiệp thông ấy đối với tiến trình đào tạo : một linh mục đoàn duy nhất, liên kết chặt chẽ với giám mục, gắn bó và kề cận với mọi người.

Điểm đặc biệt ở đây là tính hiệp thông luôn gắn liền với lời mời gọi hướng đến Giáo Hội phổ quát : “bởi vì trong nội bộ Giáo Hội, linh mục là con người của sứ vụ và hiệp thông, cho nên đối với mọi người, linh mục phải là con người của sứ vụ và đối thoại… Linh mục phải nối kết những quan hệ huynh đệ trước hết với các anh em thuộc các Giáo Hội khác và thuộc các hệ phái Kitô giáo, nhưng cũng phải nối kết những quan hệ huynh đệ với các tín hữu thuộc các tôn giáo khác, với mọi người thiện chí và một cách đặc biệt với những người nghèo và những người yếu đuối hơn hết cũng như với hết mọi người, hoặc không nhận thức, hoặc không diễn đạt ra được, đang ngưỡng vọng về chân lý và ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến…” (số 18, tr.42 và 43); “bất cứ thừa tác vụ linh mục nào cũng tham dự vào những chiều kích hoàn vũ của sứ vụ được Đức Kitô giao phó cho các Tông Đồ” (số 32, tr.77); “một não trạng thừa sai, mở ngỏ hướng đến những nhu cầu của Giáo Hội và của thế giới, chú trọng tới những người xa cách nhất và trên hết tới những tập thể ngoài Kitô giáo trong môi trường của mình” (số 32, tr.77). Trong công việc giáo dục và huấn luyện, Tông Huấn cũng khuyến khích sự đóng góp đa dạng cho các giáo phận kề nhau, do những thành phần nam nữ dị biệt…

Tính chất hiệp thông và phổ quát lại dẫn đến một thái độ quan trọng nơi người linh mục : đó là tư tế ứng trực, sẵn sàng để được sai đi bất cứ nơi nào, sẵn sàng chấp nhận vượt ra ngoài biên giới giáo phận, nếu cần luôn tạo thuận lợi cho việc đón tiếp mọi người có nhu cầu, mọi lời kêu cứu. “Ứng sinh linh mục sẽ được giúp đỡ để yêu mến và sống chiều kích thừa sai thiết yếu của Giáo Hội cùng những hoạt động mục vụ đa tạp; họ sẽ được giúp đỡ để trở nên rộng mở và ứng trực sẵn sàng đối với mọi đường lối có thể thực hiện ngày nay nhằm loan báo Tin Mừng… ứng trực, đáp lại Chúa Thánh Thần và đáp lại giám mục, để rồi được sai đi rao giảng Tin Mừng bên kia những biên giới của quốc gia mình” (số 61, tr.147), “liên lỉ ứng trực và sẵn sàng để cho mình bị chộp giữ hay, có thể nói, để cho mình bị “ăn” do bởi những nhu cầu và những đòi hỏi dĩ nhiên cần phải hợp lý của đoàn chiên” (số 28, tr.67).

3. Một yếu tố quan trọng cần được ghi nhận để khỏi lạc hướng khi bước vào Tông Huấn, đó là vấn đề đào tạo nhắm đến phẩm chất linh mục hơn là con số linh mục. Nhiều từ ngữ được dùng để diễn tả trọng tâm đó : “Những nhà phúc âm hoá mới”, “những linh mục ngang tầm với thời đại”, “những linh mục được đào tạo hẳn hoi” (bien formés), “một trình độ đào tạo trí thức ưu tú”, “không phải […] bất cứ những mục tử nào nhưng những mục tử như lòng Ngài mong ước”.

Chính vì thế mà Tông Huấn nhận định tình trạng thiếu hụt linh mục cũng như sự giảm sút ơn gọi linh mục với một thái độ khách quan và bình tĩnh và luôn nêu cao trách nhiệm cộng tác vào sự thực hiện lời hứa của Chúa với một niềm tin vững mạnh và can trường. Cũng chính vì thế mà, không như chúng ta có thể lầm tưởng, Tông Huấn không tự giản lược vào những phân tích và nghiên cứu nhằm đưa ra những phương hướng huấn luyện và giáo dục. Tông Huấn đi xa hơn nhiều, với dụng ý đưa linh mục vào trong mầu nhiệm của cuộc sống : “Từ vấn đề căn tính của linh mục, sự chú trọng được hướng đến các vấn đề liên quan tới tiến trình đào tạo linh mục và tới phẩm chất đời sống các linh mục” (Phần Dẫn Nhập, tr.7).

Chương I nhấn mạnh “bản tính con người” của thừa tác viên, tới môi trường nhân sinh, tới những điều kiện và hoàn cảnh của cuộc sống: “Ngay cả vào năm 2000, ơn gọi linh mục sẽ tiếp tục là lời mời gọi sống chức linh mục độc nhất và trường tồn của Chúa Kitô. Cũng vậy, đời sống và chức vụ linh mục phải thích nghi với mọi thời đại và với mọi môi trường sống” (số 5, tr.12). Trong dòng liên tục này, Tông Huấn không ngừng lặp đi lặp lại “đời sống linh mục”, “đời sống thiêng liêng của linh mục”, “cuộc sống của người linh mục và tính triệt để của Tin Mừng”, “sống nối gót Đức Kitô như các Tông Đồ”, Tông Huấn đạt tới đỉnh cao của việc suy niệm về cuộc sống linh mục, đó là chương VI với việc đào tạo truyền kỳ : sống làm sao cho sâu đậm hơn, khơi thắm lại cuộc đời linh mục đã khởi đầu: “Cha kêu mời con khơi thắm lại ân huệ mà Thiên Chúa đã đổ xuống nơi con”.

Cuộc sống linh mục bắt nguồn từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, múc lấy sức mạnh nơi Vị Mục Tử Nhân Lành đã được Cha sai đến trong quyền lực của Chúa Thánh Thần. Đó là căn tính của linh mục, “là nguồn mạch vui mừng của chúng ta, và niềm tin vững chắc của chúng ta về sự sống”. Toàn bộ Tông Huấn nhằm mục đích nối dài và ứng dung sự sống cội nguồn này. Khởi từ việc mô phỏng Vị Mục Tử Nhân Lành đã hiến ban mạng sống, “nhân danh Ngài, các linh mục tiến dâng nghi lễ cứu độ… các linh mục có trách nhiệm xả thân phục vụ Dân Cha để nuôi dưỡng họ bằng lời của Cha và làm cho họ sống bằng các bí tích của Cha; các linh mục sẽ là những chứng nhân thực sự cho đức tin và đức ái, sẵn sàng hiến mạng sống mình như Đức Kitô đã hiến dâng mạng sống cho đàn em và cho Cha” (số 15, tr.37).

Cuộc sống linh mục chính là tham gia và thông phần vào sức sống của Đấng là Đầu của Thân Thể, nên đồng hình dạng với Ngài. Biểu hiện rõ nét nhất của sự tham gia thông phần chính là “đức ái mục vụ”, sự trao hiến trọn vẹn chính mình một cách tích cực và tươi vui, như Đức Kitô Phu Quân đã trao hiến chính Ngài cho Hiền Thê là Giáo Hội. Có thể nói rằng toàn bộ Tông Huấn xoay quanh “đức ái mục vụ” bởi vì đó chính là biểu hiện, là trợ lực, là cội rễ và nguồn mạch của đời sống linh mục: “Việc chuẩn bị cho cuộc sống linh mục nhất thiết bao hàm một nền đào tạo vững chắc về đức ái, nhất là về lòng yêu mến ưu tiên đối với người nghèo…”

Có thể kể thêm “đời sống cầu nguyện” “đời sống bí tích” “sống thinh lặng”, “sống cô đơn” v.v… Nói tóm lại, cả Tông Huấn đều trình bày về sự sống, giới thiệu sự sống và dẫn vào sự sống. Sống chức vụ linh mục chớ không phải có chức linh mục. Tương lai và hy vọng của Giáo Hội là ở đó.

Một đôi điều giới thiệu và gợi ý trên đây chẳng qua là nỗ lực khiêm tốn nhằm giúp bạn đọc đỡ nản chí khi mới bắt tay vào Tông Huấn. Chúng tôi chưa dám tự cho mình là nắm vững được nội dung phong phú và trào tràn của văn kiện. Cũng như bạn đọc, chúng tôi còn phải đọc đi đọc lại, nghiền ngẫm thật nhiều nữa…

***

TÔNG HUẤN PASTORES DABO VOBIS

VỀ VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC TRONG HOÀN CẢNH HIỆN NAY

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

GỞI GIÁM MỤC ĐOÀN, HÀNG GIÁO SĨ  VÀ TOÀN THỂ GIÁO HỮU

SAU THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC

NGÀY 25 THÁNG 03 NĂM 1992

***

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

***

DẪN NHẬP

 

1. “Ta sẽ ban cho các ngươi những mục tử như lòng Ta mong ước” (Gr 3,15).

Qua lời của ngôn sứ Giêrêmia, Thiên Chúa hứa sẽ không bao giờ để cho Dân Ngài phải thiếu mục tử chăm lo qui tụ và hướng dẫn: “Ta sẽ thôi thúc cho [các chiên Ta] những mục tử để các mục tử chăn nuôi chúng, chúng sẽ không còn phải sợ hãi và hoảng loạn” (Gr 23,4).

Là Dân Thiên Chúa, Giáo Hội luôn chứng nghiệm cho sự thực hiện lời tuyên sấm ấy và, trong niềm vui, Giáo Hội tiếp tục tạ ơn Chúa. Giáo Hội biết rằng Đức Giêsu Kitô chính là lời hứa của Thiên Chúa được ứng nghiệm, một cách sống động, tuyệt hào và vĩnh viễn : “Ta là Mục Tử Nhân Lành” (Ga 10,11). Là “Mục Tử tối cao của đoàn chiên” (Dt 13,20), Đức Giêsu đã giao phó cho các Tông Đồ và những người kế vị các ngài sứ mệnh chăn dắt đoàn chiên của Thiên Chúa (x. Ga 21, 15-17; 1 Pr 5,2).

Một cách đặc biệt, nếu không có linh mục, Giáo Hội sẽ không thể nào thực thi được sự vâng phục cơ bản vốn nằm ngay giữa lòng cuộc sống và sứ mệnh của Giáo Hội trong lịch sử, sự vâng phục đối với lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Các con hãy ra đi,. Hãy chiêu tập môn đệ từ khắp muôn dân” (Mt 28,19) và “hãy làm việc này mà nhớ đến Ta” (Lc 22,19; x. 1Gr 11,24). Lệnh truyền ấy có nghĩa là lệnh truyền loan báo Tin Mừng và hàng ngày cử hành hy lễ Mình và Máu Người đã trao hiến và đổ ra cho nhân loại được sống.

Đức tin dạy cho chúng ta rằng Chúa không bao giờ bội ước quên thề. Lời Chúa đã hứa chính là động lực làm cho Giáo Hội vui mừng và vững mạnh, trước sự nở rộ và tình trạng gia tăng con số những ơn gọi linh mục được ghi nhận ở một số miền trên thế giới. Lời hứa ấy còn là nền tảng và là yếu tố kích thích cho một hành vi đức tin cao cả hơn, cho một niềm hy vọng mãnh liệt hơn trước sự thiếu hụt linh mục trầm trọng nơi những miền khác trên thế giới.

Tất cả chúng ta đều được mời gọi chia sẻ niềm tin cậy hoàn toàn vào sự ứng nghiệm liên lỉ của lời Thiên Chúa hứa, như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục đã làm chứng một cách rõ ràng và mạnh mẽ: “Với niềm tin cậy hoàn toàn vào lời hứa của Chúa Kitô: ‘Và Ta, Ta sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế’, Thượng Hội Đồng Giám mục ý thức rằng Chúa Thánh Thần không ngừng hoạt động trong Giáo Hôi; Thượng Hội Đồng tin tưởng một cách sâu xa rằng Giáo Hội sẽ không bao giờ hoàn toàn khuyết vị những thừa tác viên được thánh hiến… Mặc dầu người ta ghi nhận sự thiếu vắng linh mục ở một số miền trên thế giới, Chúa Cha, Đấng khơi dậy các ơn gọi, sẽ không bao giờ ngưng hoạt động trong Giáo Hội” (1).

