Tông Huấn

Saturday, 04 April 2020 15:58

Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (Loan Báo Tin Mừng) Của ĐGH Phaolô VI (Ngày 08-12-1975) Featured

TÔNG HUẤN EVANGELII NUNTIANDI

(LOAN BÁO TIN MỪNG)

CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAOLÔ VI

GỬI HÀNG GIÁM MỤC, GIÁO SĨ VÀ TÍN HỮU

TRONG GIÁO HỘI VỀ VẤN ĐỀ

PHÚC ÂM HOÁ TRONG THẾ GIỚI MỚI

Roma, Ngày 08 Tháng 12 Năm 1975

***

***

 

MỞ ĐẦU

 

1- Mối Quan Tâm Ðặc Biệt đến Việc Truyền Bá Phúc Âm Hóa

Nỗ lực loan báo Phúc Âm cho con người ngày nay, thành phần đang ôm ấp hy vọng, đồng thời cũng thường bị sợ hãi và buồn khổ đè nén, là một việc phục vụ cho cộng đồng Kitô hữu cũng như cho toàn thể nhân loại.

Bởi thế, nhiệm vụ làm cho anh em mình vững mạnh - một nhiệm vụ Chúa đã trao cho Chúng Tôi trong vai trò làm người Kế Vị Thánh Phêrô, một nhiệm vụ đối với Chúng Tôi là một "mối bận tâm hằng ngày", là một chương trình sống cũng như hoạt động, và là một việc dấn thân quan trọng của Giáo Triều Chúng Tôi - càng là việc tỏ ra cao quí và cần thiết hơn đối với tất cả chúng ta, vì nó là vấn đề phấn khích anh em chúng ta trong sứ vụ của họ là các nhà thừa sai, để trong thời điểm bất ổn và lầm lạc này, họ có thể hoàn tất công việc ấy bằng yêu thương, lòng nhiệt thành và niềm vui mỗi ngày một hơn.

2- Vào Dịp Ba Biến Cố Xẩy Ra

Ðó chính là điều chúng tôi muốn làm ở đây, vào cuối Năm Thánh này, một năm Giáo Hội, "bằng nỗ lực loan báo Phúc Âm cho mọi dân tộc" (x. Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 1: AAS 58 - 1966, p. 947), chỉ có một mục tiêu nhắm đến là chu toàn nhiệm vụ của mình trong việc làm sứ giả cho Tin Mừng của Chúa Kitô - một Tin Mừng được loan báo qua hai huấn dụ căn bản: đó là "hãy mặc lấy con người mới" (x. Eph. 4:24, 2:15; Col. 3:10; Gal. 3:27; Rom. 13:14; 2Cor. 5:17) và "hãy hoà giải với Thiên Chúa" (2Cor.5:20).

Chúng Tôi cũng muốn làm điều này vào dịp kỷ niệm 10 năm kết thúc Công Ðồng Chung Vaticanô II, một công đồng có những mục tiêu cuối cùng được tóm gọn trong mục tiêu duy nhất này, đó là mục tiêu làm cho Giáo Hội của thế kỷ 20 xứng hợp hơn bao giờ hết với việc loan báo Phúc Âm cho con người của thế kỷ 20.

Chúng Tôi còn muốn làm điều này vào dịp một năm sau Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Lần Ba, một thượng hội ai cũng quá rõ đã chú trọng đến việc truyền bá phúc âm hoá; và Chúng Tôi càng muốn làm điều này theo lời yêu cầu của chính các vị Nghị Phụ. Thật vậy, vào lúc kết thúc cuộc Thượng Hội đáng nhớ này, các Nghị Phụ đã hết sức tin tưởng và chân thành quyết định để lại cho vị Mục Tử của Giáo Hội hoàn vũ các thành quả gặt hái được từ tất cả mọi công khó của các vị, khi nói lên rằng các vị mong đợi nơi ngài một cái gì thúc đẩy mới mẻ, có khả năng tạo nên trong Giáo Hội, vẫn còn gắn bó sâu sa với quyền năng và sức mạnh của ngày Lễ Hiện Xuống, một giai đoạn mới cho việc truyền bá phúc âm hoá [1].

3- Ðề Tài thường được Giáo Triều Tôi Chú Trọng

Chúng Tôi đã nhấn mạnh đến tính cách quan trọng của đề tài truyền bá phúc âm hoá này ở nhiều dịp, như lần trước khi diễn ra cuộc Thượng Hội Giám Mục. Vào ngày 22/6/1973, Chúng Tôi đã nói với Hồng Y Ðoàn rằng: "Những điều kiện của xã hội chúng ta đang sống đòi buộc tất cả chúng ta phải điều chỉnh lại các phương pháp, phải tìm kiếm mọi phương tiện để học cách mang sứ điệp Kitô giáo đến cho con người tân tiến. Bởi vì con người tân tiến ngày nay chỉ có thể tìm thấy giải đáp cho các vấn nạn của mình, cũng như tìm thấy nghị lực trong việc dấn thân hoạt động cho mối đoàn kết nhân loại, nơi sứ điệp Kitô giáo mà thôi" (AAS 65 -1973, p. 383). Ngoài ra, Chúng Tôi còn nói, để đáp ứng một cách thỏa đáng cho những đòi hỏi của Công Ðồng trong việc kêu gọi chúng ta chú trọng đến vấn đề này, chúng ta nhất định phải để ý đến di sản đức tin Giáo Hội có nhiệm vụ cần phải bảo trì một cách trọn vẹn, cũng như có nhiệm vụ trình bày cho con người ở thời đại chúng ta, một cách dễ hiểu và hấp dẫn bao nhiêu có thể.

4- Hợp Với Thượng Hội Giám Mục Thế Giới 1974

Việc trung thành với cả sứ điệp thuộc trách nhiệm của mình, cũng như việc trung thành với thành phần con người cần chúng ta truyền đạt một cách sống động và nguyên tuyền sứ điệp này, là nồng cốt chi phối việc truyền bá phúc âm hoá. Nó đặt ra ba vấn đề nóng bỏng luôn được Thượng Hội Giám Mục 1974 nhắc tới, đó là:

* Trong thời điểm của chúng ta đây, những gì đã xẩy ra cho tiềm lực của Tin Mừng, một tin mừng có thể tác dụng mạnh mẽ trên lương tâm con người?

* Quyền lực của phúc âm có khả năng biến đổi con người ở thế kỷ này đến độ nào và bằng cách nào?

* Ðể quyền lực của Phúc Âm có thể gây ảnh hưởng thì phải dùng đến các phương pháp nào?

Những thắc mắc này rõ ràng cho thấy vấn nạn căn bản Giáo Hội đang tự hỏi mình hôm nay đây, một vấn nạn có thể được diễn đạt bằng những từ ngữ sau đây: sau Công Ðồng và nhờ Công Ðồng, một thời điểm Thiên Chúa ban cho Giáo Hội, ở vào ngay khúc quanh của lịch sử này, Giáo Hội có thấy rằng, hay không thấy rằng, mình được trang bị kỹ lưỡng hơn trong việc loan báo Phúc Âm, cũng như trong việc đưa sứ điệp này vào lòng người bằng một niềm xác tín, bằng tự do thanh thoát và có công hiệu?

5- Mời Gọi Suy Niệm

Tất cả chúng ta đều có thể thấy được tính cách khẩn trương trong việc đáp ứng một cách trung thực, khiêm cung và can trường trước vấn nạn này, cũng như trong việc theo đó mà tác hành.

Trong việc "để ý quan tâm đến tất cả mọi Giáo Hội" (2Cor.11:28), Chúng Tôi muốn giúp cho anh em mình, cũng như cho con cái nam nữ của mình, đáp lại những thắc mắc này. Những lời của Chúng Tôi phát xuất từ Cuộc Thượng Hội Giám Mục xúc tích, và có mục đích thực hiện việc suy niệm về vấn đề truyền bá phúc âm hoá. Chớ gì những lời này mời gọi được toàn thể Dân Chúa tụ hợp trong Giáo Hội thực hiện cùng một việc suy niệm này; và chớ gì những lời ấy gây nên một thúc đẩy mới đối với mọi người, nhất là đối với những "ai đang kiên trì rao giảng và truyền dạy" (1Tim.5:17), để mỗi một người trong họ có thể "hiên ngang rao giảng sứ điệp chân lý" (2Tim.2:15), và có thể hoạt động như một giảng viên Phúc Âm, thong dong thi hành thừa tác vụ của mình một cách hoàn hảo.

Chúng ta dường như thấy được tầm quan trọng chính yếu nơi một huấn dụ như vậy, vì việc trình bày sứ điệp Phúc Âm không phải là một đóng góp tùy ý cho Giáo Hội. Nó là một nhiệm vụ của Giáo Hội do lệnh truyền của Chúa Giêsu, để nhờ đó con người có thể tin tưởng mà được cứu độ. Sứ điệp này thực sự là cấn thiết. Nó có một không hai. Nó không thể thay thế được. Nó không được phép dửng dưng, trộn lẫn hay dung hợp. Nó là vấn đề phần rỗi của con người ta. Nó là vẻ đẹp của Mạc Khải mà nó biểu trưng. Nó có sẵn một sự khôn ngoan không phải của thế gian. Nó có thể tự mình khuấy động đức tin - một đức tin dựa vào quyền năng của Thiên Chúa (x.1Cor.2:5). Nó là sự thật. Nó kiếm được thành phần tông đồ hiến tất cả thời giờ và nghị lực của mình cho nó, và nếu cần hy sinh cả mạng sống của mình cho nó nữa.

***

CHƯƠNG I

TỪ CHÚA KITÔ, ÐẤNG TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA

ÐẾN GIÁO HỘI TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA

 

6-  Chứng Từ và Sứ Vụ của Chúa Giêsu

Chứng từ Chúa Giêsu đã tỏ cho chúng ta thấy về chính mình Người và là chứng từ Thánh Luca đã thu thập lại trong Phúc Âm của mình - "Tôi phải loan báo Tin Mừng về nước Thiên Chúa" (Lk.4:43) - chắc chắn có những thành quả lớn lao, vì nó gồm tóm tất cả sứ vụ của Chúa Giêsu: "Ðó là điều Tôi được sai đi để làm" (ibid.). Những lời này thật sự mang một tính cách quan trọng, nếu người ta liên kết chúng với các câu trước đó, tức với những lời của tiên tri Isaia được Chúa Giêsu dùng để chỉ áp dụng cho bản thân Người: "Thần Linh Chúa được ban cho Tôi, vì Ngài đã xức dầu cho Tôi. Ngài đã sai Tôi đi mang tin mừng cho người nghèo khó" (Lk.4:18; x.Is.61:1)

Việc đi từ tỉnh lị này tới thị xã kia, rao giảng cho người bần cùng nhất - thường là thành phần dễ chấp nhận lời Người rao giảng nhất - tin mừng về việc Thiên Chúa hoàn thành các lời hứa cũng như Giao Ước của Ngài, là một sứ vụ được Chúa Kitô công bố là do Cha đã sai Người đi để thực hiện. Tất cả mọi khía cạnh nơi mầu nhiệm của Người - chính việc Nhập Thể, các phép lạ Người làm, giáo thuyết Người dạy, việc Người qui tụ các môn đệ, việc Người sai 12 Vị đi, thập giá và phục sinh, việc Người luôn ở cùng thành phần riêng của Người - đều là những yếu tố của hoạt động truyền bá phúc âm hoá.

7-  Chúa Giêsu là Ðấng Truyền Bá Phúc Âm Hoá Tiên Khởi

Trong cuộc Thượng Hội, các vị giám mục rất thường hay nhắc đến chân lý này: chính Chúa Giêsu, Tin Mừng của Thiên Chúa (Mk.1:1; Rm. 1:1-3), là Ðấng truyền bá phúc âm hoá tiên khởi và tuyệt nhất; Người đã hoàn tất mọi sự tới mức toàn hảo và cho đến độ hy hiến mạng sống trần gian của mình.

Ðối với Chúa Giêsu, việc truyền bá phúc âm hoá thúc buộc này có nghĩa là gì? Chắc chắn, để diễn đạt cho thấy được tổng hợp đầy đủ cái ý nghĩa, nội dung và thể thức của việc truyền bá phúc âm hoá theo như Chúa Giêsu đã quan niệm và áp dụng không phải là một chuyện dễ. Dù có cố gắng để thực hiện một cuộc tổng luận đi chăng nữa cũng không bao giờ trọn vẹn. Chúng ta hãy tạm nhắc lại ở đây một vài khía cạnh thiết yếu.

8-  Loan Báo Vương Quốc của Thiên Chúa

Là một nhà truyền bá phúc âm hoá, Chúa Kitô trước hết loan báo về một vương quốc, vương quốc của Thiên Chúa; việc này quan trọng đến nỗi, mọi sự khác so với nó chỉ là "phần còn lại", phần "được ban cho thêm" (x.Mt.6:33). Bởi thế, chỉ có vương quốc của Thiên Chúa mới là tất cả, và vương quốc này làm cho mọi sự khác thành thứ yếu. Bằng nhiều cách thức, Chúa Giêsu đã thích diễn tả niềm hạnh phúc được thuộc về vương quốc này (một niềm hạnh phúc ngược ngạo được tạo nên bởi những thứ bị thế gian phủ nhận) (x.Mt.5:3-12), những đòi hỏi của vương quốc ấy cùng với bản Ðại Hiến Chương của nó (Mt.5-7), những người loan báo vương quốc này (x.Mt.10), các mầu nhiệm của nó (x.Mt.13), các con trẻ nhỏ của nó (x.Mt.18), việc canh thức và trung thành cần thiết đối với những ai trông đợi vương quốc này vĩnh viễn trị đến (x.Mt.24-25).

9-  Loan Báo Việc Giải Phóng Cứu Ðộ

Là cốt lõi và là tâm điểm Tin Mừng của mình, Chúa Kitô đã loan báo ơn cứu độ, một đại hồng ân của Thiên Chúa, đó là việc giải phóng con người khỏi mọi sự đè nén họ, nhưng trước hết là việc giải phóng họ khỏi tội lỗi và Tên Gian Ác, bằng niềm vui nhận biết Thiên Chúa và được Ngài biết đến, được chiêm ngưỡng Ngài, và được thuộc về Ngài. Tất cả tặng ân này đã được khởi sự trong cuộc sống của Chúa Kitô, rồi cuối cùng được hoàn tất nơi cuộc tử nạn và phục sinh của Người. Thế nhưng, tặng ân ấy cần phải được kiên nhẫn ban phát theo giòng lịch sử, để nó hoàn toàn được thể hiện vào ngày Chúa Kitô đến lần sau hết, một ngày không một ai biết được ngoại trừ Chúa Cha (x.Mt.24:36; Acts 1:7; 1Thess.5:1-2).

10- Bằng Giá Nỗ Lực Khổ Giá

Vương quốc này và ơn cứu độ này, những từ ngữ chính của việc Chúa Giêsu Kitô truyền bá phúc âm hoá, sẵn sàng ban cho mọi người như là một ân huệ và tình thương, tuy nhiên, mỗi một người đồng thời cũng phải mãnh liệt để chiếm lấy - vương quốc này và ơn cứu độ này thuộc về kẻ mạnh, như Chúa Giêsu nói (x.Mt.11:12; Lk.16:16), bằng khó nhọc và khổ đau, bằng một đời sống theo Phúc Âm, bằng bỏ mình và thập giá, bằng tinh thần các phúc đức thật. Thế nhưng, trên hết, mỗi người chiếm lấy vương quốc này và ơn cứu độ này bằng một cuộc hoàn toàn canh tân nội tâm mà Phúc Âm gọi là metanoia; nó là một cuộc hoán cải thực sự, một cuộc đổi thay trí lòng (x.Mt.4:17).

11- Miệt Mài Rao Giảng

Chúa Kitô đã hoàn tất việc loan báo vương quốc của Thiên Chúa bằng việc không ngừng rao giảng bằng lời nói, thứ ngôn từ mà, được dân cho rằng không ai bằng: "Ðó là một thứ giáo thuyết mới, nói có quyền thế" (Mk.1:27). "Người đã được mọi người đón nhận, và họ ngỡ ngàng về những lời lẽ ân sủng phát ra từ môi miệng của Người" (Lk.4:22). "Chưa hề có ai nói năng như Người" (Jn.7:46). Những lời của Người mạc khải cho thấy bí mật sâu nhiệm của Thiên Chúa, dự án của Ngài và lời hứa của Ngài, nhờ đó Người làm thay đổi tâm can và định mệnh của con người.

12- Bằng Những Dấu Chỉ Phúc Âm

Thế nhưng, Chúa Kitô cũng thực hiện việc loan báo này bằng vô số những dấu chỉ, khiến đám đông dân chúng lạ lùng, đồng thời Người cũng kéo họ đến cùng Người, để thấy Người, nghe Người và để Người biến đổi họ: bệnh nhân được chữa lành, nước lã hoá thành rượu, bánh hoá ra nhiều, kẻ chết sống lại. Trong số tất cả những dấu chỉ này, có một dấu chỉ rất quan trọng gắn liền với Người, đó là thành phần thấp hèn và nghèo khó được truyền bá phúc âm hoá, thành phần trở nên môn đệ của Người và "nhân danh Người" qui tụ nhau lại thành một cộng đoàn lớn của những ai tin vào Người. Chúa Giêsu, Ðấng đã công bố "Tôi phải rao giảng Tin Mừng của Nước Thiên Chúa" (Lk.4:43) cho thành phần này, cũng là Chúa Giêsu được Thánh Ký Gioan nói rằng Người đã đến và chết đi "để qui tụ con cái Thiên Chúa bị phân tán lại với nhau" (Jn.11:52). Như thế là Người đã đạt thành mạc khải của Người, bằng cách hoàn tất nó và chứng thực nó bằng tất cả việc Người tỏ Mình ra, qua lời nói và việc làm, qua dấu chỉ và phép lạ, nhất là qua cuộc tử nạn, qua việc phục sinh và qua việc sai Thần Chân Lý đến (x. Công Ðồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Mạc Khải Dei Verbum, đoạn 4: AAS 58 -1966 - pp 818-819).

13- Cho Cộng Ðồng được Truyền Bá Phúc Âm Hoá và làm Việc Truyền Bá Phúc Âm Hoá thấy

Những ai thành tâm chấp nhận Tin Mừng, thì nhờ quyền năng của việc chấp nhận này cũng như của niềm tin chung, qui tụ nhau lại vì danh Chúa Giêsu, để cùng nhau tìm kiếm vương quốc ấy, xây dựng và sống vương quốc ấy. Họ làm nên một cộng đồng lãnh trách nhiệm truyền bá phúc âm hoá. Lệnh truyền cho 12 Vị ra đi loan báo Tin Mừng cũng áp dụng cho tất cả mọi Kitô hữu, cho dù theo cách thức khác nhau. Chính vì lý do này Thánh Phêrô đã gọi Kitô hữu là "một dân được tách biệt ra để chúc tụng Thiên Chúa" (1Pt.2:9), để ca ngợi những điều kỳ diệu mà mỗi một người có thể nghe thấy bằng ngôn ngữ riêng của mình (x.Acts 2:11). Hơn thế nữa, Tin Mừng về vương quốc đang đến và đã được khởi sự này còn nhắm đến tất cả mọi dân nước qua giòng thời gian. Những ai đã lãnh nhận Tin Mừng, cũng là những ai được Tin Mừng qui tụ lại thành một cộng đồng cứu độ, có thể và buộc phải thông đạt cùng truyền bá Tin Mừng ấy nữa.

14- Truyền Bá Phúc Âm Hoá là Ơn Gọi Xứng Hợp với Giáo Hội

Giáo Hội biết được điều này. Giáo Hội vẫn nhận thức một cách sống động được rằng những lời Chúa Cứu Thế nói "Tôi phải loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa" (Lk.4:43) cũng hoàn toàn áp dụng cho chính Giáo Hội nữa. Cùng với Thánh Phaolô, Giáo Hội còn muốn thêm là: "Tôi không vênh vang về việc rao giảng phúc âm, vì việc này là một nhiệm vụ buộc tôi phải làm; khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng phúc âm!" (1Cor.9:16). Thật là một niềm vui mừng và ủi an khi chúng ta nghe thấy những lời ngời sáng được phát biểu vào lúc kết thúc Cuộc Thượng Hội Giám Mục năm 1974: "Chúng tôi một lần nữa muốn xác nhận công việc truyền bá phúc âm hoá tất cả mọi dân nước là công việc làm nên sứ vụ chính yếu của Giáo Hội" (Tuyên Ngôn của các vị Nghị Phụ Thượng Hội Giám Mục, đoạn 4: tuần san L’Osservatore Romano, 27/10/1974, p.6). Ðó là một công việc và là một sứ vụ khẩn trương hơn bao giờ hết trước những đổi thay rộng lớn và sâu xa nơi xã hội hiện đại. Việc truyền bá phúc âm hoá thực là một ân huệ và là một ơn gọi xứng hợp với Giáo Hội, với căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu là để truyền bá phúc âm hoá, tức là, để rao giảng và chỉ dạy, để làm máng thông ơn, để hoà giải tội nhân với Thiên Chúa, và để kéo dài hy tế của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.

15- Mối Tương Hệ giữa Giáo Hội và Việc Truyền Bá Phúc Âm Hoá

Bất cứ người nào đọc lại nguồn gốc của Giáo Hội trong Tân Ước, theo sát lịch sử của Giáo Hội và để ý đến việc Giáo Hội sống động, đều thấy rằng, tự bản chất sâu xa nhất của mình, Giáo Hội gắn liền với việc truyền bá phúc âm hoá:

Giáo Hội được sinh ra bởi hoạt động truyền bá phúc âm hoá của Chúa Giêsu cũng như của 12 Vị. Giáo Hội là một hoa trái dĩ nhiên, cần có, điển hình nhất và trực tiếp nhất của hoạt động truyền bá phúc âm hoá này: "Vậy các con hãy đi tuyển mộ môn đồ nơi tất cả mọi quốc gia" (Mt.28:19). Bấy giờ "họ chấp nhận những gì Phêrô nói và chịu phép rửa. Có chừng ba ngàn người nữa thêm vào số của họ ngay ngày hôm ấy. Càng ngày Chúa lại thêm vào cộng đoàn của họ những người được cứu độ" (Acts 2:41,47).

