SẮC CHỈ VENERABILIUM NOSTRORUM
CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG GIOAN XXIII
VỀ VIỆC THIẾT LẬP HÀNG GIÁO PHẨM VIỆT NAM
ngày 24-11-1960
***
Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII
***
Gioan Giám Mục, tôi tá các tôi tá Thiên Chúa, để ghi nhớ muôn đời.
Chư Huynh đáng kính, là Hồng Y Giáo Hội Roma, phụ trách tại Thánh Bộ Truyền Giáo, sau khi tham thảo ý kiến hiền tử MARIO BRINI Khâm sứ Tòa Thánh tại Đông Dương, đã nghĩ việc thiết lập Phẩm trật Giáo Hội tại Việt Nam là thích thời và tối lợi cho giáo sự.
TA đây cũng đồng ý, lại tự suy xét chín chắn và thêm ý kiến những người liên hệ.
TA lấy quyền Tông Tòa mà quyết định và truyền thi hành như sau:
Tại Việt Nam sẽ thành lập ba Giáo Tỉnh:
1. GIÁO TỈNH HÀ NỘI gồm Tổng Giám mục Hà Nội, tới nay chỉ là Đại diện Tông Tòa, với nhà thờ Chính tòa danh hiệu Thánh Giuse, và thêm những Giám tòa thuộc hạt từ nay cũng hết là Đại diện Tông Tòa, để trở nên Địa phận Chính tòa, tức là:
Lạng Sơn với nhà thờ Chính tòa danh hiệu Thánh Đa Minh Hiển tu;
Hải Phòng và Bắc Ninh với hai nhà thờ Chính tòa danh hiệu Nữ Vương rất thánh Văn côi;
Hưng Hóa với nhà thờ Chính tòa danh hiệu Đức Mẹ Lên Trời;
Thái Bình với nhà thờ Chính tòa danh hiệu Thánh Tâm Chúa Giêsu;
Bùi Chu với nhà thờ Chính tòa danh hiệu Nữ Vương rất thánh Văn côi;
Phát Diệm với nhà thờ Chính tòa danh hiệu Nữ Vương rất thánh Văn côi;
Thanh Hóa với nhà thờ Chính tòa danh hiệu Đức Mẹ vô nhiễm Nguyên tội;
Vinh với nhà thờ Chính tòa danh hiệu Đức Mẹ Lên Trời;
2. GIÁO TỈNH HUẾ gồm Tổng Giám mục Huế, trước đây chỉ là Đại diện Tông Tòa, với nhà thờ Chính tòa Danh hiệu Trái Tim Cực Sạch Đức Mẹ, và thêm các Giám tòa thuộc hạt đã được trở thành Địa phận Chính tòa:
Qui Nhơn, nhà thờ Chính tòa danh hiệu Đức Mẹ Lên Trời;
Nha Trang với nhà thờ Chính tòa Chúa Giêsu Vua;
KonTum với nhà thờ Chính tòa danh hiệu Đức Mẹ vô nhiễm Nguyên tội.
3. Sau cùng, GIÁO TỈNH SÀI GÒN gồm Tổng Giám mục Sài gòn, trước đây chỉ là Đại diện Tông Tòa, với nhà thờ Chính tòa danh hiệu Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội, và thêm các Địa phận thuộc hạt trước kia chỉ là Đại diện Tông Tòa, tức là:
Vĩnh Long với nhà thờ Chính tòa danh hiệu Bà Thánh Anna Thân Mẫu Đức Bà Maria;
Cần Thơ với nhà thờ Chính tòa danh hiệu Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Và các Địa phận mới được thành lập:
ĐaLat với nhà thờ Chính tòa danh hiệu Thánh Nicola Bari ;
Mỹ Tho với nhà thờ Chính tòa danh hiệu Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội.
Long Xuyên với nhà thờ Chính tòa sắp được xây dựng.
TA cũng lệnh cho các Địa phận Lạng Sơn, Hải Phòng, Bắc Ninh, Thanh Hóa, Thái Bình, Huế, đến nay vẫn do Hội Thừa Sai Ba lê và Dòng Đa Minh điều khiển, và các Địa phận mới Đalat, Mỹ Tho, Long Xuyên, tất cả các Địa phận kể trên từ nay sẽ trao cho Giáo sĩ Triều Việt Nam quản nhậm.
