Sứ Điệp

Sunday, 05 April 2020 06:09

Sứ Điệp Phục Sinh Urbi et Orbi Của ĐGH Benedict XVI – Năm 2009 Featured

SỨ ÐIỆP PHỤC SINH URBI ET ORBI

CỦA ÐỨC THÁNH CHA BENEDICT XVI

Chúa Nhật 12 Tháng 04 Năm 2009

***

***

 

 

Anh chị em ở Rôma và trên toàn thế giới thân mến,

Tôi xin mượn lời thánh Augustin để gửi lời chúc mừng lễ Phục Sinh đến anh chị em: “Resurrectio Domini, spes nostra - Cuộc phục sinh của Chúa là niềm hy vọng của chúng ta”.[1] Với lời khẳng định này, vị đại Giám mục giải thích cho các tín hữu rằng Chúa Giêsu đã sống lại ngõ hầu chúng ta, tuy mang thân phận phải chết, nhưng không được thất vọng khi nghĩ rằng với cái chết thì cuộc sống cũng chấm dứt. Không, Chúa Kitô đã sống lại để mang lại cho chúng ta niềm hy vọng.

Thực vậy, một trong những câu hỏi khiến con người bị ám ảnh nhiều nhất là: sau cái chết còn gì nữa không? Đại lễ hôm nay cho phép chúng ta trả lời cho bí ẩn ấy: không phải sự chết sẽ nói lời chung cục, bởi vì sau cùng Sự Sống sẽ chiến thắng. Niềm xác tín của chúng ta không dựa trên những lý luận đơn giản của loài người, nhưng là trên một sự kiện lịch sử của đức tin. Đức Giêsu Kitô, Đấng đã bị đóng đinh và mai táng, đã sống lại với thân xác vinh hiển. Đức Giêsu đã sống lại, để cho chúng ta là những kẻ tin vào Người, cũng được sống muôn đời. Lời loan báo này nằm ở trọng tâm của sứ điệp Tin Mừng. Thánh Phaolô đã khẳng khái tuyên bố: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì lời giảng của chúng tôi rỗng tuếch, lòng tin của anh em cũng rỗng tuếch”. Và ngài còn thêm: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15,14.19). Từ hừng đông lễ Phục Sinh, một mùa Xuân mới của hy vọng đã tràn ngập trái đất; từ hôm ấy, cuộc phục sinh của chúng ta đã khởi đầu, bởi vì lễ Phục Sinh không chỉ đánh dấu một thời điểm của lịch sử mà còn mở đầu một tình trạng mới. Chúa Giêsu đã sống lại không phải vì các môn đệ còn giữ trong tâm khảm ký ức về Người, nhưng bởi vì chính Người đang sống trong chúng ta, và trong Người chúng ta đã bắt đầu hưởng niềm vui của cuộc sống vĩnh cửu.

Do đó, sự phục sinh không phải là một lý thuyết nhưng là một thực tại lịch sử đã được con người Đức Giêsu Kitô mặc khải nhờ sự vượt qua, mà Người đã mở ra một con đường mới giữa đất với trời (x. Dt 10,20). Đó không phải là một huyền thoại hay một giấc mộng, không phải là một thị kiến hay một mơ ước, cũng không phải là chuyện thần tiên, mà là một biến cố độc nhất vô nhị: Đức Giêsu Nadaret, con của bà Maria, Đấng đã được hạ xuống khỏi thập giá và an táng vào chiều thứ sáu, đã rời bỏ ngôi mộ cách khải hoàn. Thực vậy, vào rạng đông của ngày thứ nhất sau ngày Sabat, ông Phêrô và ông Gioan đã nhận thấy ngôi mộ trống rỗng. Bà Maria Magdalena và các phụ nữ khác đã gặp Chúa Kitô phục sinh; hai môn đệ trên đường đi Emmaus cũng nhận ra Người vào lúc bẻ bánh; Đấng Phục Sinh đã hiện ra với các tông đồ vào buổi tối trong nhà Tiệc ly, và tiếp đó hiện ra với các môn đệ ở Galilê.