Vì Giáo Hội vào đời là do bởi được sai đi nên Giáo Hội đã được Chúa Giêsu sai đi. Giáo Hội ở lại thế gian khi Chúa vinh hiển về cùng Cha. Giáo Hội ở lại thế gian như là một dấu chỉ - vừa lu mờ vừa sáng tỏ - cho một sự hiện diện mới của Chúa Giêsu, cho việc Người ra đi và việc Người mãi mãi hiện diện. Giáo Hội nối dài và nối tiếp Người. Nhất là Giáo Hội được kêu gọi để tiếp tục (Công Ðồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý Lumen Gentium về Giáo Hội, đoạn 8: AAS 57 -1965 - p. 11; Sắc Lệnh Ad Gentes về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội, đoạn 5: A A S 58 -1966 - pp. 951-952) sứ vụ của Người, cũng như tiếp tục thân phận là một Ðấng truyền bá phúc âm hoá của Người. Cộng Ðồng Kitô hữu không bao giờ tự khép kín mình lại. Ðời sống nội tại của cộng đồng này - một đời sống lắng nghe Lời Chúa cùng với giáo huấn của các tông đồ, một đời sống bác ái được thể hiện bằng tình huynh đệ, một đời sống bẻ bánh (x. Acts 2:42-46, 4:32-35, 5:12-16) - một đời sống như vậy chỉ đạt được ý nghĩa trọn vẹn của mình khi nó trở thành một chứng từ, khi nó gợi lên lời ngợi khen và hoán cải, cũng như khi nó trở thành lời rao giảng và loan báo Tin Mừng. Như thế, cả Giáo Hội đã lãnh nhận sứ vụ truyền bá phúc âm hoá, và việc làm của mỗi phần tử riêng biệt đều quan trọng đối với toàn thể Giáo Hội.

Giáo Hội là một nhà truyền bá phúc âm hoá, song Giáo Hội lại được bắt đầu bằng việc được truyền bá phúc âm hoá. Giáo Hội là một cộng đồng tín hữu, một cộng đồng sống hy vọng và truyền đạt hy vọng, một cộng đồng yêu thương huynh đệ; Giáo Hội cần luôn luôn lắng nghe những gì Giáo Hội phải tin tưởng, lắng nghe những lý do Giáo Hội hy vọng, lắng nghe giới luật mới yêu thương nhau. Giáo Hội là Dân Chúa ngụp lặn trong thế gian và thường bị các ngẫu tượng lôi cuốn, Giáo Hội bao giờ cũng cần nghe loan báo về "những công cuộc quyền năng của Thiên Chúa" (x. Acts 2:11; 2Pt.2:9) để làm cho Giáo Hội quay về cùng Chúa; Giáo Hội luôn luôn cần được Người lên tiếng nhắc nhở chung và cần phải tái hiệp nhất lại với nhau. Tóm lại, nghĩa là Giáo Hội lúc nào cũng cần phải được truyền bá phúc âm hoá, nếu Giáo Hội muốn giữ được nét trẻ trung, vẻ cứng cát và sức tráng kiện để loan báo Phúc Âm. Công Ðồng Chung Vaticanô II đã nhắc nhở (x. Sắc Lệnh Ad Gentes về Hoạt Ðồng Truyền Giáo của Giáo Hội, đoạn 5, 11-12: AAS 59 - 1966 - pp. 951-952, 959-961), rồi Thượng Hội Giám Mục Thế Giới năm 1974 cũng đã cương quyết tiếp tục, đề tài này về Giáo Hội, một Giáo Hội được truyền bá phúc âm hoá, bằng cách liên tục hoán cải và canh tân, để có uy tín thực hiện việc truyền bá phúc âm hoá thế giới.

Giáo Hội là nơi chất chứa Tin Mừng cần phải được loan báo. Những lời hứa của cuộc Hợp Kết Mới nơi Chúa Giêsu Kitô, giáo huấn của Chúa và của các tông đồ, Lời sự sống, các nguồn ân sủng và lòng từ ái của Thiên Chúa, con đường cứu độ - tất cả những điều này đã được ký thác cho Giáo Hội. Chính nội dung của Phúc Âm, bởi đó cũng là nội dung của việc truyền bá phúc âm hoá, do Giáo Hội bảo trì như một di sản sống động quí báu, không phải là để giữ kín mà là để truyền đạt.

Ðược sai đi và được truyền bá phúc âm hoá, chính Giáo Hội cũng sai các nhà truyền bá phúc âm hoá đi. Giáo Hội đặt nơi môi miệng của họ Lời cứu độ, Giáo Hội dẫn giải cho họ sứ điệp mà chính Giáo Hội là kho chất chứa, Giáo Hội trao cho họ mệnh lệnh tự Giáo Hội đã lãnh nhận và Giáo Hội sai họ đi rao giảng. Họ rao giảng không phải bản thân họ, hay những ý nghĩ tư riêng của họ, (x. 2Cor.4:5; Thánh Âu-Quốc-Tinh, sermo XLVI, De Patoribus: CCL XLI, pp. 529-530), song là Phúc Âm mà cả Giáo Hội cũng như riêng họ không có toàn quyền làm chủ hay nắm giữ, trình bày theo như ý của mình, là Phúc Âm mà họ là thừa tác viên, để họ truyền lại một cách hoàn toàn trung thực.

16- Giáo Hội bất khả phân ly với Chúa Kitô

Như thế có một liên hệ sâu xa giữa Chúa Kitô, Giáo Hội và việc truyền bá phúc âm hoá. Trong giai đoạn Giáo Hội chúng ta đang sống đây, chính Giáo Hội đang làm công việc truyền bá phúc âm hoá. Công việc đòi hỏi này không hoàn thành được, nếu thiếu Giáo Hội, càng không thể, nếu đi ngược lại với Giáo Hội.

Cần phải nhắc lại sự kiện là, vào một thời điểm như lúc này đây, chúng ta không khỏi đau lòng nghe thấy người ta - những người chúng ta tin là có chủ ý rõ ràng song chắc chắn thái độ của họ đã bị hướng dẫn đi lệch hướng - tiếp tục cho rằng mình yêu mến Chúa Kitô mà không cần yêu mến Giáo Hội, lắng nghe Chúa Kitô chứ không phải Giáo Hội, thuộc về Chúa Kitô song ở ngoài Giáo Hội. Cái vô lý buồn cười nơi việc phân rẽ này là bằng chứng rõ ràng cho câu Phúc Âm: "Ai phủ nhận các con là phủ nhận Thày" (Lk.10:16; xem Thánh Cyprianô De Unitate Ecclesiae, 14: PL 4, 527; Thánh Âu-Quốc-Tinh, Enarrat, 88, Sermo, 2, 14: PL 37, 1140; Thánh Gioan Kim Khẩu, Hom. de capto Eutropio, 6: PG 52, 462). Nếu Thánh Phaolô đã chứng tỏ cho thấy Chúa Kitô rõ ràng nhất ở chỗ: "Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội và đã hy hiến mình vì Giáo Hội" (Eph.5:25), thì người ta làm sao có thể yêu mến Chúa Kitô mà lại không mến yêu Giáo Hội được.

***

CHƯƠNG II

TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HOÁ LÀ GÌ?

 

17- Tính Cách Phức Tạp của Hoạt Ðộng Truyền Bá Phúc Âm Hoá

Dĩ nhiên, trong hoạt động truyền bá phúc âm hoá của Giáo Hội có một số yếu tố và khía cạnh cần phải được đặc biệt nhấn mạnh. Trong những yếu tố này, có một số quan trọng đến nỗi dễ hướng chiều về việc đồng hoá mình với việc truyền bá phúc âm hoá. Bởi thế, việc truyền bá phúc âm hoá đã có thể được định nghĩa như là việc loan báo Chúa Kitô cho những ai chưa biết Người, như là việc rao giảng, như là việc dạy giáo lý, như là việc ban Phép Rửa và các bí tích khác.

Bất cứ một định nghĩa không trọn và khiếm khuyết nào để cố gắng dẫn giải thực tại truyền bá phúc âm hoá hết sức phong phú, phức tạp và năng động này đều có thể làm điều này một cách liều lĩnh trong việc nghèo nàn hoá nó, thậm chí làm cho nó bị méo mó đi nữa. Trừ phi người ta cố gắng để ý đến tất cả mọi yếu tố chính yếu của việc truyền bá phúc âm hoá, bằng không, họ không thể nào thấu triệt được quan niệm về việc truyền bá phúc âm hoá.

Những yếu tố này được nhấn mạnh một cách vững chắc ở Cuộc Thượng Hội vừa rồi, và vẫn còn là chủ đề cho việc tìm hiểu thường xuyên, như thành quả từ công việc của Thượng Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới. Chúng ta hân hoan nơi sự kiện là những yếu tố này theo sát chiều hướng của những gì được truyền đạt cho chúng ta từ Công Ðồng Chung Vaticanô II, nhất là từ Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Gaudium et Spes, và Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes.

18.  Việc Canh Tân Nhân Loại

Ðối với Giáo Hội, truyền bá phúc âm hoá nghĩa là mang Tin Mừng cho tất cả mọi tầng lớp nhân loại, để rồi, nhờ ảnh hưởng của Tin Mừng, biến đổi nhân loại từ bên trong và làm cho nhân loại nên mới: "Giờ đây Ta làm cho mọi tạo vật nên mới" (Rev.21:5; x.2Cor.5:17; Gal.6:15). (Biệt chú của người dịch: căn cứ vào câu định nghĩa chính thức của Giáo Hội có hai phần rõ ràng này, người dịch đã cố ý dùng cụm từ "truyền bá phúc âm hoá", thay vì dùng các chữ vẫn thường được dùng, như "truyền bá phúc âm", một chữ chỉ diễn tả được hoạt động truyền giáo ban đầu nơi thành phần ngoài Giáo Hội Chúa Kitô, đúng như phần đầu của câu định nghĩa nói đến, hay  "phúc âm hoá", một chữ chỉ diễn tả được hoạt động tông đồ hầu như cho thành phần đã chịu phép rửa, như ý nghĩa được đề cập đến trong phần thứ hai của câu định nghĩa). Thế nhưng, sẽ không có một tân nhân loại, nếu trước hết không có những con người mới được canh tân nhờ Bí Tích Rửa Tội (x.Rm.6:4) và nhờ cuộc sống theo Phúc Âm (x.Eph.4:23-24; Col.3:9-10). Thế nên, mục đích của việc truyền bá phúc âm hoá chính là việc cải đổi nội tâm này, và nếu cần phải diễn đạt bằng một câu nói thì cách hay nhất là nói thế này, Giáo Hội truyền bá phúc âm hoá là Giáo Hội tìm cách hoán cải, bằng nguyên thần lực của sứ điệp mà Giáo Hội công bố, lương tâm của cả cá nhân cũng như tập thể con người, những hoạt động họ làm cùng với cuộc sống và hoàn cảnh của họ.

19.  Và các Tầng Lớp Nhân Loại

Ðối với Giáo Hội, vấn đề tầng lớp nhân loại cần được biến đổi không phải chỉ là việc rao giảng Phúc Âm ở những miền rộng rãi hơn trước nữa, hay cho nhiều người  hơn trước nữa, mà còn ở việc tác lực, đúng ra ở việc biến đổi, theo quyền lực Phúc Âm, tiêu chuẩn phán đoán của con người, những giá trị ấn định, những điều lợi lộc, những giòng tư tưởng, những nguồn cảm hứng và những mẫu thức sống, nghĩa là tất cả những gì tương phản với Lời của Thiên Chúa và dự án cứu độ.

20.  Truyền Bá Phúc Âm Hoá các Nền Văn Hoá

Tất cả những việc này có thể được diễn đạt bằng những lời sau đây: vấn đề là làm sao để truyền bá phúc âm hoá văn hoá cũng như những văn hoá của con người, (không phải bằng một đường lối vẽ vời vậy thôi, như đã xẩy ra trong việc hời hợt áp dụng, mà bằng một đường lối dứt khoát, sâu xa và nhắm vào chính căn gốc của chúng), theo một ý nghĩa rộng rãi và phong phú mà những từ ngữ này được đề cập đến trong hiến chế Gaudium et Spes (đoạn 53), luôn luôn lấy con người như khởi điểm của mình và luôn luôn qui về mối liên hệ giữa con người với nhau và với Thiên Chúa.

Do đó, Phúc Âm, từ đó có việc truyền bá phúc âm hoá, và văn hoá chắc chắn không phải là một, Phúc Âm và việc truyền bá phúc âm hoá biệt lập với tất cả mọi văn hoá. Tuy nhiên, vương quốc mà Phúc Âm loan báo được sống bởi con người là thành phần lại gắn liền với văn hoá, và việc xây dựng vương quốc không thể nào tránh được sự vay mượn những yếu tố của văn hoá hay những văn hoá nhân loại. Mặc dầu biệt lập với các văn hoá, Phúc Âm và việc truyền bá phúc âm hoá không thiết yếu phải tương khắc với những nền văn hoá này, hơn là Phúc Âm và việc truyền bá phúc âm hoá có khả năng hòa nhập tất cả chúng lại với nhau mà không bị lệ thuộc vào nhau.

Việc phân rẽ giữa Phúc Âm và văn hoá thực sự là một thảm kịch của thời đại chúng ta, cũng như đã xẩy ra ở những thời đại khác. Vì thế, cần phải thực hiện mọi nỗ lực để bảo đảm cho một cuộc hoàn toàn truyền bá phúc âm hoá văn hoá, hay đúng hơn các văn hoá. Chúng phải được tái sinh bởi việc gặp gỡ Phúc Âm. Thế nhưng, cuộc gặp gỡ này sẽ không xẩy ra được nếu Phúc Âm không được loan báo.

21. Tầm Quan Trọng Chính Yếu của Chứng Từ Ðời Sống

Trước hết, Phúc Âm cần phải được rao giảng bằng việc làm chứng. Chẳng hạn một Kitô hữu, hay một số Kitô hữu, khi sống giữa cộng đồng của mình, tỏ ra có khả năng hiểu biết và chấp nhận, biết chia sẻ cuộc sống và thân phận với người khác, biết liên kết nỗ lực với tất cả mọi người để thực hiện những gì cao qúi và tốt lành. Ngoài ra, chúng ta còn cho là họ chiếu giãi đức tin của họ, một cách hoàn toàn đơn thành và tuyền vẹn, qua những giá trị xa vượt những giá trị tạm thời, cũng như họ chiếu giãi đức cậy của họ, nơi một cái gì đó không thấy được và là những gì người ta không dám mơ tưởng. Nhờ việc làm chứng không lời này, người Kitô hữu gợi lên những câu hỏi tất yếu nơi tâm trí của những ai thấy cuộc sống của họ: Tại sao họ lại như thế? Tại sao họ sống như vậy? Ðộng lực sống của họ là gì hay là ai? Tại sao họ sống giữa chúng ta? Một chứng tá như vậy đã là một việc loan báo âm thầm Tin Mừng và là một việc loan báo rất mãnh lực và hiệu nghiệm. Ở đây chúng ta thực hiện tác động khởi đầu cho việc truyền bá phúc âm hoá. Những vấn đề trên sẽ được đặt ra, từ những người chưa được nghe loan báo về Chúa Kitô, hay từ những người chịu đạo mà không hành đạo, hoặc từ những người sống hữu danh vô thực theo lý thuyết là thành phần Kitô hữu, hay từ những người đang khổ sở tìm kiếm một cái gì đó hay một vị nào đó đánh động họ song họ chưa hoàn toàn nhận diện. Những vấn đề khác cũng sẽ được nẩy ra, sâu xa hơn và khẩn thiết hơn, những vấn đề do chứng từ ấy gợi lên, một chứng từ bao gồm việc hiện diện, chia sẻ và đoàn kết, một chứng từ là yếu tố chính yếu, nói chung, là yếu tố đầu tiên trong việc truyền bá phúc âm hoá.

Tất cả mọi Kitô hữu được kêu gọi cho việc làm chứng này, và bằng cách ấy, họ có thể là những nhà truyền bá phúc âm hoá thực sự. Chúng ta đang đặc biệt nghĩ đến trách nhiệm phải có đối với những người di dân tại xứ sở tiếp nhận họ.

22.  Cần Phải Minh Nhiên Loan Báo

Tuy nhiên, việc làm chứng này bao giờ cũng là một việc làm chưa trọn, vì ngay cả chứng tá tốt đẹp nhất, về lâu về dài, cũng tỏ ra vô hiệu lực, nếu nó không được dẫn giải, chứng thực - điều mà Thánh Phêrô gọi là sẵn sàng "đáp lại cho người đối chất anh em về lý do anh em hy vọng" (1Pt.3:15) - và làm sáng tỏ bằng một việc loan báo rõ ràng và dứt khoát về Chúa Giêsu. Tin Mừng được loan báo bằng chứng tá cuộc sống sớm muộn cũng phải được loan báo bằng ngôn từ của cuộc sống. Nếu danh tánh, giáo huấn, đời sống, lời hứa, vương quốc và mầu nhiệm của Chúa Giêsu Nazarét, Con Thiên Chúa, không được loan báo thì cũng không có việc truyền bá phúc âm hoá đích thực. Lịch sử Giáo Hội, từ bài diễn từ của Thánh Phêrô vào buổi sáng của Ngày Lễ Ngũ Tuần trở đi, đã được hòa trộn và đồng hoá với lịch sử của việc loan báo này... Việc loan báo này - việc rao giảng mở đầu, việc giảng dạy hay dạy giáo lý - chiếm một vị trí quan trọng trong việc truyền bá phúc âm hoá, đến nỗi nó thường được đồng nghĩa với việc truyền bá phúc âm hoá; tuy nhiên, nó cũng chỉ là một phương diện của việc truyền bá phúc âm hoá mà thôi.

23.  Làm cho Con Người Chấp Nhận và Gia Nhập

Thực sự việc loan báo chỉ tiến đến mức độ phát triển trọn vẹn khi nó được lắng nghe, chấp nhận và đồng hoá, và khi nó làm nổi dậy một niềm gắn bó thực sự nơi con người lãnh nhận nó. Một niềm gắn bó với các chân lý mà Chúa đã mạc khải theo tình thương của Ngài; hơn thế nữa, một niềm gắn bó với chương trình sống - một cuộc sống nhờ đó được biến đổi - mà Ngài dự định. Tóm lại, một niềm gắn bó với vương quốc, tức là, với một "tân thế giới", với tân trạng của các sự vật, với tân thức của việc hiện hữu, của cuộc sống, của cuộc sống trong cộng đồng được Phúc Âm khai mở. Một niềm gắn bó như vậy, không thể nào trừu tượng và bất hội nhập, được tỏ ra một cách cụ thể bằng việc hiển nhiên ra nhập vào cộng đồng các tín hữu. Như thế, những ai, có đời sống được biến đổi, gia nhập một cộng đồng mà tự nó là một dấu hiệu biến đổi, một dấu hiệu mới mẻ của sự sống: đó là Giáo Hội, một bí tích hữu hình của ơn cứu độ (x.Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 1,9,48). Việc chúng ta gia nhập cộng đồng hội thánh, tự nó sẽ được thể hiện qua nhiều dấu hiệu khác là những gì nối dài và bộc lộ dấu hiệu Giáo Hội. Trong công cuộc truyền bá phúc âm hoá, một người chấp nhận Giáo Hội như Lời cứu độ (x.Rm.1:16; 1Cor.1:18) thường chuyển nó thành những tác động bí tích sau đây: gắn bó với Giáo Hội và chấp nhận các bí tích, những phương tiện biểu lộ và trợ giúp niềm gắn bó này bằng ân sủng thông ban.

24.  Rồi Trở Thành Một Tân Tông Ðồ

Sau hết, con người đã được truyền bá phúc âm hoá sẽ đi truyền bá phúc âm hoá cho người khác. Ðây là bản trắc nghiệm sự thật, là tiêu chuẩn truyền bá phúc âm hoá, ở chỗ, không được nghĩ rằng con người cần phải chấp nhận Lời Chúa và hiến mình cho vương quốc của Ngài, song lại không cần trở thành một người làm chứng và loan báo Lời Chúa, vương quốc của Chúa theo phận sự của mình.

Ðể giải quyết những quan tâm về ý nghĩa truyền bá phúc âm hoá này, cần phải nêu lên một nhận định cuối cùng, một nhận định chúng tôi cho rằng sẽ giúp làm sáng tỏ những suy tư có dính dáng đến nó.

Như chúng tôi đã nói, truyền bá phúc âm hoá là một tiến trình phức hợp được cấu tạo nên bởi những yếu tố khác nhau, đó là việc canh tân nhân loại, là chứng từ, là việc ra mặt rao giảng, là việc khăng khít trong lòng, là việc gia nhập cộng đồng, là việc chấp nhận những dấu chỉ, là sáng kiến tông đồ. Những yếu tố này có thể mâu thuẫn nhau, đúng hơn là loại trừ nhau. Thật ra, chúng bổ túc lẫn nhau và làm nhau nên phong phú. Mỗi một yếu tố phải luôn luôn được thấy ở trong mối liên hệ với nhau. Công lao của Thượng Hội Giám Mục vừa qua là không ngừng mời gọi chúng ta hãy liên kết những yếu tố này lại với nhau, chứ đừng làm cho chúng đối chọi nhau, để nhờ đó thấu triệt được hoạt động truyền bá phúc âm hoá của Giáo Hội.

Bởi vậy chúng tôi muốn phân định nhãn giới bao quát này, bằng việc suy xét nội dung của việc truyền bá phúc âm hoá và những phương pháp truyền bá phúc âm hoá, cũng như bằng việc làm sáng tỏ cho những ai là đối tượng của sứ điệp Phúc Âm và cho cả những ai đang đảm trách rao giảng sứ điệp Phúc Âm.

***

CHƯƠNG III

NỘI DUNG CỦA VIỆC TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA

 

25.  Nội Dung Chính Yếu và các Yếu Tố Phụ Thuộc

Nơi sứ điệp Giáo Hội loan báo chắc chắn có nhiều yếu tố phụ thuộc. Việc trình bày về chúng lệ thuộc rất nhiều vào những hoàn cảnh đổi thay. Tự chúng cũng thay đổi nữa. Thế nhưng, dầu sao vẫn có một nội dung chính yếu, một bản chất sống động, là những gì không thể điều chỉnh hay bỏ qua mà không làm cho bản chất của chính việc truyền bá phúc âm hoá bị loãng nhạt một cách trầm trọng.

26.  Làm Chứng cho Tình Yêu của Chúa Cha

Cũng không phải là dư thừa khi nhớ lại những điều sau đây: Truyền bá phúc âm hoá trước hết là việc làm chứng, bằng một đường lối đơn thành và trực tiếp, cho Thiên Chúa được mạc khải nơi Chúa Giêsu Kitô trong Chúa Thánh Linh; là làm chứng rằng, nơi Con của Ngài, Thiên Chúa đã yêu thương thế gian - rằng nơi Lời Nhập Thể, Ngài đã ban tất cả mọi sự và đã kêu gọi con người đến sự sống đời đời. Chứng cớ về Thiên Chúa này, đối với nhiều người, có lẽ Ngài vẫn còn là một vị Thiên Chúa vô danh (x. Acts 17:22-23), Ðấng mà họ tôn thờ chẳng có danh tánh gì cả, hay cũng là Ðấng họ tìm kiếm theo tiếng gọi âm thầm của con tim, khi họ cảm thấy cái rỗng không nơi các thần tượng. Thế nhưng, việc truyền bá phúc âm hoá trọn vẹn ở nơi việc biểu lộ sự kiện là, đối với con người, Ðấng Hoá Công không phải là một quyền lực vô danh và xa vời nào đó; Ngài là một Người Cha: "... mà chúng ta được gọi là con cái của Thiên Chúa; và chúng ta thực sự là thế" (1Jn.3:1; x.Rm.8:14-17). Như vậy thì chúng ta là anh chị em của nhau trong Thiên Chúa.