Đứng trước cuộc khủng hoảng về ơn gọi linh mục, như Tôi đã tỏ bày khi kết thúc Thượng Hội Đồng Giám mục, “giải pháp đầu tiên của Giáo Hội phải là hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Thánh Thần. Chúng ta thâm tín rằng sự phó thác với lòng tin cậy ấy sẽ không làm chúng ta thất vọng nếu chúng ta luôn trung thành với ơn đã lãnh nhận” (2).

2. Trung thành với ơn đã lãnh nhận ! Quả thực, ơn huệ của Thiên Chúa không hủy diệt tự do của con người nhưng lại cổ võ, phát huy và đòi hỏi tự do ấy.

Bởi thế, trong Giáo Hội, lòng tin cậy hoàn toàn vào sự trung thành vô điều kiện của Thiên Chúa đối với lời hứa của Ngài phải kèm theo trọng trách hợp tác với hoạt động của Thiên Chúa là Đấng mời gọi, trọng trách đóng góp vào việc tạo những điều kiện thuận lợi và bảo tồn những điều kiện ấy để cho hạt giống tốt được Thiên Chúa vãi gieo có thể bén rễ và trổ sinh dồi dào hoa trái. Giáo Hội sẽ không bao giờ ngưng cầu xin Đấng làm chủ mùa gặt để Ngài sai thợ gặt đến (x. Mt 9,38); Giáo Hội sẽ đề nghị với các thế hệ trẻ một phương án ơn gọi sáng tỏ và can trường. Giáo Hội sẽ giúp các thế hệ trẻ phân định tính chính hiệu của lời mời gọi từ Thiên Chúa và đáp lại lời mời gọi ấy với lòng quảng đại; Giáo Hội sẽ chú tâm đặc biệt đến việc đào tạo các ứng sinh cho hàng linh mục.

Thật vậy, vì tương lai của công cuộc phúc âm hoá nhân loại, việc chuyên chăm đào tạo các linh mục tương lai triều và dòng, việc nối dài nền đào tạo ấy trong suốt đời sống các linh mục, nhằm giúp họ biết thánh hoá bản thân khi thi hành chức vụ bà biết thường xuyên cập nhật hoá đường hướng dấn thân mục vụ của mình, được Giáo Hội nhìn nhận như là một trách vụ có tầm quan trọng đặc biệt và là một trách vụ hết sức tế nhị.

Nhờ công trình đào tạo ấy, Giáo Hội nối tiếp trong thời gian công trình của Đức Kitô mà tác giả tin mừng Máccô trình bày như sau: “Chúa Giêsu leo lên núi, Ngài gọi những kẻ Ngài muốn đến với Ngài. Họ đã đến với Ngài. Và Ngài đã thiếp lập Nhóm Mười Hai để họ ở với Ngài và để sai họ đi rao giảng, kèm theo quyền xua trừ ma quỉ” (Mc 3,13-15).

Có thể quả quyết rằng trong suốt dòng lịch sử của mình, khi nhặt khi khoan, cách này hoặc cách khác, Giáo Hội đã áp dụng trang Tin Mừng này vào cuộc sống bằng công trình đào tạo các ứng sinh cho hàng linh mục và ngay cả đào tạo chính các linh mục. Dầu vậy, ngày nay Giáo Hội cảm thấy mình được mời gọi đi vào một phương thức dấn thân mới để ứng dụng vào cuộc sống điều mà Đấng là Thầy đã làm với các Tông Đồ của Ngài, trong lãnh vực này, Giáo Hội bị thúc bách bởi những biến đổi xã hội sâu rộng và nhanh chóng, bởi sự đa tạp và dị biệt của những bối cảnh trong đó Giáo Hội loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng. Giáo Hội cũng được khích lệ bởi sự tiến triển thuận lợi về con số ơn gọi linh mục trong nhiều giáo phận trên thế giới, bởi sự khẩn cấp phải duyệt xét lại nội dung và phương pháp đào tạo linh mục, nởi nỗi băn khoăn của các Giám Mục và các cộng đoàn trước sự thiếu vắng linh mục ngày càng tăng, bởi sự cần thiết tuỵệt đối phải làm cho công cuộc “phúc âm hoá mới” có được những “nhà phúc âm hoá mới”, đầu tiên là các linh mục.

Chính trong bối cảnh lịch sử và văn hoá này mà và qua Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới năm 1990, đã tiến hành Đại Hội chung thương kỳ, dành trọn đại hội cho “việc đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay”, hai mươi lăm năm sau Cộng Đồng, với ý hướng bổ túc giáo thuyết cộng đồng về điểm này và thích nghi giáo thuyết ấy một cách thỏa đáng hơn vào hoàn cảnh hiện nay. (3).

3. Nối tiếp các văn kiện Công Đồng Vaticanô II về vấn đề chức linh mục và đào tạo linh mục (4), nhằm mục đích đem giáo thuyết phong phú được ban hành trong các văn kiện ấy áp dụng một cách cụ thể vào trong những hoàn cảnh khác nhau. Giáo Hội đã nhiều lần bàn luận về các vấn đề đời sống, chức vụ và đào tạo linh mục.

Những cơ hội long trọng hơn cả là các Thượng Hội Đồng Giám mục. Ngay từ Đại Hội chung đầu tiên tháng 10 năm1967, Thượng Hội Đồng đã dành năm ủy ban cho đề tài canh tân các chủng viện. Công việc này đã mang lại một đóng góp dứt khoát cho việc soạn thảo tài liệu của Thánh Bộ Giáo dục Công giáo: “Những tiêu chuẩn cơ bản dành cho việc đào tạo linh mục” (5).

Nhất là Đại Hội chung Thường kỳ, lần thứ hai, vào năm 1971, đã dành phân nửa đại hội cho chức linh mục thừa tác. Được lấy lại và cô đọng trong một vài “lời nhắn nhủ” do vị Tiền Nhiệm của Tôi là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, được đọc lên vào lúc khai mạc Thượng Hội Đồng Giám mục năm 1974, các thành quả của công cuộc tư duy lâu dài ấy chủ yếu liên quan đến giáo thuyết về chức linh mục thừa tác và về một vài khía cạnh tu đức cũng như thừa tác vụ của hàng linh mục.

Trong nhiều cơ hội khác, Huấn Quyền của Giáo Hội đã tiếp tục bày tỏ mối quan tân của mình đối với đời sống và chức vụ linh mục. Trong những năm hậu công đồng, có thể nói không có một bài tham luận nào của Huấn Quyền mà, dưới hình thức này hay hình thức khác, lại không minh nhiên hoặc mặc nhiên lưu ý tới ý nghĩa sự hiện diện của các linh mục trong cộng đoàn, vai trò và sự cần thiết của các linh mục đối với Giáo Hội và đối với đời sống nhân loại.

Những năm gần đây, ở nhiều nơi, người ta đã cảm thấy cần phải quay về với đề tài chức linh mục và đề cập vấn đề dưới một quan điểm tương đối mới hơn và thích nghi hơn cho hoàn cảnh Giáo Hội và văn hoá hiện nay. Tư vấn đề căn tính của linh mục, sự chú trọng được hướng đến các vấn đề liên quan tới tiến trình đào tạo linh mục và tới phẩm chất đời sống linh mục. Thực ra, các thế hệ trẻ được ơn gọi làm linh mục thừa tác biểu lộ rõ rệt những đặc tính khác với những đựac tính của các thế hệ kế cận trước đây, họ sống trong một thế giới mới, một thế giới dưới nhiều phương diện không ngừng biến đổi một cách nhanh chóng. Cần phải chú trọng đến tất cả những điều ấy khi soạn thảo chương trình và khi thực hiện những đường hướng đào tạo linh mục thừa tác.

Về phần những linh mục ít lâu nay đang thi hành chức vụ của mình, họ dường như rơi vào một sự phân tán thái quá trong những hoạt động mục vụ ngày càng tăng. Đứng trước những khó khăn của xã hội và nền văn hoá hiện đại, họ cảm thấy bó buộc phải xét lại lối sống của mình, xét lại những chọn lựa ưu tiên của mình trong việc dấn thân mục vụ và đồng thời cảm nghiệm mỗi lúc một sâu sắc sự cần thiết phải có một nền đào tạo trường kỳ.

Thượng Hội Đồng Giám mục năm 1990 đã hướng những mối ưu tư và những suy nghĩ của mình vào vấn đề gia tăng ơn gọi linh mục, vào việc đào tạo – sao cho các ứng sinh hiểu biết và nối gót theo Chúa Giêsu đồng thời học tập cử hành và sống bí tích Truyền Chức Thánh là bí tích làm cho họ nên đồng hình dạng với Chúa Kitô là Đầu và Mục Tử, là Tôi Tớ và Phu Quân của Giáo Hội – và váo việc xác định những đường hướng đào tạo trường kỳ thích hợp để nâng đỡ cách thiết thực và hữu hiệu chức vụ và đời sống thiêng liêng của các linh mục.

Thượng Hội Đồng Giám mục này cũng có ý giải quyết một yêu cầu của Thượng Hội Đồng trước về vấn đề ơn gọi và sứ mệnh của người giáo dân trong Giáo Hội và trên thế giới. Chính người giáo dân mong ước được các linh mục dấn thân đào tạo họ để giúp họ một cách thỏa đáng trong việc thực thi sứ vụ chung của Giáo Hội. Thực ra, “hoạt động tông đồ giáo dân càng phát triển, người ta càng cảm nhận một cách mãnh liệt nhu cầu phải có những linh mục được đào tạo hẳn hoi, những linh mục thánh thiện. Bởi đó, chính đời sống của Dân Thiên Chúa trở thành lời diễn giải cho giáo huấn của Công đồng Vaticanô II về tương quan giữa chức tư tế công đồng với chức tư tế thừa tác và phẩm trật. Thực vậy, trong mầu nhiệm Giáo Hội, phẩm trật mang tính chất thừa tác (x. Lumen gentium, GH, số 10). Ơn gọi đặc thù của giáo dân càng được đào sâu ý nghĩa thì những gì là đặc thù của linh mục càng hiển thiện hơn” (6).

4. Trong kinh nghiệm tiêu biểu về Giáo Hội của Thượng Hội Đồng, nghĩa là “kinh nghiệm riêng biệt về sự hiệp thông giám mục trong tinh thần phổ quát nhờ đó mà cảm thức về Giáo Hội phổ quát cũng như trách nhiệm của các Giám mục đối với Giáo Hội phổ quát và đối với sứ vụ của Giáo Hội được củng cố, trong mối hiệp thông thân ái và thiết thực chung quanh Thánh Phêrô” (7), người ta đã nghe được tiếng nói minh bạch và thống thiết của nhiwuf Giáo Hội địa phương và lần đầu tiên, trong Thượng Hội Đồng vừa qua, của một số Giáo Hội Đông phương, các Giáo Hội ấy đã công bố niềm tin vào sự ứng nghiệm của lời Thiên Chúa hứa: “Ta sẽ ban cho các ngươi những mục tử như lòng Ta mong ước” (Gr 3.15). Các Giáo Hội đã canh tân công cuộc dấn thân mục vụ nhằm quan tâm đặc biệt đến ơn gọi và nhằm đào tạo linh mục, với ý thức rằng tương lai của Giáo Hội, sự phát triển và sứ mệnh cứu độ phổ quát của Giáo Hội tuỳ thuộc vào những công việc này.

Giờ đây, với tư cách là Giám mục Tôma và là Đấng kế vị thánh Phêrô, trong Tông Huấn sau Thượng Hội Đồng Giám mục này, Tôi xin đóng góp thêm tiếng nói của Tôi vào trong nền móng rất phong phú gồm những suy tư, những phương hướng và những chỉ dẫn đã dọn đường cũng như đã hình thành các công trình của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng. Tôi muốn ngỏ lời tâm huyết với mọi tín hữu và từng tín hữu, cách riêng với các linh mục và với tất cả những ai đã dấn thân vào trách nhiệm tế nhị trong lãnh vực đào tạo linh mục. Qua Tông Huấn này, Tôi mong mỏi được tiếp cận tất cả các linh mục và mỗi một linh mục, triều hoặc dòng.

