ỦY BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ
TÀI LIỆU CẢM THỨC ĐỨC TIN
05 - 05 - 2014
***
***
CHƯƠNG HAI
CẢM THỨC ĐỨC TIN CỦA TÍN HỮU
TRONG ĐỜI SỐNG BẢN THÂN CỦA HỌ
48. Chương hai này tập trung vào bản chất của cảm thức đức tin của tín hữu (sensus fidei fidelis). Nó đặc biệt lợi dụng cái khung lý luận và các phạm trù của nền thần học cổ điển để suy nghĩ về việc đức tin hành động ra sao nơi các tín hữu cá nhân. Mặc dù cái nhìn của Thánh Kinh về đức tin rộng lớn hơn, cái hiểu cổ điển chú ý nhiều hơn tới khía cạnh chủ yếu của nó, đó là việc qui phục của trí hiểu đối với chân lý mạc khải nhờ tình yêu. Việc ý niệm hóa đức tin này ngày nay vẫn được dùng để làm rõ cái hiểu về cảm thức đức tin của tín hữu. Trong chiều hướng này, chương hai cũng xem sét một số biểu hiện của cảm thức đức tin của tín hữu trong đời sống bản thân của họ; điều rõ ràng là hai khía cạnh bản thân và Giáo Hội của cảm thức đức tin không thể tách biệt nhau.
1. Cảm thức đức tin như một bản năng
49. Cảm thức đức tin là một loại bản năng thiêng liêng giúp tín hữu phán đoán một cách tự phát liệu một giáo huấn hay một thực hành đặc thù nào đó có phù hợp với Tin Mừng và với đức tin tông truyền hay không. Nó được nối kết một cách nội tại với chính nhân đức đức tin; nó phát xuất từ và là một đặc tính của đức tin (62).Nó được sánh với bản năng vì nó không chủ yếu là kết quả của suy luận thuần lý, mà đúng hơn là một hình thức nhận biết tự phát và tự nhiên, một thứ tri giác (aisthesis).
50. Đầu tiên và trước nhất, cảm thức đức tin phát xuất từ tính đồng bản tính (connaturality) mà nhân đức đức tin vốn thiết lập giữa chủ thể tin và đối tượng chân thực của đức tin, nghĩa là chân lý của Thiên Chúa được mạc khải nơi Chúa Giêsu Kitô. Nói một cách tổng quát, tính đồng bản tính chỉ hoàn cảnh trong đó, thực thể A liên hệ với thực thể B một cách thân mật đến nỗi A chia sẻ các thiên hướng tự nhiên của B như thể đó là của mình. Tính đồng bản tính đem lại một hình thức nhận thức đặc thù và sâu sắc. Thí dụ, khi người bạn này kết hợp với người bạn kia, thì họ tiến tới chỗ có khả năng phán đoán được một cách tự phát điều hợp với người kia vì họ có cùng những khuynh hướng với người kia và do đó nhờ tính đồng bản nhiên, họ hiểu điều gì tốt điều gì xấu đối với người kia. Nói cách khác, đây là một nhận thức thuộc một trật tự khác với nhận thức khách quan; vì nhận thức khách quan diễn tiến theo lối ý niệm hóa (conceptualisation) và suy luận. Trái lại, đây là một nhận thức bằng tương cảm (empathy) hay nhận thức của trái tim.
51.Mọi nhân đức đều đồng bản tính hóa chủ thể của nó, nói cách khác, người sở hữu nó, với đối tượng của nó, nghĩa là, với một thứ hành động nào đó. Nhân đức ở đây có nghĩa một thiên hướng ổn định (hay một thói quen) khiến một người cư xử theo một cung cách nhất định nào đó về phương diện tri thức hay luân lý. Nhân đức là một loại “bản tính thứ hai”, nhờ đó, con người xây dựng chính họ bằng cách thể hiện một cách tự do và phù hợp với lý lẽ đúng đắn các năng động tính được phú bẩm ngay trong bản tính con người. Nhờ thế, nó đem lại cho hoạt động của các khả năng tự nhiên một xu hướng nhất định và ổn định; nó điều hướng các khả năng này tới những tác phong mà người có nhân đức từ nay thực hiện được “một cách tự nhiên”, “dễ dàng, tự chủ và hân hoan” (63).
52. Mọi nhân đức đều có một hiệu quả kép: thứ nhất, nó tự nhiên làm cho người sở hữu nó nghiêng về một đối tượng (một loại hành động nào đó) và thứ hai, nó tự phát làm cho họ xa lánh bất cứ điều gì ngược với đối tượng này. Thí dụ, người nào khai triển được nhân đức trong sạch đều có một thứ “giác quan thứ sáu”, “một thứ bản năng thiêng liêng” (64) giúp họ biện phân được cách cư xử đúng đắn dù trong những hoàn cảnh phức tạp nhất, tự phát nhận ra điều thích đáng phải làm hay điều thích đáng phải tránh. Người trong sạch, do đó, có được thái độ đứng đắn ngay trong bản năng của họ, trong khi, lối suy luận theo ý niệm của nhà luân lý học có thể chỉ dẫn tới phức tạp và do dự (65).
53. Trong trường hợp nhân đức đức tin, cảm thức đức tin là hình thức mà bản năng luôn đi theo mọi nhân đức vẫn thường mặc lấy. “Đối với thói quen của các nhân đức khác, người ta thấy được điều xứng hợp với thói quen đó thế nào, thì đối với thói quen đức tin, tâm trí con người cũng được điều hướng về việc qui phục những điều vốn xứng hợp với đức tin đúng đắn như thế, chứ không qui phục những điều khác” (66). Như một nhân đức đối thần, đức tin giúp tín hữu tham dự vào nhận thức mà Thiên Chúa vốn có về chính Người và về mọi sự. Nơi tín hữu, nó mang hình thức một “bản tính thứ hai” (67). Nhờ ơn thánh và các nhân đức đối thần, các tín hữu trở thành “những người tham dự vào bản tính thần linh” (2Pr 1:4), và có thể nói đã được đồng bản tính hóa với Thiên Chúa. Nhờ thế, họ phản ứng một cách tự phát dựa trên chính bản tính thần linh được tham dự ấy, giống như cách các sinh vật phản ứng theo bản năng đối với những gì hợp hay không hợp với bản tính của chúng.