27.  Ơn Cứu Ðộ nơi Chúa Kitô là Cốt Lõi của Sứ Ðiệp

Việc truyền bá phúc âm hoá cũng sẽ luôn luôn chất chứa - như nền tảng, trọng tâm và đồng thời cũng là tột đỉnh cơ cấu của nó - một loan báo minh nhiên là, nơi Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Ðấng đã chết và sống lại từ trong kẻ chết, ơn cứu độ được hiến ban cho tất cả mọi người như một tặng vật của ân sủng và tình thương Thiên Chúa (x.Eph.2:8; Rm.1:16...). Không phải là một ơn cứu độ sẵn có, đáp ứng những nhu cầu thể chất hay ngay cả nhu cầu tâm linh, hạn hữu trong một hoàn cảnh hiện hữu tạm bợ và hoàn toàn đồng nhất với những ước ao, hy vọng, công cuộc và đấu tranh trần thế, mà là một ơn cứu độ vượt trên tất cả mọi giới hạn này, để tiến đến mức hoàn trọn trong sự hiệp thông với Ðấng Tối Cao thần linh duy nhất: một ơn cứu độ siêu việt và cánh chung, được khởi sự ở đời này song được nên trọn ở đời đời.

28.  Qua Dấu Chỉ Hy Vọng

Như thế, việc truyền bá phúc âm hoá không gồm tóm một cái gì khác ngoài việc loan báo hướng về đời sau, một tiếng gọi tối hậu và sâu xa của con người, trong cả mối liên tục cũng như bất liên tục với hoàn cảnh hiện tại: vượt ra ngoài thời gian và lịch sử, ra ngoài thực tại chuyển tiếp của thế giới này, và ra ngoài cả những sự vật của thế giới này, của một thế giới mà chiều kích sâu nhiệm một ngày kia sẽ được tỏ hiện - ra ngoài chính con người mà định mệnh chân thực của họ không bị hạn chế vào phương diện trần thế của họ, trái lại sẽ được tỏ hiện trong một cuộc sống mai hậu (x. 1Jn.3:2; Rm.8:29; Phil.3:20-21...). Thế nên, truyền bá phúc âm hoá cũng gồm tóm cả việc rao giảng về một niềm hy vọng nơi những gì Thiên Chúa hứa hẹn ở Giao Ước mới trong Chúa Giêsu Kitô; việc rao giảng về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta và tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa; việc rao giảng về tình yêu huynh đệ đối với tất cả mọi người - một khả năng của ban phát và thứ tha, của bỏ mình, của giúp đáp anh chị em mình - một tình yêu, xuất phát từ tình yêu Thiên Chúa, là mầm mống của Phúc Âm; việc rao giảng về mầu nhiệm sự dữ và về sự chủ động tìm kiếm sự thiện. Cũng thế, việc rao giảng về cuộc tìm kiếm Chính Thiên Chúa - đây là một việc luôn luôn khẩn trương - qua nguyện cầu, với tác động thiết yếu là tôn thờ và tạ ơn, mà còn qua cả việc hiệp thông với dấu hiệu hữu hình là Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô để gặp gỡ Thiên Chúa; và cuộc hiệp thông này, về phần nó, được diễn đạt bằng việc ứng dụng những dấu hiệu khác của Chúa Kitô sống động và tác hành trong Giáo Hội đó là các bí tích. Ðể sống các bí tích như thế, làm cho việc cử hành các bí tích này được thực sự nên trọn, thì không phải là, như có một số người chủ trương, làm ngăn trở hay chấp nhận một cái gì sai trệch với việc truyền bá phúc âm hoá: trái lại nó làm hoàn tất việc truyền bá phúc âm hoá. Bởi vì, xét theo toàn diện, việc truyền bá phúc âm hoá - trước hết là việc rao giảng một sứ điệp - bao gồm việc trồng cấy Giáo Hội, một Giáo Hội hiện hữu không thể nào thiếu được động lực là đời sống bí tích, lên đến tuyệt đỉnh nơi Bí Tích Thánh Thể (x.Thánh Bộ Tín Lý Ðức Tin, Declaraio circa Catholicam Doctrinam de Ecclisia contra ninnullos errores hodiernos tuendam, 6-24-1973: AAS 65, pp, 396-408).

29.  Sứ Ðiệp Tác Dụng Ðời Sống Con Người

Thế nhưng, việc truyền bá phúc âm hoá sẽ không hoàn toàn, nếu nó không nhắm đến việc liên lỉ giao kết giữa Phúc Âm và cuộc sống thực tiễn của con người, cả về phương diện cá nhân cũng như cộng đồng. Ðây là lý do tại sao việc truyền bá phúc âm hoá bao gồm một sứ điệp minh nhiên, thích ứng với những hoàn cảnh khác nhau được liên tục hiện thực, về những quyền lợi và nhiệm vụ của mọi con người, về đời sống gia đình mà nhờ đó việc tăng trưởng và phát triển cá nhân được thực hiện (x. Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Gaudium et Spes, 47-52), về đời sống trong xã hội, về đời sống quốc tế, hòa bình, công chính và phát triển - một sứ điệp về việc giải phóng đặc biệt hào hứng hiện nay.

30.  Sứ Ðiệp về Việc Giải Phóng

Ðây là một từ ngữ quá quen thuộc mà nhiều vị giám mục ở khắp các đại lục có mặt trong Thượng Hội Giám Mục Thế Giới vừa qua, nhất là các vị giám mục ở Thế Giới Thứ Ba, nhấn mạnh thay cho tiếng nói của triệu triệu con cái nam nữ của Giáo Hội làm nên những dân tộc ấy. Như chúng ta biết, các dân tộc đang tận lực gắng sức và chiến đấu để thắng vượt những gì áp buộc họ cứ phải sống bên lề cuộc đời: như đói khát, bệnh tật kinh niên, nạn mù chữ, bần cùng, những bất công nơi các liên hệ quốc tế và nhất là nơi những giao dịch về thương mại, những trường hợp tân thực dân về kinh tế và văn hoá đôi khi cũng dữ tợn như chủ nghĩa thuộc địa cũ. Như các vị giám mục lập đi lập lại, Giáo Hội có nhiệm vụ phải loan báo việc giải phóng cho triệu triệu con người, trong đó nhiều người là con cái của Giáo Hội - có nhiệm vụ tiếp tay giúp vào việc chào đời của cuộc giải phóng này, giúp vào việc làm chứng cho nó, giúp vào việc bảo đảm đạt thành nó. Ðây không phải là một cái gì xa lạ đối với việc truyền bá phúc âm hoá.

31.  Cần Phải Liên Quan tới Việc Tiến Bộ của Con Người

Giữa việc truyền bá phúc âm hoá và việc thăng tiến của con người - việc phát triển và giải phóng - thực sự có những liên hệ sâu xa. Hai việc này bao gồm những liên hệ theo trật tự nhân loại, vì con người được truyền bá phúc âm hoá không phải là một hữu thể trừu tượng, mà là một chủ thể trước những vấn đề xã hội và kinh tế. Hai việc này cũng bao gồm những liên hệ theo trật tự thần học, vì con người không thể nào tách chương trình tạo dựng ra khỏi chương trình Cứu Chuộc được. Chương trình cứu chuộc chạm đến những hoàn cảnh rất thực tiễn của sự bất chính phải được đối chọi cũng như của sự công chính phải được phục hồi. Cả hai việc này bao gồm những liên hệ của trật tự phúc âm cao cả là trật tự của đức ái: thật vậy, người ta làm sao có thể loan báo một giới răn mới mà lại không cổ động, trong công chính và an bình, một mức thăng tiến đích thực của con người được chăng? Chính Chúng Tôi phải để ý đến việc làm sáng tỏ vấn đề này, bằng cách nhắc lại là, không thể nào chấp nhận được vấn đề, "nơi việc truyền bá phúc âm hoá, người ta có thể, hay cần phải bỏ qua không để ý tới, tầm quan trọng của những vấn đề được bàn đến rất nhiều hiện nay, liên quan đến công lý, giải phóng, tiến bộ và hòa bình trên thế giới. Làm như thế là quên đi bài học dạy chúng ta trong Phúc Âm về việc quan tâm đến tình yêu thương tha nhân của chúng ta, những người đang chịu khổ đau và thiếu thốn" (Ðức Phaolô VI, Diễn Từ khai mạc Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Thường Lệ Lần Thứ Ba, 27/9/1974, AAS 66 - 1974, p. 562).

Cũng có những lời phát biểu nhiệt tình, khôn ngoan và can đảm nói lên trong Thượng Hội Giám Mục về đề tài nóng bỏng này, làm cho chúng tôi hết sức vui mừng, đã cung cấp những nguyên tắc minh tường để hiểu biết xác đáng tầm quan trọng và ý nghĩa sâu xa của việc giải phóng, như nó đã được Chúa Giêsu Nazarét loan báo và chiếm đạt, cũng như nó đã được Giáo Hội rao giảng.

32.  Không Suy Giảm hay Mập Mờ

Chúng ta không được bỏ qua sự kiện là có nhiều  Kitô hữu, thậm chí những Kitô hữu phóng khoáng, thành phần nhậy cảm trước những thảm trạng cần đến vấn đề giải phóng, theo ý họ muốn Giáo Hội dấn thân cho nỗ lực giải phóng, thường có chiều hướng giảm thiểu sứ mệnh của Giáo Hội xuống tới những chiều kích của một dự án thuần túy trần gian. Họ muốn kéo đích điểm của Giáo Hội xuống mục tiêu lấy con người làm chính; họ muốn giảm ơn cứu độ do Giáo Hội là sứ giả xuống tầm mức phúc hạnh về thể chất. Họ muốn hoạt động của Giáo Hội, dẹp đi tất cả những bận tâm về phần thiêng liêng và đạo nghĩa, trở thành những công cuộc sáng tạo về phương diện chính trị và xã hội. Thế nhưng, nếu vậy thì Giáo Hội sẽ mất đi ý nghĩa trọng yếu của mình. Sứ điệp giải phóng của Giáo Hội không còn tính chất nguyên tuyền và sẽ dễ dàng trở thành độc đoán và áp đảo bởi những ý hệ cùng những đảng phái chính trị. Giáo Hội sẽ không còn thẩm quyền để nhân danh Chúa loan báo tự do nữa. Ðó là lý do tại sao chúng tôi, trong cùng bài diễn từ khai mạc Thượng Hội Giám Mục, muốn nhấn mạnh đến "việc cần phải nói lại cho rõ mục đích đặc biệt về tôn giáo nơi việc truyền bá phúc âm hoá. Việc truyền bá phúc âm hoá sẽ mất đi lý do hiện hữu nếu nó lìa khỏi cái trục tôn giáo xoay vần nó: vương quốc của Thiên Chúa, trước hết, là ở ý nghĩa hoàn toàn thần học." (ibid.)

33.  Việc Giải Phóng theo Phúc Âm

Ðối với việc giải phóng mà việc truyền bá phúc âm hoá loan báo và nỗ lực mang ra thực hiện thì người ta phải nói thế này:

- Nó không thể chất chứa trong một chiều kích giản dị và hạn hẹp của lãnh vực kinh tế, chính trị, xã hội hay đời sống văn hoá; nó phải bao gồm toàn thể con người, về tất cả mọi phương diện của họ, cho đến độ bao gồm việc họ vươn tới mức độ tuyệt đối, tới chính Ðấng Tuyệt Ðối thần linh;

- Vì thế nó gắn liền với một nhân sinh quan mà nó không bao giờ có thể làm vật hy sinh cho những nhu cầu của bất cứ một chiến thuật nào, một ứng dụng nào hay một kiến hiệu ngắn hạn nào cả.

34.  Tập Trung vào Vương Quốc của Thiên Chúa

Vậy, khi rao giảng việc giải phóng và liên kết mình với những ai đang hoạt động và chịu khổ vì việc rao giảng, Giáo Hội nhất định không muốn giới hạn sứ vụ của mình vào lãnh vực tôn giáo mà thôi, cũng như không muốn tách mình ra khỏi những vấn đề trần thế của con người. Tuy nhiên, Giáo Hội tái khẳng định nền tảng của ơn gọi thiêng liêng của mình, và không chịu thay thế việc loan báo vương quốc, bằng việc loan báo những thể thức giải phóng thuộc về nhân loại; Giáo Hội còn nói lên rằng, việc đóng góp của Giáo Hội vào việc giải phóng sẽ không trọn vẹn, nếu Giáo Hội lơ đãng trong việc loan báo ơn cứu độ trong Chúa Giêsu Kitô.

35.  Vào Quan Niệm của Phúc Âm về Con Người

Giáo Hội liên kết việc giải phóng thuộc về con người với ơn cứu độ trong Chúa Giêsu Kitô, song Giáo Hội không bao giờ đồng hoá chúng, vì nhờ mạc khải, kinh nghiệm lịch sử và ý thức đức tin, Giáo Hội biết rằng, không phải mọi quan niệm về việc giải phóng đều cần phải gắn liền và tương hợp với quan điểm phúc âm về con người, về các sự vật và về các sự việc; Giáo Hội cũng biết rằng, để vương quốc của Thiên Chúa trị đến thì việc kiến tạo giải phóng, thiết lập an sinh và phát triển mà thôi cũng chưa đủ.

Hơn thế nữa, Giáo Hội còn có một xác tín vững mạnh là, tất cả mọi giải phóng có tính cách trần thế, tất cả mọi giải phóng có tính cách chính trị - cho dù nó có nỗ lực tìm kiếm chứng cớ này nọ trong Cựu Ước hay Tân Ước, cho dù nó có dựa vào những kết luận và dữ kiện thần học cho các giả thiết suy tưởng và những tiêu chuẩn hành động của mình, cho dù nó cứ tưởng mình là một thứ thần học thời nay - cũng mang trong mình một mầm mống chối bỏ chính mình, và không thể nào tiến đến lý tưởng mà nó phác họa cho mình, vì những thúc đẩy sâu xa của nó không phải là những thúc đẩy của công lý trong đức ái, vì lòng nhiệt thành của nó thiếu chiều kích linh thiêng chân thực, và vì mục tiêu tối hậu của nó không phải là ơn cứu độ và hạnh phúc trong Thiên Chúa.

36.  Bao Gồm Việc Hoán Cải Thiết Yếu

Giáo Hội chắc chắn lấy làm quan trọng trong việc xây dựng những cơ cấu nhân bản hơn, chính trực hơn, tôn trọng nhân quyền hơn, ít bị đàn áp và cầm buộc hơn, thế nhưng, Giáo Hội cũng nhận thức  rằng, các cơ cấu hay nhất và những tổ chức lý tưởng nhất chẳng bao lâu sẽ trở thành vô nhân bản, nếu những bản năng vô nhân bản của tâm can con người không được lành mạnh hoá, nếu những ai sống trong những cơ cấu này, hay những ai quản trị chúng, không chịu hoán cải cõi lòng và quan niệm của mình.

37.  Loại Trừ Bạo Lực

Giáo Hội không thể chấp nhận bạo lực, nhất là chấp nhận võ lực - là cái một khi bất khả kiềm chế tự nhiên sẽ bùng nổ - cũng như không chấp nhận việc giết hại bừa bãi, như là một đường lối giải phóng, vì Giáo Hội biết rằng, bạo lực bao giờ cũng khiêu khích bạo lực, và chắc chắn sẽ làm phát sinh ra những hình thức đàn áp và cầm buộc, là những hình thức thường khó chịu đựng hơn là những hình thức họ cho rằng chúng sẽ mang lại tự do. Chúng Tôi đã minh bạch nói đến điều này trong cuộc tông du của mình ở Columbia: "Chúng tôi kêu gọi quí vị đừng đặt lòng tin tưởng vào bạo lực và cách mạng phản lại tinh thần Kitô hữu, có thể làm trì trệ thay vì phát triển việc thăng tiến xã hội như quí vị vẫn được phép mong ước"[2]. "Chúng Tôi phải nói lên và tái xác nhận rằng, vấn đề bạo lực không hợp với Phúc Âm, không phải là Kitô giáo; những thay đổi đột ngột hay vũ bão về các cơ cấu tự chúng là những gì lừa dối, vô hiệu và chắc chắn không hợp với phẩm vị của con người"[3].

38.  Việc Ðóng Góp Ðặc Biệt của Giáo Hội

Khi nói đến điều này, chúng tôi vui mừng thấy rằng Giáo Hội càng ngày càng ý thức hơn về cách thức xứng hợp và phương tiện hoàn toàn theo phúc âm Giáo Hội có được, để hợp tác vào việc giải phóng nhiều người. Vậy Giáo Hội đang làm gì? Giáo Hội đang cố gắng càng ngày càng khuyến khích số đông Kitô hữu dấn thân vào việc giải phóng con người. Giáo Hội đang cung cấp cho các Kitô hữu "giải phóng gia" này tác động của đức tin, động lực của tình yêu huynh đệ, học thuyết xã hội mà một Kitô hữu đích thực không thể nào không biết đến và là một học thuyết họ phải lấy làm nền tảng cho sự khôn ngoan cũng như cho kinh nghiệm của mình, để nhờ đó chuyển dịch nó ra thành những thể thức tác hành, tham gia và dấn thân. Tất cả những điều này phải là đặc tính của một người Kitô hữu dấn thân, không lẫn lộn với các thái độ mánh khoé hay công việc theo đường lối chính trị. Giáo Hô? luôn nỗ lực đưa việc Kitô hữu tranh đấu cho vấn đề giải phóng vào dự án cứu độ phổ quát được chính Giáo Hội loan báo.

Những gì Chúng Tôi vừa nhắc lại ở đây đã hơn một lần được mang ra tranh luận trong cuộc Thượng Hội Giám Mục. Thật vậy, Chúng Tôi đã hiến cho đề tài này một số lời để làm sáng tỏ vấn đề trong bài diễn từ kết thúc cuộc Thượng Hội Chúng Tôi ngỏ cùng các vị Nghị Phụ[4].

Cần phải hy vọng là tất cả những suy xét này sẽ giúp loại trừ đi cái mập mờ của chữ "giải phóng" thường xuất hiện nơi các ý hệ, các thể chế hay phái nhóm chính trị. Vấn đề giải phóng mà việc truyền bá phúc âm hoá loan báo và sửa soạn là vấn đề giải phóng được chính Chúa Kitô công bố và hiến ban cho con người bằng hy tế của Người.

39. Tự Do Tôn Giáo

Việc cần phải bảo toàn các quyền lợi của con người không thể tách khỏi việc giải phóng chính đáng này, một việc giải phóng gắn chặt với việc truyền bá phúc âm hoá, và là việc giải phóng cố gắng bảo toàn các cơ cấu trong việc canh chừng các thứ tự do của con người. Trong các quyền lợi căn bản của con người ấy, quyền tự do tôn giáo chiếm điạ vị quan trọng nhất. Mới đây chúng tôi đã nói về sự liên quan đến vấn đề này, khi nhấn mạnh rằng, "hôm nay đây, có biết bao Kitô hữu, vì họ là Kitô hữu, vì họ là người Công Giáo, đang bị sống vùi dập bởi mưu đồ bắt bớ! Thảm kịch về lòng trung thành với Chúa Kitô và về quyền tự do tôn giáo vẫn tiếp diễn, cho dù nó được ẩn nấp sau chiếc mặt nạ của các thứ loại tuyên ngôn đề cao quyền lợi con người và sự sống trong xã hội!"[5].

***

CHƯƠNG IV

CÁC PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA

 

40.  Tìm Kiếm Những Phương Tiện Thích Hợp

Tầm quan trọng hiển nhiên nơi nội dung của việc truyền bá phúc âm hoá không được che lấp tầm quan trọng của những đường lối và phương tiện.

Vấn đề "truyền bá phúc âm hoá ra sao" bao giờ cũng là một vấn đề tùy thuộc, vì các phương pháp truyền bá phúc âm hoá thay đổi theo các hoàn cảnh khác nhau về thời điểm, nơi chốn và văn hoá, cũng như vì chúng bởi đó trở nên một thách đố cho khả năng khám phá và thích ứng của chúng ta.

Nhất là thành phần mục tử chăn dắt Giáo Hội chúng ta có trách nhiệm phải mạnh bạo và khôn ngoan, nhưng lại hoàn toàn trung thành với nội dung của việc truyền bá phúc âm hoá, trong việc tái sắp xếp các phương tiện thích hợp nhất và hiệu nghiệm nhất cho việc thông đạt sứ điệp Phúc Âm cho con người nam nữ của thời đại chúng ta.

Trong tập suy niệm này, hãy tạm đề cập một số phương pháp mà, vì lý do này hoặc lý do nọ, mang một tầm quan trọng đặc biệt.

41.  Chứng Từ Ðời Sống

Trước hết, không cần phải lập lại mọi điều chúng ta đã đề cập tới, chỉ cần chú trọng đến điểm thích đáng sau đây, đó là, đối với Giáo Hội, phương tiện thứ nhất của việc truyền bá phúc âm hoá là việc làm chứng bằng một đời sống Kitô hữu chân chính cho Thiên Chúa, được tỏ ra bằng mối hiệp thông không gì hủy hoại được, đồng thời cũng được tỏ ra bằng việc hy hiến cho tha nhân với một nhiệt tình vô hạn. Như Chúng Tôi gần đây đã nói với một nhóm giáo dân: "Con người tân tiến mong nghe những chứng nhân hơn là những thày dạy, và nếu họ có lắng nghe các thày dạy là bởi vì các vị thày này là những chúng nhân" (2-10-1974: AAS, 66). Thánh Phêrô đã diễn tả điều này rõ ràng khi ngài chủ trương gương lành của một đời sống đáng kính và trong sạch là một việc chinh phục những kẻ từ chối nghe lời nói mà không cần phải nói một lời nào (x.1Pt.3:1). Bởi thế, bằng việc làm và đời sống của mình, Giáo Hội sẽ truyền bá phúc âm hoá cho thế giới, nói cách khác, bằng chứng tá sống động của mình trong việc trung thành với Chúa Giêsu - chứng tá khó nghèo và không dính bén, chứng tá tự do trước những quyền lực thế gian, tóm lại, chứng tá của sự thánh thiện.

42.  Việc Rao Giảng Sống Ðộng

Thứ đến, cũng không phải là thừa thãi khi nhấn mạnh đến tầm mức quan trọng và cần thiết của việc rao giảng. "Làm sao họ có thể tin vào Người là Ðấng họ chưa bao giờ nghe nói đến? Và làm sao họ được nghe mà lại không có người rao giảng?... Thế nên đức tin nhờ nghe mà có và nghe là do việc rao giảng về Chúa Kitô" (Rm.10:14,17). Ðiều luật đã từng được Vị Tông Ðồ Phaolô chủ trương này vẫn còn nguyên hiệu lực cho đến ngày hôm nay.