Tôi muốn vay mượn tâm tình và lời lẽ của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng trong “Sứ điệp chung kết của Thượng Hội Đồng gởi Dân Thiên Chúa : “Với đầy lòng tri ân và cảm phục, chúng tôi hướng về các linh mục là những cộng tác viên đầu tiên của chúng tôi trong sứ vụ tông đồ. Vai trò của anh em trong Giáo Hội thật là cần thiết và bất khả thay thế. Chính anh em là những người đảm nhận gánh nặng của chức vụ và trực tiếp gần gũi với giáo dân. Anh em là những thừa tác viên của bí tích Thánh Thể, những người phân phát lượng từ bi của Thiên Chúa qua bí tích Thống Hối, những người an ủi các tâm hồn và những hướng dẫn viên cho mọi tín hữu trong cơn lốc của cuộc sống dẫy đầy khó khăn ngày hôm nay”.

“Chúng tôi hết lòng chào đón anh em, chúng tôi bày tỏ với anh em tâm tình biết ơn của chúng tôi, và chúng tôi khuyến khích anh em kiên tâm tiến bước trong niềm vui và lòng hăng say. Đừng lùi bước trước sự chán nản. Công việc của chúng ta không phải là của chúng ta nhưng là của Thiên Chúa”.

“Đấng đã kêu gọi chúng ta và sai phái chúng ta vẫn luôn ở với chúng ta, hết mọi ngày trong đời chúng ta. Quả vậy, chúng ta hoạt động là do được Chúa Kitô ủy thác” (8).

***

CHƯƠNG I

ĐƯỢC CẤT NHẮC TỪ GIỮA LOÀI NGƯỜI

 

Linh mục và thời đại

5. “Mọi thương tế được cất nhắc từ giữa loài người đều được đặt lên để can thiệp cho loài người trong những mối tương quan giữa lời người với Thiên Chúa” (Dt 5,1).

Thư gửi tín hữu Do Thái khẳng định rõ ràng “bản tính con người” nơi thừa tác viên của Thiên Chúa : từ loài người mà đến và phục vụ loài người, noi gương Chúa Giêsu Kitô, “Đấng đã phải chịu thử thách về mọi mặt, hoàn toàn giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi” (Dt 4,15).

Thiên Chúa lúc nào cũng kêu gọi các linh mục của Ngài giữa những môi trường nhân sinh và môi trường Giáo Hội nhất định, các linh mục không thể không mang dấu vết của những môi trường ấy và chính trong những môi trường ấy mà họ được sai đến để phục vụ Tin Mừng Chúa Kitô.

Chính vì vậy, Thượng Hội Đồng đã đem đặt lại vấn đề linh mục trong bối cảnh hiện đại của xã hội và của Giáo Hội. Thượng Hội Đồng cũng đã mở ngỏ vấn đề cho những viễn tượng của thiên niên kỷ thứ ba, như cách phát biểu vấn đề cho thấy : “Việc đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay”.

Chắc hẳn luôn luôn có “một diện mạo cốt yếu, không thay đổi, của người linh mục : thực vậy, không kém gì linh mục hôm nay, linh mục ngày mai sẽ phải nên giống Chúa Kitô. Trong cuộc sống trần thế. Đức Giêsu đã tỏ bày nơi chính Ngài khuôn mặt xác định của linh mục, đã thể hiện chức linh mục thừa tác mà các Tông Đồ là những người đầu tiên được nhận lãnh; chức linh mục ấy tự yếu tính phải nối tiếp, phải trải dài không ngừng trong mọi giai đoạn lịch sử. Trong chiều hướng ấy, người linh mục thiên niên kỷ thứ ba sẽ là người nối tiếp các linh mục trong những thiên niên kỷ trước đã đóng góp vào sức sống của Giáo Hội. Ngay cả vào năm 2000, ơn gọi linh mục sẽ tiếp tục là lời mời gọi sống chức linh mục độc nhất và trường tồn của Chúa Kitô” (9). Cũng vậy, đời sống và chức vụ linh mục phải “thích nghi với mọi thời đại và với mọi môi trường sống… Chính vì thế, trong mức độ có thể, chúng ta phải nổ lực tiếp nhận ánh sáng tối thượng của Chúa Thánh Thần, hầu khám phá ra những phương hướng của xã hội đương thời, nhận ra những nhu cầu sâu xa nhất, xác định những bổn phận cụ thể quan trọng nhất, những phương pháp mục vụ phải chấp nhận, để có thể đáp lại cách xứng hợp nhất những mong chờ của nhân loại” (10).

Vì phải thích ứng ý nghĩa đích thực trường tồn của chức linh mục với những đòi hỏi và những đặc điểm của thời buổi hiện tại, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã tìm cách giải đáp một số vấn nạn trước mắt : đâu là những vấn đề và đồng thời đâu là những động cơ tích cực mà bối cảnh văn hoá xã hội và Giáo Hội hiện nay khơi dậy nơi những trẻ nhỏ, thiếu niên và thanh niên đang cần phải làm cho dự phóng sống đời linh mục được chính nuồi trong toàn bộ cuộc sống của mình ? Thời đại chúng ta gây những khó khăn nào và cung cấp những khả năng mới mẻ nào cho việc thi hành một thừa tác vụ linh mục phù hợp với ơn bí tích đã lãnh nhận và với đòi buộc phải có một đời sống thiêng liêng thích đáng?

Giờ đây, Tôi lặp lại một số yếu tố do việc phân tích tình huống mà các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã khai triển. Vì có quá nhiều bối cảnh văn hoá xã hội và Giáo Hội hiện đại trong những quốc gia khác nhau, Tôi chỉ nêu dẫn những hiện tượng sâu xa nhất và phổ cập nhất, đặc biệt những hiện tượng liên quan tới các vấn đề giáo dục và tới việc đào tạo linh mục.

Tin Mừng hôm nay: những triển vọng và những trở ngại

6. Nhiều yếu tố dường như cổ võ nơi con người hôm nay một ý thức sắc bén hơn về phẩm giá nhân vị và về một sự mở ngỏ mới đối với những giá trị tôn giáo, đối với Tin Mừng và đối với thừa tác vụ linh mục.

Mặc dầu những mâu thuẫn chồng chất, chúng ta gặp thấy trong xã hội một niềm khao khát công bằng và hòa bình lan rộng hơn và mãnh liệt hơn, một cảm thức sắc bén hơn về việc quản trị lành mạnh công trình tạo dựng và về sự tôn trọng thiên nhiên, một sự nghiên cứu rộng mở hơn về chân lý và về sự bảo vệ nhân phẩm; nơi nhiều tập thể dâ n cứ thế giới, người ta ghi nhận một sự dấn thân ngày càng tăng nhằm xây dựng tình liên đới giữa các quốc gia sao cho cụ thể hơn và nhằm tạo một trật tự mới cho hành tinh chúng ta trong sự tôn trọng tự do và công bằng.

Trong khi tiềm lực năng lượng mà khoa học và kỹ thuật cung cấp đang trên đà phát triển, trong khi thông tin và văn hoá ngày càng lan rộng, người ta cũng nhận thấy trổi hiện lên một yêu cầu mới về luân lý, nghĩa là một sự truy tầm ý nghĩa và bởi đó truy tầm nấc thang khách quan cho các giá trị để nhờ đó điều hoà những triển vọng và những giới hạn của tiến bộ.

Trong lãnh vực thuần túy tôn giáo và thuần túy Kitô giáo, không còn phải đương đầu với những thành kiến ý thức hệ và những từ khước có tính bạo động trước đề nghị về những giá trị tinh thần và tôn giáo nữa, và nơi nhiều miền trên thế giới xuất hiện những triển vọng phúc âm hoá và những triển vọng tái lập đời sống Giáo Hội thật mới mẻ và thật bất ngờ. Người ta ghi nhận một sự phổ cập ngày càng tăng trong việc hiểu biết Kinh Thánh, một sức sống và một mãnh lực lan rộng nơi nhiều Giáo Hội trẻ với sự dấn thân càng lúc càng hệ trọng vào việc bảo vệ và nâng cao các giá trị con người và sự sống con người, người ta còn nêu dẫn một chứng từ đạo tuyệt vời từ phía các Giáo Hội Trung và Đông Âu cũng như chứng từ trung tín và dũng cảm của nhiều Giáo Hội khác hiện đang phải gánh chịu những bách hại và những thử luyện nhân danh đức tin (11).

Niềm khát vọng hướng về Thiên Chúa, niềm khát vọng về một mối quan hệ sống động và có ý nghĩa với Thiên Chúa ngày nay biểu hiện rõ rệt đến mức tạo điều kiện thuận lợi cho sự quảng bá những hình thái tôn giáo phi Thiên Chúa và nhiều giáo phái khác nữa ở những nơi mà không có được sự loan báo Tin Mừng Đức Giêsu một cách chính hiệu và toàn vẹn. Đối với mọi con cái Giáo Hội, đặc biệt đối với các linh mục, sự quảng bá ấy, thậm chí nơi một số môi trường có truyền thống Kitô giáo, là nguyên do thường hằng buộc phải kiểm điểm lương tâm, phải xét lại tính khả tín nơi chứng từ Tin Mừng của mình; thế nhưng sự quảng bá ấy cũng là một dấu hiệu cho thấy sự truy tầm Thiên Chúa vẫn còn sâu xa và rất phổ biến.

7. Người ta nhận thấy nhiều yếu tố khác có tính chất vấn nạn hoặc tiêu cực pha trộn vào các yếu tố nói trên và vào những yếu tố tích cực khác.

Chủ nghĩa duy lý vẫn còn rất phổ biến, nhân danh một quan niệm giản lược hoá của “khoa học”, chủ nghĩa này khép chặt lý trí con người lại, không nhường chỗ cho sự gặp gỡ Mặc khải và không công nhận tính siêu việt của Thiên Chúa.

Người ta cũng ghi nhận rằng chủ nghĩa chủ thể của ngôi vị vẫn được bảo vệ một cách khốc liệt, chủ nghĩa này có khuynh hướng vây kín ngôi vị trong cá nhân chủ nghĩa, để rồi không thể có được những tương quan đích thực giữa người với người. Vì thế nhiều người, nhất là các thiếu niên và thanh niên, tìm cách bù trừ tình trạng cô đơn ấy bằng những phương tiện khỏa lấp thuộc nhiều bản chất khác nhau, với những hình thức tìm hướng lạc hoặc tìm trốn tránh trách nhiệm trong mức độ cường điệu khác nhau; bị giam hãm trong cái chóng qua, những người ấy tìm cách sống những kinh nghiệm cá nhân nào mạnh nhất và có lợi nhất trong mức độ có thể, những kinh nghiệm trên bình diện giác quan và cảm xúc nhất thời, bởi đó họ đương nhiên trở thành vô tâm và như thể bại liệt trước lời mời gọi bước vào một kế hoạch sống đòi phải có chiều kích thiêng liêng và tôn giáo hoặc phải có sự dấn thân trong tình liên đới.

Ngoài ra, khắp nơi trên thế giới, ngay cả khi mà những ý thức hệ lấy chủ nghĩa duy vật làm giáo điều và sự bài trừ tôn giáo làm chương trình hành động đã cáo chung, có một thứ chủ nghĩa vô thần thực hành và hiện sinh vẫn được truyền lan, chủ nghĩa này ăn khớp với một nhãn giới trần tục hoá về đời sống và về vận mệnh con người. Một con người “chỉ còn biết quan tâm đến chính mình, một con người chẳng những biến mình thành tiêu điểm hâm mộ mà còn dám tự xưng mình là nguyên lý và là căn cơ của mọi thực tại” (12), con người ấy càng ngày càng bị tước đoạt mất phần “bổ khuyết của tâm hồn”, phần này lại càng rất cần thiết khi mà khối lượng dự trữ lớn lao gồm những của cải vật chất và những tài nguyên càng tạo cho người ấy ảo tưởng để tự thoả mãn với chính mình. Họ không còn cần phải đấu tranh với Thiên Chúa, họ chỉ đơn giản coi Ngài như không có.

Trong bối cảnh này, một cách đặc biệt, cần phải ghi nhận tình trạng thực tại gia đình đang bị thoái hoá, ý nghĩa đích thực của tính dục con người bị lu mờ hoặc bóp méo: đây là những hiện tượng có tầm ảnh hưởng rất tiêu cực trên việc giáo dục những người trẻ và trên việc giúp họ mở lòng đón nhận các thứ ơn gọi tu trì. Người ta còn ghi nhận tình trạng trầm trọng do những bất công xã hội và do sự tập trung của cải trong tay một thiểu số, là hoa quả của một chủ nghĩa tư bản phi nhân bản (13), càng ngày càng khơi thêm hố ngăn cách giữa những dân tộc giàu và những dân tộc nghèo: bởi đó có sự phát sinh trong xã hội con người những căng thẳng và những băn khoăn làm cho đời sống cá nhân và cộng đoàn bị xáo trộn cách sâu đậm.

