Cơ Quan Tòa Thánh

Sunday, 05 April 2020 10:42

Bộ Phụng Tự Và Kỷ Luật Bí Tích: Huấn Thị Số 4 - Việc Áp Dụng Đúng Đắn Hiến Chế Phụng Vụ (Các Số 37-40) - 1994 Featured

BỘ PHỤNG TỰ VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH

HUẤN THỊ SỐ 4

VỀ VIỆC  ÁP DỤNG ĐÚNG ĐẮN

HIẾN CHẾ PHỤNG VỤ CỦA CÔNG ĐỒNG VATICAN II

(CÁC SỐ 37-40)

Rôma 1994

***

 

LỜI NÓI ĐẦU

1. Trong nghi lễ Rôma có những khác biệt chính đáng đã được chấp nhận trong quá khứ, và một lần nữa lại được Công đồng Vatican II tiên liệu trong Hiến chế Sacrosanctum Concilium, nhất là cho các xứ truyền giáo (1). "Ngoài những lãnh vực liên quan đến đức tin và lợi ích cho toàn thể cộng đoàn, Giáo hội không muốn ấn định một hình thức cứng nhắc nào ngay cả trong phụng vụ"(2). Giáo hội đã biết và còn biết có nhiều hình thức và nhiều gia đình phụng vụ khác nhau cho rằng sự dị biệt đó, thay vì làm phương hại thì lại làm nổi bật tính hiệp nhất của mình (3).

2. Trong Tông thư Vicesimus Quintus Annus, ĐTC Gioan Phaolô II đã đòi hỏi phải cố gắng làm cho phụng vụ được bén rễ vào các nền văn hóa khác nhau như là một công việc quan trọng để canh tân phụng vụ (4). Việc làm này, đã được tiên liệu trong những Huấn thị trước đây và trong các sách phụng vụ nay cần được tiếp tục dưới ánh sáng của kinh nghiệm, bằng việc đón nhận, ở những nơi cần thiết, những giá trị văn hóa "có thể hoà hợp về nhiều mặt của tinh thần phụng vụ chính thức, trong sự tôn trọng tính hiệp nhất về bản chất của nghi lễ Rôma, được diễn đạt trong các sách phụng vụ" (5).

a- Bản chất của Huấn thị

3. Được sự ủy nhiệm của Đức Giáo hoàng, Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích đã soạn thảo Huấn thị này nhằm xác định các qui tắc để thích nghi phụng vụ với tâm tính và truyền thống của những dân tộc khác nhau. Các qui tắc này được hàm chứa trong các điều 37 – 40 của Hiến chế Sacrosanctum Concilium. Một số nguyên tắc đã được diễn tả trong các điều ấy  một cách chung chung, thì trong Huấn thị này được giải thích một cách chính xác hơn, những qui định được trình bày một cách thích hợp hơn, và sau cùng thứ tự phải theo để tuân giữ các điều đó được xác định một cách rõ ràng hơn, để từ đây vấn đề này được áp dụng một cách thống nhất theo các quy định này. Trong khi các quy tắc thần học liên quan đến những vấn đề đức tin và hội nhập văn hóa còn cần được đào sâu hơn, thì Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích nên giúp các Giám mục và các Hội đồng Giám mục xem xét hay vận dụng, theo quyền hạn những nghi thức đã được tiên liệu trong các  sách phụng vụ; nên giúp các ngài đưa ra nghiên cứu, phê bình những vận dụng có khi đã được thừa nhận, và sau cùng nơi một vài nền văn hóa, nếu nhu cầu mục vụ đòi phải khẩn cấp áp dụng hình thức thích nghi phụng vụ này mà Hiến chế cho là "sâu sắc hơn" và đồng thời công nhận là " khó khăn hơn", thì Bộ này nên giúp các ngài theo quyền hạn tổ chức sử dụng và thực hành nó một cách thích hợp hơn.

b- Những nhận xét sơ bộ

4. Hiến chế Sacrosanctum Concilium đã nói đến việc thích nghi phụng vụ bằng cách chỉ ra một vài hình thức (6). Về sau, Huấn quyền của Giáo hội đã sử dụng thuật ngữ " hội nhập văn hóa" để chỉ một cách chính xác hơn việc " Tin mừng nhập thể vào những nền văn hóa bản địa và đồng thời hội nhập các nền văn hóa đó vào trong đời sống Giáo hội" (7). Hội nhập văn hóa là một sự biến đổi sâu xa những giá trị văn hóa đích thực bằng việc hòa nhập chúng vào Kitô giáo và làm cho Kitô giáo bén rễ sâu vào các nền văn hóa khác nhau của nhân loại.

Việc thay đổi từ vựng cũng chấp nhận được ngay cả trong lãnh vực phụng vụ. Thuật ngữ "thích nghi" do các vị thừa sai sử dụng, có thể làm liên tưởng đến những thay đổi chủ yếu về một vài điểm bên ngoài nào đó. Thuật ngữ "hội nhập văn hóa" có thể giúp chỉ ra cách tốt hơn một động tác kép: "nhờ việc hội nhập văn hóa, Giáo hội làm cho Tin mừng nhập thể vào các nền văn hóa khác nhau và đồng thời đưa các dân tộc cùng với nền văn hóa của họ vào cộng đồng riêng của mình". Một đàng, Tin mừng thấm nhập vào trong một môi trường văn hóa xã hội nào đó làm "phong phú từ bên trong những đức tính thiêng liêng và những ân huệ đặc thù của mỗi dân tộc (...), việc thấm nhập này củng cố, hoàn thiện và tái tạo trong Chúa Kitô". Đàng khác, Giáo hội đồng hóa những giá trị đó ngay khi chúng thích hợp với Tin mừng "để đào sâu hơn sứ điệp của Chúa Kitô và để diễn tả sứ điệp ấy cách hoàn hảo hơn trong các lễ nghi phụng vụ cũng như trong cuộc sống muôn mặt của cộng đoàn tín hữu" (12). Như thế, động tác kép này, thực hiện trong việc hội nhập văn hóa diễn tả một phần mầu nhiệm nhập thể.

5. Việc hội nhập văn hóa được hiểu như thế có một chỗ đứng trong phụng tự cũng như trong lãnh vực khác của đời sống Giáo hội. Nó là một trong những khía cạnh của việc hội nhập Tin mừng vào một nền văn hóa, một công việc đòi hỏi phải thực sự hòa nhập những giá trị bền lâu của một nền văn hóa (15) vào đời sống đức tin của một dân tộc hơn là những biểu hiện nhất thời. Vì thế, nó phải liên đới chặt chẽ với một hành động bao quát hơn, với việc mục vụ đã được bàn bạc, nhắm đến toàn bộ thân phận con người (16).

Cũng như mọi hình thức hoạt động rao giảng Tin mừng, việc làm phức tạp và kiên trì này đòi hỏi phải từng bước cố gắng nghiên cứu và biện phân một cách có phương pháp(17). Đàng khác đối với cả một dân tộc, việc hội nhập văn hóa trong đời sống Kitô hữu và trong các cử hành phụng vụ chỉ có thể là hoa trái của sự trưởng thành từng bước trong đức tin(18).

6. Huấn thị này nhằm đến nhiều tình huống rất khác nhau. Trước tiên, nó nhằm đến các xứ không có truyền thống Kitô giáo, nơi mà Tin mừng, vào thời hiện đại, đã được các nhà truyền giáo loan báo, và cùng lúc, các ngài đã đem đến nghi lễ Rôma. Hiện nay, rõ ràng hơn "khi tiếp xúc với các nền văn hóa, GH phải tiếp nhận tất cả những gì trong truyền thống các dân tộc dung hòa được với Tin mừng, để đem đến cho chúng những kho tàng của Đức Kitô và để chính GH được phong phú nhờ sự khôn ngoan đa dạng của các dân tộc trên địa cầu". (19)

7. Hoàn cảnh lại khác trong các nước Tây phương có truyền thống Kitô giáo lâu đời, nơi mà nền văn hóa từ lâu đã thấm nhuần đức tin và phụng vụ được diễn đạt theo nghi lễ Rôma. Trong các nước này, sự kiện đó giúp cho việc cải cách phụng vụ được dễ dàng, và những biện pháp thích nghi đã tiên liệu trong các sách phụng vụ nói chung có thể đủ để thỏa mãn các điều khác biệt hợp pháp của địa phương (x các số dưới đây: 53-61). Tuy nhiên trong một vài nước, nơi cùng tồn tại nhiều nền văn hóa, nhất là vì những cuộc nhập cư, thì cần phải quan tâm đến những vấn đề riêng biệt mà sự kiện ấy đặt ra (x số 49 dưới đây).

8. Trong các xứ có hay không có truyền thống Kitô giáo, cũng phải chú ý đến nền văn hóa lãnh đạm thờ ơ đối với tôn giáo đang từng bước hình thành (20). Đứng trước hoàn cảnh này, có lẽ vấn đề hội nhập văn hóa trong phụng vụ không phải là điều cần bàn tới, vì trong trường hợp này, khi rao giảng Tin mừng cho họ, việc tiếp thu các giá trị tôn giáo có sẵn không cần cho bằng việc đào tạo phụng vụ và tìm kiếm những phương thế thích hợp nhất để tiếp cận tâm trí của họ.

I. TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP VĂN HÓA THEO DÒNG LỊCH SỬ CỨU ĐỘ

9. Những vấn đề được đặt ra hiện nay về việc hội nhập văn hóa nghi lễ Rôma có thể được soi sáng bởi lịch sử cứu độ, trong đó tiến trình hội nhập văn hóa đã được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau.

Trong suốt dòng lịch sử của mình, dân tộc Israel đã xác tín họ là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, là chứng nhân về hành động và tình yêu của Người giữa các dân tộc. Họ đã vay mượn nơi các dân tộc láng giềng một vài hình thức phụng tự, nhưng lòng tin của họ nơi Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacóp đã làm biến đổi sâu xa các điều vay mượn đó, trước hết về ý nghĩa và thường là về hình thức, để tưởng niệm những kỳ công của Thiên Chúa trong lịch sử của họ, bằng cách sát nhập các yếu tố đó vào trong việc thực hành tôn giáo của mình.

Việc thế giới Do thái gặp được nền văn minh Hy lạp đã đưa đến một hình thức mới cho việc hội nhập văn hóa: bản dịch Kinh Thánh ra tiếng Hy lạp đã đưa Lời Chúa vào một thế giới trước đây đã không được chấp nhận và dưới thần hứng đã làm cho Kinh Thánh được phong phú thêm lên.

10. Luật Môsê, các ngôn sứ và thánh vịnh (x Lc 24,27 và 44) đã nhằm mục đích chuẩn bị cho Con Thiên Chúa ngự đến giữa loài người. Như vậy Cựu ước, bao gồm đời sống và văn hóa của dân tộc Israel, là lịch sử của ơn cứu độ.

Khi đến trần gian, Con Thiên Chúa,sinh bởi một người nữ, phục tùng Lề luật, đã tự ràng buộc về mặt xã hội và văn hóa với thân phận của dân tộc Giao ước, cùng với họ, Người đã sống và cầu nguyện. Như thế khi làm người, Người đã nhận lấy một dân tộc, một xứ sở và một thời đại, nhưng căn cứ vào bản tính con người cách chung, "một cách nào đó, như thế Người đã kết hợp chính mình với mọi người". Vì " tất cả chúng ta ở trong Đức Kitô, và bản tính chung của nhân loại chúng ta được sống lại trong Người. Chính vì thế mà Người được gọi là Ađam mới".

11. Đức Kitô, Đấng đã muốn chia sẻ thân phận loài người chúng ta, đã chết cho mọi người, để hợp nhất con cái Thiên Chúa đang tản mác. Nhờ cái chết, Người đã muốn phá đổ bức tường ngăn cách giữa con người, làm cho Israel và các dân tộc thành một dân duy nhất. Nhờ quyền năng phục sinh, Người lôi kéo mọi người đến với mình, và tạo thành nơi Người một Con Người mới duy nhất. Nơi Người, một thế giới mới đã được khai sinh, và mỗi người có thể trở nên một tạo vật mới. Nơi Người, bóng tối nhường chỗ cho ánh sáng, lời hứa thành hiện thực, và tất cả những khát vọng về tôn giáo của nhân loại được thực hiện. Nhờ việc hiến dâng thân xác mình, chỉ một lần là đủ, Đức Giêsu Kitô đã thiết lập nền phụng tự hoàn hảo trong tinh thần và chân lý, trong sự mới mẻ mà Người mong ước nơi các môn đệ của Người.

12. "Nhờ Đức Kitô... chúng ta được phụng thờ Thiên Chúa một cách hoàn bị". Nơi Người chúng ta có vị thượng tế cao cả, được chọn giữa loài người, bị giết chết trong thân xác, nhưng sống lại trong Thần Khí. Là Đức Kitô và là Đức Chúa, Người đã thiết lập từ dân tộc mới "một vương quốc và hàng tư tế để phụng thờ Thiên Chúa là Cha của Người". Nhưng trước khi khai mở mầu nhiệm vượt qua bằng máu của Người, mầu nhiệm làm nên phần cốt yếu trong phụng thờ Kitô giáo, Người đã muốn thiết lập phép Thánh Thể, tưởng niệm cái chết và sự phục sinh của Người cho đến khi Người lại đến. Đây là nguyên tắc của nền phụng vụ Kitô giáo và là cốt lõi của nghi thức phụng tự.

13. Khi lên cùng Cha của Người, Chúa Kitô phục sinh bảo đảm cho các môn đệ Người sẽ ở cùng họ,và sai họ loan báo Tin mừng  cho mọi loài thọ tạo, và làm cho muôn dân trở thành môn đệ bằng phép rửa. Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đến tạo nên cộng đoàn mới giữa nhân loại, nối kết tất cả mọi người lại, cho dù ngôn ngữ bất đồng. Từ đó những kỳ công của Thiên Chúa được công bố cho mọi người thuộc mọi ngôn ngữ và mọi nền văn hóa. Muôn người được Máu Con Chiên chuộc lại và được hiệp nhất trong sự hiệp thông huynh đệ, được kêu gọi từ mọi chi tộc và ngôn ngữ, mọi nước và mọi dân.

14. Niềm tin vào Chúa Kitô làm cho các dân tộc được thừa hưởng lời hứa và chia sẻ gia sản của dân giao ước  mà không phải từ bỏ nền văn hóa của họ. Dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, tiếp nối thánh Phêrô, thánh Phaolô đã mở ra con đường của Giáo hội, không giữ Tin mừng trong giới hạn của luật Môsê nhưng giữ lại những gì mà chính ngài đã lãnh nhận từ truyền thống phát sinh từ nơi Đức Chúa. Vậy nên, theo quyết định của Công đồng, các tông đồ tại Giêrusalem, ngay từ thời kỳ đầu, đối với những người tòng giáo chưa cắt bì, Giáo hội không đòi buộc điều gì khác "ngoài những điều cần thiết".

15. Khi họp nhau để bẻ bánh vào ngày thứ nhất trong tuần, ngày trở nên ngày của Chúa, những cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã theo lệnh truyền của Chúa Giêsu, Đấng đã thiết lập để tưởng niệm cuộc khổ nạn của Người, trong bối cảnh tưởng niệm cuộc vượt qua của ngừơi Do thái. Trong lịch sử cứu độ duy nhất, các cộng đoàn ấy một cách tự phát đã dùng những hình thức và những bản văn của phụng tự Do thái, và thích nghi chúng nhằm diễn đạt sự mới mẻ căn bản của phụng tự Kitô giáo. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, họ đã lựa chọn trong di sản phụng tự Do thái những gì có thể hoặc phải giữ lại hay không giữ lại.

16. Việc Tin mừng được lan rộng trong thế giới đã làm nảy sinh những hình thức phụng tự khác trong các Giáo hội có nguồn gốc ngoại giáo, chịu ảnh hưởng của nhiều truyền thống khác. Dưới sự hướng dẫn không ngừng của Chúa Thánh Thần, giữa những yếu tố đến những nền văn hóa "ngoại giáo", người ta đã phân biệt những gì không thích hợp với Kitô giáo, với những gì có thể chấp nhận được, bằng việc hòa hợp với tông truyền, trong sự trung thành với Tin mừng cứu độ.

17. Tùy điều kiện địa phương, những hình thức cử hành kito6 giáo được từng bước hình thành và phát triển, trong những vùng văn hóa rộng lớn, nơi Tin mừng đã được truyền bá. Như thế các gia đình phụng vụ khác nhau Tây phương và Đông phương Kitô giáo đã nảy sinh. Di sản phong phú của chúng trung thành giữ lại sự toàn vẹn của Kitô giáo. Đôi khi Giáo hội Tây phương đã vay mượn nơi di sản của gia đình Đông phương những yếu tố cho nền phụng vụ của mình. Giáo hội Ro6ma đã nhận vào nền phụng vụ của mình ngôn ngữ của dân tộc, trước tiên là tiếng Hy lạp, rồi tiếng La tinh và, cũng như những Giáo hội La tinh khác, Giáo hội Roma đã tiếp nhận vào nền phụng tự của mình những thời điểm quan trọng trong đời sống xã hội Tây phương, bằng cách cho chúng một ý nghĩa Kitô giáo. Rất nhiều lần, qua nhiều thế kỷ, nghi lễ Roma đã chứng tỏ khả năng hội nhập những bản văn, những bài hát, những cử điệu, những nghi thức từ nhiều nguồn khác nhau(32), và tự thích ứng với những nền văn hóa địa phương trong các xứ truyền giáo, cho dù vào một vài thời điểm nào đó, tính đồng nhất của phụng vụ cần phải được quan tâm.