Việc rao giảng, tức việc loan báo của sứ điệp, thực sự luôn luôn là một việc bất khả miễn trừ. Chúng ta thừa biết rằng, con người tân tiến chán ngán vấn đề nghe; họ thường tỏ ra mệt mỏi trong vấn đề phải để ý nghe, tệ hơn nữa, họ không lãnh hội được những ngôn từ. Chúng ta cũng biết rằng nhiều tâm lý gia và xã hội gia cho thấy một quan niệm là con người tân tiến đã vượt khỏi thứ văn minh của ngôn từ, một thứ văn minh hiện nay vô hiệu và vô dụng, và hiện thời con người đang sống theo một thứ văn minh của ảnh tượng. Những dữ kiện này bắt buộc chúng ta, vì mục tiêu thông truyền sứ điệp Phúc Âm, phải sử dụng đến những phương tiện tân tiến do thứ văn minh này sản xuất ra. Những nỗ lực rất tích cực về lãnh vực này thực sự đã được thực hiện. Chúng ta không thể nào không khen ngợi chúng và khích lệ chúng phát triển hơn nữa. Tuy nhiên, tình trạng mệt mỏi trong những ngày này do bởi quá nhiều những chuyện rỗng tuyếch, cũng như bởi mức độ thích hợp của những hình thức truyền thông khác, không được làm giảm sút đi quyền lực vĩnh viễn của ngôn từ, hay làm mất đi uy tín của nó. Ngôn từ bao giờ cũng xứng hợp, nhất là khi nó chất chứa quyền lực của Thiên Chúa (x.1Cor.2:1-5). Ðó là lý do tại sao câu châm ngôn của Thánh Phaolô: "Ðức tin từ nghe mà có" (Rm.10:17) vẫn giữ được tính cách của nó: chính Lời được rao giảng mới dẫn đến niềm tin.

43.  Phụng Vụ Lời Chúa

Việc rao giảng phúc âm này có nhiều hình thức, và lòng nhiệt thành sẽ gợi hứng tạo ra những hình thức này hầu như không thiết định được. Thật vậy, có muôn vàn biến cố trong đời sống và hoàn cảnh của con người là những dịp cho thấy một cách khôn ngoan nhưng minh tường về những gì Chúa muốn nói lên trong hoàn cảnh đặc biệt nào đó. Phải có đủ cảm nhận linh thiêng chân thực khi đọc sứ điệp của Thiên Chúa qua những sự việc. Thế nhưng, vào thời gian phụng vụ được Công Ðồng canh tân làm tăng thêm giá trị cho Phụng Vụ Lời Chúa này đây, mà không nhìn nhận bài giảng như là một phương tiện quan trọng và rất thích thuận trong việc truyền bá phúc âm thì thật là một điều sai lầm. Dĩ nhiên, cần phải biết và lợi dụng tính cách khẩn thiết và khả năng của bài giảng để đạt được tất cả hiệu lực mục vụ của bài giảng. Tuy nhiên, trước hết cần phải xác tín được như thế và yêu mến chuyên chú đến điều ấy. Vấn đề rao giảng được đặc biệt đưa vào việc cử hành Thánh Thể làm cho nó đạt hiệu lực và sức mạnh của mình như thế, nhất định?giữ một vai trò đặc biệt trong việc truyền bá phúc âm, đến nỗi, nó nói lên đức tin sâu xa của vị thừa tác thánh và được ưu ái cưu mang. Tín hữu tụ họp lại như một Giáo Hội Vượt Qua, khi cử hành lễ kính Chúa hiện diện ở giữa họ, mong đợi nơi việc rao giảng này rất nhiều, và sẽ nhận được từ đó rất nhiều lợi ích, nếu việc rao giảng này chân thành, rõ ràng, thẳng thắn, thật ứng dụng, căn cứ sâu xa vào giáo huấn Phúc Âm và trung thành với huấn quyền, được khơi động lên bởi nhiệt huyết tông đồ cân đối với bản chất đặc thù của lòng nhiệt huyết tông đồ này, bởi tràn đầy hy vọng, bởi việc bồi dưỡng niềm tin, cũng như bởi việc làm nẩy sinh an bình và hiệp nhất. Nhiều giáo xứ hay các cộng đoàn sống và liên kết với nhau nhờ bài giảng Chúa Nhật, nếu bài giảng có những tính chất này.

Chúng ta cần phải nói thêm là, cũng nhờ canh tân phụng vụ, việc cử hành Thánh Thể không phải là lúc thích hợp duy nhất để thuyết giảng. Không được bỏ việc giảng thuyết trong phụng vụ của tất cả các bí tích, trong những nghi thức á phụng vụ, và trong những cuộc hội họp của tín hữu. Bài giảng sẽ luôn luôn là một dịp tốt lành để thông truyền Lời Chúa.

44.  Giảng Dạy Giáo Lý

Một phương tiện truyền bá phúc âm hoá không được bỏ qua nữa là phương tiện dạy giáo lý. Thành phần trí thức, đặc biệt là trẻ em và giới trẻ, cần học biết, qua việc dạy giáo khoa về đạo lý những giáo huấn căn bản, nội dung sống động về sự thật đã được Thiên Chúa muốn chuyển đạt đến chúng ta, cũng như đã được Giáo Hội tìm cách diễn đạt bằng một thể thức phong phú hơn bao giờ hết trong hành trình lịch sử dài của mình. Không ai chối được rằng, việc dạy giáo lý này cần phải có để tạo nên những mẫu sống Kitô giáo, chứ không phải chỉ là những quan niệm vậy thôi. Thật vậy, nỗ lực truyền bá phúc âm sẽ gặt hái được ích lợi lớn lao - ở mức độ dạy giáo lý tại nhà thờ, trường học, những nơi vốn có thể làm việc này, cũng như trong mọi trường hợp ở tại gia đình Kitô hữu - nếu những người dạy giáo lý có những cuốn giáo khoa thích hợp, cập nhật hoá khéo léo và đầy đủ, được các giám mục chuẩn nhận. Những phương pháp dạy phải được thích ứng với tuổi tác, văn hoá và khả năng của những người lãnh hội; chúng phải luôn luôn làm sao gắn liền với trí nhớ, trí khôn và tâm hồn những chân lý chính yếu cần phải được thấm nhuần vào tất cả đời sống. Nhất là phải sửa soạn cho có những giảng viên giỏi - những giảng viên giáo lý trong giáo xứ, những thày cô, những phụ huynh - thành phần muốn hoàn bị chính mình bằng nghệ thuật siêu đẳng này, một nghệ thuật không có không được và cần đến việc hướng dẫn về đạo giáo. Hơn nữa, một khi chăm lo đến việc huấn luyện trẻ em, người ta sẽ thấy rằng, những cảnh trạng hiện nay khiến việc dạy giáo lý theo hình thức học hỏi giáo lý trở nên khẩn trương hơn bao giờ hết đối với muôn vàn giới trẻ cũng như người lớn, thành phần, được ơn Chúa đánh động, dần dần khám phá ra dung nhan của Ðức Kitô và cảm thấy nhu cầu cần phải hiến mình cho Ngài.

45.  Sử Dụng Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội

Thế kỷ của chúng ta được đánh dấu bằng những phương tiện thông tin hay những phương tiện truyền thông xã hội, và việc loan báo khởi đầu, việc dạy giáo lý hay việc đào sâu đức tin không thể nào thực hiện mà lại không nhờ đến những phương tiện này, như chúng ta đã nhấn mạnh.

Khi được dùng để phục vụ Phúc Âm, chúng có khả năng hầu như vô định trong việc làm tăng tiến lãnh vực rao giảng Lời Chúa; chúng làm cho Tin Mừng vươn đến hằng triệu người. Giáo Hội sẽ cảm thấy có lỗi trước Chúa của mình nếu Giáo Hội không lợi dụng những phương tiện hiệu năng này, những phương tiện được tài khéo của con người mỗi ngày một làm cho hoàn hảo hơn. Chính nhờ chúng, Giáo Hội công bố "từ mái nhà" (x.Mt.10:27; Lk.12:3) sứ điệp Giáo Hội chất chứa. Nơi chúng, Giáo Hội tìm thấy một kiểu mẫu giảng đài tân tiến và tác hiệu. Nhờ chúng Giáo Hội tiếp tục nói với những đám đông.

Tuy nhiên, việc sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội để truyền bá phúc âm hoá gặp phải một thách đố: đó là làm sao nhờ chúng, sứ điệp phúc âm vươn tới một số đông người ta, bằng một khả năng thấu nhập lương tri mỗi cá nhân, khả năng đâm mầm trong tâm can họ như thể họ là một người duy nhất được nghe rao giảng, với tất cả những tính chất riêng tư của họ, và cũng nhờ những phương tiện truyền thông xã hội này sứ điệp phúc âm làm cho mỗi người biết hoàn toàn chấp nhận và dấn thân.

46.  Không Thể Thiếu Việc đối thoại cá nhân (giao tiếp riêng tư – bản dịch!)

Vì lý do này, song song với việc loan báo Phúc Âm cách tập thể, một hình thức khác của việc truyền đạt là hình thức giao tiếp cá nhân, vẫn còn hiệu lực và quan trọng. Chúa thường dùng hình thức này, (chẳng hạn với ông Nicôđêmô, với ông Giakêu, với người phụ nữ Samaritanô, với ông Simon người Pharisiêu), và các tông đồ cũng làm như vậy. Về lâu về dài, có cách nào khác trong việc truyền thông Phúc Âm ngoài cách thông đạt cho người khác cảm nghiệm đức tin riêng của mình chăng? Nhu cầu khẩn thiết trong việc loan báo Tin Mừng cho các đám đông cũng không được khiến chúng ta quên đi cách loan báo này, một cách mà nhờ đó lương tâm riêng của mỗi người được giao chạm bởi một thế giới hoàn toàn chuyên biệt mà họ lãnh nhận từ một người khác. Chúng ta không bao giờ ca ngợi cho đủ những vị linh mục, qua bí tích Thống Hối hay qua việc hội thoại mục vụ, tỏ ra hằng tâm của mình trong việc hướng dẫn người ta theo đường lối Phúc Âm, nâng đỡ những cố gắng của họ, nâng họ lên khi họ sa ngã, và luôn luôn ý thức và sẵn sàng trợ giúp họ.

47.  Vai Trò các Bí Tích

Tuy nhiên, người ta không thể nào nhấn mạnh cho đủ sự kiện là việc truyền bá phúc âm hoá không chỉ có bao gồm việc rao giảng và giảng dạy tín điều. Vì việc truyền bá phúc âm hoá phải chạm đến đời sống: một đời sống tự nhiên được nó ban cho một ý nghĩa mới, nhờ những quan điểm phúc âm do nó tỏ ra cho; cũng như một đời sống siêu nhiên, một đời sống không phủ nhận song thanh tẩy và thăng hoá đời sống tự nhiên.

Ðời sống siêu nhiên này được diễn đạt sống động nơi bảy bí tích, cũng như nơi ánh quang cao qúi của ân sủng và thánh đức ở nơi các bí tích này.

Như thế, việc truyền bá phúc âm hoá thực hiện trọn khả năng của mình khi nó chiếm được mối liên hệ thân mật nhất, hay nói đúng hơn, mối giao liên vĩnh viễn và không gián đoạn, giữa Lời và các bí tích. Theo một nghĩa nào đó, thật là sai lầm khi tạo nên một sự tương phản giữa việc truyền bá phúc âm hoá và việc ban phát các bí tích, như đôi khi đã xẩy ra. Thật thế, trong việc ban phát các bí tích, nếu không được trợ giúp vững chắc của việc dạy giáo lý, có thể chấm dứt bằng việc làm các bí tích mất đi hiệu năng rất nhiều. Vai trò của việc truyền bá phúc âm hoá, chính là giáo dục dân chúng trong đức tin, bằng một đường lối dẫn đưa mỗi một người Kitô hữu sống các bí tích như là các bí tích đích thực của đức tin - mà không nhận lãnh các bí tích này một cách thụ động hay bâng quơ.

48.  Lòng Ðạo Phổ Thông

Ðến đây chúng ta chạm đến một khía cạnh truyền bá phúc âm hoá mà chúng ta không thể nào không lưu ý tới. Chúng Tôi muốn nói về những gì hiện nay được gọi là tính chất đạo đức phổ thông.

Người ta thấy nơi con người những diễn đạt đặc biệt trong việc tìm kiếm Thiên Chúa và đức tin, cả nơi những miền Giáo Hội đã được thiết lập qua nhiều thế kỷ, cũng như nơi Giáo Hội đang tiến hành đến việc thiết lập. Những diễn đạt này lâu nay đã bị coi như không được tinh nguyên, đôi khi còn bị khinh thường, song chúng lại được hầu hết các nơi tái đón nhận. Trong cuộc Thượng Hội vừa rồi, các vị giám mục đã xét đến tầm quan trọng của chúng liên quan đến việc thực hiện mục vụ cũng như đến lòng nhiệt tâm mục vụ cần thiết.

Dĩ nhiên, tính chất đạo đức phổ thông chắc chắn có giới hạn của nó. Nó thường là nạn nhân của việc nhập nhiễm bởi những sai lệch về đạo giáo, thậm chí nhập nhiễm cả đến những vấn đề mê tín dị đoan. Nó thường thuộc về trình độ của những hình thức tôn thờ không buộc đức tin phải thật sự chấp nhận. Ðến nỗi nó có thể làm phát sinh ra những giáo phái và gây nguy hại cho cộng đồng giáo hội đích thực.

Thế nhưng, nếu được hướng dẫn đàng hoàng, nhất là bởi phương pháp truyền đạt của việc truyền bá phúc âm hoá, giá trị của nó sẽ trở nên phong phú. Nó biểu lộ một tấm lòng khao khát Thiên Chúa, Ðấng chỉ có kẻ đơn thành và nghèo hèn mới có thể nhận biết. Nó làm cho con người, khi liên quan đến vấn đề cần phải tuyên xưng niềm tin, có khả năng quảng đại bao dung và hy sinh đến mức độ anh hùng. Nó nói lên một nhận thức tinh nhậy về các phẩm tính sâu xa nơi Thiên Chúa: phẩm tính làm cha, làm đấng quan phòng, hằng yêu thương hiện diện. Nó phát sinh những thái độ nội tâm hiếm thấy ở cùng một mức độ trong bất cứ lãnh vực nào, đó là thái độ nhẫn nại, cảm nhận thập giá trong đời sống thường nhật, không dính bén, cởi mở với người khác, dấn thân. Vì những khía cạnh này, chúng tôi đã gọi nó là "lòng đạo đức phổ thông", tức là lòng đạo đức của con người, hơn là tính chất đạo đức.

Ðức bác ái trong việc mục vụ phải nhắc nhở cho tất cả những ai, được Chúa đặt lãnh đạo cộng đồng giáo hội, thái độ xứng hợp cần phải có đối với thực tại này, một thực tại rất phong phú lại rất dễ bị tổn thương. Trước hết, tất cả mọi người phải biết nhậy cảm với thực tại này, phải biết cách nhận ra những khía cạnh nội tâm và những giá trị thực sự của nó, phải sẵn sàng giúp nó thắng vượt được những sai trệch nguy hiểm. Khi được hướng dẫn đàng hoàng, tính chất đạo đức này sẽ càng ngày càng trở thành phương tiện giúp cho rất nhiều người trong chúng ta thực sự gặp được Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô.

***

CHƯƠNG V

CÁC THÀNH PHẦN THỪA HƯỞNG VIỆC TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA

 

49.  Ngỏ Lời với Mọi Người

Những lời cuối cùng của Chúa Giêsu trong Phúc Âm Thánh Marcô hiến cho việc truyền bá phúc âm hoá được Chúa trao phó cho các tông đồ của mình một tính cách phổ quát vô hạn: "Các con hãy đi khắp thế gian; loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi tạo vật" (Mk.16:16).

Mười Hai Vị và thế hệ Kitô hữu tiên khởi đã am tường bài học của đoạn văn này và các đoạn văn tương tư như thế; những đoạn văn ấy đẩy họ vào chương trình hoạt động. Ngay cả việc bắt bớ, bằng việc phân tán các tông đồ ra các nơi, cũng giúp vào việc truyền bá Lời Chúa và thiết lập Giáo Hội càng xa hơn nữa. Việc Thánh Phaolô gia nhập vào hàng ngũ tông đồ cùng với đặc sủng của ngài như một nhà rao giảng cho dân ngoại (ngoài dân Do Thái) về một Ðức Giêsu Ðã Ðến cũng đã làm nổi bật tính cách phổ quát này hơn nữa.

50.  Bất Chấp Mọi Ngãng Trở

Trong giòng lịch sử của thế kỷ 20 đây, các thế hệ Kitô hữu đã phải đối diện, qua từng giai đoạn, với một số trở ngại khác nhau trước sứ mệnh truyền giáo phổ quát này. Một đàng, về phía chính các nhà truyền bá phúc âm hoá, vì một số lý do khác nhau, đã có khuynh hướng giảm thiểu lãnh vực hoạt động truyền giáo của mình. Ðàng khác, nơi những người nghe các nhà truyền bá phúc âm hoá rao giảng thường tỏ ra những phản kháng bất khả thắng vượt theo sức loài người. Lại nữa, chúng ta phải buồn lòng ghi nhận là, hoạt động truyền bá phúc âm hoá của Giáo Hội bị một số công quyền đối kháng một cách mãnh liệt, nếu không muốn nói là bị họ ngăn cản. Ngay trong thời điểm của chúng ta đây cũng có những chuyện các nhà rao giảng Lời Chúa bị tước mất quyền của mình, bị bách hại, đe dọa hay trừ khử, chỉ vì họ đã rao giảng Chúa Giêsu Kitô và Phúc Âm của Người. Thế nhưng, chúng ta tin tưởng rằng, cho dù bị thử thách đau thương, hoạt động của các vị tông đồ này sẽ không bao giờ hoàn toàn thua cuộc ở bất cứ phần đất nào trên thế giới cả.

Bất chấp những đối kháng như thế, Giáo Hội vẫn liên lỉ làm mới lại lòng hứng khởi sâu xa nhất của mình do Chúa trực tiếp tác động, đó là niềm hứng khởi đi khắp thế gian! Loan báo cho tất cả mọi tạo vật! Cho đến tận cùng trái đất! Giáo Hội đã thực hiện việc canh tân lòng hứng khởi này ở cuộc Thượng Hội vừa qua, như một lời lên tiếng kêu gọi xin đừng giam cầm việc loan báo Phúc Âm, bằng cách giới hạn việc này lại nơi một phần nhân loại, hay nơi một tầng lớp dân chúng, hoặc nơi một thứ văn minh duy nhất nào đó. Có một số dấu hiệu đang được tỏ hiện.

51.  Việc Loan Báo lần đầu tiên cho Thành Phần Ở Xa

Việc tỏ Chúa Giêsu Kitô cùng với Phúc Âm của Người ra cho những ai không biết Người cũng như không biết Phúc Âm của Người, đã là một chương trình căn bản do Giáo Hội đảm nhận ngay từ buổi sáng Ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, như một việc được Ðấng Sáng Lập của mình trao phó. Toàn bộ Tân Ước, nhất là cuốn Tông Vụ, đã chứng dự giây phút hồng ân ấy, và theo một nghĩa nào đó, cũng là một giây phút khuôn mẫu cho nỗ lực truyền giáo này, một nỗ lực để lại dấu vết của mình về sau trên toàn bộ lịch sử của Giáo Hội.

Giáo Hội đã thực hiện cuộc loan báo tiên khởi về Chúa Giêsu Kitô bằng một hoạt động phức hợp và đa diện, đôi khi được gọi là "việc dọn đường truyền bá phúc âm hoá", song thực sự nó đã là việc truyền bá phúc âm hoá rồi vậy, mặc dầu mới ở giai đoạn khởi sự và dang dở. Bởi thế, có thể sử dụng một loạt vô số những phương tiện, chẳng hạn như, việc minh nhiên rao giảng là điều phải có, ngoài ra còn có nghệ thuật, có cách tiến hành theo khoa học, có việc tìm hiểu về triết học, và có việc đào sâu vào những tình cảm nơi con tim nhân loại.

52.  Tái Loan báo cho Thế Giới Kitô Giáo Bị Suy Yếu

Việc loan báo tiên khởi này (từ buổi sáng Ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống) đặc biệt ngỏ lời với những ai chưa bao giờ được nghe Tin Mừng về Chúa Giêsu, hay với các trẻ em. Thế nhưng, căn cứ vào những hoàn cảnh thường xuyên phản Kitô giáo trong thời của chúng ta đây, nó cũng chứng tỏ cho thấy sự cần thiết không kém đối với vô số con người đã lãnh nhận bí tích rửa tội mà hoàn toàn không sống cuộc sống Kitô giáo, đối với người đơn thành có đức tin song với một kiến thức bất toàn về những nền tảng của đức tin này, đối với những nhà trí thức cảm thấy nhu cầu cần phải nhận biết Chúa Giêsu Kitô bằng một ánh sáng khác với cách huấn giảng họ đã lãnh nhận như các trẻ em, cũng như đối với nhiều người khác nữa.

53.  Các Tôn Giáo Ngoài Kitô Giáo

Việc loan báo tiên khởi này cũng ngỏ lời với những lãnh vực rộng lớn của nhân loại, thành phần đang theo những tôn giáo ngoài Kitô giáo. Giáo Hội tôn trọng và cảm nhận những tôn giáo ngoài Kitô giáo này, vì chúng là một diễn đạt sống động của linh hồn thuộc nhiều nhóm người vĩ đại. Chúng mang trong mình tiếng vang của  hằng ngàn năm tìm kiếm Thiên Chúa, một kiếm tìm không trọn song thường được tạo nên bởi một con tim chân thành và chính trực cao cả. Chúng có một di sản đáng kể nơi những bản văn sâu xa về đạo lý. Chúng dạy cho các thế hệ cách thức nguyện cầu. Tất cả các tôn giáo này mang sẵn vô số "những hạt giống Lời Chúa"[6], và có thể thực sự làm nên "một cuộc sửa soạn cho Phúc Âm"[7].

Một tình trạng như vậy nhất định sẽ gây ra những vấn đề phức tạp và tế nhị, cần phải học hỏi trong ánh sáng Truyền Thống Kitô giáo và huấn quyền của Giáo Hội, để hiến cho các nhà truyền giáo hôm nay cũng như mai này những chân trời mới trong việc họ giao tiếp với các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Chúng tôi muốn vạch ra cho thấy rằng, trước hết, hôm nay đây, kể cả việc tôn trọng cũng như cảm nhận những tôn giáo này, cùng với tình trạng phức tạp của vấn đề sẵn có, không phải là một lời mời gọi Giáo Hội rút lui khỏi việc loan báo Chúa Giêsu Kitô cho những tôn giáo này. Trái lại, Giáo Hội chủ trương rằng, những nhóm người này có quyền biết đến nguồn phong phú của mầu nhiệm Chúa Kitô (x.Eph.3:8) - những phong phú chúng ta tin rằng toàn thể nhân loại có thể tìm thấy, trong một mức độ trọn đầy thật sự, mọi sự mà họ đang mò mẫm tìm kiếm những gì liên quan đến Thiên Chúa, đến con người và đến định mệnh của họ, đến sự sống và sự chết, đến chân lý. Ngay cả trong việc đối diện với những diễn đạt đạo giáo tự nhiên đáng cảm nhận nhất, Giáo Hội cũng tìm thấy được sự biện hộ, ở sự kiện là đạo giáo của Chúa Giêsu mà Giáo Hội loan báo bằng việc truyền bá phúc âm hoá, khách quan đặt con người vào trong mối liên hệ với dự án của Thiên Chúa, với sự hiện diện sống động của Ngài, cũng như với hành động của Ngài; như thế, Giáo Hội làm nên một cuộc gặp gỡ với mầu nhiệm phụ tử thần linh, một tình phụ tử uốn mình vươn xuống trên nhân loại. Nói cách khác, tôn giáo của chúng ta thiết lập một cách hiệu nghiệm mối liên hệ chân chính và sống động với Thiên Chúa, một mối liên hệ không có nơi các tôn giáo khác, cho dù họ có thực sự giang cánh tay hướng về trời, họ cũng không thành đạt trong việc họ làm.