Trong môi trường Giáo Hội, người ta cũng ghi nhận những hiện tượng tiêu cực đáng lo ngại ảnh hưởng đến đời sống và thừa tác vụ của các linh mục: chẳng hạn sự ngu dốt, sự thiếu hiểu biết về tôn giáo vẫn đang dai dẳng nơi nhiều tín hữu, ảnh hưởng thấp kém của huấn giáo bị lấn át bởi những sứ điệp phổ biến sâu rộng và có sức mạnh hơn về phía những cơ quan truyền thông xã hội; sự đa nguyên trong lãnh vực thần học, văn hoá và mục vụ, mặc dầu đôi khi được khởi xướng với ý ngay lành đã bị hiểu lệch lạc và rốt cuộc làm cho đối thoại đại kết trở nên khó khăn và tạo nguy cơ cho sự hiệp nhất đức tin cần có; sự tồn tại lâu dài của một thái độ nghi kỵ và hầu như bất khoan nhượng đối với Huấn Quyền của phẩm trật; sự đẩy mạnh nguồn phong phú của sứ điệp Tin Mừng theo kiểu một chiều và giản lược để rồi biến việc loan báo đức tin và làm chứng cho đức tin thành một đóng góp đơn thuần cho sự giải phóng con người và xã hội hoặc thành một nơi ẩn trú làm cho con người tha hoá trong sự mê tín hoặc trong một trạng thái tôn giáo phi Thiên Chúa (14).

Sự hiện diện trên cùng một một lãnh thổ những tập thể bền bỉ gồm những người thuộc sắc tộc và tôn giáo khác nhau là một hiện tượng rất ư quan trọng ngay cả khi đó là một hiện tượng đổi mới mẻ nơi nhiều quốc gia có thuyền thống Kitô Giáo từ lâu đời. Cứ như thế mà ngày càng phát triển một xã hội da sắc tộc và đa tôn giáo. Nếu một đàng hiện tượng này có thể trở nên cơ hội cho một nỗ lực đối thoại thường xuyên hơn và hiệu nghiệm hơn, cho một sự mờ ngỏ hướng đến những tinh thần cũng như những kinh nghiệm tiếp đón và khoan dung đúng mức, thì đàng khác nó lại có thể trở nên nguồn phát sinh sự xáo trộn và chủ nghĩa tương đối, nhất là nơi những cá nhân và tập thể không mấy vững chắc về đức tin.

Ngoài những yếu tố trên, trong sự liên kết chặt chẽ với đà đi lên của chủ nghĩa cá nhân, còn có thể kể thêm chủ nghĩa duy chủ thể về đức tin. Nơi một con số Kitô hữu ngày càng gia tăng, người ta ghi nhận có sự sút kém, trong việc gắn bó với nội dung khách quan của giáo thuyết đức tin : người ta gắn bó một cách chủ quan vào những gì để ưa, vào những gì tương hợp với kinh nghiệm riêng rẽ của mình, vào những gì không gây xáo trộn cho những thói quen riêng tư của mình. Cuối cùng việc nại tới tính bất khả xâm phạm của lương tâm cá nhân, tự nó là chính đáng, trong một bối cảnh như thế, không khỏi mặc lấy những tính chất nguy hiểm và hàm hồ.

Từ đó dẫn đến sự kiện này là càng ngày người ta càng thuộc về Giáo Hội một cách không trọn vẹn và có điều kiện, gây ảnh hưởng tiêu cực cho sự nở rộ các ơn gọi hướng đến chức linh mục, cho ý thức mà linh mục có về căn tính và về thừa tác vụ của mình trong cộng đoàn.

Sau hết, cho đến ngày hôm nay, nơi nhiều vùng. Giáo Hội vẫn còn phải gánh chịu những vấn đề nghiêm trọng do sự kiện các lực lượng linh mục không có mặt đầy đủ và bởi đó ít đáp ứng hơn cho những nhu cầu. Các tín hữu thường bị bỏ rơi trong những giai đoạn lâu dài, thiếu sự trợ giúp mục vụ thích đáng. Sự tăng triển đời sống Kitô hữu của họ nói chung phải thiệt thòi và hơn nữa, khả năng trở thành tác nhân rao giảng Tin Mừng của chính họ bị giảm sút.

Những người trẻ trước ơn gọi và việc đào tạo linh mục

8. Những mâu thuẫn và triển vọng đa tạp đánh dấu các xã hội, các nền văn hoá và đồng thời các cộng đoàn Giáo Hội chúng ta được thế giới người trẻ cảm nhận và sống với một cường độ rất đặc biệt, với những âm vang trực tiếp và rất mãnh liệt trên bước đường giáo dục của họ. Trong chiều hướng ấy, sự khởi động và sự phát triển các ơn gọi linh mục nơi trẻ nhỏ, thiếu niên và thanh niên không ngừng phải đương đầu với những cản trở và những khích lệ.

Cái mà người ta gọi là “xã hội tiêu dùng” mê hoặc những người trẻ một cách dữ dội, làm cho họ trở thành nạn nhân và tù nhân của một lối giải thích cuộc hiện hữu con người mang tính chất duy cá nhân, duy vật và duy khoái lạc ! Quan niệm “sống thoải mái” hiểu theo nghĩa vật chất có khuynh hướng trở thành lý tưởng độc nhất của cuộc đời, một lối “sống thoải mái” phải đạt được với bất cứ điều kiện nào và với bất cứ giá nào. Hiệu quả là từ chối mọi hy sinh, vứt bỏ mọi nỗ lực tìm kiếm và sống những giá trị tinh thần và tôn giáo. Mối “quan tâm” độc chiếm về cái sở hữu dành chỗ cái ưu việt là hiện hữu ; và, từ đó, các giá trị nhân vị và liên vị không được cắt nghĩa và sống theo luân lý của ơn huệ, của tính nhưng không, nhưng theo luân lý của sự chiếm hữu ích kỷ và sự bóc lột kẻ khác.

Tình trạng này được nhận ra một cách đặc biệt trong quan niệm về tính dục con người, sa đoạ và mất phẩm giá, từ chỗ nằm phục vụ cho hiệp thông và trao hiến liên vị đến chỗ giàn lược thành đơn thuần một mặt hàng tiêu dùng. Bởi đó, kinh nghiệm cảm tính của số đông những người trẻ thay vì dẫn đến sự tăng trưởng hoà điệu và tươi đẹp về nhân cách, thay vì mở ngỏ cho họ hướng đến tha nhân trong sự trao hiến chính mình lại dẫn đến một sự thoái nhượng nghiêm trọng về mặt tâm lý và đạo đức, mang theo những hậu quả nặng nề cho tương lai họ.

Đối với nhiều người trẻ, cội rễ của các khuynh hướng nói trên chính là kinh nghiệm lệch lạc về tự do: tự do thay vì được đảm nhận để tuân theo chân lý khách quan và phổ quát thì lại được cảm mến như là sự đồng tình mù quáng với những mãnh lực của bản năng và với ý muốn thống trị của mỗi người. Do vậy, một cách nào đó, xét theo phương diện não trạng và cách xử sự, thật là tự nhiên khi có sự tiêu tan về thái độ gắn bó nội tâm đối với những nguyên tắc luân lý; thật là tự nhiên, xét theo phương diện tôn giáo, nếu không phải trong mọi trường hợp, khi có sự từ chối Thiên Chúa một cách minh nhiên, hay ít ra có thái độ bất cần hoặc một cuộc sống mà ngay cả trong những giây phút có ý nghĩa nhất và trong những lựa chọn dứt khoát nhất chỉ được sống như thể không hề có Thiên Chúa. Trong một bối cảnh như thế, thật là khó khăn cho ý nghĩa của một ơn gọi linh mục có thể thực hiện, thậm chí có thể hiểu; bởi vì ơn gọi là một chứng từ loại biệt về tính ưu việt của cái hiện hữu trên cái chiếm hữu; ơn gọi còn là nhìn nhận ý nghĩa của đời sống như là một sự trao hiến chính mình tự do và có trách nhiệm cho người khác và như là một tư thế sẵn sàng để hoàn toàn phục vụ Tin Mừng và Nước Chúa trong chức linh mục.

Ngay cả trong cộng đoàn Giáo Hội, thế giới người trẻ vẫn đang thường là một “vấn nạn”. Thực vậy, nếu còn hơn cả nơi người trưởng thành, nơi người trẻ, có một xu hướng khá mạnh tiến tới thái độ duy chủ thể trong lãnh vực đức tin và tiến tới tình trạng thuộc về đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội chỉ phiếm diện và có điều kiện, thì trong cộng đoàn Giáo Hội người ta phải vất vả, vì một loạt nguyên cớ, để tổ chức một nền mục vụ cho giới trẻ sao cho thích nghi và kiến hiệu : người trẻ có nguy cơ bị bỏ rơi, làm mồi cho sự mong manh về tâm lý, bất mãn và chỉ trích khi nhìn thấy những người lớn không sống đức tin cho hợp lẽ và chín muồi và do đó không nêu được những mẫu gương đáng tin cậy.

Bởi vậy, khó có thể đề nghị cho những người trẻ và đào tạo cho họ một kinh nghiệm sống trọn vẹn và năng động đời sống Kitô hữu trong Giáo Hội. Do sự kiện ấy, viễn tượng ơn gọi linh mục vẫn xa cách với những tiêu điểm hâm mộ cụ thể của người trẻ.

9. Dầu vậy, không thiếu những tình huống đầy khích lệ và tích cực có khả năng khơi dậy và cổ xuý trong tâm hồn các thiếu niên và thanh niên một thái độ sẵn sàng đáp ứng mới cũng như một sự truy tầm đích thực và chính hiệu đối với các giá trị đạo đức và tinh thần, vốn tự bản chất cống hiến một mảnh đất thuận lợi cho sự nở rộ ơn gọi nhằm trao hiến trọn vẹn chính mình cho Chúa Kitô và cho Giáo Hội trong chức linh mục.

Trước hết, một số hiện tượng mới đây đã gây khá nhiều vấn đề nay được ghi nhận là có phần giảm thiểu, chẳng hạn sự phản kháng có tính triệt để, những làn sóng phóng túng, những yêu sách nặng tính không tưởng, những hình thức xã hội hoá bất chấp phân biệt, sự bạo động.

Đàng khác, phải công nhận rằng những người trẻ ngày nay, với sức mạnh và sự tươi mát của lứa tuổi mình, cưu mang nơi họ những lý tưởng đang dần dà hội nhập vào lịch sử : niềm khao khát tự do, sự nhận thức giá trị vô song của nhân vị, nhu cầu phải chân chính và trong suốt, một quan niệm mới và một thể loại mới về tính hỗ tương trong những quan hệ giữa nam và nữ, sự truy tầm xác tín và say mê nhằm tiến tới một thế giới công bằng hơn, liên đới hơn và hiệp nhất hơn, sự mở ngỏ hướng đến đối thoại với mọi người, sự dấn thân cho hoà bình.

Nơi nhiều người trẻ thời đại, người ta ghi nhận một sự phát triển thật phong phú và thật sống động về nhiều hình thức tự nguyện đáp ứng nhu cầu của những người phải sống trong cảnh bị bỏ rơi và vất vưởng giữa lòng xã hội, thái độ sẵn sàng đáp ứng này được coi là một yếu tố tác động rất quan trọng cho việc giáo dục, bởi vì khuyến khích và nâng đỡ những người trẻ trong một lối sống vô vị lợi hơn, cởi mở hơn và liên đới hơn với người nghèo. Nếp sống ấy có thể giúp khai thông sự hiểu biết, niềm khát vọng và sự đón nhận một ơn gọi hướng đến việc phục vụ tha nhân lâu bền và hoàn toàn, nhất là bằng đường lối dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa trong đời sống linh mục.