Việc loan báo cuộc phục sinh của Chúa chiếu soi những vùng tăm tối trên thế giới mà chúng ta đang sống. Cách riêng tôi muốn nói về thuyết duy vật và thuyết hư vô, về một vũ trụ quan không thể vượt lên những gì được khoa học kiểm chứng, và buồn sầu thu hẹp vào cảnh hư vô như cùng đích của phận người. Thực ra nếu Đức Kitô không sống lại, thì đúng là sự trống rỗng sẽ thống trị. Nếu chúng ta loại bỏ Đức Kitô và sự phục sinh của Người, thì con người chẳng còn lối thoát. Nhưng hôm nay là ngày vang lên lời loan báo về sự phục sinh của Chúa Kitô, trả lời cho vấn nạn của những kẻ hoài nghi được sách Giảng viên ghi lại: “Thử hỏi trên đời này có điều gì nói được là mới lạ không? (Gv 1,10). Chúng tôi xin đáp: Có chứ: vào buổi sáng Phục sinh, mọi sự đều đổi mới: “Mors et vita duello conflixere mirando: dux vitae mortuus regnat vivus: Sự chết và sự sống đã đối đầu với nhau trong cuộc giao tranh kỳ diệu: Chúa sự sống đã chết nhưng bây giờ Người đã sống lại hiển thắng”. Đó là chuyện mới lạ. Một sự mới lạ làm thay đổi cuộc sống của những ai đón nhận nó, như đã xảy ra cho các thánh, chẳng hạn như cho thánh Phaolô.

Trong khung cảnh của năm thánh Phaolô, nhiều lần chúng ta đã có dịp suy niệm về cảm nghiệm của vị đại tông đồ. Ông Saulô, kẻ quyết tâm bắt bớ các Kitô hữu, đã gặp gỡ Đức Kitô trên đường đi Damas và đã bị Người “chinh phục”. Những gì tiếp theo thì chúng ta đã biết. Nơi thánh Phaolô đã xảy ra điều mà về sau ông viết cho các tín hữu Corinto: “Phàm ai ở trong Chúa Kitô thì trở nên một thọ tạo mới; những chuyện cũ đã qua, này đây sinh ra những chuyện mới” (2Cr 5,17). Chúng ta hãy nhìn nhà loan truyền Tin Mừng, với lòng hăng say táo bạo của hoạt động tông đồ, đã mang Tin Mừng cho các dân tộc trên thế giới vào thời ấy. Lời giảng và gương sáng của ông thôi thúc chúng ta đi tìm Chúa Giêsu, khuyến khích chúng ta tín thác vào Người, bởi vì cảm thức hư vô đang muốn đầu độc nhân loại, đã bị ánh sáng và niềm hy vọng từ cuộc phục sinh của Người đánh bại. Những lời của thánh vịnh 139 đã trở nên hiện thực: “Đêm tối không còn là đêm tối đối với ngươi nữa; đêm tối đã sáng rực như ban ngày” (Tv 139,12). Bao trùm mọi vật không còn là sự trống rỗng nữa, nhưng là sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa. Ngay cả vương quốc của Tử thần cũng được giải thoát, bởi vì Lời của sự sống được thần khí thúc đẩy, đã thấu đến cõi âm ti (câu 8).