Ðó là lý do tại sao Giáo Hội giữ tinh thần truyền giáo của mình sống động, thậm chí còn muốn làm cho nó tăng thêm trong giây phút lịch sử chúng ta đang sống đây. Giáo Hội cảm thấy có trách nhiệm trước mọi dân tộc. Giáo Hội sẽ không nghỉ ngơi bao lâu chưa hết sức hoàn thành việc loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Cứu Thế. Giáo Hội luôn luôn sửa soạn các thế hệ tông đồ mới. Chúng ta hãy hân hoan nói lên sự kiện này ở vào thời điểm không thiếu những người nghĩ tưởng, thậm chí còn nói rằng, lòng nhiệt thành và tinh thần tông đồ đã bị cạn kiệt, thời gian truyền giáo nay đã qua rồi. Thượng Hội Giám Mục đã đáp lại là việc rao giảng truyền giáo không bao giờ ngưng lại và Giáo Hội sẽ luôn luôn cố gắng để hoàn thành việc loan báo này.

54.  Nâng Ðỡ Ðức Tin cho Tín Hữu

Tuy nhiên, Giáo Hội vẫn cảm thấy không thể nào lại không lưu ý đến những người đã lãnh nhận đức tin cũng như những người có liên hệ với Phúc Âm qua nhiều thế hệ. Bởi vậy, Giáo Hội tìm cách làm cho sâu xa, kiên vững, bồi dưỡng và trưởng thành hơn nữa đức tin của những người đã được kêu gọi làm tín hữu hay các tín đồ, để họ giữ mãi được như vậy.

Ngày hôm nay đây, đức tin này hầu như luôn luôn bị lôi cuốn theo chiều hướng tục hoá, ngay cả theo chiều hướng vô thần thô bạo. Ðó là một đức tin phải đương đầu với các thử thách và đe dọa, hơn thế nữa, nó còn là một đức tin bị vây hãm và bị công kích thẳng mặt. Nó sẽ gặp nguy tử bởi ngột ngạt hay bị đói lả, nếu nó không được nuôi dưỡng và trợ lực mỗi ngày. Bởi thế, để truyền bá phúc âm hoá, thường phải hiến cho đức tin của các tín đồ lương thực và bảo dưỡng cần thiết này, nhất là bằng việc dạy giáo lý đầy chất sống Phúc Âm và theo ngôn ngữ xứng hợp với con người cũng như với các hoàn cảnh.

Giáo Hội cũng vẫn hằng lưu tâm đến các Kitô hữu, thành phần không hoàn toàn thông hiệp với Giáo Hội. Trong khi cùng họ sửa soạn cho cuộc hiệp nhất theo ý Chúa Kitô, nhất là để hiện thực việc hiệp nhất thực sự, Giáo Hội ý thức rằng Giáo Hội sẽ thiếu sót phận sự cách trầm trọng nếu Giáo Hội không chứng thực cho họ thấy được sự trọn vẹn của mạc khải mà Giáo Hội cần phải bảo trì.

55.  Thành Phần Vô Tín Ngưỡng

Cuộc Thượng Hội Giám Mục này cũng rất bận tâm đến hai lãnh vực rất khác nhau, song đồng thời lại rất dính liền với nhau, trong việc thách đố do chúng tạo nên, theo đường lối riêng của mình, đối với việc truyền bá phúc âm hoá.

Lãnh vực thứ nhất là lãnh vực có thể được gọi là tình trạng thiếu đức tin tăng lên trong thế giới tân tiến. Cuộc Thượng Hội Giám Mục này cố gắng diễn tả thế giới tân tiến thế này: biết bao nhiêu là những luồng tư tưởng, những giá trị và phản giá trị, những ý hướng tài khéo hay những mầm mống hủy hoại, những xác tín xưa biến mất và những chủ trương mới nổi lên, đều được ẩn dưới cùng một thứ tên gọi này!

Theo quan điểm về tâm linh, thế giới tân tiến này vĩnh viễn như bị chìm ngập trong cái mà một tác giả tân thời gọi là "thảm kịch nhân bản vô thần"[8].

Một mặt người ta buộc phải ghi nhận ngay trong lòng của thế giới đương thời có một hiện tượng đang hầu như làm nên đặc tính nổi bật nhất của nó: đó là khuynh hướng tục hoá. Chúng ta không nói đến việc trần tục, một nỗ lực mà tự nó chính đáng và hợp lý, không tương phản với đức tin hay đạo nghĩa, trong việc khám phá nơi tạo vật, nơi mỗi một sự vật hay mỗi một sự việc trong vũ trụ, những định luật điều khiển chúng ở một mức độ tự động nào đó, bằng một xác tín bên trong rằng Tạo Hoá đã đặt những định luật ấy như thế. Theo ý nghĩa này, Công Ðồng vừa qua đã xác nhận tính cách tự động hợp lý ấy của văn hoá và nhất là của các khoa học. Ở đây, chúng ta đang nghĩ đến một khuynh hướng tục hoá thực sự: một quan niệm về thế giới mà theo đó các khoa học có thể tự điều giải mà không cần chạy đến với Thiên Chúa, Ðấng vì thế trở thành dư thừa và áp đặt. Cái thứ tục hoá này, do đó, để công nhận quyền năng của con người, cần phải tỏ ra bằng việc tác hành bất cần Thiên Chúa, thậm chí chối bỏ Ngài.

Những hình thức mới mẻ của vô thần chủ nghĩa như đã từ đó mà xuất phát: một chủ nghĩa vô thần nhắm vào con người, không còn trừu tượng và siêu hình mà là thực nghiệm, chế độ và bạo lực. Song song với khuynh hướng tục hoá vô thần này, chúng ta hằng ngày chạm trán với, dưới nhiều hình thức khác nhau nhất, một xã hội hưởng thụ, một chiều hướng theo đuổi thỏa mãn như giá trị tối cao, một ước muốn nắm quyền và thống trị, cũng như việc kỳ thị đủ loại: đó là những khuynh hướng bất nhân của "nhân bản chủ nghĩa" này.

Ðàng khác, cũng trong thế giới tân tiến ấy, ngược lại, người ta không thể nào chối cãi được việc hiện hữu của những bậc đá thực sự hướng đến Kitô giáo, cũng như việc hiện hữu của những giá trị phúc âm, ít nhất nơi hình thức của một cảm nhận trống trải hay hoài niệm. Cũng không quá đáng khi nói rằng, hiện nay đang mãnh liệt và thảm thiết vang lên lời mời gọi cần phải được phúc âm hoá.

56.  Thành Phần Không Hành Ðạo

Lãnh vực thứ hai đó là lãnh vực của những người không hành đạo. Ngày nay có rất đông người lãnh nhận phép rửa hầu như chưa chính thức chối bỏ Bí Tích Thánh Tẩy của mình, song lại là những người hoàn toàn dửng dưng với Bí Tích này và không sống hợp với Bí Tích này. Hiện tượng không hành đạo này là một hiện tượng rất cổ xưa trong lịch sử Kitô giáo; nó là thánh quả của tính yếu đuối tự nhiên, một bất nhất sâu xa mà chúng ta không may mang nặng trong mình. Tuy nhiên, ngày nay nó tỏ cho thấy có một số đặc tính mới. Nó thường là kết quả của một kiểu mẫu mất gốc trong thời đại chúng ta. Nó cũng xuất phát từ sự kiện là các Kitô hữu sống sát cận với những người không có niềm tin và liên lỉ cảm thấy tác dụng của tình trạng thiếu tin tưởng. Hơn nữa, những Kitô hữu không hành đạo ngày nay còn hơn những người không hành đạo trong những thời gian trước đây nữa, khi họ tìm cách cắt nghĩa và biện minh cho chỗ đứng của mình theo kiểu sống đạo tại tâm, theo kiểu độc lập cá nhân hay kiểu chuyên chính riêng tư.

Như thế là chúng ta, một đàng có những người vô thần cũng như những người không tin tưởng gì cả, đàng khác cũng có những người không hành đạo, và cả hai nhóm người này tạo nên một trở ngại đáng kể cho việc truyền bá phúc âm hoá. Mối trở ngại của nhóm thứ nhất mặc hình thức chối bỏ nào đó và không có khả năng hiểu được một thứ giá trị mới của sự vật, một thứ ý nghĩa mới của thế giới, của cuộc sống và của lịch sử; nếu không bắt đầu từ tuyệt đối thể thần linh, người ta không thể hiểu được cái giá trị mới ấy. Mối trở ngại của nhóm thứ hai mặc hình thức trì trệ và có một thái độ hơi ngược ngạo của một người cảm thấy rằng mình là người trong gia đình, của một người cho rằng mình biết tất cả và đã cố thực hành tất cả, đồng thời lại là một người không còn tin gì nữa.

Khuynh hướng tục hoá vô thần và tình trạng thiếu hành đạo xẩy ra nơi người lớn cũng như nơi giới trẻ, nơi những nhà lãnh đạo trong xã hội cũng như nơi thành phần lê dân, ở mọi trình độ giáo dục, nơi cả những Giáo Hội cổ kính cũng như nơi những Giáo Hội trẻ trung. Tác động truyền bá phúc âm hoá của Giáo Hội không thể nào bỏ qua cả hai lãnh vực này, nó cũng không được khựng lại khi phải đối diện với chúng; nó phải liên lỉ tìm kiếm những phương tiện và ngôn từ xứng hợp để trình bày hay tái bày bỏ cho họ mạc khải của Thiên Chúa cùng với đức tin của con người nơi Chúa Giêsu Kitô.

57.  Loan Báo cho Ðại Chúng

Như Chúa Kitô trong thời gian Người rao giảng, như 12 Vị vào buổi sáng Ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Giáo Hội cũng nhìn thấy trước mắt mình một đám đông vô số người cần đến Phúc Âm và có quyền được nghe rao giảng Phúc Âm, vì Thiên Chúa "muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý" (1Tim.2:4).

Giáo Hội ý thức sâu xa nhiệm vụ của mình trong việc rao giảng ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Biết rằng sứ điệp Phúc Âm không phải là để dành cho một nhóm nhỏ của thành phần khởi xướng, thành phần đặc ân hay thành phần được tuyển chọn, mà là nhắm đến mọi người, Giáo Hội có cùng một ánh nhìn thương hại trên đám người lang thang và kiệt quệ "như chiên không người chăn", để rồi Giáo Hội hay lập lại lời của Người: "Tôi thương hại tất cả đám dân này" (Mt.9:36, 15:32). Thế nhưng, Giáo Hội cũng nhận thức được sự kiện là, muốn cho việc rao giảng Phúc Âm được hiệu nghiệm, Giáo Hội phải truyền đạt sứ điệp của mình vào cõi lòng của quần chúng, vào các cộng đồng tín hữu mang tầm hoạt động có thể vươn tới kẻ khác và phải vươn tới kẻ khác.

58.  Các Cộng Ðoàn Giáo Hội Cơ Bản

Cuộc Thượng Hội Giám Mục Thế Giới vừa rồi đã đặc biệt chú trọng đến những "cộng đoàn nhỏ bé" này, hay communautés de base, vì chúng thường được nói đến trong Giáo Hội ngày nay. Chúng là gì và tại sao chúng phải trở nên thành phần được thừa hưởng việc truyền bá phúc âm hoá, đồng thời cũng trở thành chính các nhà truyền bá phúc âm hoá?

Theo một số lời phát biểu khác nhau trong cuộc Thượng Hội, thì các cộng đoàn như thế, không nhiều thì ít, đang bừng nở khắp trong Giáo Hội. Chúng khác nhau rất nhiều, chẳng những trong cùng một miền mà càng khác hơn nữa giữa các miền với nhau.

Nơi một số miền, chúng xuất hiện và phát triển hầu như xuôi chảy trong lòng Giáo Hội, khi chúng biết liên kết với sự sống của Giáo Hội, được bồi dưỡng bằng giáo huấn của Giáo Hội và hiệp nhất với các vị chủ chiên của Giáo Hội. Trong những trường hợp này, chúng được xuất phát từ nhu cầu cần phải sống sự sống của Giáo Hội hơn nữa, hay được phát xuất từ lòng ước muốn và việc tìm kiếm một chiều kích nhân bản hơn, một chiều kích mà các cộng đồng giáo hội lớn chỉ có thể cung cấp, một cách khó khăn, đặc biệt ở nơi những thành phố tân tiến lớn, những nơi vừa có một cuộc sống hỗn độn lại vừa hoà trộn. Các cộng đồng như vậy, theo cách thế riêng của mình, có thể chỉ là một việc nới rộng thêm về lãnh vực thiêng liêng và đạo nghĩa - lãnh vực thờ phượng, đào sâu đức tin, bác ái huynh đệ, nguyện cầu, liên lạc với các vị chủ chăn - ở một cộng đoàn xã hội nhỏ bé, chẳng hạn như ở một khu làng v.v. Ngoài ra, những cộng đoàn nhỏ bé này, với mục đích để lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, để lãnh nhận các phép bí tích và để thắt mối giây đức ái, còn nhắm đến việc qui tụ các nhóm người có liên hệ với nhau về tuổi tác, văn hoá, tình trạng dân sự hay hoàn cảnh xã hội: như nhóm các cặp vợ chồng, giới trẻ, chuyên gia v.v.; qui tụ những người đã từng hợp nhất với nhau để tranh đấu cho công chính, cho việc tương thân cứu trợ người nghèo, cho việc tiến bộ nhân bản. Trong những trường hợp khác, các cộng đoàn nhỏ bé qui tụ Kitô hữu lại ở những nơi thiếu linh mục không thích thuận với cuộc sống của một cộng đồng giáo xứ bình thường. Tất cả những cộng đoàn được đề cập đến ở đây đều thuộc về các cộng đồng được thiết lập trong Giáo Hội, nhất là trong các Giáo Hội và các giáo xứ riêng.

Trái lại, ở những miền khác, communautés de base được hình thành bởi tinh thần mỉa mai phê phán Giáo Hội, một Giáo Hội họ nhanh nhảu bỉu môi cho là "gò bó", và là một Giáo Hội họ chống lại bằng cách hợp thành một cộng đoàn đặc sủng, không bị ràng buộc bởi cơ cấu tổ chức và tha hồ thoải mái sống theo Phúc Âm. Như thế, đặc tính rõ ràng của họ là thái độ bới vết tìm sâu và phủ nhận những gì liên quan đến những biểu lộ bề ngoài của Giáo Hội, như phẩm trật của Giáo Hội, các dấu hiệu của Giáo Hội. Họ hoàn toàn phản lại Giáo Hội. Theo đường hướng này, thì động lực chính của họ rất dễ biến thành chủ trương của họ, và rất hiếm có trường hợp họ lại không mau chóng trở thành nạn nhân của một giải pháp chính trị, hay của một trào lưu tư tưởng, rồi của một tổ chức, thậm chí của một đảng phái, chuốc lấy cho mình tất cả mọi nguy cơ chực chờ trong việc trở thành một công cụ bị lạm dụng.

Tính cách khác nhau đã rõ ràng: những cộng đoàn theo tinh thần chống đối tự tách mình khỏi Giáo Hội, và khỏi sự hiệp nhất của Giáo Hội bị họ làm tổn thương, có thể được gọi thực là communautés de base, nhưng trong trường hợp này nó mang danh nghĩa ấy hoàn toàn về phương diện xã hội mà thôi. Họ không thể được gọi là communautés de base về phương diện giáo hội mà lại không lạm ngữ, mặc dầu có thù ghét hàng giáo phẩm họ vẫn cho rằng họ còn hiệp nhất với Giáo Hội. Danh xưng này thuộc về các nhóm người khác được nói đến trước đây, những người qui tụ lại trong lòng Giáo Hội, để hiệp nhất với Giáo Hội cũng như để giúp cho Giáo Hội được phát triển.

Những cộng đoàn đích thực mang danh xưng này sẽ là một nơi truyền bá phúc âm hoá, vì lợi ích của các cộng đồng lớn hơn, nhất là của các Giáo Hội riêng. Như Chúng Tôi nói vào lúc kết thúc cuộc Thượng Hội vừa rồi, chúng sẽ là niềm hy vọng cho Giáo Hội hoàn vũ, ở chỗ:

Họ tìm cách bồi bổ mình bằng Lời Chúa, và không để cho mình bị vướng mắc vào việc đấu tranh chính trị, hay vào những ý hệ theo thời, những gì đang muốn khai thác khả năng nhân bản phong phú của họ;

Họ giữ mình không để mình bị lôi cuốn bởi chước cám dỗ thịnh hành hơn bao giờ hết, vào việc chống kháng có qui mô, cũng như vào thái độ phê phán cực đoan, viện lý là chính đáng và làm theo tinh thần hợp tác;

Họ gắn bó chặt chẽ với Giáo Hội địa phương họ thuộc về, cũng như với Giáo Hội hoàn vũ, nhờ thế, họ tránh được cái nguy cơ chính yếu là tự cô lập, rồi cho rằng mình mới là Giáo Hội Chúa Kitô chính cống, và từ đó luận phi các cộng đoàn giáo hội khác;

Họ giữ mối thông hiệp chân thành với các vị chủ chiên được Chúa gửi đến cho Giáo Hội của Người, cũng như với huấn quyền được Thần Linh của Chúa Kitô trao phó cho các vị mục tử này;

Họ không bao giờ coi mình như những hưởng thụ viên duy nhất hay những tác nhân duy nhất của việc truyền bá phúc âm hoá - hay ngay cả cho mình là kho chất chứa Phúc Âm duy nhất - trái lại, vì nhận biết rằng Giáo Hội rất bao rộng và đa diện, nên họ chấp nhận sự kiện là Giáo Hội cần phải nhập thể bằng nhiều cách thức khác nữa ngoài chính cách qua họ;

Họ luôn luôn phát triển theo nhận thức, mộ mến, dấn thân và nhiệt tình truyền giáo;

Họ chứng tỏ cho thấy họ phổ quát trong hết mọi sự và không bao giờ là một thứ giáo phái.

Căn cứ vào những điều kiện này, những điều kiện chắc chắn là nghiêm khắc song cũng nâng cao, communautés de base mang tính cách giáo hội mới tương hợp với ơn gọi căn bản nhất của mình, ở chỗ, cộng đoàn cơ bản này là những người được nghe Phúc Âm loan báo cho mình, và là những thừa hưởng viên đặc biệt của việc truyền bá phúc âm hoá này, chính họ sẽ sớm trở thành người loan báo Phúc Âm.

***

CHƯƠNG VI

CÁC NHÂN VIÊN CỦA VIỆC TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA

 

59.  Toàn Thể Giáo Hội là Truyền Giáo

Nếu con người loan báo trên thế giới này Phúc Âm cứu độ, thì họ làm như thế theo lệnh của, nhân danh của và với ơn của Chúa Kitô Cứu Thế. "Không thể nào có người rao giảng nếu họ không được sai đi" (Rm.10:15), vị được cho là nhà truyền bá phúc âm hoá vĩ đại nhất đã viết như thế. Không ai có thể làm điều ấy nếu họ không được sai đi.

Thế nhưng, vậy ai là người có sứ mạng thực hiện việc truyền bá phúc âm hoá?

Công Ðồng Chung Vaticanô II đã trả lời vấn nạn này một cách rõ ràng: đó là, Giáo Hội "theo lệnh truyền thần linh, có nhiệm vụ ra đi khắp thế gian rao giảng phúc âm cho mọi tạo vật"[9]. Ở một đoạn văn khác, "... toàn thể Giáo Hội là truyền giáo, và công việc truyền bá phúc âm hoá là nhiệm vụ căn bản của Dân Chúa"[10].

Chúng ta đã đề cập đến mối liên kết sâu xa này giữa Giáo Hội và việc truyền bá phúc âm hoá. Trong khi loan báo vương quốc của Thiên Chúa và xây dựng vương quốc này, Giáo Hội hình thành chính mình giữa lòng thế giới như một dấu hiệu và là một dụng cụ của vương quốc đang trị đến và sẽ trị đến này. Công Ðồng Chung Vaticanô II lập lại lời diễn tả sau đây của Thánh Âu-Quốc-Tinh về hoạt động truyền giáo của 12 Vị: "Họ đã rao giảng lời chân lý và đã làm nẩy sinh ra các Giáo Hội"[11].

60.  Tác Ðộng của Giáo Hội

Nhận thấy rằng Giáo Hội đã được sai đi và được lệnh phúc âm hoá thế giới phải làm cho chúng ta ý thức lại hai xác tín.

Xác tín thứ nhất, đó là: việc truyền bá phúc âm hoá không phải là một tác động cá nhân và là một tác động lẻ loi đối với một ai cả; nó là một tác động có tính cách ăn sâu vào giáo hội. Khi một giảng viên, giáo lý viên hay chủ chiên âm thầm nhất, ở một miền đất xa xăm nhất, rao truyền Phúc Âm, quây quần cộng đoàn nhỏ bé của mình lại hay ban phát các bí tích, cho dù đơn độc một mình, là vị ấy đang thực hiện một tác động có tính cách giáo hội, và tác động của họ nhất định gắn liền với hoạt động truyền bá phúc âm hoá của toàn thể Giáo Hội, bởi những liên hệ về cơ cấu, cũng như bởi những liên hệ vô hình sâu xa trong trật tự của ân sủng nữa. Ðiều này nói lên rằng, vị ấy tác động không vì sứ vụ qui về cho mình, hay theo cảm hứng cá nhân, mà là hiệp nhất với sứ vụ của Giáo Hội và nhân danh Giáo Hội.

Từ đó mới có niềm xác tín thứ hai: đó là, khi mỗi một người truyền bá phúc âm hoá nhân danh Giáo Hội, một Giáo Hội thực hiện việc này theo lệnh Chúa truyền, thì không có một nhà truyền bá phúc âm hoá nào được nắm chủ quyền tuyệt đối nơi hoạt động truyền bá phúc âm hoá của mình, bằng khả năng phán quyết trong việc làm ấy, theo tiêu chuẩn và những quan điểm cá nhân; họ hành động trong việc hiệp thông với Giáo Hội và với các vị chủ chiên của Giáo Hội.

Chúng ta đã ghi nhận rằng Giáo Hội đang truyền bá phúc âm hoá một cách toàn diện và toàn vẹn. Ðiều này có nghĩa là, trong toàn thế giới, cũng như ở từng phần thế giới, có sự hiện diện của Giáo Hội, Giáo Hội cảm thấy có trách nhiệm đối với công việc truyền đạt Phúc Âm.