54. Không giống thần học mà ta có thể mô tả là khoa học đức tin (scientia fidei), cảm thức đức tin của tín hữu (sensus fidei fidelis) không phải là một nhận thức có tính phản tỉnh về các mầu nhiệm của đức tin là nhận thức chuyên triển khai các khái niệm và sử dụng các thủ tục thuần lý để đạt tới các kết luận. Như danh xưng (cảm thức) đã chỉ rõ, nó giống như một phản ứng tự nhiên, tức khắc và tự phát, và có thể so sánh với một bản năng sinh tử hay một loại “thính hơi” (flair) nhờ đó, tín hữu tự phát nắm lấy những gì phù hợp với chân lý đức tin và xa lánh những gì trái ngược với chân lý này (68).
55. Cảm thức đức tin tự nó không thể sai lầm về đối tượng của nó: tức đức tin đích thực (69). Tuy nhiên, trong thế giới tâm tư hiện thực của tín hữu, các trực giác đúng đắn của cảm thức đức tin có thể bị trộn lẫn với nhiều ý kiến chỉ có tính phàm nhân hoặc ngay cả với nhiều sai lầm liên hệ tới các giới hạn chật hẹp của bối cảnh văn hóa đặc thù (70). “Dù đức tin đối thần đúng nghĩa không thể nào sai lầm, tín hữu vẫn có thể có những ý kiến lầm lạc vì không phải mọi suy nghĩ của họ đều phát xuất từ đức tin. Không phải ý tưởng nào được lưu truyền trong Dân Chúa đều tương hợp với đức tin” (71).
56. Cảm thức đức tin phát xuất từ nhân đức đối thần tin. Nhờ tình yêu thúc đẩy, nhân đức này là một thiên hướng bên trong giúp ta gắn bó một cách không dè dặt với toàn bộ chân lý được Thiên Chúa mạc khải ngay khi nó được nhận ra như thế. Do đó, đức tin không nhất thiết ngụ ý phải minh nhiên hiểu biết toàn bộ chân lý mạc khải (72). Thành thử, một thứ cảm thức đức tin nào đó vẫn có thể hiện hữu nơi “người đã rửa tội, được danh dự mang tên Kitô Hữu, nhưng chưa tuyên xưng đức tin Công Giáo trong sự toàn diện của nó” (73). Cho nên, Giáo Hội Công Giáo cần chú ý tới những gì Chúa Thánh Thần có thể nói với mình qua các tín hữu trong các Giáo Hội và các cộng đồng Giáo Hội không hiệp thông trọn vẹn với mình.
57. Vì là một đặc tính của nhân đức đối thần tin, cảm thức đức tin của tín hữu khai triển tỷ lệ thuận với việc khai triển của nhân đức đức tin. Nhân đức đức tin càng bén rễ sâu vào tâm hồn và tâm trí tín hữu và soi sáng cuộc sống hàng ngày của họ, thì cảm thức đức tin của tín hữu càng phát triển và lớn mạnh trong họ. Nay, vì đức tin, hiểu như một hình thức nhận biết, vốn đặt căn bản trên tình yêu, nên cần có đức ái để sinh động hóa nó và soi sáng cho nó, ngõ hầu biến nó thành một đức tin sống động và từng được sống (fides formata). Như thế, việc tăng cường độ cho đức tin nơi người tín hữu đặc biệt tùy thuộc sự lớn mạnh của đức ái nơi họ, và do đó, cảm thức đức tin của tín hữu tỷ lệ thuận với sự thánh thiện của cuộc sống họ. Thánh Phaolô dạy ta rằng: “Tình yêu của Thiên Chúa đã được đổ tràn vào trái tim ta qua Chúa Thánh Thần là Đấng đã được ban cho ta” (Rm 5:5), và do đó, việc khai triển cảm thức đức tin trong tinh thần người tín hữu đặc biệt là nhờ hành động của Chúa Thánh Thần. Vốn là Thánh Thần tình yêu, Đấng truyền dẫn tình yêu vào trái tim con người, Chúa Thánh Thần mở ra cho tín hữu khả thể nhận biết Chúa Kitô Chân Lý một cách sâu xa và thâm hậu hơn, dựa trên sự kết hợp của đức ái: “Chỉ cho thấy chân lý là một đặc điểm của Chúa Thánh Thần, vì chính tình yêu đem lại việc mạc khải các bí nhiệm” (74).
58. Đức ái giúp các ơn Chúa Thánh Thần nở rộ trong các tín hữu; Người dẫn dắt họ tới một cái hiểu cao hơn về các sự việc thuộc đức tin “với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết thiêng liêng” (Cl 1:9) (75). Thực vậy, các nhân đức đối thần chỉ đạt được mức trọn hảo trong đời sống của tín hữu khi họ để Chúa Thánh Thần hướng dẫn họ (xem Rm 8:14). Các ơn Chúa Thánh Thần chính là các thiên hướng bên trong có tính nhưng không và được phú bẩm dùng làm căn bản cho hoạt động của Chúa Thánh Thần trong đời sống tín hữu. Nhờ các ơn này, nhất là các ơn thông hiểu (understanding) và suy biết (knowledge), các tín hữu có khả năng hiểu một cách thâm hậu “các thực tại thiêng liêng họ cảm nhận được” (76), và bác bỏ bất cứ cách giải thích nào đi ngược lại đức tin.