Nếu quả thực sự chết không còn quyền hành trên nhân loại và thế giới nữa, thì vẫn còn nhiều, rất nhiều dấu vết thống trị trước đây của nó. Tuy rằng nhờ cuộc Phục sinh, Chúa Kitô đã nhổ bứng gốc rễ của sự dữ, nhưng Người vẫn còn cần nhờ những con người thuộc mọi thời mọi nơi giúp Người xác lập cuộc chiến thắng với những khí cụ của Người: khí cụ của công lý và chân lý, của lòng khoan nhân, của tha thứ và tình yêu. Đây là sứ điệp mà nhân chuyến viếng thăm nước Cameroun và Angola mới đây, tôi đã muốn mang đến cho toàn thể lục điạ Phi châu, nơi tôi được nồng nhiệt chào đón và sẵn sàng lắng nghe. Thực thế, châu Phi đã phải chịu đựng quá mức những cuộc xung đột tàn bạo và bất tận - thường bị quên lãng; những cuộc xung đột đã xâu xé biết bao quốc gia, và làm tăng thêm con số nạn nhân của nạn đói, nghèo và tật bệnh. Tôi sẽ mạnh dạn lặp lại sứ điệp đó tại Thánh địa mà tôi sẽ viếng thăm trong vài tuần nữa. Cuộc hoà giải, tuy khó nhưng cần thiết, bởi vì là tiền đề cho một tương lai của an ninh và chung sống hòa bình, và nó chỉ có thể đạt được nhờ những nỗ lực được đổi mới, kiên trì và thành thực, để dàn xếp cuộc tranh chấp giữa Israel và Palestine. Rồi từ Thánh địa, tôi nghĩ đến các nước lân cận, đến Trung đông, và toàn thế giới. Trong thời buổi khan hiếm lương thực trên hoàn cầu, kinh tế rối loạn, cảnh nghèo dưới hình thức cũ và mới, sự thay đổi khí hậu, cảnh bạo động và cùng quẫn bó buộc nhiều người phải rời bỏ quê hương để tìm một nơi sống an toàn hơn, mối đe dọa của nạn khủng bố đang gia tăng, những nỗi lo sợ trước cảnh bấp bênh của ngày mai, thì việc tìm lại những lý do để hy vọng là điều cấp bách. Mong rằng đừng ai rút lui khỏi cuộc chiến an bình được phát động từ sự phục sinh của Chúa Kitô, Đấng – như tôi đã nói ở trên – đang tìm kiếm những con người giúp củng cố sự chiến thắng với những khí cụ của Người, khí cụ của công lý và sự thật, của lòng khoan nhân, của tha thứ và tình yêu.

“Resurrectio Domini, spes nostra – Cuộc phục sinh của Chúa là niềm hy vọng của chúng ta”. Hôm nay Hội Thánh hân hoan công bố điều đó: Hội Thánh loan báo niềm hy vọng mà Thiên Chúa đã củng cố khi cho Đức Giêsu Kitô phục sinh từ cõi chết. Hội Thánh thông đạt niềm hy vọng đang ấp ủ trong tim và muốn chia sẻ với mọi người, ở khắp nơi, đặc biệt là tại những nơi mà các Kitô hữu đang chịu bách hại vì đức tin hoặc vì dấn thân bảo vệ công lý và hòa bình. Hội Thánh khơi lên niềm hy vọng có thể đem hết can đảm để làm điều thiện, nhất là khi phải trả giá đắt. Hôm nay Hội Thánh hát lên “ngày mà Thiên Chúa đã làm nên” và mời gọi hãy vui mừng. Hôm nay Hội Thánh nài xin Đức Maria là Ngôi sao Hy vọng dìu dắt nhân loại đến bến cứu rỗi bình an là trái tim của Chúa Kitô, Hy lễ Vượt qua, Chiên đã cứu chuộc thế gian, Đấng vô tội đã hoà giải chúng ta là những tội nhân với Chúa Cha. Chúng ta hãy hân hoan hát lên lời Alleluia để mừng Người, là Vua hiển thắng, Đấng đã chịu đóng đinh và đã sống lại.

 

+ BENEDICTUS XVI

Giáo Hoàng

 

***

Sau bài sứ điệp là các lời chúc mừng với 63 ngôn ngữ khác nhau, mở đầu là tiếng Italia, rồi các ngôn ngữ châu Âu, châu Phi, châu Á, và kết thúc với tiếng maori và Samoa ở châu Ðại Dương cùng với hai ngôn ngữ quốc tế là tiếng esperanto và latinh.

Phụng vụ mừng lễ Chúa Phục sinh kết thúc với phép lành ban ơn Toàn Xá Urbi et Orbi , cho thành phố Rôma và cho toàn thế giới. Các tín hữu có thể lãnh ân xá qua đài truyền thanh và truyền hình. Trước đó, vị chủ sự đã đọc công thức xá giải các tội lỗi và hình phạt: “Nhờ lời chuyển cầu của Ðức Trinh nữ Maria, các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô cùng toàn thể các thánh, xin Thiên Chúa toàn năng lân tuất ban ân xá, tha thứ tội lỗi cho chúng ta, và ban cho chúng ta được ơn hoán cải và kiên trì làm việc thiện cho đến cùng”.

 

 

 

 


[1] Thánh Augustin, Sermo 261,1.