61.  Quan Ðiểm về Giáo Hội Hoàn Vũ

Ðến phần suy niệm này, Chúng Tôi muốn ngưng lại với Qúi huynh và con cái nam nữ ở một vấn đề quan trọng đặc biệt vào lúc này đây. Trong việc cử hành phụng vụ, trong việc làm chứng trước quan quyền và kẻ hành xử, cũng như trong các bản văn hộ giáo của mình, các Kitô hữu tiên khởi lúc nào cũng sẵn sàng cho thấy đức tin sâu xa của mình nơi Giáo Hội, bằng việc diễn tả Giáo Hội như đang lan tràn khắp thế giới. Họ hết sức ý thức được việc họ thuộc về một cộng đồng lớn không bị giới hạn trong không gian và thời gian này: Từ Abel công chính cho tới con người được tuyển chọn cuối cùng[12], "thật sự cho đến tận cùng trái đất"[13], "cho đến tận cùng thời gian" (Mt.28:20).

Ðó là cách Chúa muốn Giáo Hội của Người phải trở nên: phải trở nên phổ quát, trở nên một cây vĩ đại với cành lá làm tổ trú cho chim trời (x.Mt.13:32), trở thành một màng lưới bắt đủ mọi thứ cá (x.Mt.13:47), hay một mẻ lưới đầy Phêrô kéo lên bắt được 153 con cá lớn (x.Jn.21:11), trở thành một đàn chiên dưới quyền chăn dắt của vị chủ chiên duy nhất (x.Jn.10:1-16). Một Giáo Hội hoàn vũ không giới tuyến hay biên cương bờ cõi, ngoại trừ, tiếc thay, những ai có lòng trí của một con người tội lỗi.

62.  Quan Ðiểm về Từng Giáo Hội riêng

Tuy nhiên, trong thực hành, Giáo Hội hoàn vũ này lại nhập thể nơi các Giáo Hội riêng, là nơi được làm nên bởi một phần thực sự nhân loại ở đâu đó, nói cùng một ngôn ngữ này nọ, hưởng cùng một văn hoá cha ông để lại, có cùng một vũ trụ quan, cùng một quá trình lịch sử, cùng một hạ tầng lớp nhân loại riêng. Tính cách biết đón nhận sự phong phú nơi từng Giáo Hội riêng biệt tương hợp với tính cách nhậy cảm đặc biệt của con người tân tiến ngày nay.

Chúng ta phải cẩn thận đừng quan niệm Giáo Hội hoàn vũ như là một tổng hợp, hay nói rõ hơn, tương tự như là một liên bang ngoại thường, được làm nên bởi các Giáo Hội riêng biệt khác nhau thực sự. Theo ý Chúa, Giáo Hội phổ quát theo ơn gọi và sứ mệnh của mình, nhưng một khi đâm rễ vào một nền văn hoá nào đó, vào lãnh thổ của một xã hội và nhân loại nào đó, bấy giờ Giáo Hội mặc lấy những thể hiện và hình dáng ngoại tại khác nhau nơi mỗi một miền trên thế giới.

Như thế, nếu mỗi một Giáo Hội riêng tự ý muốn tách mình ra khỏi Giáo Hội hoàn vũ, thì sẽ bị mất đi mối liên hệ với dự án của Thiên Chúa, và sẽ trở thành nghèo nàn về mặt giáo hội của mình. Tuy nhiên, ngược lại, một Giáo Hội toto orbe diffusa (các chữ Latinh đứng sau chữ một Giáo Hội này có thể được tạm dịch thành nguyên câu là một Giáo Hội tràn lan khắp hoàn vũ) sẽ trở thành trừu tượng, nếu Giáo Hội không có một thân thể và sự sống thực sự qua các Giáo Hội riêng. Chỉ khi nào liên tục để ý đến hai cột trụ về Giáo Hội này, chúng ta mới nhận thấy tính cách phong phú của mối liên hệ giữa Giáo Hội hoàn vũ và các Giáo Hội riêng tư.

63.  Tính Cách Thích Ứng và Trung Thực trong Việc Thể Hiện

Các Giáo Hội riêng, được xây dựng nên không phải bởi nhân sự mà còn bởi các khát vọng, bởi cả những gì phong phú lẫn giới hạn, bởi đường lối nguyện cầu, đường lối yêu thương, đường lối nhìn đời và thế giới, là tất cả những gì phân biệt nhóm người này với nhóm người kia, có nhiệm vụ phải đồng hoá và chuyển đạt sứ điệp Phúc Âm, không sai xẩy một chút nào nơi sự thật chính yếu của sứ điệp Phúc Âm ấy, vào ngôn ngữ để dân chúng riêng của mình hiểu được, rồi đem sứ điệp Phúc Âm này loan báo bằng thứ ngôn ngữ ấy.

Việc chuyển đạt phải được thực hiện một cách ý thức, nghiêm cẩn, tôn trọng và đầy đủ, một việc chuyển đạt cần thiết cho lãnh vực cử hành phụng vụ[14], cũng cần thiết cho cả lãnh vực giáo lý, cho việc diễn đạt về thần học, cho các cơ cấu hạ tầng giáo hội, và cho các thừa tác vụ. Chữ "ngôn ngữ" ở đây phải hiểu theo nghĩa được người ta gọi là nhân chủng học và văn hoá hơn là theo chữ nghĩa.

Chắc chắn đây là một vấn đề tinh tế. Viê? truyền bá phúc âm hoá sẽ mất đi công sức và hiệu lực của mình, nếu việc này không để ý đến thành phần dân chúng thực tế được nhắm tới, nếu việc này không sử dụng đến ngôn ngữ của họ, dấu hiệu và biểu hiệu của họ, nếu việc này không giải đáp nổi những vấn đề họ nêu lên, và nếu việc này không tác dụng nơi đời sống thực tiễn. Thế nhưng, ngược lại, việc truyền bá phúc âm hoá cũng sẽ gặp cơ nguy mất đi năng lực của mình và hoàn toàn bị biến mất, nếu người ta làm trống rỗng hay nghèo nàn nội dung của việc này, bằng việc chuyển dịch nó; nghĩa là, nếu người ta hy sinh thực tại này và hủy hoại tính cách hiệp nhất không thể thiếu để làm nên mối hiệp nhất, chỉ vì muốn thích ứng thực tại phổ quát này với hoàn cảnh địa phương. Thế nên, chỉ có Giáo Hội, một Giáo Hội bảo trì nhận thức về tính cách phổ quát của mình và tỏ ra mình thực sự phổ quát, mới có thể làm cho mọi người, bất kể biên cương bờ cõi, nghe thấy được sứ điệp của mình.

Việc chú ý hợp tình hợp lý đến các Giáo Hội riêng không thể không làm cho Giáo Hội thăng tiến. Việc chú ý như vậy là một việc không thể thiếu và là một việc khẩn thiết. Nó đáp ứng những khát vọng rất sâu xa của các dân cũng như của các cộng đồng nhân loại, trong việc tìm kiếm căn tính của mình cho càng ngày càng sáng tỏ hơn.

64.  Cởi Mở với Giáo Hội Hoàn Vũ

Thế nhưng, việc làm cho mình nên phong phú này đòi hỏi các Giáo Hội riêng phải hết sức cởi mở đối với Giáo Hội hoàn vũ. Ngoài ra, cũng rất đáng chú ý là những Kitô hữu đơn thành nhất, những người trung thành với Phúc Âm nhất và cởi mở nhất trước ý nghĩa đích thực của Giáo Hội, có một cảm nhận hoàn toàn tự nhiên đối với chiều kích hoàn vũ. Họ cảm thấy một cách tự nhiên và hết sức mạnh mẽ cần đến chiều kích này. Họ cảm được theo chiều kích này, và họ cảm thấy hết sức đau khổ khi họ bị bắt buộc, bởi một mớ lý thuyết họ không hiểu nổi, phải chấp nhận việc một Giáo Hội bị tước đoạt mất tính cách hoàn vũ này, phải chấp nhận một Giáo Hội theo khu vực, không còn thấy đâu là chân trời.

Như lịch sử đã thật sự cho thấy, khi một Giáo Hội riêng tự tách mình khỏi Giáo Hội hoàn vũ, cũng là tách khỏi trung tâm sống động hữu hình của mình - đôi khi với những chủ ý rất tốt, với những lý luận về thần học, xã hội học, chính trị hay mục vụ, thậm chí với ý muốn được tự do thoải mái sinh hoạt hay hoạt động - thì Giáo Hội này cũng rất khó lòng tránh được (nếu thật sự đã tránh được) hai nguy hiểm trầm trọng ngang nhau. Nguy hiểm thứ nhất, đó là Giáo Hội ấy sống trong tình trạng cô lập suy tàn, để rồi, chẳng bao lâu, sẽ bị phân tán mỏng thành từng phần nhỏ, như chính Giáo Hội ấy tách rời khỏi tâm điểm của mình vậy. Nguy hiểm thứ hai đó là Giáo Hội ấy bị mất đi tự do của mình, bởi vì, khi bị tách lìa khỏi tâm điểm cũng như khỏi các Giáo Hội khác là nơi vốn hiến cho Giáo Hội ấy sức mạnh và nghị lực, Giáo Hội ấy sẽ thấy mình hoàn toàn bị lẻ loi, để rồi trở thành miếng mồi ngon cho rất nhiều áp lực nô lệ và khai thác.

Một Giáo Hội riêng càng gắn bó với Giáo Hội hoàn vũ bằng mối giây hiệp thông, bằng tấm lòng yêu thương và trung thành, bằng việc tiếp nhận Huấn Quyền Phêrô, bằng mối hiệp nhất theo lex orandi (qui luật cầu nguyện) cũng là lex credendi (qui luật tin tưởng), bằng lòng mong ước hiệp nhất với tất cả mọi Giáo Hội khác làm nên toàn khối - thì Giáo Hội ấy càng có khả năng truyền đạt kho tàng đức tin tới những thể hiện hợp pháp khác nhau của việc tuyên xưng đức tin, của việc nguyện cầu và phụng tự, của đời sống và tác hành Kitô hữu, cũng như của các ảnh hưởng thiêng liêng tác động nơi những người chung quanh mình. Giáo Hội ấy cũng càng thực sự thực hiện việc truyền bá phúc âm hoá, tức là, càng có khả năng rút lấy gia sản chung để làm lợi cho người của mình, và càng có khả năng thông đạt cho Giáo Hội hoàn vũ kinh nghiệm và đời sống, từ các người của mình cho lợi ích của mọi người.

65.  Kho Tàng Ðức Tin Bất Khả Dịch

Theo đúng chiều hướng này, khi kết thúc cuộc Thượng Hội Giám Mục, với đầy tình cảm mến cha con, Chúng Tôi đã nói rõ ràng khi nhấn mạnh đến vai trò của Vị Thừa Kế Thánh Phêrô như là một yếu tố hữu hình, sống động và kết cấu của mối hiệp nhất giữa các Giáo Hội, và do đó cũng là yếu tố cho tính cách đại đồng của một Giáo Hội duy nhất[15]. Chúng Tôi cũng nhấn mạnh đến trách nhiệm nặng nề Chúng Tôi phải nắm giữ, nhưng cũng là trách nhiệm Chúng Tôi chia sẻ với Quí Huynh trong Hàng Giáo Phẩm, về việc bảo trì vững vàng nội dung của đức tin Công Giáo đã được Chúa ký thác cho các vị tông đồ. Nội dung này, trong khi được biểu lộ ra dưới mọi hình thức, cũng không bị hư hại hay hủy hoại. Trong khi được thể hiện bằng những hình thức bề ngoài, là những gì liên quan đến môi trường văn hoá, xã hội và ngay cả chủng tộc khác nhau, nó vẫn phải là nội dung của đức tin Công Giáo đúng như huấn quyền hội thánh đã lãnh nhận và truyền đạt.

66.  Những Công Việc Khác Nhau

Thế nên, cả Giáo Hội được kêu gọi để truyền bá phúc âm hoá, song trong nội bộ, chúng ta có những việc truyền bá phúc âm hoá cần phải hoàn thành. Tính cách đa diện của những việc làm trong mối hiệp nhất của cùng một sứ mệnh đã làm nên tình trạng phong phú và vẻ đẹp của việc truyền bá phúc âm hoá. Chúng tôi sẽ tóm tắt nhắc lại đây những việc làm này.

Trước hết, Chúng Tôi muốn chỉ cho thấy trong các trang Phúc Âm, Chúa liên tục trao phó cho các vị tông đồ công việc loan báo Lời Chúa. Người đã chọn các vị[16], đã huấn luyện các vị trong mấy năm của nhóm người tình nghĩa này[17], đã thiết lập các vị (x.Mk.3:14) và đã sai các vị đi (x. Mk.3:14-15; Lk.9:2), như những chứng nhân có uy thế và là những thày dạy sứ điệp cứu độ. Thế rồi, đến phiên mình, các tông đồ cũng sai các người thừa kế của các vị theo truyền thống tông đồ ra đi để tiếp tục rao giảng Tin Mừng.

67.  Vị Thừa Kế Thánh Phêrô

Như thế, theo ý của Chúa Kitô, Vị Thừa Kế Thánh Phêrô được trao phó thừa tác vụ thượng hạng trong việc rao giảng chân lý mạc khải. Tân Ước thường cho thấy Thánh Phêrô "đầy Thánh Thần" nhân danh mọi người trong nhóm mà nói[18]. Chính vì lý do này, Thánh Giáo Hoàng Lêô Cả mới diễn tả mình như một người nắm chủ quyền trong sứ vụ tông đồ[19]. Ðó cũng còn là lý do tại sao Giáo Hội lên tiếng cho thấy Giáo Hoàng "ở chỗ cao nhất - in apice, in specula - trong sứ vụ tông đồ"[20]. Công Ðồng Chung Vaticanô II muốn tái xác nhận điều này khi tuyên bố rằng: "Lệnh Chúa Kitô truyền phải rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật (x.Mk.16:15) chính yếu và trực tiếp liên quan đến các vị giám mục hiệp nhất với Phêrô và tùy thuộc vào Phêrô"[21].

Như thế, trọn quyền hành tối cao phổ quát[22] Chúa Kitô đã ban cho Vị Ðại Diện của mình để quản trị chăn dắt Giáo Hội của Người, được vị Giáo Hoàng thực thi trong hoạt động rao giảng và thôi thúc rao giảng Tin Mừng cứu độ.

68.  Giám Mục và Linh Mục

Hiệp nhất với Vị Thừa Kế Thánh Phêrô, các giám mục thừa kế các tông đồ, nhờ quyền năng truyền chức theo hàng giáo phẩm của mình, đã nhận lãnh thẩm quyền giảng dạy chân lý mạc khải trong Giáo Hội. Các vị là thày dạy đức tin.

Liên kết với các vị giám mục trong thừa tác vụ truyền bá phúc âm hoá và mang trách nhiệm theo danh hiệu đặc biệt là những người, qua việc thụ phong chức thánh, "tác hành thay Chúa Kitô"[23]. Họ là những vị giáo dục Dân Chúa theo đức tin và là những nhà rao giảng, đồng thời cũng là những thừa tác viên Thánh Thể và các bí tích khác.

Bởi thế, mục tử chúng ta được mời gọi để ý đến phận vụ này hơn những phần tử khác trong Giáo Hội. Cái làm nên căn tính tác vụ tư tế của chúng ta, cái làm thành mối hiệp nhất sâu xa cho cả trăm, cả ngàn việc, bắt chúng ta chú ý tới, từ ngày này qua ngày khác và trọn cuộc sống của mình, và cái ban cho đặc tính đặc thù nơi các hoạt động của chúng ta, đó là loan báo Phúc Âm của Thiên Chúa (x.1Thess 2:9), một mục tiêu từng hiện diện trong tất cả mọi hành động của chúng ta.

Một dấu cho thấy căn tính của chúng ta, một căn tính chắc chắn phải trổi vượt và không gì ngăn cản được, đó là chúng ta đã được chọn làm những mục tử bởi tình thương của Vị Mục Tử Tối Cao (x.1Pt.5:4), bất chấp nỗi thiếu kém của chúng ta, để dùng quyền loan báo Lời Chúa, để tập hợp Dân Chúa phân tán lại, để chăn nuôi Dân này bằng các bí tích là những dấu Chúa Kitô tác động, để dẫn Dân này trên con đường cứu độ, để bảo tồn họ trong niềm hiệp nhất mà chúng ta đóng vai trò chủ động và là các dụng cụ sống động ở cấp độ khác nhau, cũng như để không ngừng giữ cho cộng đồng tụ họp quanh Chúa Kitô này trung thành với ơn kêu gọi sâu xa nhất của họ. Khi chúng ta làm tất cả những điều ấy, trong giới hạn loài người của mình và nhờ ơn Chúa giúp, thì đó là chúng ta đang thực hiện một công việc của vấn đề truyền bá phúc âm hoá. Công việc này bao gồm cả Chúng Tôi là các mục tử của Giáo Hội hoàn vũ, cả các anh em giám mục lãnh đạo các Giáo Hội riêng, cả các linh mục và phó tế hiệp nhất với giám mục của mình cùng các vị phụ tá của các vị, bằng mối hiệp thông bắt  nguồn từ bí tích Truyền Chức Thánh và trong tình bác ái của Giáo Hội.

69.  Tu Sĩ Nam Nữ

Về phần mình, tu sĩ thấy đời tận hiến của mình như là một phương tiện thuận lợi cho việc truyền bá phúc âm hoá. Trong thẳm cung con người mình, họ được cuốn hút vào hoạt năng của đời sống Giáo Hội, một đời sống khao khát Tuyệt Ðối Thể thần linh và được kêu gọi đến sự thánh thiện. Họ làm chứng cho chính sự thánh thiện này. Họ thể hiện ước muốn của Giáo Hội trong việc hoàn toàn dấn thân cho những đòi hỏi thực sự của các mối phúc đức. Qua đời sống của mình, họ là dấu hiệu hoàn toàn sẵn sàng sống cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội và cho anh em mình.

Như thế, họ giữ một vai trò quan trọng liên quan đến việc làm chứng, một việc làm chứng, như chúng ta đã nói, có tính cách quan trọng bậc nhất trong việc truyền bá phúc âm hoá. Như là một thách đố cho cả thế giới lẫn chính Giáo Hội, việc làm chứng thầm lặng này, bằng đời sống khó nghèo và từ bỏ, thanh sạch và chân thành, hy sinh mình vì đức vâng lời, cũng có thể trở nên một chứng từ sống động có khả năng đánh động cả những người ngoài Kitô giáo, những người thiện tâm và nhậy cảm với các giá trị nào đó.

Theo quan điểm này, người ta thấy được vai trò của người tu sĩ nam nữ tận hiến sống đời cầu nguyện, âm thầm, hãm mình và hy sinh, thực hiện trong việc truyền bá phúc âm hoá. Rất nhiều tu sĩ khác trực tiếp dấn thân cho việc loan báo Chúa Kitô. Hoạt động truyền giáo của họ dĩ nhiên lệ thuộc vào hàng giáo phẩm và phải theo chương trình mục vụ do hàng giáo phẩm phác họa. Thế nhưng, ai mà không thấy việc những tu sĩ này đã và đang đóng góp lớn lao cho việc truyền bá phúc âm hoá? Nhờ việc tận hiến của mình, họ đã hoàn toàn tình nguyện và tự do từ bỏ mọi sự để ra đi loan báo Phúc Âm cho đến tận cùng trái đất. Họ đang đảm nhiệm và việc tông đồ của họ thường có tính cách nguyên tuyền, bằng một năng lực đáng khen ngợi. Họ quảng đại: thường thấy họ ở những thí điểm truyền giáo, và họ dám liều cả sức khỏe và ngay cả mạng sống mình. Giáo Hội quả thực mắc nợ họ rất nhiều.

70.  Giáo Dân

Chính vì giáo dân, với ơn gọi riêng trong việc sống giữa lòng thế giới và đảm nhận những công tác trần gian khác nhau nhất, mà họ phải thực hiện một hình thức đặc biệt trong việc truyền bá phúc âm hoá.

Công việc trọng yếu và trực tiếp nhất của họ không phải là thiết lập và phát triển cộng đồng giáo hội - đây là vai trò riêng của các vị mục tử - mà là sử dụng mọi năng lực Kitô hữu và năng lực phúc âm được tiềm ẩn song đã hiện diện và chủ động nơi các sinh hoạt trần thế. Lãnh vực của hoạt động truyền bá phúc âm hoá riêng của họ là một thế giới rộng lớn và phức tạp về chính trị, xã hội và kinh tế, thế nhưng cũng là một thế giới về văn hoá, về khoa học và nghệ thuật, về sinh hoạt quốc tế, về truyền thông xã hội. Lãnh vực của họ cũng bao gồm cả những thực tại khác hướng đến việc truyền bá phúc âm hoá, như tình yêu nhân bản, gia đình, giáo dục con cái và vị thành niên, việc làm nghề nghiệp, chịu đựng khổ đau. Người giáo dân càng được Phúc Âm cảm hứng sẽ càng dấn thân vào các thực tại này, càng đảm trách chúng một cách tỏ tường, càng có khả năng đề cao chúng và càng nhận thức được rằng, chúng phải được thi hành với hết năng lực Kitô hữu của mình, những năng lực thường bị chôn vùi đi hay bị dập tắt mất, thì các thực tại này mới càng giúp cho công cuộc phục vụ nước Chúa, nhờ đó, mới càng phục vụ ơn cứu độ trong Chúa Giêsu Kitô, không hề làm mất đi tí nào hay làm thiệt hại đến những gì thuộc về nhân bản, mà còn hướng chúng tới chiều kích siêu việt thường bị quên sót.

71.  Gia Ðình

Người ta cũng không thể không nhấn mạnh đến tác động truyền bá phúc âm hoá của gia đình trong công cuộc tông đồ truyền bá phúc âm hoá của người giáo dân.

Ở vào những lúc khác nhau trong giòng lịch sử của Giáo Hội cũng như ở Công Ðồng Chung Vaticanô II, gia đình rất xứng đáng mang danh xưng là một "giáo hội tại gia"[24]. Ðiều này có nghĩa là, ở nơi mọi gia đình Kitô hữu phải có những khía cạnh khác nhau của toàn thể Giáo Hội. Hơn thế nữa, giống như Giáo Hội, gia đình phải là nơi truyền đạt Phúc Âm và chiếu tỏa Phúc Âm.

Trong một gia đình nhận thức được sứ vụ này, tất cả mọi phần tử cần phải truyền bá phúc âm hoá và cần được truyền bá phúc âm hoá. Cha mẹ chẳng những thông đạt Phúc Âm cho con cái của mình, mà bản thân họ còn nhận được từ con cái mình chính Phúc Âm họ hết sức sống theo nữa.

Một gia đình như vậy trở nên một nhà truyền bá phúc âm hoá cho nhiều gia đình khác, và cho hàng xóm láng giềng chung quanh họ. Các gia đình được làm nên bởi một cuộc hôn nhân lương giáo cũng có nhiệm vụ loan báo Chúa Kitô cho con cái mình, đạt được trọn vẹn hoa trái của Phép Rửa chung; họ còn phải làm một công việc khó khăn hơn nữa để trở nên những nhà đắp xây hiệp nhất.