59. Nơi mỗi tín hữu đều có một sự tương tác sống còn giữa cảm thức đức tin và việc sống đức tin trong nhiều bối cảnh khác nhau của cuộc sống bản thân. Một đàng, cảm thức đức tin soi sáng và hướng dẫn cách người tín hữu đem đức tin của mình ra thực hành. Đàng khác, nhờ giữ các giới răn và đem đức tin ra thực hành, tín hữu thủ đắc được một cái hiểu sâu sắc hơn về đức tin: “những ai thực hành điều đúng sẽ đến với ánh sáng, để người ta thấy rõ việc họ làm đã được làm trong Thiên Chúa” (Ga 3:21). Đem đức tin ra thực hành trong thực tế cụ thể của hoàn cảnh hiện sinh trong đó tín hữu hiện diện vì các liên hệ gia đình, nghề nghiệp hay văn hóa đều làm giầu cho cảm nghiệm bản thân của họ. Nó giúp họ khả năng thấy rõ giá trị cũng như giới hạn của một học lý nhất định nào đó, và đề xuất nhiều cách thế để cải tiến cách lên công thức cho nó. Đó chính là lý do tại sao những người giảng dạy nhân danh Giáo Hội nên chú ý trọn vẹn tới cảm nghiệm của các tín hữu, nhất là tín hữu giáo dân, những người cố gắng đem giáo huấn của Giáo Hội ra thực hành trong các phạm vi chuyên biệt của cảm nghiệm và chức năng của họ.
2. Các biểu hiện của cảm thức đức tin trong cuộc sống bản thân của tín hữu
60. Có thể làm nổi bật ba biểu hiện chính của cảm thức đức tin tín hữu trong cuộc sống bản thân của họ. Cảm thức đức tin của tín hữu giúp tín hữu cá nhân 1) biện phân được việc một giáo huấn hay một thực hành đặc thù nào đó họ thực sự gặp trong Giáo Hội có nhất quán với đức tin đích thực nhờ đó họ sống hiệp thông với Giáo Hội hay không (xem các số 61-63 dưới đây); 2) phân biệt được điều chính yếu và điều phụ thuộc trong những điều được giảng dạy (xem số 64 dưới đây); và 3) xác định và đem ra thực hành việc làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô mà chính họ cần đưa ra trong các bối cảnh lịch sử và văn hóa đặc thù trong đó họ đang sinh sống (xem số 65 dưới đây).
61. “Anh em thân mến, anh em đừng tin mọi thần khí, nhưng anh em phải cân nhắc xem các thần khí này có phát xuất từ Thiên Chúa hay không; trên thế giới, hiện đang có nhiều tiên tri giả” (1Ga 4:1). Cảm thức đức tin của tín hữu đem lại cho họ khả năng biện phân xem liệu một giáo huấn hay một thực hành nào đó có nhất quán với đức tin đích thực nhờ đó họ từng sống hay không. Nếu các tín hữu cá nhân tri nhận hay “cảm thấy” sự nhất quán ấy, một cách tự phát họ sẽ qui phục từ trong nội tâm các giáo huấn này hay cam kết sẽ đích thân thực hành chúng, bất kể đây là một vấn đề sự thật đã minh nhiên được giảng dạy hay chỉ là một vấn đề sự thật chưa được minh nhiên giảng dạy.
62. Cảm thức đức tin cũng giúp các tín hữu cá nhân biết tri nhận bất cứ sự thiếu hài hóa, thiếu nhất quán hay mâu thuẫn nào giữa một giáo huấn hay một thực hành nào đó và đức tin Kitô Giáo chân chính mà họ vốn sống. Họ phản ứng như một người yêu âm nhạc thường phản ứng trước một nốt nhạc sai trong một cuộc trình diễn tấu khúc nào đó. Trong những trường hợp như thế, các tín hữu chống lại các giáo huấn hay thực hành liên hệ này từ trong nội tâm và không nhìn nhận chúng hay tham dự vào chúng. “Thói quen (habitus) đức tin sở hữu được một khả năng qua đó và nhờ đó, tín hữu được ngăn cản không qui phục bất cứ điều gì mâu thuẫn với đức tin, giống như đức trong sạch bảo vệ ta chống lại bất cứ điều gì mâu thuẫn với nó” (77).
63. Được cảm thức đức tin báo động, các tín hữu cá nhân có khả năng bác bỏ, không qui phục ngay cả giáo huấn của các mục tử hợp pháp nếu họ không nhận ra tiếng nói của Chúa Kitô, Mục Tử Nhân Lành, trong giáo huấn này. “Chiên theo (Mục Tử Nhân Lành) vì chúng biết tiếng ông. Chúng không theo người lạ, nhưng chạy trốn khỏi họ vì chúng không biết tiếng của người lạ” (Ga 10:4-5). Đối với Thánh Tôma, một tín hữu, dù không có khả năng thần học, vẫn có thể và phải nhờ cảm thức đức tin, mà cưỡng lại giám mục của mình khi vị này giảng những điều sai lầm (78). Trong trường hợp như thế, tín hữu không tự coi mình như tiêu chuẩn tối hậu của chân lý đức tin, mà đúng hơn, vì đương đầu với một lối giảng dạy “có thẩm quyền” về phương diện hữu hình (materially) mà họ thấy gây cho họ bối rối, nhưng không có khả năng giải thích tại sao, họ phải hoãn không qui phục và từ trong thâm tâm kêu gọi tới thẩm quyền cao hơn của Giáo Hội hoàn vũ (79).
64. Cảm thức đức tin cũng giúp tín hữu, trong các điều được giảng dạy, biết phân biệt điều nào chính yếu đối với đức tin Công Giáo chân chính và điều nào, dù không chính thức chống lại đức tin, nhưng chỉ phụ thuộc hay có khi dửng dưng đối với cốt lõi đức tin. Thí dụ, nhờ cảm thức đức tin, các tín hữu cá nhân có thể tương đối hóa một số hình thức đặc thù trong việc sùng kính Đức Mẹ ra khỏi việc qui phục đối với việc sùng kính ngài cách chân chính. Họ cũng có thể tách mình ra khỏi những lối giảng giải chuyên pha phôi cách bất xứng giữa đức tin Kitô Giáo và các giải pháp chính trị đảng phái. Nhờ giữ cho tinh thần tín hữu biết tập chú vào những điều chủ yếu của đức tin như thế này, cảm thức đức tin của tín hữu đã bảo đảm được nền tự do đích thực của Kitô Giáo (xem Cl 2:16-23), và góp phần vào việc thanh tẩy đức tin.