TA cũng ban cho các Địa phận vừa nói và các Địa phận khác đã kể trên, cho các nhà thờ Chính tòa cũng như các Giám mục lãnh đạo được mọi quyền lợi, danh dự, đặc ân thích xứng. Đối với các Giám mục lãnh đạo, TA còn đặt thêm trọng trách và nhiệm vụ. Tất cả các Địa phận trên đây sẽ tiếp tục trực thuộc Thánh Bộ Truyền Giáo, còn các Giám mục lãnh đạo thì ta thuyên chuyển như sau:
- Thân huynh đáng kính GIUSE MARIA TRỊNH NHƯ KHUÊ, trước đây là Đại diện Tông Tòa với hiệu tòa Synaitana, từ nay là Tổng Giám mục Hà Nội.
- Thân huynh đáng kính VICENTÊ PHẠM VĂN DỤ, Giám quản Lạng Sơn với hiệu tòa Bosetana từ nay là Giám mục Chính tòa Địa phận Lạng Sơn.
- Thân huynh đáng kính PHÊRÔ KHUẤT VĂN TẠO, Giám quản Hải Phòng với hiệu tòa Caralliensi từ nay là Giám mục Chính tòa Địa phận Hải Phòng đồng thời kiêm Giám quản Địa phận Bắc Ninh.
- Thân huynh đáng kính PHÊRÔ NGUYỄN HUY QUANG, Giám quản Hưng Hóa với hiệu tòa Claudiopolitana xứ Isauria, từ nay là Giám mục Chính tòa Địa phận Hưng Hóa.
- Thân huynh đáng kính ĐAMINH ĐINH ĐỨC TRỤ, Giám quản Thái Bình với hiệu tòa Cataquensi, từ nay Giám mục Chính tòa Địa phận Thái Bình.
- Thân huynh đáng kính GIUSE PHẠM NĂNG TĨNH, Giám quản Bùi Chu với hiệu tòa Bernicensi, từ nay là Giám mục Chính tòa Địa phận Bùi Chu.
- Thân huynh đáng kính PHAOLÔ BÙI CHU TẠO, Giám quản Phát Diệm với hiệu tòa Numida, từ nay là Giám mục Chính tòa Địa phận Phát Diệm.
- Thân huynh đáng kính PHÊRÔ PHẠM VĂN TẦN, Giám quản Thanh Hóa với hiệu tòa Justiniapoli bên Galatia, từ nay làm Giám mục Chính tòa Địa phận Thanh Hóa.
- Thân huynh đáng kính GIOAN BAOTIXITA TRẦN HỮU ĐỨC, Đại diện Tông Tòa ở Vinh với hiệu tòa Niciotana, từ nay là Giám mục Chính tòa Địa phận Vinh.
- Thân huynh đáng kính PHÊRÔ MARTINNÔ NGÔ ĐÌNH THỤC, Đại diện Tông Tòa tại Vĩnh Long với hiệu tòa Saesinensi, từ nay là Tổng Giám mục Địa phận Huế.
- Thân huynh đáng kính PHÊRÔ PHẠM NGỌC CHI, Đại diện Tông Tòa tại Bùi chu và Giám quản Tông Tòa ở Qui Nhơn với hiệu tòa Sozopolitana bên Haemimonto, từ nay là Giám mục Chính tòa Địa phận Qui Nhơn.
- Thân huynh đáng kính MARCELLÔ PIQUET, Đại diện Tông Tòa tại Nha Trang với hiệu tòa Erizê, từ nay là Giám mục Chính tòa Địa phận Nha Trang.
- Thân huynh đáng kính PHAOLÔ SEITZ, Đại diện Tông Tòa tại Kontum với hiệu tòa Catulensi, từ nay là Giám mục Chính tòa tại Địa phận Kontum.
- Thân huynh đáng kính PHAOLÔ NGUYỄN VĂN BÌNH, Đại diện Tông Tòa tại Cần Thơ với hiệu tòa Agnusiensi, từ nay là Tổng Giám mục Địa phận Saigon.
- Thân huynh đáng kính SIMON HÒA NGUYỄN VĂN HIỀN, Đại diện Tông Tòa ở Saigon với hiệu tòa Sagalassê, từ nay là Giám mục Chính tòa Địa phận Đàlạt.