72.  Giới Trẻ

Các hoàn cảnh cũng kêu mời chúng ta phải đặc biệt nhắc đến giới trẻ. Việc họ tăng nhân số và càng ngày càng góp mặt với xã hội, song song với các tệ nạn tấn công họ, phải thức tỉnh nơi mọi người lòng mong ước cung hiến cho chúng, một cách nhiệt tình và khôn ngoan, lý tưởng Phúc Âm như là một điều gì phải được nhận biết và sống theo. Ngoài ra, thành phần giới trẻ được huấn luyện đàng hoàng trong đức tin và cầu nguyện phải càng ngày càng trở nên thành phần tông đồ giới trẻ. Giáo Hội hết sức trông cậy vào việc đóng góp của họ, và chính Chúng Tôi cũng thường bộc lộ cho thấy niềm tin cậy của Chúng Tôi nơi họ nữa.

73.  Các Thừa Tác Vụ Ða Dạng

Bởi thế, việc hiện diện chủ động của giáo dân nơi các thực tại trần thế mang lấy tất cả tầm vóc quan trọng của mình. Tuy nhiên, người ta không thể coi thường hay bỏ quên một chiều kích khác, đó là chiều kích giáo dân cũng có thể tự cảm thấy cần phải kêu gọi và được kêu gọi làm việc với các vị mục tử của mình, trong việc phục vụ cộng đồng giáo hội, cho Giáo Hội phát triển và sống động, bằng việc thực thi nhiều thừa tác vụ khác nhau, theo ân sủng và đặc sủng được Chúa cố ý ban cho họ.

Chúng ta không thể không cảm nghiệm thấy một niềm vui trong lòng, khi thấy có rất nhiều vị mục tử, tu sĩ và giáo dân, sốt sắng với sứ mệnh truyền bá phúc âm hoá của mình, bằng việc tìm kiếm những đường lối thích hợp hơn trong việc loan báo Phúc Âm cho có công hiệu. Chúng Tôi khích lệ việc cởi mở này, việc cởi mở Giáo Hội đang tỏ ra cho thấy hôm nay đây, theo chiều hướng ấy và trong mối quan tâm ấy. Ðó là một việc cởi mở trước tiên là để suy niệm, sau đó là việc cởi mở đối với những thừa tác vụ của giáo hội có khả năng cải tiến và kiên cường sức lực truyền bá phúc âm hoá của Giáo Hội.

Chắc chắn một điều là, song song với các thừa tác vụ thánh do một số người được bổ nhiệm làm mục tử và hiến mình một cách đặc biệt để phục vụ cộng đồng, Giáo Hội cũng công nhận vai trò của các thừa tác vụ không có chức thánh có thể đặc biệt đóng góp cho Giáo Hội.

Khi nhìn vào gốc tích của Giáo Hội, chúng ta thấy được hết sức rõ ràng lợi ích của kinh nghiệm ban đầu trong vấn đề về các thừa tác vụ. Kinh nghiệm này càng đạt được hết giá trị của mình, nếu nó giúp cho Giáo Hội biết gắn bó lại để phát triển và vươn lên. Tuy nhiên, việc chú ý đến các gốc tích cũng phải được bổ khuyến bởi việc lưu ý tới những nhu cầu hiện tại của con người cũng như của Giáo Hội. Ðể uống tận nguồn cảm hứng hơn bao giờ hết này, mà không phương hại đến giá trị của chúng một chút nào, đồng thời biết thích nghi mình với các đòi hỏi và nhu cầu hiện đại - những đòi hỏi và nhu cầu này là tiêu chuẩn sẽ giúp vào việc có thể tìm kiếm một cách khôn ngoan và nhận ra những thừa tác vụ Giáo Hội cần, cũng là tiêu chuẩn nhiều phần tử Giáo Hội hết sức nắm giữ để bảo đảm tính cách sống động hơn trong cộng đồng giáo hội. Những thừa tác vụ này sẽ có một giá trị mục vụ thật sự, ở chỗ, chúng được thiết lập với một lòng tuyệt đối hiệp nhất và vâng phục những chỉ dẫn của các vị mục tử, những vị có trách nhiệm đối với việc hiệp nhất của Giáo Hội và là những nhà xây dựng việc hiệp nhất này.

Những thừa tác vụ này, bề ngoài thì mới mẻ song lại gắn liền với kinh nghiệm sống của Giáo Hội qua các thế kỷ - như thừa tác vụ làm giáo lý viên, thừa tác vụ làm người điều khiển cầu nguyện và hát xướng, thừa tác vụ làm các Kitô hữu hiến thân phục vụ Lời Chúa hay trợ giúp anh chị em mình khi cần thiết, thừa tác vụ làm người đầu trong các cộng đoàn nhỏ, hay những người mang trách nhiệm lo cho các phong trào tông đồ - những thừa tác vụ này góp phần vào việc thiết lập, vào đời sống và vào việc phát triển của Giáo Hội, cũng như góp phần vào khả năng của Giáo Hội trong việc gây ảnh hưởng chung quanh mình, và trong việc vươn tới những người ở cách xa mình. Chúng tôi cũng đặc biệt biết ơn tất cả những người giáo dân nào đã chấp nhận hiến một phần thời giờ của mình, năng lực của mình, và đôi khi cả đời sống của mình, cho việc phục vụ những sứ vụ này.

Cần phải có một cuộc sửa soạn nghiêm chỉnh cho tất cả mọi nhân viên hoạt động cho việc truyền bá phúc âm hoá. Việc sửa soạn này càng hết sức cần thiết cho những ai hiến mình cho thừa tác vụ Lời Chúa. Ðược sinh động bằng niềm xác tín không ngừng sâu xa hơn về tính cách cao cả và phong phú của Lời Chúa, những ai mang sứ mệnh truyền đạt Lời Chúa phải hết sức để ý đến phẩm chất, tính chất chính xác và thích nghi nơi ngôn ngữ của mình. Ai cũng biết rằng, nghệ thuật nói năng hiện nay hết sức quan trọng. Các vị rao giảng và các giáo lý viên làm sao có thể lơ là với nghệ thuật này được?

Chúng tôi tha thiết mong ước là, nơi mỗi một Giáo Hội, các vị giám mục phải khôn ngoan để ý đến việc huấn luyện đầy đủ cho tất cả mọi thừa tác viên Lời Chúa. Việc sửa soạn nghiêm chỉnh này sẽ làm tăng thêm nơi họ tính cách bảo đảm không thể thiếu, cùng với lòng nhiệt thành, trong việc loan báo Chúa Kitô ở ngày hôm nay đây.

***

CHƯƠNG VII

TINH THẦN TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA

 

74.  Lời Kêu Gọi Tha Thiết

Chúng Tôi không muốn kết thúc việc chúng ta trao đổi với nhau ở đây, với quí huynh yêu dấu cũng như với con cái nam nữ của mình, mà lại không nói lên lời thiết tha kêu gọi, liên quan đến thái độ nội tâm là điều phải làm sinh động những ai thực hiện việc truyền bá phúc âm hoá.

Nhân danh Chúa Giêsu Kitô cũng như nhân danh hai Thánh Tông Ðồ Phêrô và Phaolô, Chúng Tôi muốn khuyến dụ tất cả những ai, nhờ đặc sủng của Chúa Thánh Thần và sứ mệnh của Giáo Hội, là những nhà truyền bá phúc âm hoá thật sự, phải sống xứng đáng với ơn gọi này, phải thực hiện ơn gọi ấy mà không đếm xỉa tới những nghi ngại hay lo âu sợ hãi, và không coi thường những điều kiện giúp làm cho việc truyền bá phúc âm hoá này chẳng những khả dĩ lại còn chủ động và đạt thành hiệu quả nữa. Ðó là những điều kiện, trong số nhiều vấn đề khác nữa, Chúng Tôi coi là quan trọng và thấy cần phải được nhấn mạnh.

75.  Theo Tác Ðộng của Chúa Thánh Thần

Việc truyền bá phúc âm hoá sẽ không bao giờ khả dĩ nếu không có tác động của Chúa Thánh Thần. Thần Linh ngự xuống trên Chúa Giêsu Nazarét vào lúc Người lãnh phép rửa, khi có tiếng của Chúa Cha vang lên - "Ðây là Con yêu dấu của Ta, Người mà Ta rất hài lòng" (Mt.3:17) - cho thấy một cách tỏ tường việc Chúa Giêsu được chọn lựa và sứ vụ của Người. Chúa Giêsu "được Thần Linh dẫn" vào sa mạc để trải qua một trận chiến quyết liệt và một cuộc thử thách hết cỡ trước khi bắt đầu sứ vụ này (x.Mt.4:1). Chính "nhờ quyền lực của Thần Linh" (Lk.4:14), Người đã trở về Galilêa và bắt đầu rao giảng ở Nazarét, áp dụng vào trường hợp của Mình lời tiên tri Isaia: "Thần Linh Chúa ở trên tôi". Và Người đã công bố: "Hôm nay đoạn Sách Thánh này đã nên trọn" (Lk.4:18, 21; x. Is. 61:1). Với các môn đệ, thành phần Người sắp sai đi, khi thở hơi trên họ, Người đã phán: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần" (Jn.20:22).

Thật vậy, chỉ sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, các tông đồ mới ra đi cho đến tận cùng trái đất, để mở màn cho công cuộc truyền bá phúc âm hoá cao cả của Giáo Hội. Thánh Phêrô đã cắt nghĩa biến cố này như là việc hoàn tất lời tiên tri Joel: "Ta sẽ đổ thần linh của Ta xuống" (Acts 2:17). Thánh Phêrô tràn đầy Chúa Thánh Thần để ngài có thể nói với dân chúng về Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa" (x. Acts 4:8). Thánh Phaolô cũng đầy Thánh Linh (x. Acts 9:17) trước khi hiến thân cho thừa tác vụ tông đồ, trường hợp Stêphanô cũng thế, khi thánh nhân được chọn vào thừa tác phục vụ, và sau đó vào việc làm chứng bằng máu mình đổ ra (x. Acts 6:5, 10; 7:55). Thần Linh là Ðấng đã khiến cho Phêrô, Phaolô và Nhóm 12 Vị rao giảng, là Ðấng soi sáng những lời họ phải phát ngôn, và cũng là Ðấng đã xuống "trên cả những ai đang nghe lời rao giảng" (Acts 10:44).

Chính ở nơi "ơn an ủi của Chúa Thánh Thần" mà Giáo Hội tiến triển (Acts 9:31). Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội. Chính Ngài là Ðấng dẫn giải cho tín hữu ý nghĩa sâu xa nơi giáo huấn của Chúa Giêsu cũng như nơi mầu nhiệm của Người. Chính Chúa Thánh Thần, Ðấng mà hôm nay, cũng như ở vào lúc khai sinh Giáo Hội, tác hành nơi mọi nhà truyền bá phúc âm hoá để mặc cho Ngài chiếm đoạt và dẫn dắt. Chúa Thánh Thần đặt nơi miệng lưỡi họ những lời mà họ không thể tự mình có được, đồng thời, Chúa Thánh Thần sửa soạn tâm hồn người nghe biết cởi mở và chấp nhận Tin Mừng cùng với vương quốc được loan báo.

Những kỹ thuật truyền bá phúc âm hoá thì tốt, thế nhưng, ngay cả đến những kỹ thuật tân tiến nhất cũng không thể nào thay thế được tác động êm ái của Thần Linh. Việc trang bị toàn vẹn nhất nơi một nhà truyền bá phúc âm hoá cũng sẽ không gây tác dụng gì, nếu không có Chúa Thánh Thần. Nếu không có Chúa Thánh Thần thì biện chứng hùng hồn nhất cũng không có tác hiệu gì nơi tâm hồn con người. Không có Ngài thì những dự án được phác họa ra dù có cao kiến mấy chăng nữa, dựa trên căn bản về xã hội cũng như về tâm lý đi nữa, cũng chẳng mấy chốc sẽ trở thành vô giá trị.

Chúng ta đang sống trong Giáo Hội ở vào một thời điểm hồng phúc Thần Linh. Người ta ở khắp nơi đang cố gắng nhận biết Ngài hơn, như Sách Thánh cho thấy về Ngài. Họ lấy làm sung sướng theo ơn tác động của Ngài. Họ đang qui tụ chung quanh Ngài; họ muốn để mặc cho Ngài dẫn dắt họ. Bởi vậy, nếu Thần Linh của Thiên Chúa giữ một địa vị nổi bật trong cả cuộc sống của Giáo Hội, thì Ngài sống động nhất là nơi sứ mệnh truyền bá phúc âm hoá của Giáo Hội. Cuộc khai mở long trọng vào buổi sáng ngày Lễ Ngũ Tuần, theo ơn linh ứng của Thần Linh, không phải là một biến cố bất ngờ xẩy ra đâu.

Phải công nhận rằng, Chúa Thánh Thần là tác nhân chính yếu của việc truyền bá phúc âm hoá: chính Ngài là Ðấng thôi thúc mỗi một cá nhân trong việc loan báo Phúc Âm, cũng chính Ngài là Ðấng ở trong thâm tâm người nghe để làm cho lời cứu độ được chấp nhận và hiểu biết (x. sắc lệnh Ad Gentes, 4). Thế nhưng, cũng có thể nói rằng, Ngài là mục đích của việc truyền giáo: Một mình Ngài tạo nên tạo vật mới, tạo nên nhân loại mới, qua việc truyền bá phúc âm hoá, bằng một mối hiệp nhất trong đa diện là những gì việc truyền bá phúc âm hoá muốn đạt được trong cộng đồng Kitô hữu. Nhờ Chúa Thánh Thần, Phúc Âm thấu nhập vào lòng thế giới, vì chính Ngài là Ðấng khiến cho người ta nhận ra những dấu chỉ thời đại - những dấu chỉ Thiên Chúa muốn - mà trong giòng lịch sử việc truyền bá phúc âm hoá muốn tỏ ra cho thấy và lợi dụng.

Cuộc Thượng Hội Giám Mục năm 1974 đã nhấn mạnh đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc truyền bá phúc âm hoá, cũng như đã tỏ ra niềm mong ước là các vị mục tử cũng như các nhà thần học - Chúng Tôi còn muốn nói tới cả tín hữu được niêm ấn Thần Linh nơi Phép Rửa - phải học hỏi hoàn toàn hơn về bản tính cũng như về cách thức tác động của Thánh Linh trong việc truyền bá phúc âm hoá hiện nay. Ðây cũng là niềm mong ước của cả Chúng Tôi nữa, và Chúng Tôi kêu gọi tất cả các nhà truyền bá phúc âm hoá, bất kể là ai, hãy tin tưởng và sốt sắng cầu nguyện không ngừng cùng Chúa Thánh Linh, và hãy khôn ngoan để Ngài, như Ðấng tác động tối thượng, hướng dẫn các dự án của họ, các sáng kiến của họ và hoạt động truyền bá phúc âm hoá của họ.

76.  Chứng Từ Chân Chính của Ðời Sống

Ðến đây chúng ta hãy xét đến chính con người của những nhà truyền bá phúc âm hoá.

Ngày nay, người ta thường hay nói rằng, thế kỷ hiện tại đang khao khát những gì là chuyên chính. Nhất là đối với giới trẻ, thành phần được cho là đang khiếp đảm trước những giả tạo hay sai lầm, và là thành phần hết sức tìm kiếm sự thật và chân tình.

Chúng ta phải để ý đến những "dấu chỉ thời đại" ấy. Một cách ngấm ngầm hay rõ ràng song lúc nào cũng mãnh liệt, chúng ta phải lưu ý tới những vấn nạn này: Quí vị có thực sự tin những gì mình đang loan báo hay chăng? Quí vị có sống những gì quí vị tin tưởng hay chăng? Quí vị có thực sự rao giảng những gì quí vị sống hay chăng? Hơn bao giờ hết, chứng từ cuộc sống đã trở thành một điều kiện thiết yếu để đạt tới thành quả thực sự trong việc rao giảng. Chính vì lý do này chúng ta phải có trách nhiệm, ở một mức độ nào đó, đối với việc tiến bộ của Phúc Âm do chúng ta loan báo.

Chúng Tôi đã đặt vấn đề ở ngay đầu cuộc suy niệm này, đó là "tình trạng của Giáo Hội mười năm sau Công Ðồng Chung Vaticanô II ra sao?" Giáo Hội có được thiết lập một cách chắc chắn ở giữa lòng thế giới, song vẫn tự do và độc lập đủ để khiến cho thế giới phải chú ý hay chăng? Giáo Hội có chứng tỏ mình liên kết với con người cũng như với Tuyệt Ðối Thể thần linh hay chăng? Giáo Hội có sốt sắng hơn trong việc chiêm niệm và tôn thờ, cũng như trong nhiệt tình hoạt động truyền giáo, bác ái và giải phóng hay chăng? Giáo Hội đã dấn thân hơn bao giờ hết chưa, trong việc nỗ lực tìm kiếm đường lối để phục hồi tình trạng hoàn toàn hiệp nhất Kitô giáo, một tình trạng hiệp nhất mang lại hiệu quả hơn cho việc làm chứng chung, "để làm cho thế giới tin" (Jn.17:21)? Tất cả chúng ta có trách nhiệm trả lời cho những vấn nạn này.

Bởi thế, chúng tôi ngỏ lời kêu gọi của mình đến quí huynh trong Hàng Giáo Phẩm, được Chúa Thánh Thần đặt lên cai quản Giáo Hội (x. Acts 2:28). Chúng tôi kêu gọi các linh mục và phó tế, những cộng tác viên của các vị giám mục, trong việc tập hợp cộng đoàn Dân Chúa cũng như trong việc làm sinh động về mặt thiêng liêng các cộng đoàn địa phương. Chúng tôi kêu gọi các tu sĩ, những chứng nhân của Giáo Hội được mời gọi sống thánh thiện, và do đó cũng được mời gọi sống chứng thực cho các mối phúc đức của Phúc Âm. Chúng tôi kêu gọi giáo dân: các gia đình Kitô hữu, giới trẻ, người lớn, tất cả những ai buôn bán hay hành nghề, các nhà lãnh đạo, cả người nghèo là thành phần thường mạnh lòng tin cậy - tất cả những người giáo dân ý thức được vai trò truyền bá phúc âm hoá của mình trong việc phục vụ Giáo Hội cũng như trong lòng xã hội và thế giới. Chúng tôi muốn nói với tất cả mọi người là: nhiệt tình truyền bá phúc âm hoá của chúng ta phải được xuất phát từ một đời sống thánh thiện thực sự, và như Công Ðồng Chung Vaticanô II đề nghị, việc rao giảng tự nó phải làm sao cho các nhà rao giảng thêm thánh thiện, một đời sống thánh thiện được dưỡng nuôi bằng nguyện cầu, nhất là bằng lòng mến yêu Thánh Thể[25].

Thế giới, ngược đời thay, bất chấp vô số những dấu hiệu chối bỏ Thiên Chúa, vẫn đang tìm kiếm Ngài bằng những cách thức không ngờ, và đang cảm thấy cần đến Ngài một cách đáng thương - một thế giới đang cần đến các nhà truyền bá phúc âm hoá để nói với nó về Thiên Chúa, Ðấng mà các vị truyền bá phúc âm hoá phải biết và quen thuộc như thể họ thấy được đấng vô hình (x.Heb.11:27). Thế giới cần đến và mong đợi từ chúng ta một đời sống giản dị, một tinh thần cầu nguyện, một đức bác ái đối với tất cả mọi người, nhất là đối với thành phần thấp hèn và nghèo khổ, một đức tuân phục và khiêm hạ, một tấm lòng không dính bén và biết hy sinh bản thân mình. Không có dấu vết thánh thiện này, lời nói của chúng ta khó có thể đánh động được tâm can con người tân tiến ngày nay. Nó có thể trở thành mất công vô ích và chẳng sinh hoa kết trái gì.

77.  Tìm Cầu Hiệp Nhất

Năng lực của việc truyền bá phúc âm hoá sẽ cảm thấy rằng mình bị suy giảm đi rất nhiều, nếu những người loan báo Phúc Âm chia rẽ với nhau trong nội bộ về đủ mọi thứ vấn đề. Ðây chẳng lẽ không phải là một trong những yếu điểm trầm trọng cho việc truyền bá phúc âm hoá hiện nay hay sao? Thật vậy, nếu Phúc Âm chúng ta loan báo bị xâu xé bởi những tranh cãi về tín lý, bởi những đối chọi về ý hệ, hay bởi những vụ lên án nhau giữa thành phần Kitô hữu, cho thấy, qua các vụ lên án nhau, những quan điểm khác nhau về Chúa Kitô, về Giáo Hội, thậm chí bài bác nhau vì những quan niệm khác nhau về xã hội cũng như về các cơ cấu tổ chức của loài người nữa, thì làm sao những người nghe chúng ta rao giảng cho lại không gặp phải rắc rối, họ sẽ chẳng biết đâu mà mò, nhất là làm sao họ lại không lấy làm chướng tai gai mắt được chăng?

Lời phát biểu thiêng liêng của Chúa nói cho chúng ta biết rằng tình trạng hiệp nhất giữa các kẻ theo Người chẳng những là một chứng cớ cho thấy chúng ta thuộc về Người, mà còn là một chứng cớ Người được Cha sai nữa. Ðó là một việc thử xem uy tín của Kitô hữu cũng như của Bản Thân Chúa Kitô. Là những nhà truyền bá phúc âm hoá, chúng ta phải cống hiến cho tín hữu Chúa Kitô hình ảnh của một dân trưởng thành trong đức tin, có khả năng tìm thấy một điểm chung vượt ra ngoài những căng thẳng thực sự, nhờ việc cùng nhau chân thành và vô tư tìm kiếm chân lý, chứ không phải là hình ảnh của một dân chia rẽ nhau và tách lìa nhau bởi những tranh cãi thiếu xây dựng. Phải, định mệnh của việc truyền bá phúc âm hoá chắc chắn gắn liền với chứng từ về việc hiệp nhất được Giáo Hội biểu lộ cho thấy này. Trách nhiệm là ở chỗ đó và niềm an ủi cũng là ở chỗ đó vậy.

Về điểm này, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến dấu hiệu hiệp nhất giữa tất cả mọi Kitô hữu như là đường lối và dụng cụ của việc truyền bá phúc âm hoá. Việc chia rẽ giữa Kitô hữu là một thực tại trầm trọng làm ngăn trở chính công việc của Chúa Kitô. Công Ðồng Chung Vaticanô II đã nói một cách rõ ràng minh bạch và mạnh mẽ là, việc chia rẽ này "làm tổn hại đến bản chất thánh thiện nhất của việc rao giảng Phúc Âm cho mọi người, và làm trở ngại cho nhiều người tiếp nhận đức tin"[26]. Vì lý do này, trong việc công bố Năm Thánh, Chúng Tôi đã phải nhắc lại với tất cả mọi tín hữu thuộc thế giới Công Giáo là, "trước khi qui tụ tất cả mọi người lại với nhau và dẫn họ về với ơn Chúa là Cha của chúng ta, cần phải tái thiết lập việc hiệp thông giữa những người tin tưởng nhận biết và chấp nhận Chúa Giêsu Kitô như Chúa của tình thương, Ðấng giải thoát con người và hiệp nhất họ trong Thần Linh yêu thương và chân lý"[27].