65. Nhờ cảm thức đức tin của tín hữu và được sự trợ lực của ơn khôn ngoan siêu nhiên do Chúa Thánh Thần ban, tín hữu có khả năng, trong các bối cảnh lịch sử và văn hóa mới mẻ, cảm nhận được điều thích hợp nhất để làm chứng một cách chân chính cho sự thật của Chúa Giêsu Kitô, và hơn nữa còn hành động phù hợp với nó nữa. Như thế, cảm thức đức tin của tín hữu thủ đắc được một chiều kích có nhiều triển vọng đến độ, dựa vào đức tin từng sống qua, nó giúp tín hữu biết dự ứng trước một khai triển hay một giải thích đối với thực hành Kitô Giáo. Vì mối liên kết qua lại giữa việc thực hành đức tin và việc hiểu nội dung của nó, cảm thức đức tin của tín hữu nhờ đó đã góp phần vào việc làm cho một số khía cạnh trong đức tin Công Giáo trước đây vốn mặc nhiên nay hiển hiện và được soi sáng; và vì mối liên kết qua lại giữa cảm thức đức tin của tín hữu cá nhân và cảm thức đức tin của Giáo Hội nói chung, tức cảm thức đức tin của các tín hữu, các khai triển như vừa nói không bao giờ có tính hoàn toàn tư riêng cả, mà luôn luôn có tính Giáo Hội. Các tín hữu luôn luôn có quan hệ với nhau, cũng như với huấn quyền và với các nhà thần học, trong hiệp thông Giáo Hội.
***
CHƯƠNG BA
CẢM THỨC ĐỨC TIN CỦA CÁC TÍN HỮU
TRONG ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI
66. Vì đức tin của tín hữu cá nhân tham dự vào đức tin của Giáo Hội với tư cách chủ thể tin, nên cảm thức đức tin của các tín hữu cá nhân (sensus fidei fidelis) không thể tách biệt khỏi cảm thức đức tin của các tín hữu (sensus fidei fidelium) hay “cảm thức của Giáo Hội” (sensus Ecclesiae) (80), vì đều được Chúa Thánh Thần phú ban và nâng đỡ (81) và đồng cảm thức của các tín hữu (consensus fidelium) vốn tạo nên tiêu chuẩn chắc chắn để nhận ra một giáo huấn hay một thực hành đặc thù nào đó có phù hợp với Tông Truyền hay không (82). Do đó, chương này sẽ xem sét một vài khía cạnh của cảm thức đức tin của các tín hữu. Trước nhất, chương này suy tư về vai trò của cảm thức đức tin các tín hữu trong việc khai triển học lý và thực hành Kitô Giáo; sau đó, nó xem sét hai mối liên hệ có tầm quan trọng lớn lao đối với đời sống và sự lành mạnh của Giáo Hội, tức mối liên hệ giữa cảm thức đức tin và huấn quyền, và mối liên hệ giữa cảm thức đức tin và thần học; rồi, sau cùng, nó xem sét một số khía cạnh đại kết của cảm thức đức tin.
1. Cảm thức đức tin và việc khai triển học lý và thực hành Kitô Giáo
67. Toàn thể Giáo Hội, gồm cả giáo dân lẫn giáo phẩm, đều mang trách nhiệm đối với và làm trung gian trong lịch sử cho mạc khải vốn chứa đựng trong Sách Thánh và trong Tông Truyền sống động. Công Đồng Vatican II tuyên bố rằng cả hai thực tại vừa kể tạo thành “kho tàng thánh duy nhất của lời Chúa” vốn “được ủy thác cho Giáo Hội” nghĩa là “toàn thể dân thánh, kết hợp với các mục tử của mình” (83). Công Đồng rõ ràng dạy rằng tín hữu không phải chỉ là những người thụ động tiếp nhận những gì hàng giáo phẩm giảng dạy và các nhà thần học giải thích; đúng hơn, họ là các chủ thể sống động và tích cực trong Giáo Hội. Trong bối cảnh này, công đồng đã nhấn mạnh tới vai trò sinh tử do mọi tín hữu thủ diễn trong việc diễn đạt và khai triển đức tin: “Thánh Truyền phát xuất từ các Tông Đồ thực hiện nhiều tiến bộ trong Giáo Hội, với ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần” (84).
a) Các khía cạnh quá khứ và tương lai của cảm thức đức tin
68. Để hiểu được cách thế nó hành xử và tự biểu lộ trong đời sống Giáo Hội, cảm thức đức tin cần được nhìn trong bối cảnh lịch sử, một lịch sử trong đó Chúa Thánh Thần biến mỗi ngày thành một ngày nghe lời Chúa như mới (xem Thư Do Thái 3:7-15). Tin Mừng về cuộc đời, sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô được chuyển giao cho Giáo Hội như một toàn thể qua Tông Truyền sống động mà Sách Thánh vốn là chứng tá viết có thế giá. Do đó, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, Đấng hằng nhắc Giáo Hội nhớ mọi điều Chúa Giêsu đã nói và đã làm (xem Ga 14:26), các tín hữu tin vào Sách Thánh và Tông Truyền liên tục trong đời sống đức tin của họ và trong việc thực hành cảm thức đức tin.
69. Tuy nhiên, đức tin và cảm thức đức tin không chỉ neo lại trong quá khứ; chúng cũng hướng về tương lai nữa. Hiệp thông các tín hữu là một thực tại lịch sử: “được xây dựng trên nền tảng các tông đồ và các tiên tri, với chính Chúa Giêsu Kitô là đá góc”, hiệp thông này “phát triển thành đền thờ thánh thiêng trong Chúa” (Eph 2:20-21), trong quyền lực Chúa Thánh Thần, Đấng luôn hướng dẫn Giáo Hội “vào mọi chân lý” và công bố cho tín hữu ngay lúc này “những sự việc sắp xẩy ra” (Ga 16:13), đến nỗi, đặc biệt trong Phép Thánh Thể, Giáo Hội có thể mong đợi việc Chúa Trở lại và việc nước của Người ngự đến (xem 1Cor 11:26).