Và TA đặt các Hiền tử :
- GIUSE TRẦN VĂN THIỆN làm Giám mục Chính tòa Địa phận Mỹ Tho;
- ANTÔN NGUYỄN VĂN THIỆN làm Giám mục Chính tòa Địa phận Vĩnh Long;
- PHILIPPHÊ NGUYỄN KIM ĐIỀN làm Giám mục Chính tòa Địa phận Cần Thơ;
- MICAE NGUYỄN KHẮC NGỮ làm Giám mục Chính tòa Địa phận Long Xuyên.
Trong các Địa phận mới này, thuộc Giám mục Chính tòa cũng như Tổng Giám mục Chính tòa, nếu vì hoàn cảnh sự vụ hay địa phương, chưa thể thành lập Kinh sĩ hội, thì phải lựa đặt Ban Cố vấn Địa phận theo Giáo luật, và một khi Kinh sĩ hội được thành lập, Ban Cố vấn tức khắc chấm dứt nhiệm vụ. Các vị lãnh đạo cũng phải đặc biệt lưu ý việc đào luyện thanh niên có triển vọng lên chức Linh mục : họ là hướng đạo tương lai của giáo dân. Ngân quỹ Giám tòa thành bởi của cải Địa phận hiện có, lợi tức Giám tòa, tặng vật người ta tự cúng và tiền Thánh Bộ Truyền Giáo trợ cấp. Việc cai quản và điều hành Địa phận, quyền lợi Giáo sĩ và Giáo dân, bổ nhiệm Vị Đại diện Kinh sĩ hội khi trống ngôi và mọi việc khác, thì cứ chiếu Giáo luật mà thi hành.
Sắc chỉ của Ta đây sẽ được niêm ấn chì và Ta truyền cho Vị Khâm sứ Tòa Thánh tại Đông Dương Ta đã nói trên, phải đích thân hay ủy nhiệm người khác thi hành, miễn là người ấy có chức vị trong Giáo hội. Nếu trong thời gian thi hành, Vị khác sẽ nhậm chức vụ Khâm sứ Tòa Thánh tại Đông Dương, thì Vị ấy sẽ thi hành lệnh của Ta. Vị thi hành phải thận trọng lập biên bản đầy đủ khi việc đã hoàn tất và kíp đệ lên Thánh Bộ Truyền Giáo các văn kiện đã ký nhận chắc chắn. Ý Ta là Sắc Chỉ này có hiệu lực tức khắc và mãi về sau, cho nên tất cả những gì được ấn định trong Sắc này phải được những người liên hệ tôn trọng thi hành và như thế là có hiệu lực. Không một luật lệ nào nghịch lại có thể ngăn cản hiệu lực của Sắc Chỉ nầy : chính Sắc Chỉ này hủy bỏ các luật lệ ấy. Vì thế bất kỳ ai, ở chức vị nào, hữu ý hay vô tình nghịch lại những sự Ta vừa nói trên, thì Ta luận phi và kể là vô giá trị.
Lại nữa, không ai được phép xé hủy hay giả mạo Sắc Chỉ này của Ta và nếu công bố hoặc là ấn loát hay viết tay thì những bản đó phải được chức vị trong Giáo Hội đóng ấn và đồng thời phải mang chữ ký của một Vị Chính thức coi giữ văn kiện thì mới đáng tin. Nếu ai dám khinh dể hay khước từ cách nào toàn Sắc Chỉ này thì hãy biết rằng sẽ bị những hình phạt Giáo luật đã ra cho những người không tuân lệnh các Đức Giáo Hoàng.
Làm tại Roma nơi đền thờ Thánh Phêrô,
ngày hai mươi bốn tháng mười một, năm một ngàn chín trăm sáu mươi,
cũng là năm thứ ba Triều đại của Ta.
Ký tên
Thay Đức Hồng Y Chưởng ấn Giáo Hội Roma.
Dominicus Card. Tardini, Quốc vụ Khanh.
Gregorius P. Card. Agagianian, Tổng Trưởng T.B. Truyền Giáo.
Francicus Tinello, Nhiếp chính Chưởng ấn Tông Tòa.
Francicus A. Ferretti, Tổng lục sự Tông Tòa.
Albertus Serafini, Tổng Lục sự Tông Tòa.
ghi tại Chưởng ấn Tông Tòa, cuốn 105, (col CV) số 31.
------------------------------------------------------
Sắc chỉ VENERABILIUM NOSTRORUM ngày 24-11-1960 được công bố tại Việt Nam ngày 08-12-1960 và đăng trong Acta Apostolicae Sedis năm 1961, số 7 ra ngày 1-7-1961 trang 346-350.