18. Vào thời đại chúng ta, Công đồng Vatican II đã từng nhắc lại rằng Giáo hội "cổ võ và thu dụng tất cả những gì tốt lành, nơi tài sản, nguồn lực và phong hóa của các dân tộc; và khi thu dụng chúng, Giáo hội tinh luyện, kiện toàn và thăng hóa chúng. (...) Thực ra, những gì thiện hảo trong tâm hồn và tư tưởng của loài người, hoặc trong nghi lễ và căn hóa riêng của các dân tộc, hoạt động của Giáo hội không nhằm tiêu diệt chúng, nhưng lành mạnh hóa, nâng cao và hoàn thành chúng, hầu làm vinh danh Thiên Chúa, đánh bại ma quỷ và mưa cầu hạnh phúc cho con người". Như vậy phụng vụ của Giáo hội không được xa lạ với bất kỳ một xứ sở nào, một dân tộc nào, một con người nào, và đồng tời phải vượt lên trên mọi chủ nghĩa đặc thù về chủng tộc và quốc gia. Phụng vụ cần có khả năng tự diễn đạt trong mọi nền văn hóa của nhân loại, đồng thời vẫn giữ được căn tính của mình bằng cách trung thành với truyền thống lãnh nhận từ Đức Chúa.

19. Phụng vụ cũng như Tin mừng phải tôn trọng các nền văn hóa, nhưng đồng thời phụng vụ mời gọi chúng tự thanh luyện và tự thánh hóa.

Khi trở nên những Kitô hữu, những người Do thái vẫn một mực trung thành với Cựu ước đã đưa họ đến Đức Giêsu, Đấng Mêsia của Israel; họ biết rằng Người đã hoàn tất giao ước  Môsê, đồng thời là Đấng Trung gian giao ước  mới và vĩnh cửu, được đóng ấn bằng máu Người trên thập giá. Họ biết rằng, nhờ hy tế duy nhất và hoàn hảo của Người, Người là Thượng tế đích thực và là đền thờ cuối cùng. Cùng lúc, những quy định như phép cắt bì, ngày Sabát và những lễ tế trong đền thờ đã trở nên tương đối. Một cách triệt để hơn, các tín hữu gốc ngoại giáo, khi theo Đức Kitô đã phải từ bỏ bụt thần, thần thoại, dị đoan.

Nhưng, cho dù thuộc nguồn gốc dân tộc và văn hóa nào, các Kitô hữu phải nhìn ra lời hứa, lời tiên tri và lịch sử ơn cứu độ của họ trong lịch sử dân Israel. Họ đón nhận các sách Cựu ước  cũng như Tân ước là lời Thiên Chúa. Họ tiếp nhận những dấu chỉ bí tích mà chỉ có Thánh Kinh và đời sống của Giáo hội mới có thể làm cho hiểu được.

20. Dung hòa được những sự từ bỏ do niềm tin vào Chúa Kitô đòi hỏi với việc trung thành với nền văn hóa và truyền thống của dân tộc của họ, đó đã là một thách đố được đặt ra cho những Kitô hữu đầu tiên, trong một tinh thần và vì nhiều lý do khác nhau tùy theo họ xuất thân từ dân tộc được tuyển chọn hay có nguồn gốc ngoại giáo. Và đây cũng là thách đố của mọi Kitô hữu thuộc mọi thời đại, như lời thánh Phaolô quả quyết: "Phần chúng tôi, chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ".
Sự phân biệt đã được thực hiện suốt dòng lịch sử của Giáo hội, vẫn còn cần thiết để, qua phụng vụ, công trình cứu độ Đức Kitô thực hiện, được tồn tại cách trung thành trong Giáo hội, nhờ quyền năng của Thánh Thần, qua không gian và thời gian và trong những nền văn hóa khác nhau của nhân loại.

II. NHỮNG YÊU CẦU VÀ ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT ĐỂ HỘI NHẬP VĂN HÓA TRONG PHỤNG VỤ

a. Những yêu cầu phát xuất từ bản chất của phụng vụ

21. Trước khi nghiên cứu bất cứ điều gì để hội nhập văn hóa, phải luôn chú ý đến bản chất của phụng vụ. Quả thật, "nó là nơi thuận tiện để các Kitô hữu gặp gỡ Thiên Chúa và Đấng Ngừơi đã sai đến là Đức Giêsu Kitô". Phụng vụ vừa là hành động của Đức Kitô linh mục, vừa là hành động của Giáo hội, là thân thể của Người, vì để hoàn thành việc tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa nhân loại, qua các dấu chỉ khả giác, Đức Kitô luôn kết hiệp với Giáo hội, mà qua Ngừơi và trong Thánh Thần, Giáo hội thờ phưỡng Đức Chúa Cha một cách xứng đáng.

22. Bản chất của phụng vụ liên kết mật thiết với bản chất của Giáo hội, đến nỗi chính trong phụng vụ mà bản chất của Giáo hội được thực hiện. Mà, Giáo hội có những đặc tính riêng phân biệt mình với những hội nghị hay cộng đoàn khác.

Thật vậy, Giáo hội không được thành hình do một quyết định của con người, nhưng Giáo hội được triệu tập bởi Thiên Chúa trong Thánh Thần và đáp lại lời mời gọi nhưng không trong đức tin (ekklesia liên quan với từ klesis nghĩa là "mời gọi"). Tính cách đặc thù này của Giáo hội được thể hiện qua việc tập họp như là dân tư tế, trước tiên vào ngày của Chúa, qua lời Thiên Chúa ngỏ với dân Người và qua thừa tác vụ của linh mục, mà bí tích Truyền chức ban cho khả năng hành động nhân danh chính Đức Kitô là Đầu.

Vì là Công giáo nên Giáo hội vượt trên mọi rào cản phân cách nhân loại: nhờ bí tích Rửa tội mọi người trở nên con Thiên Chúa và chỉ thành hình nơi Đức Kitô một dân tộc duy nhất, nơi "không còn chuyện phân biệt Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà" (Ga 3,28). Như thế Giáo hội được kêu gọi tập họp mọi người, nói mọi thứ tiếng, và thấm nhập vào mọi nền văn hóa.

Sau cùng, Giáo hội trên đường lữ hành, lưu lạc xa Chúa (Co 5,6): Giáo hội mang khuôn mặt của thời đại hôm nay trong các bí tích và cơ chế của Giáo hội, nhưng Giáo hội hướng về niềm hy vọng hồng phúc và sự tỏ hiện của Đức Giêsu Kitô (Tt 2,13). Sự kiện đó được thể hiện trong chính nội dung của lời nguyện xin của Giáo hội: cùng lúc quan tâm đến những nhu cầu của con người và của xã hội (1Tm 2,1-4), Giáo hội cho thấy rằng chúng ta là những công dân của Nước Trời (Pl 3,20).

23. Giáo hội được lời Chúa nuôi dưỡng, lời ấy được ghi lại trong bản văn Cựu ước  và Tân ước, và, khi công bố lời Chúa trong phụng vụ, Giáo hội đón nhận lời ấy như Chúa Kitô hiện diện: "chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Giáo hội". Nên trong việc cử hành phụng vụ, lời Chúa giữ vai trò tối quan trọng, đến nỗi không một bản văn nào khác có thể thay thế được cho dù nó được kính trọng đến đâu.(46) Kinh Thánh, nhất là trong các Thánh vịnh, cũng cung cấp phần cốt yếu về ngôn ngữ, dấu chỉ, và lời cầu cho phụng vụ.

24. Vì Giáo hội là hoa quả của hy tế của Đức Kitô, nên phụng vụ luôn là cuộc cử hành của mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô, làm vinh danh Thiên Chúa Cha và thánh hóa con người, nhờ quyền năng của Thánh Thần. Cho nên, phụng tự Kitô giáo được diễn đạt một cách cơ bản nhất, khi vào mỗi ngày Chúa nhật, trên toàn thế giới, các Kitô hữu, họp nhau chung quanh bàn thờ, dưới sự chủ tọa của linh mục, cử hành lễ Tạ ơn: họ cùng lắng nghe lời Chúa và tưởng niệm cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, trong khi đợi chờ ngày Ngừơi đến trong vinh quang. Chung quanh tâm điểm cốt lõi này, mầu nhiệm vượt qua được hiện tại hóa với những thể thức đặc biệt nhất định, qua việc cử hành của mỗi bí tích đức tin.

25. Vậy tất cả đời sống phụng vụ trước hết xoay quanh hy tế Thánh Thể rồi đến các bí tích khác, đã được Đức Kitô ủy thác cho Giáo hội của Người. Giáo hội phải ân cần truyền các bí tích đó lại cho các thế hệ một cách trung thành.

26. Giáo hội của Chúa Kitô được hiện hữu và được diễn đạt, trong một nơi và ở một chỗ nào đó, bởi các Giáo hội địa phương hay riêng biệt, các Giáo hội này diễn tả Giáo hội của Chúa Kitô trong chính bản chất của nó. Cho nên mỗi Giáo hội riêng biệt phải hòa hợp với Giáo hội hoàn vũ, không chỉ về mặt giáo lý đức tin và về những dấu chỉ bí tích, nhưng còn về các thực hành mà mọi người nhận được từ truyền thống liên tục của các Tông đồ, như kinh nguyện hằng ngày, việc thánh hóa ngày chúa nhật, nhịp sống hằng tuần, lễ phục sinh và diễn tiến mầu nhiệm Đức Kitô trong suốt năm phụng vụ, việc thực hành sám hối và chay tịnh, các bí tích khai tâm Kitô giáo, việc cử hành tưởng niệm Chúa và mối liên quan giữa lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể, việc hòa giải, thừa tác vụ có chức thánh, việc hôn nhân, việc xức dầu bệnh nhân.