Sự sụp đổ gần đây của các ý thức hệ, thái độ nặng tính chất phê phán khi đứng trước thế giới những người lớn vốn không luôn luôn nêu dẫn một chứng từ sống được hun đúc bằng các giá trị luân lý và siêu việt, cả đến kinh nghiệm của những người đồng trang lứa đi tìm đào thoát trong ma tuý và bạo lực, tất cả góp phần rất lớn để phải đẩy mạnh hơn và phải nhất thiết không tránh né vấn đề cơ bản về những giá trị thực sự có khả năng mang lại ý nghĩa viên mãn của chúng cho cuộc sống. Nơi rất nhiều người trẻ, khát vọng tôn giáo và nhu cầu thiêng liêng ngày càng tỏ hiện cách minh nhiên : từ đó có khát vọng sống kinh nghiệm hoang địa và cầu nguyện, có sự quay trở về với việc đọc Lời Chúa thiết thân hơn và thường đều hơn, với việc nghiên cứu thần học.

Trong khuôn khổ của môi trường tự nguyện, cũng như trong khuôn khổ của công đoàn Giáo Hội, những người trẻ trở thành những chiến hữu mỗi ngày một tích cực, nhất là trong việc tham gia các nhóm, từ những nhóm lâu đời nhất nay đã được canh tân cho tới những nhóm mới được thành lập: đây là kinh nghiệm của một Giáo Hội được mời gọi vào công cuộc “phúc âm hoá mới” bằng sự trung thành với Thần Khí, Đấng tạo sức sống cho Giáo Hội, và thể theo những khát vọng của một thế giới xa cách Thiên Chúa nhưng lại cần đến Ngài; đây cũng là kinh nghiệm của một Giáo Hội liên đới hơn với con người và các dân tộc, trong công cuộc bảo vệ và thăng tiến phẩm giá con người, nhân quyền của mọi người và của từng người. Tất cả những điều ấy khai mở tâm hồn và đời sống những người trẻ hướng đến những lý tưởng có sức thu hút và đòi phải dấn thân, những lý tưởng có thể thực hiện một cách cụ thể bằng việc nối gót Chúa Kitô trong chức linh mục.

Tình trạng của con người và của Giáo Hội được đánh dấu bằng một tính chất hàm hồ và lưỡng nghĩa sâu đậm như thế chắc hẳn sẽ làm nền, chẳng những cho mục vụ ơn gọi và cho việc đào tạo linh mục tương lai, mà còn cho khuôn khổ đời sống và thừa tác vụ của mọi linh mục, và cho việc đào tạo trường kỳ. Bởi đó, nếu người ta hiểu được những hình thức “khủng hoảng” khác nhau mà các linh mục ngày nay cảm nghiệm trong việc thi hành thừa tác vụ, trong đời sống thiêng liêng, cả đến trong việc diễn giải bản chất và ý nghĩa của chức linh mục thừa tác, người ta cũng phải vui mừng và hy vọng mà nhận ra được những triển vọng tích cực mà khúc quanh lịch sử hiện nay cung ứng cho các linh mục trong việc hoàn thành sứ vụ của mình.

Sự phân định dựa theo Tin Mừng

10. Như đã được gợi lên qua một vài nhận định thoáng qua có tính cách ví dụ, tình huống phức tạp hiện nay chẳng những cần phải được nhận thức nhưng còn phải và nhất là phải được diễn giải. Chỉ bằng cách đó người ta mới có thể trả lời rành mạch câu hỏi cơ bản : “Làm sao để đào tạo các linh mục cho thực sự ngang tầm với hoàn cảnh hiện nay, cho thực sự có khả năng phúc âm hoá thế giới ngày nay?” (15).

Nhận thức tình huống là điều quan trọng. Chỉ nêu dẫn một số dữ kiện thì chưa đủ; cần có một cuộc tra cứu khoa học để có thể xác định cái toàn diện của một khuôn khổ cụ thể gồm những hoàn cảnh văn hoá, xã hội và Giáo Hội.

Diễn giải tình huống còn là điều quan trọng hơn. Việc làm này là do yêu cầu của tính lưỡng nghĩa và đôi khi của tính chất mâu thuẫn từ nơi tình huống, những tính chất này cũng giống như thửa đất trong Tin Mừng, trên đó hạt giống tốt và cỏ lùng cùng được gieo và mọc chung với nhau (x.Mt 1, 24-30), chứng tỏ cho thấy có sự trộn lẫn sâu đậm giữa những khó khăn và những tiềm năng, giữa những yếu tố tiêu cực và những lý do để hy vọng, giữa những cản trở và những lối mở.

Công việc diễn giải nhằm phân biệt điều thiện và điều dữ, phân biệt những dấu chỉ hy vọng và những đe doạ, không phải luôn dễ dàng. Trong công việc đào tạo linh mục, vấn đề không phải chỉ đơn thuần là thâu nhận những yếu tố tích cực và đem đối chọi chúng với những yếu tố tiêu cực. Điều quan trọng là phải đưa chính những yếu tố tích cực ấy ra để phân định một cách chăm chú, để đừng tách biệt yếu tố này ra khỏi yếu tố kia và đừng đem đối lập chúng với nhau, như thế chúng là những yếu tố có thể đem đối chọi nhau. Đối với các yếu tố tiêu cực cũng vậy : đừng đem vứt bỏ chúng trọn khối mà không phân biệt, bởi vì nơi mỗi một yếu tố tiêu cực có thể tiềm ẩn một giá trị cần được cứu vãn và cần được trả về trong chân lý toàn diện.

Đối với người tín hữu, diễn giải tình huống lịch sử có nghĩa là tôn trọng nguyên tắc vận dụng trí thông minh và dựa vào tiêu chuẩn của những lựa chọn hành động phát xuất từ đó, nguyên tắc và tiêu chuẩn này nằm trong một đòi hỏi mới và căn cơ, đó là sự phân định dựa theo Tin Mừng; việc diễn giải này hình thành trong sức mạnh và ánh sáng của Tin Mừng, của Tin Mừng sống động và cá vị, của chính Chúa Giêsu Kitô, và nhờ vào ân huệ của Chúa Thánh Thần. Bởi thế, trong tình huống lịch sử với những gì là bấp bênh của nó, công việc phân định dựa theo Tin Mừng không chỉ thâu nhận một dữ kiện đơn thuần để rồi phải đem ra ứng dụng một cách chính xác và để rồi có thể dửng dưng hoặc thụ động trước dữ kiện ấy, nhưng đúng hơn thâu nhận một “bổn phận”, một thách đố đối với tự do có trách nhiệm, hoặc của cá nhân mà thôi hoặc của cộng đoàn. Đó là một thách đố gắn liền với “lời mời gọi” mà Thiên Chúa làm vang vọng trong chính tình huống lịch sử : vì vậy, trong tình huống, Thiên Chúa mời gọi trước hết Giáo Hội cùng với người tín hữu làm sao cho “Tin Mừng về ơn gọi và về chức linh mục” diễn dạt được tính trường tồn của chân lý trong những hoàn cảnh đổi thay của cuộc sống. Cũng cần phải áp dụng cho việc đào tạo linh mục những lời của của Công đồng Vaticanô II: “Giáo Hội có bổn phận, bất cứ lúc nào, tra cứu các dấu chỉ thời đại và cắt nghĩa các dấu chỉ ấy dưới ánh sáng Tin Mừng, làm thế nào cho mình có thể giải đáp, với cách thức thích nghi cho từng thế hệ, các vấn nạn muôn thuở của con người về ý nghĩa của cuộc sống hiện tại và mai ngày và về những quan hệ hỗ tương giữa con người với nhau. Bởi đó, điều cần thiết là phải nhận biết và thấu hiểu thế giới trong đó chúng ta đang sống, những mong chờ, những khát vọng và dặc tính thường là bi thảm của thế giới” (16).

Sự phân định dựa theo Tin Mừng ấy đặt nền tảng trên lòng tín thác vào tình yêu Chúa Giêsu Kitô là Đấng luôn mãi và không ngơi chăm sóc Giáo Hội (x. Ep 5,29), Ngài là Chúa và là Thầy, là nền móng, là trung tâm và là cùng đích của toàn thể lịch sử nhân loại (17); sự phân định ấy được soi sáng và củng cố nhờ Chúa Thánh Thần Đấng mọi nơi mọi lúc khơi dậy sự vâng phục đức tin, lòng dũng cảm tươi vui để nói gót Chúa Giêsu, ơn khôn ngoan để xét đoán mọi sự và không bị một ai xét đoán (x. 1Cr 2,15); sự phân định ấy cậy dựa vào lòng trung thành của Chúa Cha đối với những lời hứa của Ngài.

Nhờ đó Giáo Hội cảm thấy dù khả năng đương đầu với những khó khăn và những thách đố của giai đoạn lịch sử mới. Giáo Hội cũng có thể bảo đảm cho hiện tại cũng như cho tương lai một nền đào tạo linh mục nhằm cung cấp những thừa tác viên nhiệt thành và xác tín đối với công cuộc “phúc âm hoá mới”, những người đầy tớ trung thành và quảng đại phục vụ Chúa Giêsu Kitô và phục vụ loài người.

Chúng ta đừng che dấu những khó khăn. Những khó khăn không phải là hiếm và cũng không nhẹ nhàng. Để thắng vượt khó khăn, chúng ta có niềm hy vọng và niềm tin vào tình yêu bất khả khuyết của Chúa Kitô, chúng ta có niềm tin vững chắc vào tính bất khả thay thế của thừa tác vụ linh mục đối với đời sống Giáo Hội và thế giới.

***

CHƯƠNG II

NGÀI ĐÃ XỨC DẦU THÁNH HIẾN TÔI VÀ SAI TÔI ĐI

 

Hướng nhìn chức linh mục

11. “Mọi người trong hội đường đều đưa mắt hướng nhìn Ngài” (Lc 4,20). Điều mà Thánh Luca tác giả Tin Mừng nói về những người đã có mặt trong hội đường Nagiarét ngày Sabbát hôm ấy và đã nghe Đức Giêsu giải thích đoạn sách ngôn sứ Isaia sau khi Ngài đọc lên hôm ấy có thể đem áp dụng cho tất cả mọi Kitô hữu bởi vì tất cả đều được mời gọi công nhận lời sấm đã được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu Nagiarét : “Lúc ấy, Ngài cất tiếng nói: ‘Hôm nay đoạn Sách Thánh này được ứng nghiệm cho anh em là những kẻ đang nghe’ (Lc 4,24). Đoạn Sách Thánh ấy nói rằng: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi vì Ngài đã xức dầu thánh hiến tôi để tôi mang Tin Mừng đến cho người nghèo. Ngài đã sai tôi đi rao giảng sự giải thoát cho người bị giam cầm, sự sáng mắt cho kẻ mù loà, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19;x. Is 62,1-2). Đức Giêsu tự giới thiệu mình như là đầy tràn Chúa Thánh Thần, “được xức dầu hiến thánh”, “để mang Tin Mừng đến cho người nghèo”: Ngài là Đấng Mêsia, một Đấng Mêsia vừa là tư tế, ngôn sứ và là vua.

Người Kitô hữu phải đưa mắt đức tin và mắt tình yêu hướng nhìn dung mạo nói trên của Đức Kitô. Chính dưới ánh sáng của sự “chiêm ngắm” này mà các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã suy tư về vấn đề đào tạo linh mục trong hoàn cảnh hiện nay. Không thể nào giải quyết vấn nạn ấy nếu trước đó không suy nghĩ về cứu cánh của tiến trình đào tạo: cứu cánh, đó chính là chức linh mục thừa tác và, nói chính xác hơn, là chức linh mục thừa tác với tư cách tham gia vào chính chức linh mục của Chúa Giêsu Kitô, trong Giáo Hội. Nhận thức về bản chất và về sứ vụ của chức linh mục thừa tác là điều tất yếu phải đi trước, đồng thời là đường lối vững chắc nhất và là động cơ mãnh liệt nhất để có thể phát triển hoạt động mục vụ trong Giáo Hội, nhằm thăng tiến và phân định các ơn gọi linh mục cũng như đào tạo những người được mời gọi tiến đến thừa tác vụ được phong ban.