70. Trong khi chờ đợi ngày Chúa trở lại, Giáo Hội và các chi thể Giáo Hội không ngừng đối diện với nhiều hoàn cảnh mới, với nhiều tiến bộ về nhận thức và văn hóa, và với nhiều thách đố của lịch sử con người, và do đó, phải đọc ra các dấu chỉ của thời đại, “để giải thích chúng dưới ánh sáng Lời Chúa” và để biện phân xem làm cách nào có thể giúp chính chân lý mạc khải “vào sâu hơn nữa, được hiểu tốt hơn và được trình bày sâu sắc hơn” (85). Trong diễn trình này, cảm thức đức tin của các tín hữu có một vài trò thiết yếu để đóng. Nó không chỉ phản ứng (reactive) mà còn phải hợp động (proactive) và tương tác, trong khi Giáo Hội và các chi thể Giáo Hội đang thực hiện cuộc hành trình của mình trong lịch sử. Do đó, cảm thức đức tin không chỉ nhìn về quá khứ mà còn nhìn về tương lai và, dù ít quen thuộc hơn, hai khía cạnh tương lai và hợp động của cảm thức đức tin là điều hết sức quan trọng. Cảm thức đức tin giúp ta trực giác được cách đúng đắn để tiến về phiá trước bất chấp các hàm hồ và không chắc chắn của lịch sử, và cho ta một khả năng biết lắng nghe một cách có biện phân những điều nền văn hóa nhân bản và tiến bộ khoa học đang phát biểu. Cảm thức đức tin này sinh động hóa đời sống đức tin và hướng dẫn các hành vi Kitô Giáo chân chính.
71. Cần một thời gian dài trước khi diễn trình biện phân trên tới hồi kết thúc. Đứng trước các hoàn cảnh mới, người tín hữu nói chung, các mục tử và các nhà thần học tất cả đều có vai trò liên hệ cần thủ diễn, và họ cần có sự kiên nhẫn cũng như kính trọng nhau trong các tương tác hỗ tương, nếu họ muốn cảm thức đức tin được sáng tỏ và một đồng cảm thức chân thực giữa các tín hữu (consensus fidelium), một đồng linh hứng của các mục tử và các tín hữu (conspiratio pastorum et fidelium) được thực hiện.
b) Sự đóng góp của giáo dân vào cảm thức của các tín hữu
72. Ngay từ đầu Kitô Giáo, mọi tín hữu đã đóng một vài trò tích cực trong việc khai triển niềm tin của tôn giáo mình. Toàn thể cộng đoàn đều làm chứng cho đức tin tông truyền, và lịch sử minh chứng rằng khi cần đưa ra quyết định gì về đức tin, chứng tá giáo dân đều được các mục tử xem sét. Như đã thấy trong cuộc duyệt xét lịch sử trên đây (86), ta có đủ bằng chứng cho thấy giáo dân đóng vai trò chính trong việc ra đời của một số định tín tín lý. Có lúc, chính Dân Chúa, nhất là các giáo dân, trực giác cảm thấy việc khai triển tín lý phải đi theo hướng nào, ngay cả khi các nhà thần học và các giám mục chia rẽ nhau về vấn đề đó. Có khi rõ ràng có một đồng linh hứng giữa các mục tử và các giáo dân (conspiratio pastorum et fidelium). Lại có lúc, như khi Giáo Hội muốn một định tín chẳng hạn, Giáo Hội giảng dạy minh nhiên “tham khảo” tín hữu, và chỉ rõ chính đồng cảm thức của các tín hữu đã là một trong các luận điểm khiến cho việc định tín hợp pháp.
73. Điều ít được biết đến hơn và thường không được chú ý bao nhiêu là vai trò của giáo dân trong việc khai triển giáo huấn luân lý của Giáo Hội. Do đó, điều quan trọng là phải suy tư về chức năng của giáo dân trong việc biện phân cái hiểu của Kitô Giáo đối với tác phong thích đáng của con người sao cho phù hợp với Tin Mừng. Ở một số lãnh vực, giáo huấn của Giáo Hội đã khai triển được là nhờ người giáo dân khám phá ra các điều phải làm căn cứ trên các hoàn cảnh mới. Suy tư của các nhà thần học, và sau đó phán đoán của huấn quyền giám mục đều dựa vào cảm nghiệm của Kitô hữu vốn được trực giác của tín hữu giáo dân làm cho sáng tỏ trước đó. Một số điển hình có thể minh họa vai trò mà cảm thức của các tín hữu đã đóng trong việc khai triển học lý luân lý:
i) Giữa khoản luật 20 của Công Đồng Elvira (khoảng năm 306), là khoản luật cấm các giáo sĩ và giáo dân không được nhận lời lãi, và thư tựa là Non esse inquietandos của Đức GH Piô VIII trả lời giám mục thành Rennes (1830) (87), có một khai triển rất rõ về giáo huấn, do cả việc tín hữu giáo dân trong thương trường ý thức được hoàn cảnh mới lẫn việc các nhà thần học suy tư mới về bản chất của tiền bạc.
ii) Việc Giáo Hội cởi mở đối với các vấn đề xã hội, thấy rõ nhất trong thông điệp Rerum Novarum (1896) của Đức GH Lêô XIII, là kết quả của một chuẩn bị rất từ từ trong đó, các “nhà tiên phong xã hội” giáo dân, cả những người hoạt động lẫn những người suy nghĩ, đã đóng vai trò chính.
iii) Việc khai triển nổi bật tuy thuần nhất từ cuộc kết án các luận đề “cấp tiến” trong phần thứ 10 của Danh Mục Các Sai Lầm (Syllabus of Errors) (1864) của Đức GH Piô IX tới tuyên ngôn tự do tôn giáo Dignitatis Humanae (1965) của Công Đồng Vatican II chắc chắn đã không thể nào có nếu không có sự dấn thân của nhiều Kitô hữu cho cuộc đấu tranh cho nhân quyền.