27. Trong phụng vụ, Giáo hội diễn tả đức tin của mình dưới hình thức biểu tượng và cộng đoàn: việc đó là lý do đòi hỏi phải có một pháp chế bao gồm việc tổ chức phụng tự, việc soạn thảo các bản văn, việc thực hiện các nghi lễ. Đó cũng là lý do biện minh  tính mệnh lệnh của nền pháp chế này qua các thế kỷ và cho đến hôm nay để bảo toàn chính chính thống của phụng tự, nghĩa là không những để tránh những sai lầm nhưng còn để truyền thụ một đức tin trọn vẹn, vì "luật cầu nguyện" (lex orandi) của Giáo hội tương ứng với "luật đức tin" (lex credendi) của mình.

Dù việc hôi nhập văn hóa ở mức độ nào, phụng vụ không thể vượt qua nền pháp chế ổ định và sự theo dõi của những đấng nhận trách nhiệm này trong Giáo hội: Tòa thánh và, theo những quy tắc của quyền hạn, Hội đồng Giám mục trong một lãnh thổ nhất định, Giám mục cho giáo phận của mình.

b. Những điều kiện tiên quyết để hội nhập văn hóa trong phụng vụ

28. Truyền thống thừa sai của Giáo hội luôn nhằm rao giảng Phúc âm cho con người bằng chính ngôn ngữ của họ. Thường là chính những vị tông đồ tiên khởi nơi một xứ, đã quy định thành văn ngôn ngữ mà đến lúc đó chỉ mới là truyền khẩu. Và việc đó cũng là chính đáng, vì chính nhờ ngôn ngữ mẹ đẻ, chuyển tải được tâm tính và văn hóa, mà người ta có thể tác động đến tâm hồn của một dân tộc, đào luyện nơi họ tinh thần Kitô giáo, giúp họ tham gia sâu sắc hơn vào kinh nguyện của Giáo hội.

Sau giai đoạn rao giảng Tin mừng khai tâm, việc công bố lời Chúa bằng ngôn ngữ bản xứ vẫn rất hữu ích cho dân chúng trong những cử hành phụng vụ. Cho nên việc dịch Sách thánh, hay ít ra những bản văn Kinh thánh dùng trong phụng vụ phải là bước đầu của tiến trình hội nhập văn hóa trong phụng vụ.

Để lời Chúa được tiếp nhận cách đúng đằn và hiệu quả, "cần phải phát huy lòng mộ mến Thánh kinh đậm đà và sống động, đã được truyền thống khả kính của các nghi lễ Đông phương và Tây phương minh chứng". Vậy việc hội nhập văn hóa trong phụng vụ đòi hỏi trước tiên Kinh thánh phải được một nền văn hóa nào đó tiếp nhập.

29. Sự kiện có nhiều hoàn cảnh khác nhau trong Giáo hội không phải là không quan trọng đối với việc thẩm định mức độ hội nhập văn hóa cần thiết cho phụng vụ. Hoàn cảnh của những xứ đã được rao giảng Tin mừng từ mấy thế kỷ nay, nơi đức tin Công giáo tiếp tục hiện diện trong nền văn hóa thì khác hơn với những xứ mới được rao giảng Tin mừng, nơi mà việc rao giảng Tin mừng chưa đi sâu vào các thực trạng văn hóa. Còn khác nữa đối với  hoàn cảnh một Giáo hội nơi mà người Kitô hữu là thiểu số so với dân. Một hoàn cảnh phức tạp hơn còn có thể được tìm thấy khi dân chúng tiếp thu nhiều nền văn hóa và sử dụng nhiều ngôn ngữ. Chỉ có việc đánh giá hoàn cảnh cách chính xác mới có thể soi sáng cho bước tiến đưa đến cách giải quyết thỏa đáng.

30. Để chuẩn bị việc hội nhập văn hóa trong các nghi lễ, các Hội đồng Giám mục phải kêu gọi đến những nhà chuyên môn về truyền thống phụng vụ của lễ nghi Roma cũng như về việc thẩm định các giá trị văn hóa địa phương. Cần phải nghiên cứu trước về mặt lịch sử, nhân loại học, khoa chú giải và thần học. Nhưng những cuộc nghiên cứu này cần phải được đối chiếu với kinh nghiệm mục vụ của hàng giáo sĩ địa phương, đặc biệt là hàng giáo sĩ bản xứ. Ý kiến của những bận "hiền nhân" trong xứ, mà sự khôn ngoan theo bản tính con người đã được triển nở đưới ánh sáng Tin mừng, cũng phải được trân trọng. Cũng thế, việc hội nhập văn hóa trong phụng vụ vừa phải thỏa mãn những đòi hỏi của nền văn hóa cổ truyền vừa phải quan tâm đến dân cư thuộc nền văn hóa thành thị và công nghiệp.

b. Trách nhiệm của Hội đồng Giám mục

31. Vì đây là vấn đề thuộc nền văn hóa địa phương, nên ta hiểu tại sao về điểm này hiến chế Sacrosantum Concilium đòi hỏi phải có sự tham dự của "các loại Hội đồng giám mục khác nhau được thiết định hợp pháp, có thẩm quyền trong từng địa phương". Về phương diện này, các Hội đồng Giám mục "phải thận trọng và khôn ngoan  cứu xét những yếu tố nào trong lãnh vực này thuộc truyền thống và tâm tính của mỗi dân tộc có thể được chấp nhận thích đáng vào việc phụng thờ Thiên Chúa". Đôi khi các Hội đồng giám mục có thể chấp nhận những gì "trong tập tục của các dân tộc không liên quan mật thiết với dị đoan và lầm lạc (...), miễn sao hòa hợp với những nguyên tắc của tinh thần phụng vụ đích thực và chân chính.

32. Các Hội đồng Giám mục có quyền thẩm định xem có nên đưa vào trong phụng vụ, theo thủ tục được định sau đây (x. những số sau 62 và 65-69), những yếu tố vay mượn từ các nghi lễ xả hội và tôn giáo của các dân tộc, những yếu tố đó hiện là một phần sống động của nền văn hóa của họ, có thể làm phong phú thêm sự hiểu biết các hành động phụng vụ này không mà không gây ra những hậu quả bất lợi cho đức tin và lòng đạo đức của các tín hữu. Dù thế nào đi nữa, các ngài phải lưu tâm theo dõi để tránh nguy cơ làm cho các tín hữu coi việc hội nhập như thế là trở lại tình trạng trước khi rao giảng Tin mừng (x. sau đây số 47).

Dù sao, nếu xét thấy những điều thay đổi trong lễ nghi hay trong những bản văn có được là cần thiết, thì cần phải hòa hợp chúng với toàn bộ đời sống phụng vụ và trước khi được đem ra thực hành nhất là trước khi có lệnh phải thực hành, phải cẩn thận giới thiệu chúng trước tiên với hàng giáo sĩ, và sau đó với các tín hữu để tránh nguy cơ làm cho họ hoang mang không đáng. (x. sau đây, các số 46 và 69).

III. NHỮNG NGUYÊN TẮC VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH THỰC HÀNH ĐỂ HỘI NHẬP LỄ NGHI ROMA VÀO NỀN VĂN HÓA

33. Các Giáo hội riêng, nhất là những Giáo hội còn non trẻ, khi đào sâu gia sản phụng vụ nhận được từ Giáo hội Roma đã khai sinh ra họ, đến lượt họ, họ có thể tìm thấy trong gia sản văn hóa riêng của mình những hình thức thích hợp để hòa nhập vào trong nghi lễ Roma nếu xét thấy là hữu ích và cần thiết.

Cần đào tạo về phụng vụ cho các tín hữu cũng như cho hàng giáo sĩ, theo Hiến chế Sacrosantum Concilium đòi hỏi, để giúp họ hiểu được ý nghĩa của các bản văn và các nghi lễ có trong các sách phụng vụ hiện hành, và như thế thường xuyên giúp họ tránh thay đổi hay hủy bỏ những gì xuất phát từ truyền thống của nghi lễ Roma.

a. Những nguyên tắc tổng quát

34. Để nghiên cứu và thực hiện việc hội nhập nghi lễ Roma và văn hóa, người ta cần quan tâm đến : 1- Mục đích gắn liền với việc hội nhập văn hóa; 2- tính duy nhất về bản chất của nghi lễ Roma; 3- thẩm quyền.