Như thế, truy tầm một sự hiểu biết chính xác và sâu rộng về bản chất và sứ vụ của chức linh mục thừa tác là đường lối phải tuân theo — đây quả thực là đường lối của Thượng Hội Đồng — để có thể ra khỏi cuộc khủng hoảng về căn tính linh mục, như Tôi đã phát biểu trong bài diễn văn bế mạc Thượng Hội Đồng: “Cuộc khủng hoảng này đã xuất hiện trong những năm kế tiếp ngay sau Công đồng. Sở dĩ nó phát sinh là vì giáo thuyết của Huấn Quyền trong Công đồng đã bị giải thích sai lầm, có khi đã bị cố tình giải thích lệch lạc. Chắc chắn đây là một trong những nguyên nhân đã gây ra nhiều vụ hồi tục mà Giáo Hội lúc bấy giờ phải gánh chịu; những vụ hồi tục đã ảnh hưởng trầm trọng đến công việc mục vụ, đến các ơn gọi linh mục và cách riêng đến các ơn gọi thừa sai. Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1990, bằng cách khám phá lại toàn vẹn chiều sâu của chức linh mục nhờ vào biết bao bài tham luận đã được đón nghe trong Phòng Hội Aula này, như thể đã đến để mang lại niềm hy vọng sau nhiều vụ hồi tục xót xa ấy. Những bài tham luận ấy chứng tỏ chúng tôi ý thức như thế nào về mối dây hữu thể loại biệt nối kết người linh mục với Chúa Kitô là Linh Mục Tối Cao và là Mục Tử Nhân Lành. Căn tính linh mục ấy phải làm nền để tạo bản chất cho nền đào tạo cần được tiến hành nhắm đến chức linh mục và còn nhắm đến trọn vẹn cuộc đời linh mục. Mục đích chính xác của Thượng Hội Đồng 1990 là như thế” (18).

Nhằm mục đích ấy, Thượng Hội Đồng xét rằng cần phải nhắc lại một cách tổng hợp tất cả những gì liên quan đến các nền tảng của bản chất và sứ vụ linh mục thừa tác, bản chất và sứ vụ mà đức tin Giáo Hội đã thừa nhận trong suốt dòng lịch sử qua nhiều thế hệ và Công đồng Vaticanô II đã trình bày cho con người thời đại chúng ta (19).

Trong Giáo Hội là mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ

12. Các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã viết: “căn tính linh mục, cũng như bất cứ căn tính nào của người Kitô hữu, bắt nguồn từ Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi” (20) là Mầu nhiệm được mạc khải, được chuyển đạt cho loài người nơi Chúa Kitô, đồng thời trong Ngài và nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần, tạo thành Giáo Hội với tư cách là “hạt mầm và khởi đầu” của Nước Trời (21). Tông Huấn Christifideles Laici tổng hợp giáo huấn của Công đồng bằng cách trình bày Giáo Hội như là mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ; “Giáo Hội là mầu nhiệm bởi vì tình yêu và sự sống của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là ân huệ tuyệt đối nhưng không, được ban cho tất cả những ai sinh ra bởi nước và Thần Khí (x. Ga 3,5), được kêu mời sống chính sự hiệp thông của Thiên Chúa, biểu lộ và lan truyền sự hiệp thông ấy trong lịch sử (sứ vụ) “ (22).

Chính trong lòng Giáo Hội xét như là mầu nhiệm hiệp thông giữa Thiên Chúa Ba Ngôi trong nỗi day dứt thi hành sứ vụ mà mọi căn tính Kitô hữu được mạc khải và đồng thời căn tính loại biệt của linh mục và của thừa tác vụ linh mục cũng được mạc khải. Quả vậy, linh mục, nhờ vào sự thánh hiến đã lãnh nhận qua bí tích Truyền Chức thánh, được sai đi bởi Chúa Cha, nhờ Chúa Giêsu Kitô, và một cách đặc biệt được nên đồng hình dạng với Ngài, Đấng là Đầu và Mục Tử của dân Ngài, để sống và hoạt động, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần, nhằm phục vụ Giáo Hội và cứu độ thế giới (23).

Nhờ đó, người ta hiểu được tính chất thiết yếu “tương giao” của căn tính linh mục : do bởi chức linh mục phát sinh từ nơi thẳm sâu mầu nhiệm khôn tả của Thiên Chúa, nghĩa là từ tình yêu của Chúa Cha, từ ân sủng của Chúa Giêsu Kitô và từ ơn hiệp nhất của Chúa Thánh Thần, người linh mục qua bí tích được hội nhập vào sự hiệp thông với Giám mục và với các linh mục khác (24), để phục vụ Dân Thiên Chúa là Giáo Hội và để dẫn dắt mọi người đến với Chúa Kitô, đúng như lời cầu nguyện của Ngài : “Lạy Cha rất thánh, xin Cha gìn giữ chúng con trong danh Cha mà Cha đã ban cho Con để chúng nên một như chúng ta… Lạy Cha, cũng như Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho chúng cũng ở trong chúng ta, để cho thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,11-21).

Bởi thế, không thể tìm xác định bản chất và sứ vụ của chức linh mục thừa tác ở bên ngoài nhiệm hệ đa tạp và phong phú gồm những tương quan bắt nguồn từ Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và nối dài trong sự hiệp thông với Giáo Hội xét như là dấu chỉ và khí cụ, trong Chúa Kitô, của sự nối kết giữa loài người với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại (25). Từ đó, nghiên cứu Giáo Hội về phương diện hiệp thông chính là việc làm có tính định đoạt để có thể nắm vững căn tính linh mục, phẩm giá riêng biệt của linh mục, ơn gọi và sứ vụ trong Dân Thiên Chúa và trong thế giới. Chính vì vậy, qui chiếu về Giáo Hội là điều cần thiết, ngay cả khi đó không phải là điều tiên quyết trong định nghĩa về căn tính linh mục. Xét như là mầu nhiệm, Giáo Hội thiết yếu gắn liền với Chúa Giêsu Kitô; thực ra, Giáo Hội chính là sự viên mãn, là Thân Thể và là Hiền Thê của Ngài. Giáo Hội là “dấu chỉ”, là “kỷ vật” sống động nói lên sự hiện diện liên lỉ của Ngài và nói lên hoạt động của Ngài giữa chúng ta và cho chúng ta. Người linh mục tìm gặp trọn vẹn sự thật về căn tính của mình trong sự kiện mình tham dự một cách loại biệt vào Đức Kitô và nối tiếp chính Đức Kitô, vị tư tế Tối Cao và độc nhất của Giao Ước mới : linh mục là hình ảnh sống động và trong suốt của Chúa Kitô linh mục. Là biểu hiện “tính chất mới mẻ” tuyệt đối của Ngài trong lịch sử cứu độ, chức tư tế của Chúa Kitô chính là cội nguồn độc nhất và là bản mẫu bất khả thay thế của chức tư tế Kitô hữu và cách riêng của chức tư tế linh mục. Bởi đó, qui chiếu về Chúa Kitô là chìa khoá tuyệt đối cần thiết để có thể thấu hiểu thực tại linh mục.

Mối liên hệ cơ bản với Đức Kitô là Đầu và Mục Tử

13. Đức Giêsu Kitô đã biểu lộ nơi chính Ngài dung mại trọn hảo và vĩnh viễn của chức tư tế thời Tân Ước *26): Ngài đã mạc khải dung mạo ấy bằng toàn thể đời sống trần thế của Ngài, nhưng trên tất cả bằng chính biến cố trung tâm là cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Ngài.

Như tác giả Thư gửi tín hữu Do Thái đã viết, là con người như chúng ta và đồng thời là người Con độc nhất của Thiên Chúa, Đức Giêsu, ngay trong chính hữu thể của Ngài, là vị trung gian hoàn hảo giữa Chúa Cha và nhân loại (x. Dt 8-9), vị trung gian cho chúng ta được trực tiếp đến gần Thiên Chúa, nhờ ân huệ của Chúa Thánh Thần : “Thiên Chúa đã sai đến tâm hồn chúng ta Thần Khí của Con Ngài, Thần Khí ấy kêu lên : Abba, lạy Cha !” (Gl 4,6; x. Rm. 8,15).

Đức Giêsu hoàn thành nhiệm vụ trung gian bằng việc hiến dâng chính mình trên Thập Giá, nhờ đó, một lần thay cho muôn lần, Ngài mở lối vào thánh điện trên trời và vào nhà của Chúa Cha (x. Dt 9,24-28). Sánh với Đức Giêsu, Môisê và tất cả các vị “trung gian” thời Cựu Ước giữa Thiên Chúa và Dân Ngài — các vua, các tư tế và các ngôn sứ — chỉ xuất hiện như là “hình ảnh” và là “bóng mờ của những điều thiện bảo sẽ tới”, chớ không như là “chính sự biểu hiện của các thực tại” (x. Dt 10,1).

Đức Giêsu là Vị Mục Tử Nhân Lành mà các ngôn sứ đã báo trước (x. Ed 34), Vị Mục Tử biết chiên mình từng con một, thí mạng sống mình cho chiên và quy tụ hết mọi con chiên lại thành một đàn duy nhất với một chủ chăn duy nhất (x. Ga 10,11-16). Ngài là vị mục tử, không phải đến “để được phục vụ nhưng để phục vụ” (Mt 20,28), với cử chỉ rửa chân ngày vượt qua (x. Ga 13,11-20), đã để lại cho những người thân thích của Ngài mẫu gương phục vụ mà họ có trách nhiệm thực thi lẫn cho nhau, và đã tự nguyện hiến dâng chính mình làm cho chiên vô tội chịu sát tế để cứu chuộc chúng ta (x. Ga 1,36; Kh 5,6-12).

Nhờ hy lễ Thập Giá tiến dâng một lần và mãi mãi. Đức Giêsu thông ban cho tất cả các môn đệ của Ngài phẩm giá và sứ vụ làm linh mục của Giao Ước mới và vĩnh cửu. Như thế là ứng nghiệm lời Thiên Chúa hứa với Ít-raen: “Ta sẽ coi các ngươi như một vương quốc tư tế, một dân tộc thánh thiện” (Xh 19,6). Thánh Phêrô viết : Chính toàn dân Giao Ước Mới được làm thành một “toà nhà thiêng liêng”, “một hàng tư tế thánh thiện, nhằm dâng tiến những hy lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 2,5). Những người đã lãnh nhận Phép Rửa là những viên đá sống động xây nên toà nhà thiêng liêng, nối kết với Thân Thể Chúa Kitô, “là đá tảng sống động… được tuyển chọn và thật quý giá bên cạnh Thiên Chúa” (1 Pr 2,4). Dân tư tế mới, là Giáo Hội, chẳng những có được nơi Chúa Kitô hình ảnh riêng biệt và chính hiệu của mình mà còn lãnh nhận từ nơi Ngài sự tham dự thiết thực trên bình diện hữu thể vào chức tư tế vĩnh cửu và độc nhất của Ngài, chức tư tế mà Dân Chúa phải thích ứng trọn cả đời mình.

14. Nhằm phục vụ chức tư tế phổ quát của Giao Ước Mới, Đức Giêsu, trong sứ vụ trần thế, đã mời gọi nhiều môn đệ đến với Ngài; với quyền bính dành cho một sứ vụ loại biệt, Ngài kêu gọi và thiết lập Nhóm Mười Hai “để làm bạn đồng hành với Ngài và để sai họ đi rao giảng, kèm theo quyền xua trừ ma quỉ” (Mc 3,14-15).

Như thế, ngay từ trong giai đoạn thi hành sứ vụ công khai (x. Mt 16,18) và sau đó, một cách viên mãn, khi đã chết và sống lại (x. Mt 28,16-20; Ga 20,21), Đức Giêsu ban cho Phêrô và Nhóm Mười Hai những quyền hành hoàn toàn loại biệt đối với cộng đoàn tương lai và nhằm mục đích rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Sau khi đã mời gọi họ theo Ngài. Ngài giữ họ bên cạnh Ngài và Ngài sống với họ, dùng gương sáng và lời nói thông truyền cho họ sứ điệp cứu độ sau cùng, Ngài sai họ đến với mọi người. Để cho sứ vụ ấy được hoàn thành, Đức Giêsu ban cho các Tông Đồ, cùng với sức mạnh do sự tuôn đổ Thánh Thần sau biến cố Phục Sinh, cũng một quyền bính Mêsia mà Ngài đã lãnh nhận từ nơi Chúa Cha, quyền bính đã được ban cho Ngài, quyền bính đã được biểu lộ cách viên mãn qua sự Phục Sinh của Ngài: “Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được ban cho Ta. Vậy, các con hãy ra đi, hãy chiêu tập môn đệ từ khắp muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Ta đã chỉ thị. Này đây Ta sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,18-20).