Với niềm hy vọng Kitô giáo mạnh mẽ, chúng ta lưu ý tới những nỗ lực đã được thực hiện nơi thế giới Kitô giáo đối với việc phục hồi trọn vẹn tình trạng hiệp nhất theo ý Chúa Kitô ấy. Thánh Phaolô đã bảo đảm với chúng ta rằng "hy vọng không làm chúng ta thất vọng" (Rm.5:5). Trong khi chúng ta còn phải hoạt động để xin Chúa cho được hoàn toàn hiệp nhất với nhau, Chúng Tôi muốn tăng thêm lời cầu nguyện. Ngoài ra, Chúng Tôi muốn thực hiện niềm mong ước của các Vị Nghị Phụ tham dự Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Lần Ba, trong việc dấn thân hợp tác hơn nữa với anh em Kitô giáo có cùng một nguồn Phép Rửa và gia sản đức tin chung với chúng ta, thành phần chúng ta chưa hoàn toàn hiệp nhất. Thực hiện như thế, chúng ta đã cùng nhau làm chứng hơn nữa cho Chúa Kitô trước thế giới trong chính việc truyền bá phúc âm hoá. Lệnh truyền của Chúa Kitô thôi thúc chúng ta phải làm điều này; nhiệm vụ rao giảng và làm chứng cho Phúc Âm đòi hỏi phải như thế.

78.  Các Kẻ Phục Vụ Chân Lý

Phúc Âm được ký thác cho chúng ta cũng là lời chân lý. Một chân lý giải thoát (x.Jn.8:32), và chỉ có chân lý này mới ban bình an cho cõi lòng, một bình an con người tìm kiếm nơi việc chúng ta loan báo Tin Mừng cho họ. Một chân lý về Thiên Chúa, về con người và về định mệnh huyền nhiệm của họ, về thế giới; một chân lý chúng ta khổ công tìm kiếm ở nơi Lời Chúa, và là một chân lý, Chúng Tôi xin lập lại, chúng ta không làm chủ hay giữ chủ quyền, mà chỉ là những nơi chứa đựng, những người loan báo và là những tôi tớ phục vụ thôi.

Mọi nhà truyền bá phúc âm hoá cần phải tôn trọng chân lý, nhất là vì chân lý họ học hỏi và thông đạt chính là chân lý được mạc khải cho thấy, bởi đó, hơn bất cứ một chân lý nào khác, cũng là chân lý được tham phần vào chân lý đệ nhất là Chính Thiên Chúa. Do đó, người rao giảng Phúc Âm sẽ là một con người luôn luôn tìm kiếm chân lý họ muốn truyền đạt cho kẻ khác, dù họ phải trả bằng giá khước từ bản thân và chịu đựng đau khổ. Họ không bao giờ phản bội hay giấu diếm chân lý, vì muốn chiều lòng người, để gây kinh ngạc hay chấn động, họ cũng không bao giờ phản bội hay giấu diếm chân lý bởi tính cách nguyên tuyền của chân lý hay vì muốn gây ấn tượng. Họ không chối bỏ chân lý. Họ không làm lu mờ chân lý mạc khải, bằng việc lười biếng tìm kiếm chân lý, hay vì tiện ích riêng của mình, hoặc vì lo âu sợ hãi. Họ không chểnh mảng trong việc học hỏi chân lý. Họ phụng sự chân lý cách quảng đại chứ không bắt chân lý phải phục vụ mình.

Chúng ta là những vị mục tử của thành phần tín hữu, và việc mục vụ của chúng ta thúc đẩy chúng ta phải bảo trì, bảo vệ và thông đạt chân lý, cho dù chân lý có đòi chúng ta phải hy sinh. Có rất nhiều vị mục tử nổi nang và thánh thiện đã để lại cho chúng ta thấy mẫu gương về lòng yêu mến chân lý này. Trong nhiều trường hợp, nó là một lòng yêu mến hùng dũng can trường. Vị Thiên Chúa của chân lý muốn chúng ta là những kẻ bảo vệ tinh khôn và là những người nhiệt tình rao giảng chân lý.

Hỡi những người phụ huynh và những người làm thầy, công việc của các con - một công việc không dễ dàng gì trước nhiều thứ xung khắc hiện nay - là giúp cho con cái của mình và học sinh của mình khám phá ra chân lý, gồm cả chân lý về đạo nghĩa lẫn tâm linh.

79.  Ðược Tình Yêu Linh Hoạt

Công việc truyền bá phúc âm hoá đã làm nẩy sinh nơi nhà truyền bá phúc âm hoá một tình yêu thương càng ngày càng mạnh mẽ hơn đối với những người họ truyền bá phúc âm hoá. Thánh Phaolô Tông Ðồ, nhà truyền bá phúc âm hoá gương mẫu, đã viết cho giáo đoàn Thessalônica những lời làm nên một chương trình sống cho tất cả chúng ta, đó là "với tình yêu thương tha thiết, chúng tôi muốn ban cho anh em chẳng những Phúc Âm của Thiên Chúa mà còn cả chính mình chúng tôi nữa, vì anh em là những người chúng tôi rất yêu dấu" (1Thes.2:8; x.Phil.1:8). Tình yêu này là gì? Tình yêu này còn hơn tình yêu của một vị thày; nó là tình yêu của một người cha; nó cũng là tình yêu của một người mẹ (x. 1Thes. 2:7-11; 1Cor.4:15; Gal.4:19). Chính tình yêu này là tình yêu Chúa muốn thấy nơi mọi người rao giảng Phúc Âm, nơi mọi người xây dựng Giáo Hội. Dấu hiệu của tình yêu này là tỏ ra quan tâm đến việc hiến ban chân lý và làm cho con người được hiệp nhất với nhau. Dấu hiệu khác của tình yêu này là việc sốt sắng loan báo Chúa Giêsu Kitô, không do dự và lùi bước. Chúng ta hãy kể thêm một số dấu hiệu khác nữa của tình yêu này.

Dấu hiệu thứ nhất là tôn trọng hoàn cảnh đạo nghĩa và tâm linh của những ai được truyền bá phúc âm hoá. Tôn trọng đường đi nước bước của họ; không ai có quyền bắt họ quá mức. Tôn trọng lương tâm và niềm tin của họ, không được đối xử với họ cách tàn tệ.

Một dấu hiệu khác của tình yêu này là để ý đừng làm tổn thương người khác, nhất là lúc họ yếu kém về đức tin (x.1Cor.8:9-13; Rm.14:15), bằng những lời phát biểu, đối với những người hiểu được thì không thành vấn đề, song đối với tín hữu lại có thể là nguyên cớ gây bối rối và gương mù, như gây thương tích cho linh hồn họ vậy.

Còn một dấu hiệu khác nữa tỏ ra tình yêu này, đó là nỗ lực trong việc thông đạt cho các người Kitô hữu những niềm xác tín vững chắc được cắm neo vào Lời Chúa, chứ không phải những gì là nghi ngờ và bất định phát sinh từ một thứ uyên bác được áp dụng một cách nghèo nàn. Tín hữu cần những xác tín này cho cuộc sống Kitô hữu của họ; họ được quyền có những xác tín này, như là những người con của Thiên Chúa, thành phần hoàn toàn phó mình trong tay Ngài và cho những đòi hỏi của tình yêu.

80.  Bằng Lòng Sốt Mến của Thánh Nhân

Lời kêu gọi của Chúng Tôi ở đây được khích động bởi lòng sốt mến của những nhà rao giảng và truyền bá phúc âm hoá cao cả nhất, những vị hiến đời mình cho sứ vụ tông đồ. Trong số những vị này, Chúng Tôi được hân hạnh nêu gương một số vị chúng tôi đã dự định tôn vinh trước tín hữu trong dịp Năm Thánh này. Các vị ấy đã biết thắng vượt các trở ngại trong việc truyền bá phúc âm hoá.

Những trở ngại ấy cũng xẩy ra hiện nay nữa, và Chúng Tôi sẽ chỉ đề cập đến tình trạng thiếu lòng sốt mến. Trở ngại này càng trầm trọng hơn nữa vì nó phát xuất từ bên trong. Nó bộc lộ cho thấy ở chỗ mệt mỏi, mất hăng hái, dung hoà, thiếu hào hứng, nhất là thiếu vui vẻ và hy vọng. Chúng Tôi kêu gọi tất cả những ai đang hoạt động truyền bá phúc âm hoá, bất kể mang chức vụ hay ở lãnh vực nào, hãy luôn luôn nuôi dưỡng lòng sốt mến đạo đức của mình (x.Rm.12:11).

Lòng sốt mến này trước hết đòi chúng ta phải biết loại trừ những lý do tránh né làm ngăn trở việc truyền bá phúc âm hoá. Chắc chắn lý do tránh né tai hại ngấm ngầm nhất đó là những lý do người ta nại vào giáo huấn này nọ của Công Ðồng Chung Vaticanô II.

Bởi thế, người ta rất thường hay nghe thấy các kiểu nói  khác nhau là, việc áp đặt chân lý, cho dù là chân lý của Phúc Âm, hay việc áp đặt đường lối, cho dù là đường lối cứu độ, chính là việc vi phạm đến quyền tự do tôn giáo. Chưa hết, tại sao lại phải loan truyền Phúc Âm mà làm gì, vì cả thế giới được cứu độ khi họ sống theo lòng chính trực? Cũng thế, chúng ta biết rằng, thế giới và lịch sử đầy những "hạt giống Lời Chúa"; bởi thế, không phải là ảo tưởng hay sao khi chủ trương mang Phúc Âm đến chỗ có sẵn hạt giống do chính Chúa đã gieo vãi?

Ai chịu khó học hỏi theo các văn kiện của Công Ðồng Chung Vaticanô II sẽ có một cái nhìn khác hẳn về những vấn đề được nại vào để tránh né này.

Chắc chắn việc áp đặt một điều gì đó trên lương tâm anh chị em của mình là làm một việc sai lầm. Thế nhưng, việc nêu lên cho lương tâm họ thấy chân lý của Phúc Âm và ơn cứu độ nơi Chúa Giêsu Kitô, một cách hoàn toàn minh bạch và hết sức tôn trọng chọn lựa tự do được chân lý Phúc Âm cho thấy - "không bó buộc, không áp lực một cách bất kính hay bất xứng"[28]- tránh lánh việc tấn công quyền tự do tôn giáo, thì hoàn toàn là một việc tôn trọng quyền tự do này, một quyền tự do có được là để chọn con đường mà ngay cả những người ngoài Kitô giáo cho rằng cao quí và thanh thoát. Nếu làm như thế thì có phải là việc phạm tội chạm đến tự do của những người được quyền hân hoan loan truyền Tin Mừng họ đã nhận biết nhờ tình Chúa thương hay chăng? [29]. Vậy thì tại sao chỉ có những gì là sai lạc và lỗi lầm, những gì là đê tiện và sách báo khiêu dâm lại có quyền phơi bầy ra trước mắt con người, và bất hạnh thay, những thứ ấy lại thường áp đặt lên con người, do việc quảng bá tai hại của phương tiện truyền thông xã hội, do việc dung túng của ngành lập pháp, việc nhút nhát của kẻ tốt và bất khôn của kẻ xấu? Việc trình bày kính cẩn về Chúa Kitô và về vương quốc của Người còn hơn là một quyền lợi của nhà truyền bá phúc âm hoá nữa; nó là nhiệm vụ của họ. Cũng thế, nó là quyền lợi của người đồng loại được phép nghe họ loan truyền Tin Mừng cứu độ. Thiên Chúa có thể hoàn thành việc cứu độ này nơi bất cứ ai Ngài muốn, bằng  đường lối chỉ có mình Ngài biết[30]. Tuy nhiên, Con Ngài đến chính là để mạc khải cho chúng ta, bằng lời nói cũng như bằng đời sống của Người, những đường lối cứu độ thông thường. Người đã truyền chúng ta thực hiện việc thông truyền mạc khải này cho những người khác bằng quyền bính Người ủy thác. Cũng tốt thôi nếu mọi Kitô hữu và mọi nhà truyền bá phúc âm hoá cầu nguyện xoay quanh tư tưởng sau đây: bởi tình thương Thiên Chúa, con người cũng có thể chiếm được ơn cứu độ bằng những đường lối khác, cho dù chúng ta không rao giảng Phúc Âm cho họ; thế nhưng, về phần chúng ta, chúng ta có thể chiếm được ơn cứu độ được chăng, nếu chúng ta không rao giảng Phúc Âm, chỉ vì lơ là, sợ hãi hay xấu hổ - điều Thánh Phaolô gọi là "hổ thẹn vì Phúc Âm" (x.Rm.1:16) - hay do bởi những tư tưởng sai lầm? Làm như thế là chúng ta phản bội lời mời gọi của Thiên Chúa, Ðấng muốn hạt giống sinh hoa kết trái nhờ tiếng nói của các thừa tác viên Phúc Âm; hạt giống này lệ thuộc vào chúng ta, trong việc lớn lên thành cây cũng như trong việc sinh nhiều hoa trái.

Bởi thế, chúng ta hãy bảo trì tinh thần sốt mến của mình. Chúng ta hãy bảo trì niềm vui hoan lạc và an ủi trong việc truyền bá phúc âm hoá, ngay cả lúc chúng ta phải gieo trong nước mắt. Chớ gì đối với chúng ta - cũng như đối với Thánh Gioan Tẩy Giả, với Thánh Phêrô và Phaolô, với các tông đồ khác cũng như với vô số những nhà truyền bá phúc âm hoá sáng ngời qua giòng lịch sử Giáo Hội - tinh thần sốt mến này là một nhiệt tình nội tâm không bị dập tắt bởi bất cứ một ai hay bởi bất kỳ điều gì. Chớ gì tinh thần sốt mến này là niềm vui cao cả cho những cuộc đời tận hiến. Và chớ gì thế giới của thời đại chúng ta đây, một thời đại đang tìm kiếm, đôi khi với lo âu, đôi khi với hy vọng, có thể lãnh nhận Tin Mừng từ các nhà truyền bá phúc âm hoá, không phải là thành phần buồn thảm, thất đảm, bất nhẫn hay lo âu, mà là từ các thừa tác viên Phúc Âm có một đời sống tỏa ra lòng sốt mến, thành phần đã lãnh nhận niềm vui của Chúa Kitô trước, và là thành phần sẵn sàng liều mạng mình để vương quốc của Người được loan truyền và Giáo Hội được thiết lập giữa lòng thế giới.

***

KẾT LUẬN

 

81.  Di Sản của Năm Thánh

Hỡi quí huynh và con cái nam nữ, đó là lời yêu cầu tha thiết của Chúng Tôi. Nó vang vọng tiếng nói của anh em Chúng Tôi tụ họp trong Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Lần Thứ Ba. Ðây là công việc Chúng Tôi muốn trao cho quí huynh và con cái nam nữ vào lúc kết thúc Năm Thánh, một năm cho chúng ta thấy rõ hơn các nhu cầu và những lời kêu gọi của đông đảo anh em mình, cả thành phần Kitô hữu lẫn không phải Kitô hữu, những người mong chờ Lời cứu độ từ nơi Giáo Hội.

Chớ gì ánh sáng của Năm Thánh, ánh sáng đã chiếu sáng ở các Giáo Hội địa phương cũng như ở Rôma, làm cho hàng triệu lương tâm được hoà giải với Thiên Chúa, tiếp tục chiếu sáng như vậy sau Năm Thánh, bằng một chương trình hoạt động mục vụ lấy việc truyền bá phúc âm hoá làm đặc tính căn bản, vì những năm này đánh dấu thời điểm kế cận một thế kỷ mới, kế cận cả một thiên niên mới của Kitô giáo.

82.  Mẹ Maria: Sao Sáng Cho Việc Truyền Bá Phúc Âm Hoá

Chúng Tôi hân hoan xin ký thác vào bàn tay và trái tim của Ðức Maria Nữ Trinh Vô Nhiễm trong ngày hôm nay, một ngày đặc biệt kính Mẹ và cũng là ngày kỷ niệm mười năm kết thúc Công Ðồng Chung Vaticanô II. Vào buổi sáng ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, với lời cầu nguyện của mình, Mẹ đã trông coi thuở ban đầu của việc truyền bá phúc âm hoá được Chúa Thánh Thần tác động: chớ gì Mẹ là sao sáng cho việc truyền bá phúc âm hoá được canh tân hơn bao giờ hết, một việc truyền bá phúc âm hoá mà Giáo Hội vâng lệnh Chúa truyền phải cổ động và hoàn thành, nhất là trong những lúc khó khăn song đầy hy vọng này!

Nhân danh Chúa Kitô, Chúng Tôi chúc lành cho các con, cho cộng đồng của các con, cho gia đình của các con, cho tất cả những người thân yêu của các con, bằng những lời Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Philiphê: "Cha tạ ơn Thiên Chúa mỗi khi cha nghĩ đến các con - những người cha luôn nhớ đến trong lời cầu nguyện - cha vui mừng cầu cho các con, vì tất cả các con tiếp tục giúp vào việc phổ biến phúc âm... Cha quí mến tất cả các con - các con là thành phần những người thừa hưởng thân phận ân phúc của cha... trong việc bảo vệ những nền móng vững chắc của phúc âm. Chính Thiên Chúa làm chứng là cha trông mong mỗi một người các con là chừng nào bằng lòng cảm mến của Chúa Giêsu Kitô!" (Phil.1:3-4, 7-8).

 

Ban hành tại Roma, cạnh đền thờ Thánh Phêrô,

ngày 08.12.1975, lễ trọng kính Đức Trinh Nữ Maria, Vô Nhiễm Nguyên Tội,

năm thứ 13, triều đại Giáo Hoàng của Ta.

+ PHAOLÔ VI

Giáo Hoàng

 

 


[1] Diễn từ kết thúc Thương Hội Giám Mục Thế Giới Lần Ba của ÐTC Phaolô VI ngày 26/10/1974: AAS 66 - 1974, pp. 634-635. 637.

[2] ÐTC Phaolô VI, Bài Diễn Từ cho Campesinos ở Columbia, 23/8/1968: AAS 60 - 1968 - p. 623

[3] ÐTC Phaolô VI, Bài Diễn Từ cho "Ngày Tiến Bộ" ở Bogotà, 23/8/1968: A A S 60, 1968, p. 627; xem Thánh Âu-Quốc-Tinh, Epistola 229, 2: PL 33, 1020.

[4] xem ÐTC Phaolô VI, Bài Diễn Từ kết thúc Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Lần Thứ Ba, 26/10/1974: AAS 60, 1974, p. 637

[5] Bài Diễn Từ phát biểu ngày 15-10-1975: tuần san L?Osservatore Romano, 17/10/1975

[6] Thánh Justin, I Apol.46,1-4: PG 6, II Apol 7,1-4; 10,1-3; 13,3-4; Clement of Alexandria, Stromata I,19,91; 94; S.Ch.pp.117-118; 119-120; Công Ðồng Chung Vaticanô II: sắc lệnh Ad Gentes, 11, hiến chế Lumen Gentium, 16

[7] Eusebius of Caesarea, Praeparatio Evangelica, I,1:PG 21,26-28' x. CÐVII, hiến chế Lumen Gentium,16

[8] x.Henri de Lubac, Le drame de l'humanisme athée, ed.Spes, Paris, 1945

[9] Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo Dignitaties Humanae, đoạn 13: AAS 58 (1966), p. 939; xem Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 5: AAS 57 (1965), pp.7-8; Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 1: AAS 58 (1966), 947.

[10] Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 35: AAS 58 (1966), 983.

[11] Thánh Âu-Quốc-Tinh, Enarratio in Ps 44:23: CCL XXXVIII, p. 510; xem Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 1: AAS 58 (1966), 947.

[12] xem Thánh Grêgôry Cả, Homil. in Evangelica 19, 1: PL 76, 1154.

[13] Acts 1:8; xem Didache 9, 1: Funk, Patres Apostolici 1, 22.

[14] xem Công Ðồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium, đoạn 37-38: AAS 56 (1964), p.110; cũng xin xem các sách về phụng vụ và các văn kiện hậu công đồng do Toà Thánh ban bố để áp dụng thực hành việc canh tân phụng vụ theo ý của Công Ðồng.

[15] ÐTC Phaolô VI, Diễn Từ kết thúc Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Lần 3, 26/10/1974: AAS 66 (1974), p. 636

[16] x. Jn.15:16; Mk.3:13-19; Lk.6:13-16

[17] x. Acts 1:21-22

[18] x. Acts 4:8; x. 2:14, 3:12

[19] x. Thánh Lêô Cả, Sermo 69.3, Sermo 70, 1-3, Sermo 95, 2: S.C. 200, pp. 50-52, 55-56, 258-260, 268.

[20] xem Công Ðồng Chung Lyon I, Hiến Chế Ad Apostocicae Dignitatis: Conciliorum Oecumenicorum Decreta, ed. Istituto per le Scienze Religiose, Bologna 1973, p. 278; Công Ðồng Chung Vienne, Hiến Chế Ad Providam Christi, ed. cit., p. 343; Công Ðồng Chung Latêranô V, Hiến Chế In Apostolici Culminis, ed. cit., p. 608; Hiến Chế Postquam ad Universalis, ed. cit., 609; Hiến Chế Dupernae Dispositionis, ed. cit., p. 614; Hiến Chế Divina Disponente Clementia, ed. cit., p. 638.

[21] Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 38: AAS 58 (1966), p. 985.

[22] xem Công Ðồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 22: AAS 57 (1965), p. 26.

[23] xem Công Ðồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 10, 37: AAS 57 (1965), pp. 14, 43; Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 39: AAS 58 (1966), p. 986; Sắc Lệnh về Tác Vụ và Ðời Sống của Linh Mục Presbyterorum Ordinis, 2, 12, 13: AAS 58 (1966), pp. 992, 1010, 1011.

[24] Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 11: AAS: 57 (1965), p.16; Sắc Lệnh về Việc Tông Ðồ của Người Giáo Dân Apostolicam Actuositatem, đoạn 11: AAS 58 (1966), p. 848; Thánh Gioan Chrysostom, In Genesim Serm. VI, 2; VII, a: PG 54, 607-608.

[25] xem Sắc Lệnh về Thừa Tác Vụ và Ðời Sống Linh Mục Presbyterorum Ordinis, đoạn 13: AAS 58 - 1966 - p. 1011.

[26] Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 6: AAS 58 - 1966 - pp. 954-955; xem Sắc Lệnh về Ðại Kết Unitatis Redintegratio, đoạn 1: AAS 57 - 1965 - pp. 90-91.

[27] Sắc Dụ Apostolorum Limina, VII: AAS 66 - 1974 - p. 305.

[28] xem Công Ðồng Chung Vaticanô II, Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo Dignitatis Humanae, đoạn 4: AAS 58 - 1966 - p. 933.

[29] xem như vừa dẫn, các đoạn 9-14: loc. cit. pp. 935-940.

[30] xem Công Ðồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 7: AAS 58 - 1966 - p. 955.