35. Mục đích phải hướng dẫn việc hội nhập nghi lễ Roma và văn hóa chính là mục đích mà Công đồng Vatican II đặt làm căn bản cho việc canh tân tổng quát về phụng vụ : "Phải tu chỉnh các bản văn và các nghi lễ làm sao cho chúng diễn tả rõ ràng hơn những thực tại thánh mà chúng biểu thị, và để dân Kitô giáo có thể dễ dàng thấu triệt các thực tại ấy càng nhiều càng tốt, cũng như có thể tham dự bằng việc cử hành những nghi lễ ấy một cách trọn vẹn, linh động và cộng đồng".

Các nghi lễ cũng cần "phải thích ứng với tầm lĩnh hội của các tín hữu, cách chung không cần nhiều lời giải thích", đồng thời phải quan tâm đến chính bản chất của phụng vụ, đến đặc tính Kinh thánh và truyền thống của cấu trúc và cách diễn tả của phụng vụ, như chúng đã được trình bày trên đây (các số 21-27).

36. Tiến trình hội nhập văn hóa phải thực hiện mà vẫn giữ được tính duy nhất về bản chất của nghi lễ Roma. Tính duy nhất này hiện nay được trình bày trong các sách phụng vụ mẫu, do Đức Giáo hoàng công bố, và trong các sách phụng vụ tương ứng, được các Hội đồng Giám mục chuẩn nhận cho địa phương của mình và được Toà thánh xác nhận. Việc nghiên cứu hội nhập văn hóa không nhằm tạo ra những gia đình nghi lễ mới; khi đáp ứng những nhu cầu của một nền văn hóa nhất định, nó dẫn đến những thích nghi mà luôn luôn thuộc về nghi lễ Rô-ma (77).

37. Ngay trong lãnh vực hội nhập văn hóa, những thích nghi trong nghi lễ Roma chỉ thuộc thẩm quyền của Giáo hội. Thẩm quyền này thuộc về Tòa thánh, qua Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích, nó cũng thuộc quyền của Hội đồng Giám mục và các Giám mục giáo phận trong giới hạn được luật ấn định. "Vì vậy, tuyệt đối không một ai khác, dầu là linh mục được quyền thêm bớt hay thay đổi một điều gì trong phụng vụ". Như thế, việc hội nhập văn hóa không tùy thuộc vào sáng kiến cá nhân của người cử hành hay sáng kiến chung của một tập thể (82).

Cũng vậy, những gì được chấp thuận cho một miền nhất định thì không được đem áp dụng cho những miền khác nếu không được phép, dù cho hội đồng giám mục có đủ lý do để chấp nhận cho địa phương mình.

b. Những điều có thể được thích nghi

Trong việc phân tích phụng vụ để hội nhập văn hóa, cũng cần xem xét đến những giá trị truyền thống của những yếu tố trong hành động, đặc biệt về nguồn gốc Thánh kinh hay Giáo phụ của chúng (x. trên đây, các số 21-26), vì phân biệt giữa những gì có thể thay đổi được với những gì không thay đổi được thì chưa đủ.

39. Ngôn ngữ, phương tiện chính để con ngường thông đạt với nhau, trong các cử hành phụng vụ, có mục đích loan báo Tin mừng cứu độ cho các tín hữu và diễn tả lời cầu nguyện của Giáo hội lên Chúa. Thế nên nó cũng phải luôn luôn diễn đạt được sự cao cả và thánh thiện của các mầu nhiệm được cử hành với một đức tin chân thật.

Vì vậy phải chú tâm xem xét những yếu tố ngôn ngữ nào của dân tộc có thể đưa vào các cử hành phụng vụ một cách thích hợp, và đặc biệt xem coi có thích hợp hay không thích hợp, khi dùng những từ ngữ của các tôn giáo không phải là Kitô giáo. Cũng cần lưu ý các thể loại văn chương được dùng trong phụng vụ như các bản văn Thánh kinh được công bố, các lời nguyện của vị chủ tọa, ngâm thánh vịnh, các lời tung hô, các điệp khúc, các câu đáp, các thánh thi, kinh cầu.

40.Nhạc điệu và lời ca diễn tả tâm hồn của một dân tộc, có một vị trí đặc biệt trong phụng vụ. Cho nên, cần ưu tiên cho lời ca, trước hết được rút ra từ những bản văn phụng vụ để người tín hữu có được tiếng nói trong chính các hành động phụng vụ(84). "Vì, ở một vài miền, nhất là các xứ truyền giáo, có những dân tộc sẵn có một truyền thống âm nhạc riêng đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tôn giáo và xã hội của họ, nên phải quý trọng âm nhạc ấy đúng mức, và dành cho nó một địc vị thích hợp, bằng cách đào tạo cho họ có một quan niệm tôn giáo cũng như thích nghi việc phụng thờ thần linh của họ".

Phải để ý rằng một bản văn được hát lên sẽ được khắc ghi sâu sắc trong tâm trí hơn là một bản văn được đọc, và sự kiện đó đòi buộc phải được gợi hứng từ Kinh thánh và phụng vụ, và buộc những lời ca phải có phẩm chất về văn chương.

Trong việc phụng thờ Thiên Chúa, có thể chấp nhận các hình thức âm nhạc, các điệu hát, các nhạc cụ, "miễn là đã hoặc có thể thích hợp dùng vào việc thánh, xứng đáng với vẻ tôn nghiêm của thánh đường, và thực sự giúp cảm hóa các tín hữu".

41. Phụng vụ vì là một hành động, nên những cử chỉ và thái độ có một tầm quan trọng đặc biệt, trong số đó những gì thuộc về nghi lễ chính yếu của các bí tích và cần thiết để chúng được thành sự, phải được duy trì như thẩm quyền tối cao duy nhất của Giáo hội đã phê chuẩn hoặc xác định.
Các cử chỉ và thái độ của vị linh mục chủ sự phải diễn tả được chức năng riêng biệt của mình: chủ tọa cộng đồng thay Chúa Kitô.

Những cử chỉ và thái độ của cử tọa, vì là những dấu chỉ của cộng đoàn và sự hiệp nhất, giúp cho sự tham dự được tích cực, bằng cách diễn đạt và khai triển tinh thần và tính nhạy cảm của các thành phần tham dự. Trong nền văn hóa của một xứ, ta phải chọn ra những cử chỉ và thái độ bên ngoài, diễn tả được thân phận con người trước mặt Thiên Chúa, và nếu có thể được cho chúng một ý nghĩa Kitô giáo tương ứng với các cử chỉ và thái độ phát xuất từ  Kinh Thánh.

42. Nơi một vài dân tộc, khi hát, những người tham dự  vỗ tay, lắc lư nhịp nhàng, hoặc nhảy múa một cách tự nhiên. Những hình thức biểu diễn như vậy có thể có chỗ đứng trong hành động phụng vụ nơi các dân tộc đó, với điều kiện chúng phải luôn là cách diễn tả lời kinh chung thật sự để thờ phượng, ca ngợi, dâng hiến hay cầu khẩn, chứ không chỉ đơn thuần một màn biểu diễn.

43. Việc cử hành phụng vụ được phong phú hóa nhờ nghệ thuật giúp các tín hữu cử hành, gặp gỡ Thiên Chúa, cầu nguyện, cho nên, trong Giáo hội của mọi dân tộc và mọi quốc gia, nghệ thuật phải được tự do phô diễn, miễn sao nó góp phần làm đẹp các ngôi thánh đường và các lễ nghi phụng vụ, với sự tôn kính và niềm vinh dự xứng đáng và nó thật sự có ý nghĩa trong đời sống và truyền thống của dân tộc. Và cũng như thế đối với các hình dáng, cách sắp xếp và trang trí bàn thờ, đối với tòa công bố lời Chúa và nơi rửa tội, đối với tất cả đồ đạc bàn ghế, các bình thánh, lễ phục và các màu phụng vụ. Phải dành ưu tiên cho những chất liệu, hình dáng và màu sắc quen thuộc của xứ sở.

44. Hiến chế Sacrosanctum Concilium đã cương quyết duy trì việc thực hành xưa nay của Giáo hội cho phép các tín hữu tôn kính ảnh tượng Chúa Kitô, Đức Trinh nữ Maria và các thánh, vì "lòng tôn kính dành cho ảnh tượng là cho chính Đấng đó". Trong các nền văn hóa khác nhau, các tín hữu có thể được trợ giúp trong việc cầu nguyện và trong đời sống thiêng liêng nhờ nhìn thấy các công trình nghệ thuật mà chúng gợi lên mầu nhiệm theo tinh thần của dân tộc.

45. Bên cạnh những cử hành phụng vụ và có liên quan đến chúng, người ta tìm thấy trong nhiều Giáo hội riêng biệt khác nhau nhiều cách diễn tả lòng đạo đức bình dân. Đôi khi những cách diễn tả lòng đạo đức bình dân này được các vị thừa sai mang đến lúc khởi đầu rao giảng Tin mừng, thường được triển khai theo những tập tục địa phương.

Việc đưa các thực hành đạo đức vào trong các cử hành phụng vụ không thể được chấp nhận như một cách hội nhập văn hóa, "vì tự bản chất, phụng vụ vượt xa các việc ấy".