Bằng cách ấy, Đức Giêsu thiết lập một mối liên hệ sít sao giữa thừa tác vụ được ban cho các Tông Đồ với chính sứ vụ riêng của mình : “Ai đón nhận các con là đón nhận Ta và ai đón nhận Ta là đón nhận Đấng đã sai Ta” (Mt 10,40); “Ai nghe các con là nghe Ta, ai loại bỏ các con là loại bỏ Ta và ai loại bỏ Ta là loại bỏ Đấng đã sai Ta” (Lc 10,16). Hơn thế nữa, trong Tin Mừng thứ tư, dưới ánh sáng của biến cố vượt qua gồm cái chết và sự phục sinh, Đức Giêsu quả quyết một cách hết sức mạnh mẽ và minh bạch: “Như Cha đã sai Ta, cũng vậy Ta sai các con” (Ga 20,21; x.13,20; 17,18). Cũng như Đức Giêsu nắm giữ một sứ vụ đến trực tiếp từ Thiên Chúa và làm cho chính quyền bính của Thiên Chúa trở nên hiện diện (x. Mt 7,29; 21,23; Mc 1,27; 11,28; Lc 20,2;24,19), cũng vậy các Tông Đồ nắm giữ một sứ vụ đến từ Chúa Giêsu. Cũng như “Con không thể tự mình làm điều gì” (Ga 5,19) đến nỗi giáo thuyết của Ngài không phài là của riêng Ngài nhưng là giáo thuyết của Đấng đã sai Ngài (x. Ga 7,16), cũng vậy, Đức Giêsu nói với các Tông Đồ: “Ngoài Ta các con không thể làm được gì” (Ga 15,5): sứ vụ của các Tông Đồ thì không phải là sứ vụ riêng của các ngài nhưng là chính sứ vụ của Chúa Giêsu. Sở dĩ có thể hoàn thành sứ vụ ấy thì không phải do sức lực của con người nhưng chỉ nhờ vào “ơn ban” của Chúa Kitô và của Thần Khí Ngài, nhờ vào ơn bí tích: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai, tội người ấy được tha, các con cầm buộc tội ai, tội người ấy bị cầm buộc” (Ga 20,22-23). Vì thế, không phải vì cậy dựa vào một công nghiệp riêng tư nào nhưng chỉ vì thông phần một cách nhưng không vào ân sủng của Chúa Kitô mà các Tông Đồ, trong lịch sử, cho đến thời cùng tận, đeo đuổi sứ vụ cứu độ của chính Đức Kitô vì lợi ích cho loài người.

Dấu chỉ và điều kiện tiên quyết để cho sứ vụ ấy được chính hiệu và sai nở, đó là sự hiệp nhất giữa các Tông Đồ với Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, giữa các Tông Đồ với Chúa Cha, như đã được nêu dẫn trong lời nguyện tư tế của Chúa, là tổng hợp của sứ vụ Ngài (x. Ga 17,20-23).

15. Đến lượt các ngài, như đã được Chúa thiết lập, các Tông Đồ sẽ dần dà làm trọn sứ vụ của các ngài bằng cách kêu mời, dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng tựu trung đồng qui với nhau, những người khác, làm giám mục, làm linh mục và làm phó tế, để hoàn thành sứ vụ đã lãnh nhận từ nơi Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng đã sai các ngài đến với mọi người thuộc mọi thời đại.

Tân Ước nhất loại ghi chú rằng Thần Khí của chính Đức Kitô đã đưa dẫn vào trong thừa tác vụ những con người được chọn giữa các anh em. Với cử chỉ đặt tay (x. Cv 6,6; 1Tm 4,14; 5,22; 2Tm 1,6) là cử chỉ chuyển ban ơn Thần Khí, những con người ấy được mời gọi và được trang bị để tiếp nối cùng một thừa tác vụ hoà giải, chăn dắt đoàn chiên của Thiên Chúa và giảng dạy (x. Cv 20,28; 1Pr 5,2).

Như vậy, các linh mục được mời gọi nối dài sự hiện diện của Đức Kitô, vị Mục Tử duy nhất và tối cao, bằng cách noi theo lối sống của Ngài và bằng cách làm sao cho mình như thể được Ngài xuyên thấu ngay giữa đàn chiên được giao phó cho mình. Như thư thứ nhất của thánh Phêrô đã viết một cách rõ ràng và chính xác : “Với các vị niên trưởng giữa anh em, tôi, cũng thuộc hàng niên trưởng như các vị ấy, là chứng nhân về những nỗi thống khổ của Đức Kitô, là kẻ sẽ được thông phần vinh quang sắp được mạc khải, tôi có lời khuyên nhủ các vị ấy. Hãy chăn dắt đàn chiên Thiên Chúa đã được giao phó cho anh em, hãy chăm lo cho chúng, không phải vì miễn cưỡng nhưng một cách sẵn lòng, thể theo ý Thiên Chúa; không phải vì lợi nhuận ô trọc nhưng vì lòng nhiệt thành; không phải bằng cách làm vua làm chúa trên những kẻ được ban cho anh em làm phần cơ nghiệp nhưng bằng cách trở nên mẫu mực cho đàn chiên. Và khi Vị Thủ Lãnh các mục tử xuất hiện, anh em sẽ lãnh nhận triều thiên vinh quang không bao giờ tàn úa” (1 Pr 5,1-4).

Trong Giáo Hội và cho Giáo Hội, như những dấu chỉ bí tích, các linh mục đại diện cho Chúa Giêsu Kitô là Đầu và Mục Tử, các linh mục công bố Lời Chúa một cách chính danh, các linh mục lặp lại những cử chỉ tha thứ và ban ơn cứu độ, nhất là qua các bí tích Rửa Tội, Thống Hối và Thánh Thể, các linh mục đem sự chăm sóc đầy tình thương của Ngài, sự chăm sóc đến nỗi trao hiến trọn vẹn chính mình của Ngài, ra thi thố cho đoàn chiên mà các linh mục qui tụ lại làm một và dẫn đến Chúa Cha nhờ Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần. Nói tóm lại, các linh mục hiện hữu và hoạt động để loan báo Tin Mừng cho thế giới và để xây dựng Giáo Hội nhân danh đích thân Chúa Kitô là Đầu và Mục Tử (27).

Chính bằng thể thức kiểu mẫu và loại biệt trên đây mà các thừa tác viên được cắt đặt tham dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô. Nhờ việc xức dầu trong bí tích Truyền Chức Thánh, Chúa Thánh Thần làm cho họ nên đồng hình dạng, bằng một tước hiệu mới và loại biệt, với Đức Giêsu Kitô là Đầu và Mục Tử, Chúa Thánh Thần làm cho họ nên thích ứng tự bên trong và thôi thúc họ bằng đức ái mục vụ của Ngài, và trong Giáo Hội, Chúa Thánh Thần làm cho họ trở thành những người tôi tớ có phẩm chất để họ loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật và để họ làm cho đời sống Kitô hữu của mọi người đã rửa tội được viên mãn.

Sự thật về linh mục phát xuất từ Lời Chúa, nghĩa là từ chính Đức Giêsu Kitô, và từ kế hoạch của Ngài liên quan tới sự cấu thành Giáo Hội, sự thật ấy đã được hát lên bằng một bài ca tạ ơn vui mừng của phụng vụ trong kinh Tiền Tụng ngày lễ Dầu: “Nhờ việc xức dầu của Chúa Thánh Thần, Cha đã đặt Con Một Cha làm Tư Tế của Giao Ước Mới vĩnh cửu; Cha đã muốn cho chức tư tế duy nhất của Ngài luôn sống động trong Giáo Hội. Chính Ngài là Đức Kitô, là Đấng ban cho toàn dân được cứu chuộc phẩm vị làm tư tế vương giả; chính Ngài tuyển chọn trong tình yêu của Ngài đối với đàn em, những người sẽ được đặt tay và sẽ thông phần vào thừa tác vụ của Ngài… Nhân danh Ngài, các linh mục tiến dâng hy lễ cứu độ duy nhất nơi bàn tiệc vượt qua : các linh mục có trách nhiệm xả thân phục vụ Dân Cha để nuôi dưỡng họ bằng Lời của Cha và làm cho họ sống bằng các bí tích của Cha; các linh mục sẽ là những chứng nhân thực sự cho đức tin và đức ái, sẵn sàng hiến mạng sống mình như Đức Kitô đã hiến dâng mạng sống cho đàn em và cho Cha”.

Phục vụ Giáo Hội và Thế giới

16. Mối liên hệ cơ bản của linh mục là mối liên hệ nối kết linh mục với Đức Giêsu Kitô là Đầu và Mục Tử : thực ra, bằng một thể thức loại biệt và chính hiệu, linh mục tham dự vào sự “thánh hiến” hoặc “xức dầu” và vào “sứ vụ” của Đức Kitô (x. Lc 4,18-20). Nhưng mối liên hệ ấy lại được mật thiết gắn liền với mối liên hệ nối kết linh mục với Giáo Hội. Ở đây không phải là những mối liên hệ chỉ đơn thuần chồng chất lên nhau : chính những mối liên hệ ấy được nối kết mật thiết với nhau bằng một thứ nội nhập hỗ tương. Sự qui chiếu về Giáo Hội được hàm chứa trong cùng một quan hệ duy nhất giữa linh mục với Chúa Kitô, theo nghĩa là chính việc linh mục đại diện cho Chúa Kitô bằng “sự đại diện hiểu theo nghĩa bí tích” đặt nền tảng và tạo sức sống cho quan hệ giữa linh mục và Giáo Hội.

Trong chiều hướng ấy, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã viết: “Với tư cách đại diện cho Chúa Kitô là Đầu, Mục Tử và Phu Quân của Giáo Hội, linh mục chẳng những được đặt vào trong Giáo Hội nhưng còn là đối diện với Giáo Hội. Chức linh mục cũng như đồng thời Lời Chúa và các dấu chỉ bí tích mà linh mục là người phục vụ đều thuộc về những yếu tố tác thành Giáo Hội. Thừa tác vụ của linh mục hoàn toàn là để phục vụ Giáo Hội nhằm nâng cao việc thực thi chức tư tế cộng đồng của toàn thể Dân Thiên Chúa; thừa tác vụ ấy chẳng những được sắp đặt cho Giáo Hội địa phương nhưng còn cho Giáo Hội hoàn vũ (x. Presbyterorum ordinis , LM, số 10), trong sự hiệp thông với Giám mục, với Thánh Phêrô và dưới quyền của thánh Phêrô. Nhờ chức linh mục của Giám mục, chức linh mục bậc hai được tháp vào cơ cấu tông truyền của Giáo Hội. Bởi đó, cũng như các Tông Đồ, linh mục giữ nhiệm vụ làm sứ giả của Đức Kitô (x. 2Cr 5,20). Đó chính là nền tảng cho tính chất thừa sai của chức linh mục” (28).

Như thế, thừa tác vụ được phong ban cùng khai sinh với Giáo Hội; dầu là của giám mục hay của các linh mục trong sự qui chiếu và trong sự hiệp thông với các giám mục, thừa tác vụ ấy có mối liên hệ đặc biệt với thừa tác vụ của các Tông Đồ buổi đầu, từ đó thừa tác vụ ấy thực sự đóng vai trò kế nhiệm, mặc dầu, so với thừa tác vụ của các Tông Đồ, thừa tác vụ ấy mặc những hình thái hiện sinh khác biệt.

Bởi đó, không được coi chức linh mục được thụ phong như là đến trước Giáo Hội : chức linh mục ấy hoàn toàn là để phục vụ chính Giáo Hội; cũng không được quan niệm chức linh mục ấy là đến sau cộng đoàn Giáo Hội, như thế có thể hiểu Giáo Hội đã được thành lập mà không cần chức linh mục ấy.