Cái khó trong việc biện phân cảm thức chân chính của các tín hữu trong các trường hợp nêu trên đặc biệt cho thấy nhu cầu cần phải nhận diện các thiên hướng cần thiết để tham dự một cách chân chính vào cảm thức đức tin, những thiên hướng này, ngược lại, có thể được dùng làm tiêu chuẩn để biện phân cảm thức đức tin chân chính (88).
2. Cảm thức đức tin và huấn quyền
a) Huấn quyền lắng nghe cảm thức đức tin
74. Trong các vấn đề đức tin, người đã chịu phép rửa không thể nào thụ động. Họ đã lãnh nhận Thần Khí và đã được phú bẩm nhiều hồng ân và đặc sủng, trong tư cách chi thể của Nhiệm Thể Chúa, “để canh tân và xây dựng Giáo Hội” (89), nên huấn quyền phải lưu tâm tới cảm thức của các tín hữu, vốn là tiếng nói sống động của Dân Chúa. Không những họ có quyền được lắng nghe, mà phản ứng của họ đối với điều được đề xuất như là thuộc về đức tin các Tông Đồ phải được nghiêm túc xem sét, vì chính qua Giáo Hội như một toàn thể, mà đức tin đã được hạ sinh nhờ quyền lực của Thần Khí. Huấn quyền không một mình chịu trách nhiệm về việc này. Do đó, huấn quyền nên tham chiếu cảm thức đức tin của toàn thể Giáo Hội. Cảm thức của các tín hữu có thể là nhân tố quan trọng đối với việc khai triển học lý, và do đó, huấn quyền cần có những phương thế để tham khảo các tín hữu.
75. Mối liên kết giữa cảm thức của các tín hữu và huấn quyền đặc biệt tìm thấy nơi phụng vụ. Các tín hữu là những người được rửa tội để đảm nhiệm chức linh mục vương giả, chủ yếu được thi hành trong Phép Thánh Thể (90), còn các giám mục là các “thượng tế” chủ trì nghi lễ Thánh Thể (91) và ở đó các ngài cũng thi hành cả chức vụ giảng dạy nữa. Phép Thánh Thể là nguồn và đỉnh cao của đời sống Giáo Hội (92); đặc biệt chính tại đó, các tín hữu và các mục tử của họ tương tác với nhau như một thân thể cho cùng một mục đích là ca tụng và vinh danh Thiên Chúa. Thánh Thể lên khuôn và tạo ra cảm thức của các tín hữu và góp phần lớn lao vào việc lên công thức và tu chỉnh các phát biểu bằng lời về đức tin, vì chính tại đó, giáo huấn của các giám mục và của các công đồng cuối cùng đã được các tín hữu “tiếp nhận”. Từ những thời gian đầu tiên của Kitô Giáo, Phép Thánh Thể vẫn đã là cơ sở cho việc lên công thức các học lý của Giáo Hội vì ở đó, mầu nhiệm đức tin đã được gặp gỡ và được cử hành nhiều nhất, còn các giám mục, những vị chủ trì phép này tại các Giáo Hội địa phương giữa các tín hữu của mình, chính là những vị tụ họp nhau trong các công đồng để xác định xem làm thế nào phát biểu đức tin tốt nhất, bằng lời và bằng công thức: lex orandi, lex credendi (luật cầu là luật tin) (93).
b) Huấn quyền nuôi dưỡng, biện phân và phán kết cảm thức của các tín hữu
76. Huấn quyền của những vị “cùng với quyền kế thừa hàng giám mục của các ngài, đã lãnh nhận đặc sủng chân lý chắc chắn” (94) là một thừa tác vụ cho chân lý được thi hành trong và cho Giáo Hội, mà tất cả các thành viên của thừa tác vụ này đều đã được Thần Khí chân lý xức dầu cho (Ga 14:17; 15:26; 16:13; 1Ga 2:20, 27), và đuợc phú bẩm cảm thức đức tin, một bản năng biết chân lý Tin Mừng. Lãnh trách nhiệm bảo đảm lòng trung thành của toàn thể Giáo Hội đối với lời Chúa và giữ cho dân Chúa luôn trung thành với Tin Mừng, huấn quyền chịu trách nhiệm dưỡng nuôi và giáo dục cảm thức của các tín hữu. Dĩ nhiên, các vị thi hành huấn quyền, tức Đức Giáo Hoàng và các giám mục, trước nhất, cũng là các thành viên đã chịu phép rửa của dân Chúa và do chính sự kiện này, các ngài cũng nằm trong cảm thức của các tín hữu.
77. Huấn quyền cũng phán kết một cách có thẩm quyền các ý kiến đang có trong dân Chúa và bề ngoài có thể là cảm thức của các tín hữu xem liệu chúng có thực sự tương hợp với chân lý của Thánh Truyền từng lãnh nhận từ các Tông Đồ hay không. Như Chân Phúc Newman từng nói: “Ơn biện phân, phân biệt, định tín, công bố, và buộc thi hành bất cứ phần nào trong truyền thống đó chỉ nằm trong tay một mình Giáo Hội giảng dạy mà thôi” (95). Do đó, các phán kết liên quan tới tính chân chính của cảm thức các tín hữu tựu chung không thuộc các tín hữu hay thần học mà là thuộc huấn quyền. Dù thế, như trên đã nhấn mạnh, đức tin mà huấn quyền phục vụ là đức tin của Giáo Hội, là đức tin vốn sống trong mọi tín hữu, thành thử chính trong đời sống hiệp thông của Giáo Hội, huấn quyền luôn thi hành thừa tác vụ giám sát có tính chủ yếu của mình.
c) Việc tiếp nhận
78. Có thể mô tả việc “tiếp nhận” như là một diễn trình trong đó, nhờ được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, dân Chúa nhận ra các trực giác hay các thông tuệ (insights) và tích hợp chúng thành những khuôn mẫu và cơ cấu cho đời sống và việc thờ phượng của mình, bằng cách chấp nhận chứng tá mới của chân lý và các hình thức phát biểu tương ứng về nó, vì chân nhận rằng chúng phù hợp với truyền thống tông đồ. Diễn trình tiếp nhận là điều căn bản đối với đời sống và sự lành mạnh của Giáo Hội trong tư cách dân lữ hành đang trên đường lịch sử tiến về sự viên mãn của Nước Thiên Chúa.