Đấng Thường quyền địa phương có nhiệm vụ tổ chức và cổ vũ các việc đạo đức đó như là phương thế trợ lực cho đời sống và đức tin của các Kitô hữu, thanh lọc chúng khi cần, vì chúng luôn cần được Phúc âm hóa. Đấng Thường quyền cũng theo dõi để chúng không bị thay thế hoặc không bị hòa lẫn vào các cử hành phụng vụ.

c. Sự cẩn thận cần thiết

46. "Chỉ nên đổi mới khi lợi ích thiết thực và chắc chắn của Giáo hội đòi hỏi và sau khi biết chắc những hình thái mới, một cách nào đó, được triển nở có hệ thống từ những hình thái sẵn có". Qui tắc này được Hiến chế Sacrosanctum Concilium ban bố nhằm phục hưng nền phụng vụ cũng áp dụng một cách hài hòa cho việc hội nhập nghi lễ Rôma vào văn hóa. Trong lãnh vực này, việc giáo dục và thời gian là cần thiết để tránh những hiện tượng đào thải hay co cụm lại trong những hình thái có trước.

47. Vì phụng vụ là để diễn tả lòng tin và cuộc sống của người Kitô hữu nên phải coi chừng đừng để việc hội nhập văn hóa mang vẻ hòa đồng tôn giáo dù là bên ngoài. Sự việc đó có thể xảy đến nếu nơi chốn, đồ dùng phụng tự, trang phục phụng vụ, cử chỉ và thái độ làm cho người ta tưởng rằng, trong cử hành Kitô giáo có một vài nghi thức  mang ý nghĩa như trước khi Tin mừng được rao giảng. Sự hòa đồng có thể tệ hơn nếu người ta có ý định thay thế các bài đọc, các bài ca Kinh Thánh hoặc các lời nguyện bằng những bản văn vay mượn nơi các tôn giáo khác, ngay cả khi những bản văn này có một giá trị tôn giáo và luân lý hiển nhiên(102).

48. Việc chấp nhận những nghi thức hay những cử chỉ theo tập quán trong các sách nghi thức khai tâm Kitô giáo, hôn phối và an táng là một giai đoạn của việc hội nhập văn hóa đã được chỉ định trong Hiến chế Sacrosanctum Concilium. Nhưng đó cũng chính là nơi mà sự thật của nghi lễ Kitô giáo và sự biểu lộ đức tin dễ dàng bị giảm đi trước mắt người tín hữu. Những vay mượn các tập tục cổ truyền cần được thanh tẩy và nếu cần phải hủy bỏ đi, chẳng hạn như việc Kitô hóa các ngày lễ ngoại giáo, những nơi thánh thiêng tùy hòan cảnh, như việc nhìn nhận nơi vị linh mục những biểu hiện quyền hành dành cho người lãnh đạo trong xã hội, như việc tôn kính tổ tiên. Trong mọi trường hợp cần phải tránh mọi sự mô hồ. Hơn thế nữa, phụng vụ Kitô giáo tuyệt đối không được tiếp nhận những nghi thức ma thuật, dị đoan, thông linh, báo oán hay có ẩn ý tình dục.

49. Trong nhiều xứ, có nhiều nền văn hóa cùng tồn tại, khi thì thâm nhập lẫn nhau để lần lần hình thành một nền văn hóa mới, khi thì tìm cách phân biệt nhau, thậm chí đối đầu nhau để khẳng định sự tồn tại của chính mình nhiều hơn. Cũng có thể có một số tập quán chỉ còn có lợi về mặt dân gian. Các Hội đồng Giám mục phải thận trọng xem xét hoàn cảnh cụ thể trong từng trường hợp, các ngài phải tôn trọng tính phong phú của mỗi nền văn hóa và những người bảo vệ các nền văn hóa, mà không thể không biết hoặc coi thường nền văn hóa thiểu số hay xa lạ đối với các ngài, các ngài cũng lượng giá những nguy cơ chia rẽ các cộng đồng Kitô hữu hoặc nguy cơ sử dụng việc hội nhập phụng vụ vào các nền văn hóa với mục đích chính trị. Trong những xứ có nền văn hóa được gọi là theo tập quán, cũng phải quan tâm đến mức độ khác nhau của việc hiện đại hóa dân cư.

50. Đôi khi nhiều ngôn ngữ được sử dụng trong cùng một xứ, mặc dù ngôn ngữ chỉ được một nhóm nhỏ hay một bộ lạc sử dụng mà thôi, vì thế phải làm thế nào để có được một sự hài hòa vừa tôn trọng các quyền lợi riêng biệt của các nhóm hoặc các bộ lạc này, vừa không làm cho các cử hành phụng vụ trở nên quá cá biệt. Cũng phải chú ý rằng, trong một xứ, đôi khi cũng có thể tiến đến một ngôn ngữ chính.

51. Để cổ vũ việc hội nhập phụng vụ vào một khu vực văn hóa rộng lớn hơn một xứ. Các Hội đồng Giám mục địa phương cần phải bàn bạc với nhau và cùng quyết định những biện pháp thực hiện để "đề phòng hết sức có thể hầu tránh những dị biệt đáng kể về nghi lễ giữa các miền lân cận".

IV. LÃNH VỰC ĐƯỢC THÍCH ỨNG TRONG NGHI LỄ RÔMA

52. Hiến chế Sacrosanctum Concilium đã nhằm đến việc hội nhập nghi lễ Rôma vào văn hóa khi ban bố những qui tắc để thích ứng phụng vụ với tâm tính và hoàn cảnh của những dân tộc khác nhau, khi dự kiến những biện pháp thích ứng trong các sách phụng vụ (x. sau đây, các số 53 – 61) khi dự trù trong một vài trường hợp, đặc biệt  trong các xứ truyền giáo, những thích ứng sâu sắc hơn (x. sau đây các số 63 –64).

a. Những thích ứng được tiên liệu trong sách phụng vụ

53. Biện pháp đầu tiên và đáng kể nhất của việc hội nhập văn hóa là việc phiên dịch các bản văn phụng vụ ra tiếng bản xứ. Các bản dịch cần được hoàn thành, và nếu cần, phải được duyệt lại theo những chỉ dẫn của Tòa thánh về vấn đề này. Bản dịch chẳng những phải bảo toàn nội dung của ấn bản mẫu Latinh và hợp với những thể loại văn học khác nhau mà còn phải dễ hiểu đối với người tham dự (x. trên đây, số 39), đồng thời hợp với việc công bố và bài ca, cũng như các lời đáp và các lời tung hô của cộng đoàn.

Cho dù mọi dân tộc kể cả những dân tộc chưa phát triển, có một ngôn ngữ tôn giáo để cầu nguyện, ngôn ngữ phụng vụ có những đặc điểm riêng của nó: nó được thấm nhuần Kinh Thánh cách sâu xa, một vài từ Latinh như memoria, sacramentum đã có một ý nghĩa khác nhằm diễn tả đức tin Kitô giáo, một vài từ của ngôn ngữ Kitô giáo có thể được chuyển từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác đã xảy ra trong quá khứ, chẳng hạn như: ecclesia, evangelium, baptisma, eucharistia.

Đàng khác, các dịch giả cần quan tâm đến sự liên quan giữa bản văn với hành động phụng vụ, đến những đòi hỏi của việc phát âm và đến tính chất văn chương của ngôn ngữ hiện thời của dân tộc. Đối với các sáng tác mới, nếu chúng được dự liệu, cũng phải có những tính chất như nói trên đây.

54. Đối với việc cử hành Thánh Thể, sách lễ Rôma "khi chấp nhận những khác biệt hợp pháp và những thích ứng theo qui định của Công đồng Vatican II ", cần phải được xem như một dấu chỉ và một dụng cụ biểu lộ tính hiệp nhất của nghi lễ Rôma trong bối cảnh có nhiều ngôn ngữ khác nhau. Phần trình bày tổng quát sách lễ Rôma tiên liệu rằng "các Hội đồng Giám mục, chiếu theo Hiến chế về phụng vụ có thể quyết định cho lãnh thổ thuộc quyền những qui tắc có liên quan đến truyền thống và tâm tính của các dân tộc, của những miền và những cộng đoàn khác nhau. Việc này đặc biệt có giá trị cho những cử chỉ và thái độ của các tín hữu, những cử chỉ tôn kính bàn thờ và sách Tin mừng, những bản văn bài ca nhập lễ, dâng lễ và hiệp lễ, nghi thức chúc bình an, những điều kiện rước lễ dưới hai hình, chất liệu bàn thờ, và các đồ đạc phụng vụ, chất liệu và hình dáng của các bình và chén thánh, phẩm phục phụng vụ. Các Hội đồng Giám mục cũng có quyền quyết định hình thức cho rước lễ.

55. Đối với các bí tích khác và các á bí tích, ấn bản mẫu Latinh của mỗi sách nghi lễ chỉ ra những thích ứng thuộc quyền Hội đồng Giám mục hay thuộc cả quyền Giám mục trong những trường hợp nhất định. Những thích ứng có thể liên quan đến những bản văn, các cử chỉ và đôi khi đến cả sự sắp xếp trong nghi lễ. Khi ấn bản mẫu tiên liệu nhiều công thức để chọn, thì Hội đồng Giám mục cũng có thể quyết định đề xuất nhiều công thức khác cùng loại.