Quan hệ giữa linh mục với Đức Giêsu Kitô và, trong Ngài, với Giáo Hội được hàm chứa trong chính hữu thể của linh mục, do bởi đã được thánh hiến và đã được xức dầu trong bí tích, và được hàm chứa trong hành động của linh mục, nghĩa là trong sứ vụ hay trong thừa tác vụ của linh mục. Một cách đặc biệt, “linh mục thừa tác là tôi tớ của Đức Kitô hiện diện trong Giáo Hội xét như là mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ. Do sự kiện linh mục thông phần vào việc “xức dầu” và vào “sứ vụ” của Đức Kitô, linh mục có khả năng nối dài kinh nghiệm, lời nói, hy lễ và hoạt động cứu độ của Ngài trong Giáo Hội. Linh mục bởi đó là tôi tớ của Giáo Hội xét như là mầu nhiệm, bởi vì linh mục thực thi những dấu chỉ Giáo Hội và bí tích nói lên sự hiện diện của Chúa Kitô Phục Sinh. Linh mục là tôi tớ của Giáo Hội xét như là hiệp thông, bởi vì — trong sự hiệp nhất với giám mục và mối liên kết chặt chẽ với linh mục đoàn — linh mục xây dựng sự hiệp nhất của cộng đoàn Giáo Hội trong sự hoà điệu của nhiều ơn gọi, nhiều đặc sủng và nhiều hình thức phục vụ khác nhau; cuối cùng, linh mục là tôi tớ của Giáo Hội xét như là sứ vụ, bởi vì linh mục làm cho cộng đoàn trở thành cộng đoàn loan báo và làm chứng về Tin Mừng” (29).

Do đó, trong chính hữu thể và trong sứ vụ bí tích của mình, linh mục đến trong cơ cấu Giáo Hội để làm dấu chỉ cho tính ưu việt tuyệt đối và cho tính nhưng không của ân sủng được ban cho Giáo Hội nhờ Chúa Kitô Phục Sinh. Nhờ chức linh mục thừa tác. Giáo Hội ý thức trong đức tin rằng Giáo Hội không hiện hữu tự mình nhưng là nhờ ân sủng của Chúa Kitô trong Chúa Thánh Thần. Các Tông Đồ và những người kế nhiệm các ngài, với tư cách là những người nắm giữ quyền bính đến từ Đức Kitô là Đầu và Mục Tử, do bởi thừa tác vụ của mình, được sắp đặt đối diện với Giáo Hội, như là sự nối dài hữu hình và là dấu chỉ bí tích của Đức Kitô, thay cho chính Ngài trước mặt Giáo Hội và thế giới, như là cội nguồn cứu độ trường tồn và luôn mãi mới mẻ, “Ngài, Đấng cứu độ Thân Thể” (Ep 5,23).

17. Thừa tác vụ được phong ban, do tự bản chất, chỉ có thể được hoàn thành trong mức độ mà linh mục hiệp nhất với Chúa Kitô bằng sự hội nhập hiểu theo nghĩa bí tích vào trong hàng ngũ linh mục và bởi đó trong mức độ mà linh mục hiệp thông với giám mục về phương diện phẩm trật. Tự căn rễ, thừa tác vụ được phong ban mang “bản chất cộng đồng” và chỉ có thể được hoàn thành như là “công trình thập thể” (30). Công đồng đã diễn tả rất nhiều về bản chất hiệp thông ấy của chức linh mục, đã lần lượt nghiên cứu các quan hệ giữa linh mục với giám mục của mình, với các linh mục khác và với giáo dân (31). Thừa tác vụ linh mục trước hết là sự hiệp thông, sự hợp tác thiết yếu và có trách nhiệm vào thừa tác vụ của giám mục, trong việc chăm lo cho Giáo Hội hoàn vũ và cho Giáo Hội đặc thù và, cùng với giám mục, làm thành một linh mục đoàn duy nhất trong khi phục vụ Giáo Hội ấy.

Mỗi một linh mục, là triều hoặc dòng, được liên kết nên một với các thành phần khác thuộc linh mục đoàn, tùy theo bí tích Truyền Chức Thánh, bằng những mối liên hệ riêng biệt về đức ái tông đồ, về thừa tác vụ và về tình huynh đệ. Thực vậy, tất cả các linh mục triều hoặc dòng đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Đức Kitô là Đầu và Mục Tử, “cùng nhằm một mục đích : xây dựng Thân Thể Đức Kitô; nhất là vào thời đại chúng ta, công việc ấy đòi hỏi những nhiệm vụ đa dạng và những thích nghi mới”, và thừa tác vụ được nên phong phú trải qua các thời đại nhờ vào những đặc sủng luôn mới mẻ (32).

Sau hết, bởi vì dung mạo của mình cũng như sự dẫn thân của mình không phải là để thay thế nhưng đúng hơn để nâng cao chức tư tế lãnh nhận từ Bí Tích Rửa tội của toàn thể Dân Thiên Chúa và để hướng dẫn chức tư tế ấy đến chỗ thể hiện trọn vẹn trong Giáo Hội, các linh mục sống trong một tương quan tích cực và xây dựng đối với người giáo dân. Các linh mục phục vụ cho đức tin, cho niềm trông cậy và cho đức ái của họ. Các linh mục công nhận những điều ấy và, với tư cách là anh em và là bạn hữu, các linh mục bảo tồn phẩm giá cho những người làm con Thiên Chúa và giúp họ thực thi trọn vẹn vai trò loại biệt của họ trong khuôn khổ sứ vụ của Giáo Hội (33).

Chức tư tế thừa tác được phong ban nhờ bí tích Truyền Chức Thánh và chức tư tế cộng đồng hay “vương giả” của các tín hữu, mặc dầu khác biệt với nhau chẳng những về cấp trật nhưng còn về yếu tính (34), vẫn liên quan với nhau và lệ thuộc lẫn nhau; cả hai — dưới những hình thức khác nhau — đều bắt nguồn từ chức tư tế duy nhất của Đức Kitô. Thực ra, chức tư tế thừa tác tự nó không là dấu chỉ cho một cấp độ thánh thiện cao hơn so với chức tư tế cộng đồng của các tín hữu; nhưng, do bởi chức tư tế thừa tác, các linh mục đã lãnh nhận từ Chúa Kitô, bởi Chúa Thánh Thần, một ân huệ loại biệt, hầu có thể giúp Dân Thiên Chúa thực thi một cách trung thành và trọn vẹn chức tư tế cộng đồng được ban cho họ (35).

18. Như Công Đồng ghi nhận, “ân huệ thiêng liêng mà các linh mục đã lãnh nhận ngày thụ phong chuẩn bị cho các linh mục không phải đi vào một sứ vụ hạn hẹp và gò bó, nhưng đi vào một số vụ cứu độ có tầm cỡ phổ quát, “cho đến tận cùng bờ cõi trái đất”; thật ra bất cứ thừa tác vụ linh mục nào cũng thông phần vào những chiều kích phổ quát của sứ vụ được Đức Kitô giao phó cho các Tông Đồ” (36). Do bởi chính bản chất của thừa tác vụ, các linh mục cần phải được thầm nhuần và thôi thúc bởi một tinh thần thừa sai sâu xa và bởi “tinh thần công giáo thực sự sẽ giúp các linh mục quen vượt khỏi những ranh giới của riêng giáo phận mình, quốc gia mình và lễ chế mình để rồi đáp ứng nhu cầu của Giáo Hội toàn cầu, sẵn sàng tận đáy lòng rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng bờ cõi trái đất” (37).

Ngoài ra, một cách đặc biệt, bởi vì trong nội bộ Giáo Hội, linh mục là con người của hiệp thông, cho nên đối với mọi người, linh mục phải là con người của sứ vụ và đối thoại. Bén rễ sâu xa trong sự thật và trong đức ái của Chúa Kitô, được thôi thúc bởi ước vọng và sự cần thiết nội tại phải loan báo ơn cứu độ cho mọi người, linh mục được mời gọi nối kết với mọi người những mối quan hệ huynh đệ và phục vụ, cùng nhau truy tầm chân lý bằng cách làm việc để thăng tiến công bằng và hoà bình. Linh mục phải nối kết những quan hệ huynh đệ trước hết với các anh em thuộc các Giáo Hội khác và thuộc các hệ phái Kitô giáo, nhưng cũng phải nối kết những quan hệ huynh đệ với các tín hữu thuộc các tôn giáo khác, với mọi người thiện chí, và một cách đặc biệt, với những người nghèo và những người yếu đuối hơn hết, cũng như với hết mọi người, hoặc không nhận thức hoặc không diễn đạt ra được, đang ngưỡng vọng về chân lý và ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến, theo lời và theo gương Đức Giêsu như Ngài đã nói : “Không phải những người khỏe mạnh cần thấy thuốc nhưng là những người đau yếu… Ta không đến để kêu gọi người công chính nhưng kêu gọi người có tội” (Mc 2,17).

Ngày nay, một cách đặc biệt, trách nhiệm mục vụ mà ưu tiên là ‘công cuộc phúc âm hoá mới’ là trách nhiệm của toàn thể Dân Chúa và đòi hỏi một nhiệt tình mới, những phương pháp mới và một ngôn ngữ mới dành cho việc loan báo và làm chứng về Tin Mừng. Đòi buộc các linh mục phải triệt để và hoàn toàn đắm mình trong mầu nhiệm Chúa Kitô và phải có khả năng thể hiện một lối sống mục vụ mới, đánh dấu bằng một sự hiệp thông sâu xa với Đức Giáo Hoàng, với các Giám mục và giữa các linh mục với nhau, và bằng một sự hợp tác sai hoa sai trái với giáo dân, tôn trọng và thăng tiến các vai trò khác nhau, các đặc sủng và các thừa tác vụ giữa lòng cộng đoàn Giáo Hội (38).

“Hôm nay, lời Sách Thánh này ứng nghiệm cho anh em là những kẻ đang nghe” (Lc 4,21). Chúng ta hãy lắng nghe một lần nữa những lời ấy của Chúa Giêsu dưới ánh sáng của chức linh mục thừa tác mà chúng ta đã trình bày về bản chất và sứ vụ. Cái “hôm nay” mà Đức Giêsu đề cập, bởi vì nằm trong “thời gian viên mãn” và xác định ý nghĩa cho thời gian viên mãn — là thời gian cứu độ đã hoàn thành và dứt khoát — cái “hôm nay” ấy ám chỉ thời gian của Giáo Hội. Sự thánh thiện và sứ vụ của Đức Kitô, như được diễn tả bằng những lời sau đây : “Thần Khí Chúa… đã xức dầu thánh hiến tôi, để tôi mang Tin Mừng đến cho người nghèo”, chính là nguồn cội sống động từ đó nẩy mầm sự hiến thánh và sứ vụ của Giáo Hội, “sự viên mãn” của Đức Kitô (x. Ep 1,23); được tái sinh nhờ bí tích Rửa tội, hết mọi Kitô hữu đã lãnh nhận sự tuôn đổ Thần Khí Chúa, Đấng thánh hiến họ để tạo thành một đền thờ thiêng liêng và một hàng tư tế thánh thiện. Thần Khí sai họ đi công bố những kỳ công đã được thực hiện do Đấng đã kêu gọi họ từ bóng đêm sang ánh sáng diệu vợi của Ngài (x. 1 Pr 2,4-10). Linh mục thông phần vào sự thánh hiến và vào sứ vụ của Đức Kitô bằng một thể thức loại biệt và chính hiệu, nghĩa là bằng bí tích Truyền Chức Thánh là bí tích đã biến đổi linh mục, ngay trong chính hữu thể của mình, nên đồng hình dạng với Đức Giêsu Kitô Đầu và Mục Tử; linh mục tham dự vào sứ vụ “loan báo Tin Mừng cho người nghèo” nhân danh Chúa Kitô và thay mặt Chúa Kitô.

Trong sứ điệp chung kết, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã cô đọng trong một công thức vắn gọn nhưng giàu ý nghĩa tất cả những gì là “sự thật” hay đúng hơn “mầu nhiệm” và “ơn huệ” của chức linh mục thừa tác được phát biểu như sau: “Nguồn cội tột cùng của căn tính chúng ta ở trong tình yêu của Chúa Cha. Hiểu theo nghĩa bí tích, chúng ta được kết hợp làm một với Chúa Con mà Cha đã sai đến, là Thượng Tế và là Mục Tử Nhân Lành, bằng chức tư tế thừa tác trong quyền lực của Chúa Thánh Thần. Đời sống và thừa tác vụ linh mục là sự nối dài đời sống và hoạt động của chính Đức Kitô. Căn tính của chúng ta nằm ở đó, cũng như phẩm giá thực sự của chúng ta, nguồn mạch vui mừng của chúng ta, và niềm tin vững chắc của chúng ta về sự sống” (39).