79. Mọi ơn của Chúa Thánh Thần, nhất là ơn tối thượng của Giáo Hội, đều được ban cho để vổ vũ sự hợp nhất của Giáo Hội trong đức tin và trong hiệp thông (96), và chính việc các tín hữu tiếp nhận giáo huấn của huấn quyền cũng được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, vì, nhờ cảm thức đức tin mà họ vốn sở hữu, các tín hữu nhận ra chân lý của điều được giảng dạy và trung thành nắm giữ nó. Như đã giải thích trên đây, giáo huấn của Vatican I dạy rằng các định tín vô ngộ của Đức Giáo Hoàng là điều không thể sửa đổi được “do chính chúng chứ không do đồng cảm thức của Giáo Hội” [ex sese non autem ex consensu ecclesiae] (97), nhưng điều này không có nghĩa Đức Giáo Hoàng bị cắt lìa khỏi Giáo Hội hay giáo huấn của ngài độc lập đối với đức tin của Giáo Hội (98). Sự kiện trước khi định tín một cách vô ngộ cả mầu nhiệm Vô Nhiễm Thai của Trinh Nữ Diễm Phúc Maria lẫn mầu nhiệm ngài được triệu cả hồn lẫn xác về trời, một tham khảo sâu rộng với các tín hữu đã được thực hiện theo ý muốn minh nhiên của các vị giáo hoàng những lúc đó đã chứng minh đầy đủ cho điểm này (99). Đúng hơn, điều muốn nói ở đây là giáo huấn như thế của Đức Giáo Hoàng, và do đó, mọi giáo huấn của Đức Giáo Hoàng và của các giám mục, đều có thẩm quyền ngay trong chúng nhờ ơn Chúa Thánh Thần, nhờ charisma veritatis certum (đặc sủng chân lý chắc chắn) mà các ngài vốn có.
80. Tuy nhiên, có những trường hợp, khi việc tín hữu tiếp nhận giáo huấn của huấn quyền gặp khó khăn hay chống đối, thì trong những hoàn cảnh này, đòi hỏi đôi bên phải có hành động thích đáng. Các tín hữu phải suy nghĩ về giáo huấn được ban hành, bằng cách hết sức cố gắng để hiểu nó và chấp nhận nó. Như một nguyên tắc, chống đối giáo huấn của huấn quyền là điều không thể đi đôi với cảm thức đức tin chân chính. Cũng thế, huấn quyền cũng phải suy nghĩ về giáo huấn đã ban hành và xét xem liệu có cần phải soi sáng thêm hay phát biểu lại để thông truyền sứ điệp chủ yếu một cách hữu hiệu hơn không. Các cố gắng hỗ tương này trong những lúc gặp khó khăn tự chúng nói lên sự hiệp thông vốn có tính chủ yếu đối với đời sống Giáo Hội, và cả lòng mong ước được Chúa Thánh Thần ban ơn, Đấng luôn hướng dẫn Giáo Hội “trong mọi chân lý” (Ga 16:13).
3. Cảm thức đức tin và thần học
81. Như một phục vụ đối với việc hiểu biết đức tin, và trong bối cảnh đồng linh hứng (conspiratio) của mọi đặc sủng và mọi chức năng trong Giáo Hội, thần học cố gắng cung cấp cho Giáo Hội sự chính xác khách quan liên quan tới nội dung đức tin, nên nhất thiết nó phải dựa vào sự hiện hữu và việc thi hành đúng đắn cảm thức của các tín hữu. Cảm thức này không phải chỉ là một đối tượng để các nhà thần học chú ý, nó còn tạo nền móng và là locus (nguồn cứ liệu) cho việc làm của họ nữa (100). Do đó, tự nó, thần học có hai mối tương quan với cảm thức của các tín hữu. Một đàng, các nhà thần học tùy thuộc cảm thức đức tin vì đức tin mà họ nghiên cứu và phát biểu vốn sống trong dân Chúa. Theo nghĩa này, thần học phải tự đặt mình vào trường học của cảm thức các tín hữu để có thể khám phá ra ở đó các vang dội sâu sắc của lời Thiên Chúa. Đàng khác, các nhà thần học giúp các tín hữu phát biểu cảm thức của họ một cách chân chính bằng cách nhắc họ nhớ các đường hướng chủ yếu của đức tin, và giúp họ tránh các lệch lạc và lầm lẫn gây ra bởi ảnh hưởng của các yếu tố tưởng tượng phát sinh từ những nơi khác. Hai mối tương quan này cần được nói rõ thêm trong hai tiết (a) và (b) dưới đây
a) Các nhà thần học tùy thuộc cảm thức của các tín hữu
82. Nhờ tự đặt mình vào trường học của cảm thức các tín hữu, thần học thấm nhuần thực tại của truyền thống tông đồ, một truyền thống luôn nằm ở bên dưới và vượt quá các biên giới chật hẹp của những tuyên bố dùng để phát biểu giáo huấn của Giáo Hội, vì nó bao gồm “tất cả những gì Giáo Hội là, tất cả những gì Giáo Hội tin” (101). Về phương diện này, ta cần xem sét ba điều đặc biệt sau đây:
i) Thần học nên cố gắng phát hiện ra ngôn từ đang lớn lên như hạt giống trong thửa đất đời sống của dân Chúa, và, sau khi đã xác định âm sắc ấy, ý muốn ấy hay thái độ ấy quả phát xuất từ Thần Khí, và do đó tương ứng với cảm thức của các tín hữu, thì nên tích hợp nó vào các nghiên cứu của mình.
ii) Nhờ cảm thức của các tín hữu, dân Chúa cảm nhận bằng trực giác điều gì trong man vàn các ý tưởng và học lý được trình bày cho mình là thực sự tương ứng với Tin Mừng, và do đó, có thể tiếp nhận được. Thần học nên chăm chú cẩn trọng tìm hiểu các bình diện khác nhau của việc tiếp nhận đang xẩy ra trong đời sống dân Chúa.