56. Về những nghi lễ khai tâm Kitô giáo, các Hội đồng Giám mục phải "cẩn trọng xem xét những gì tốt có thể chấp nhận từ truyền thống và linh thần của mỗi dân tộc" và "trong các xứ truyền giáo, xét xem các yếu tố khai tâm đang được một số dân tộc sử dụng có thể được thích nghi vào nghi lễ thanh tẩy Kitô giáo và quyết định xem chúng cần được chấp nhận hay không. Tuy nhiên phải chú ý rằng từ ngữ khai tâm không có cùng một nghĩa và không chỉ cùng một thực tại khi đề cập đến các nghi lễ khai tâm mang tính xã hội nơi một số dân tộc, hay trái lại khi đề cập đến hành trình khai tâm Kitô giáo mà qua những nghi lễ dự tòng đưa đến việc kết hợp với Đức Kitô trong Giáo hội qua các bí tích Rửa tội, Thêm sức và Thánh Thể.

57. Sách nghi lễ Hôn phối, trong nhiều phần có thể thích ứng nhiều nhất để không trở nên xa lạ với nhiều tập tục xã hội. Để thích ứng với những tập quán địa phương và dân tộc, mỗi Hội đồng Giám mục có quyền thiết lập nghi lễ Hôn phối riêng cho lãnh thổ của mình, miễn là bảo toàn luật đòi hỏi thừa tác viên có chức thánh hay giáo dân được thừa ủy, tùy trường hợp, hỏi và nhận sự ưng thuận của hai bên ký kết, và phải đọc lời chúc hôn. Nghi lễ riêng này, dĩ nhiên phải làm rõ ý nghĩa hôn nhân Kitô giáo, cũng như nói lên được ân sủng của bí tích và nhấn mạnh đến những bổn phận vợ chồng.

58. Mọi thời và mọi dân tộc, lễ an táng có nhiều nghi thức đặc biệt, thường nhiều giá trị diễn cảm. Để đáp ứng hoàn cảnh của các xứ, sách nghi lễ Rôma đề xuất nhiều hình thức an táng khác nhau. Hội đồng Giám mục được lựa chọn hình thức thích hợp với những tập quán địa phương. Khi sẵn sàng chấp nhận những gì tốt đẹp trong truyền thống gia đình và tập quán địa phương, Hội đồng Giám mục cũng phải lưu tâm sao cho nghi lễ an táng diễn tả niềm tin vào sự phục sinh và thực sự minh chứng được tinh thần Phúc âm. Chính trong viễn tượng này mà các sách nghi lễ an táng có thể chấp nhận những tập quán của những nền văn hóa khác nhau và đáp lại cách tốt nhất những hoàn cảnh và những truyền thống của từng miền.

59. Những nghi thức làm phép người, nơi chốn hay đồ vật là những gì thiết thân với cuộc sống, với sinh hoạt, và với những lo âu của các tín hữu, có rất nhiều khả năng để thích nghi, để duy trì các tập quán địa phương, và để thu nhận các tục lệ bình dân. Các Hội đồng Giám mục phải biết sử dụng những điều qui định đã được tiên liệu, khi quan tâm đến các nhu cầu của xứ sở.

60. Về việc sắp xếp thời gian, mỗi Giáo hội địa phương và mỗi gia đình dòng tu thêm vào những cử hành của Giáo hội hoàn vũ những gì thuộc riêng cho họ sau khi được Tòa thánh phê chuẩn. Với sự đồng ý trước của Tòa thánh, các Hội đồng Giám mục cũng có thể hủy bỏ một số lễ buộc hay dời chúng vào ngày Chúa nhật. Các Hội đồng Giám mục cũng có quyền quyết định ngày giờ và cách thức cử hành các lễ cầu mùa và lễ bốn mùa.

61. Về Các giờ kinh phụng vụ, với mục đích ngợi khen Thiên Chúa và thánh hóa ngày sống và các hoạt động của con người, bằng lời cầu nguyện, Hội đồng Giám mục có thể thích ứng đối với bài đọc thứ hai của phần kinh sách, đối với những bài thánh thi, lời cầu, cũng như những ca vãn Đức Mẹ cuối ngày.

Thủ tục phải theo để thích nghi những gì đã được các sách phụng vụ tiên liệu

62. Khi soạn thảo ấn bản riêng của các sách phụng vụ, theo luật, Hội đồng Giám mục phải có ý kiến về bản dịch và về những thích nghi được tiên liệu. Biên bản của Hội đồng Giám mục phải ghi kết quả bỏ phiếu, có chữ ký của chủ tịch và thư ký của Hội đồng Giám mục, được gởi về Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích, cùng với hai bản đầy đủ dự án đã được chuẩn y.

Hơn nữa, khi chuyển toàn bộ hồ sơ:

a) Phải trình bày ngắn gọn, chính xác những lý do tiếp nhận cho từng điều thích ứng.

b) Cũng phải chỉ ra những phần vay mượn ở các sách phụng vụ khác đã được phê chuẩn và những phần mới soạn thảo.

Sau khi được Tòa thánh công nhận theo qui tắc hiện hành, Hội đồng Giám mục ra một sắc lệnh công bố, chỉ ra từ ngày tháng nào bản văn được phê chuẩn có hiệu lực.

b. Thích nghi được đề cập trong điều 40 của Hiến chế Công đồng về phụng vụ

63. Mặc dù từ nay đã có những biện pháp thích nghi được tiên liệu trong các sách phụng vụ, nhưng có thể có "trong nhiều nơi và trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, phải cấp bách thích nghi phụng vụ sâu xa hơn, và do đó gây nhiều khó khăn hơn". Đây không phải là những thích nghi bên trong khuôn khổ đã được tiên liệu trong Institutiones generales và Praenotanda của các sách phụng vụ.
Tất nhiên, trước khi có sáng kiến thích nghi sâu xa hơn, Hội đồng Giám mục trước đó đã phải sử dụng tất cả những gì đã được ấn định trong các sách phụng vụ, cũng như đánh giá việc sử dụng các thích nghi đã được phép, và có thể xúc tiến việc duyệt lại các thích nghi đó.

Việc thích ứng như thế có thể hữu ích và cần thiết cho một trong những điểm đã được nêu trên mà không ảnh hưởng những điểm khác.

Vả lại, những thích ứng thuộc loại này không nhằm biến đổi nghi lễ Rôma nhưng nằm trong nghi lễ Rôma.

64. Nếu trường hợp này xảy ra, một hay nhiều vị Giám mục có thể trình bày cho các đồng sự trong Hội đồng Giám mục, những khó khăn mà người tín hữu có thể tham gia ý kiến, và cùng xem xét có nên thích nghi sâu xa hơn vì lợi ích thật sự của các linh hồn.

Sau đó Hội đồng Giám mục đề xuất với Tòa thánh theo thủ tục sau đây, những sửa đổi mà các ngài mong được chấp nhận.

Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích sẵn sàng ủng hộ tiếp nhận các đề xuất của Hội đồng Giám mục, xem xét các đề xuất ấy vì ích lợi của Giáo hội địa phương liên hệ và ích chung của Giáo hội hoàn vũ, và xúc tiến quá trình hội nhập văn hóa những nơi xem ra hữu ích và cần thiết, theo những nguyên tắc được trình bày trong Huấn thị này (x. trên đây các số 33 –51), trong tinh thần cộng tác tin tưởng và chia sẻ trách nhiệm.

Thủ tục phải tuân theo để áp dụng điều 40 của Hiến chế Công đồng về Phụng Vụ

65. Hội đồng Giám mục phải xem xét những gì cần phải sửa đổi trong các cử hành phụng vụ vì các truyền thống và tâm tính của dân tộc. Hội đồng Giám mục ủy thác việc nghiên cứu cho ủy ban quốc gia hay miền về phụng vụ, ủy ban này phải nhơ những người có khả năng cộng tác, để nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của những yếu tố thuộc nền văn hóa địa phương và tùy hoàn cảnh, đưa chúng vào trong các cử hành phụng vụ. Đôi khi nên tham khảo ý kiến của những người đại diện các tôn giáo ngoài Kitô giáo về giá trị phụng tự hay ngoài đời của một vài yếu tố nào đó (x. trên đây số 51).

66. Trước mọi sáng kiến thử nghiệm, Hội đồng Giám mục phải trình bày dự án cho Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích. Hồ sơ trình bày dự án phải gồm có một bản tường trình các điều đổi mới được dự trù, những lý do để chấp nhận chúng, những tiêu chuẩn được áp dụng, các nơi chốn và thời gian để thực hiện, nếu được, làm một cuộc thí nghiệm trước và các nhóm được chỉ định thực hiện, sau cùng là các biên bản thảo luận và bỏ phiếu của Hội đồng Giám mục về vấn đề này.