iii) Cảm thức của các tín hữu vừa phát sinh vừa nhìn nhận tính chân chính của ngôn từ biểu tượng hay huyền nhiệm thường tìm thấy nơi phụng vụ và lòng đạo bình dân. Khi đã nhận ra các biểu hiện của lòng đạo bình dân (102), nhà thần học cần thực sự tham dự vào sinh hoạt và phụng vụ của Giáo Hội địa phương, để có khả năng nắm được một cách sâu sắc, không chỉ bằng đầu mà còn bằng cả trái tim, bối cảnh thực sự, có tính lịch sử và văn hóa, trong đó Giáo Hội và các chi thể của mình đang cố gắng sống đức tin và làm chứng cho Chúa Kitô trong thế giới ngày nay.
b) Các nhà thần học suy tư về cảm thức của các tín hữu
83. Vì cảm thức đức tin không đơn giản đồng nhất với ý kiến của đa số những người đã chịu phép rửa vào một thời điểm nào đó, nên thần học cần cung cấp các nguyên tắc và các tiêu chuẩn để biện phân được nó, nhất là bởi huấn quyền (103). Nhờ các phương thế phê phán, các nhà thần học giúp biểu lộ và minh giải nội dung cảm thức của các tín hữu, bằng cách “thừa nhận và chứng minh rằng các vấn đề liên quan tới chân lý đức tin có thể phức tạp, thành thử việc tìm hiểu chúng phải thật chính xác” (104). Trong viễn ảnh này, các nhà thần học cũng nên khảo sát một cách có phê phán các biểu thức của lòng đạo bình dân, các trào lưu tư tưởng mới và cả các phong trào mới trong Giáo Hội, sao cho trung thành với truyền thống tông đồ (105). Nhờ làm như thế, các nhà thần học sẽ giúp biện phân được, trong một trường hợp đặc thù nào đó, liệu Giáo Hội có đang xử lý một lệch lạc gây ra bởi một cuộc khủng hoảng hay một hiểu lầm về đức tin, một ý kiến vốn có chỗ đứng riêng trong tính đa nguyên của cộng đồng Kitô Giáo nhưng không nhất thiết gây ảnh hưởng tới người khác, hay đang xử lý một điều gì đó vốn hòa hợp với đức tin đến nỗi phải được thừa nhận như là một linh hứng hay một thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
84. Thần học còn trợ giúp cảm thức của các tín hữu một cách khác nữa. Nó giúp các tín hữu biết rõ ràng và chính xác hơn ý nghĩa chân chính của Thánh Kinh, ý nghĩa chân thực các định tín của công đồng, các nội dung thích đáng của Thánh Truyền, và cả những vấn nạn còn để bỏ ngỏ, hoặc vì các hàm hồ trong các quả quyết đương thời hay vì các nhân tố văn hóa vốn để lại vết tích trong các điều được lưu truyền, và những phạm vi trong đó cần duyệt lại các chủ trương có trước đó. Cảm thức đức tin cần dựa vào một sự hiểu biết mạnh mẽ và chắc chắn về đức tin, là cái hiểu mà thần học luôn tìm cách phát huy.
4. Các khía cạnh đại kết của cảm thức đức tin
85. Các ý niệm cảm thức đức tin (sensus fidei), cảm thức của các tín hữu (sensus fidelium) và đồng cảm thức của các tín hữu (consensus fidelium), đã được bàn tới, hay ít nhất được nhắc tới, trong nhiều cuộc đối thoại quốc tế giữa Giáo Hội Công Giáo và các Giáo Hội cũng như cộng đồng Giáo Hội khác. Nói một cách bao quát, các cuộc đối thoại này đã nhất trí rằng toàn bộ các tín hữu, cả giáo dân lẫn các vị có chức thánh, đều mang trách nhiệm duy trì đức tin và chứng tá tông truyền của Giáo Hội, và mỗi người đã chịu phép rửa, do chính việc được Thiên Chúa xức dầu (1Ga 2:20, 27), đều có khả năng biện phân chân lý trong các vấn đề đức tin. Cũng đã có sự nhất trí tổng quát sau đây: một số chi thể của Giáo Hội thừa hành trách nhiệm đặc biệt trong việc giảng dạy và giám sát, nhưng lúc nào cũng hợp tác với mọi tín hữu khác (106).
86. Hai câu hỏi đặc thù liên hệ tới cảm thức của các tín hữu đã xuất hiện trong bối cảnh đối thoại đại kết, một cuộc đối thoại mà Giáo Hội Công Giáo đã dấn thân một cách không lùi bước (107):
i) Có nên chỉ coi những học lý nào được sự nhất trí chung của mọi Kitô hữu là nói lên cảm thức của các tín hữu và do đó là đúng và có tính trói buộc hay không? Đề xuất này đi ngược lại đức tin và thực hành của Giáo Hội Công Giáo. Qua đối thoại, các nhà thần học Công Giáo và các nhà thần học thuộc các truyền thống khác tìm cách có được sự nhất trí đối với các vấn đề gây chia rẽ Giáo Hội, nhưng các tham dự viên Công Giáo không thể ngưng sự cam kết của mình đối với các học lý chính thức của Giáo Hội Công Giáo.
ii) Có nên coi các Kitô hữu phân ly như những người tham dự và đóng góp cách nào đó vào cảm thức đức tin hay không? Câu trả lời ở đây tất nhiên là: có (108). Giáo Hội Công Giáo thừa nhận rằng “nhiều yếu tố thánh hóa và chân lý” được tìm thấy ở bên ngoài các biên giới hữu hình của mình (109), “một số điểm của mầu nhiệm Kitô Giáo đôi khi được nhấn mạnh một cách hữu hiệu hơn” trong các cộng đồng khác (110) và cuộc đối thoại đại kết giúp Giáo Hội Công Giáo thâm hậu hóa và làm sáng tỏ cái hiểu riêng của mình về Tin Mừng.