Sau khi được Hội đồng Giám mục và Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích cùng xem xét, thì Bộ này sẽ ban quyền cho Hội đồng Giám mục để, nếu gặp trường hợp đó, cho phép thử nghiệm trong một thời gian hạn định.

67. Với sự trợ giúp thường lệ của ủy ban quốc gia hay miền về phụng vụ, Hội đồng Giám mục phải theo dõi để cuộc thử nghiệm được diễn tiến tốt. Hội đồng Giám mục cũng phải theo dõi không được cuộc thử nghiệm vượt quá giới hạn được dự trù về nơi chốn và thời gian, để các chủ chăn và các tín hữu được thông báo về tính cách tạm thời và hạn chế của nó, và đừng rao báo có thể làm ảnh hưởng trên đời sống phụng vụ của xứ đó. Khi thử nghiệm xong, Hội đồng Giám mục cần đánh giá xem dự án có tương ứng với mục đích đã định không hoặc có cần xem lại một vài điểm và thông báo cho Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích, nghị quyết của các ngài kèm theo hồ sơ của cuộc thử nghiệm.

68. Sau khi cứu xét hồ sơ, Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích sẽ ban hành sắc lệnh chấp thuận, có thể kèm theo những chú thích để các điều sửa đổi đã xin, được công nhận trên lãnh thổ thuộc quyền Hội đồng Giám mục.

69. Các tín hữu giáo dân và giáo sĩ cần được thông báo đầy đủ về các thay đổi và được chuẩn bị kỹ lưỡng để áp dụng chúng vào các cử hành. Việc thi hành các quyết định cần phải thực hiện tùy theo hoàn cảnh, nếu thuận lợi, nên bố trí một thời gian chuyển tiếp (x. trên đây số 46).

KẾT LUẬN

70. Khi trình bày với các Hội đồng Giám mục các qui tắc cần để hướng dẫn việc hội nhập văn hóa vào phụng vụ đã được Công đồng Vatican II tiên liệu nhằm đáp ứng nhu cầu mục vụ của các dân tộc thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau và khi thận trọng đưa nó vào phần mục vụ tổng quát để hội nhập Tin mừng vào những thực tại đa dạng của con người, Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích hy vọng mỗi Giáo hội địa phương, nhất là những Giáo hội non trẻ, có thể cảm nghiệm tính đa dạng trong một vài yếu tố của những cử hành phụng vụ có thể là một nguồn làm phong phú thêm, nhưng đồng thời vẫn tôn trọng bản chất duy nhất của lễ nghi Rôma, tính duy nhất của toàn Giáo hội và sự toàn vẹn của đức tin được truyền lại cho các thánh đến muôn đời (x. Gđ 3).

Huấn thị này do Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích soạn thảo, thừa ủy nhiệm của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ngài đã phê chuẩn quyền phổ biến Huấn thị này.

Tại trụ sở Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích, ngày 25-1- 1994.

HY Antôn Javierre Ortas - TGM Gêrađô M. Agnelô

 

------------------------------------

CÁC CHÚ THÍCH:

(15) Về việc rao giảng Tin mừng nói chung, chúng ta có thể nói rằng Giáo hội được mời gọi đem sức mạnh của Tin mừng vào trong lòng nền văn hóa và các nền văn hóa (...). Chính bằng cách này, Giáo hội có thể giới thiệu cho các nền văn hóa này hiểu biết mầu nhiệm ẩn giấu và giúp chúng nảy sinh những biểu hiện độc đáo về đời sống, về cử hành và về tư tưởng Kitô giáo từ chính truyền thống sống động của chúng.

(16) "Việc hội nhập văn hóa là một quá trình đòi hỏi nhiều thời gian, nó bao gồm cả cuộc sống thừa sai rộng lớn và liên quan đến những thụ ủy khác nhau của sứ mạng truyền giáo, các cộng đoàn Kitô hữu từng bước được phát triển". Diễn văn tại hội nghị khoáng đại của Ủy ban giáo hoàng về văn hóa ngày 17.1.1987.

"Tôi mạnh mẽ tái khẳng định cần phải động viên toàn thể Giáo hội cố gắng sáng tạo để tái Phúc âm hóa con người và các nền văn hóa, vì chỉ với sự đồng lòng cố gắng thì Giáo hội mới có thể mang niềm hy vọng của Đức Kitô vào trong lòng các nền văn hóa và trong não trạng hiện thời".

(17) Ủy ban giáo hoàng về Thánh Kinh, đức tin và văn hóa dưới ánh sáng Thánh Kinh; và ủy ban thần học quốc tế; tài liệu về đức tin và việc hội nhập văn hóa.

(18) Diễn văn cho các Giám mục Zaire: "Làm sao một đức tin thật sự chín mùi, sâu sắc và vững chắc như vậy, mà ngay từ đó, lại không thể diễn tả nổi trong ngôn ngữ, trong huấn giáo, trong suy tư thần học, trong kinh nguyện, trong phụng vụ, trong nghệ thuật, trong các cơ chế thực sự tương ứng với tâm hồn Phi châu của các đồng bào anh em? Đó chính là chìa khóa của vấn đề quan trọng và phức tạp mà anh em đã trình lên tôi về vấn đề phụng vụ để hôm nay chỉ nói về chuyện ấy. Một tiến bộ thỏa đáng trong lãnh vực này chỉ có thể là hoa trái của sự trưởng thành từng bước trong đức tin, bao gồm sự biện phân thiêng liêng, sự sáng suốt trong suy tư thần học, quan điểm của Giáo hội hoàn vũ, trong sự bàn thảo rộng rãi.

(32). Những bản văn: x,. Nguồn những lời cầu, kinh tiền tụng và kinh nguyện Thánh Thể của sách lễ Roma- Những bài hát: chẳng hạn, những điệp ca ngày 1 tháng giêng, lễ Chúa chịu phép rửa, ngày 8 tháng 9, những ca vãn ngày thứ sáu Tuần thánh, những thánh thi của phụng vụ các giờ kinh – Những cử điệu: chẳng hạn, rảy nước thánh, xông hương, bái quỳ, chắp tay. – Nghi lễ: chẳng hạn kiệu lá, suy tôn thánh giá ngày thứ sáu Tuần thánh, lễ cầu mùa.

(46) x. Ordo lectionum Missae, editio typica altera, Praenotanda, n.12: "Không được phép hủy bỏ, cũng không được phép giảm bớt các bài đọc Kinh Thánh trong cử hành thánh lễ, cũng như các bài hát rút từ  Kinh Thánh và, việc nghiêm trọng hơn, cũng không được thay thế chúng bằng những bài đọc khác không phải là Kinh Thánh. Thật thế, chính nhờ lời Thiên Chúa do Thánh Kinh cung cấp mà bây giờ 'Thiên Chúa còn nói với dân Người' (Sacrosanctum Concilium n.33), và chính do việc sử dụng Kinh Thánh liên tục mà dân Chúa, vâng nghe Thánh Thần dưới ánh sáng của đức tin, sẽ có thể làm chứng nhân cho Chúa Kitô trước mặt thế gian qua cuộc sống và thái độ của mình".

Căn cứ vào quyền mục vụ của mình, Giáo hội có thể quy định những gì có thể hữu ích cho tín hữu, tùy theo hoàn cảnh, thời gian và nơi chốn. Nhưng Giáo hội không có chút quyền nào trên những gì thuộc ý muốn của Đức Kitô và là phần bất di bất dịch của phụng vụ. Phá vỡ mối quan hệ giữa các bí tích với Đức Kitô, Đấng đã thiết lập, và với những hành vi do Giáo hội quy 9ịnh, sẽ không còn là hội nhập văn hóa trong lãnh vực bí tích, nhưng là làm mất đi bản chất của chúng.

(77.) x. diễn văn đọc tại phiên họp khoáng đại của Bộ Phụng tự và Kỷ luật bí tích, số 3 : "Một sự chỉ dẫn như thế không nhằm đề nghị các Giáo hội riêng khởi sự một công việc mới, có thể đem áp dụng cho việc canh tân phụng vụ và có thể là một công trình thích ứng hoặc hội nhập văn hóa. Hơn nữa không nên hiểu hội nhập văn hóa là tạo nên những nghi lễ để thay đổi (...) đúng hơn đây là vấn đề cộng tác để nghi lễ Roma vừa giữ được căn tính riêng của mình, vừa có thể tiếp nhận những thích nghi hợp thời.

(82.) Còn trường hợp sau đây thì khác, nếu trong các sách phụng vụ xuất bản sau Hiến chế, những phần mở đầu và những quy tắc chữ đỏ có tiên liệu các thích ứng và các khả năng lựa chọn theo sự đánh giá về mục vụ của vị chủ tọa bằng những từ ngữ như : "nếu xét là tốt", "bằng những từ này hay từ khác tương tự", "cũng có thể", "tùy trường hợp", "hoặc là...hoặc là", "nên", "thường", "hãy chọn hình thức thích hợp nhất". Trong khi lựa chọn, trước tiên vị chủ tế phải tìm ích lợi của cộng đoàn, quan tâm đến việc chuẩn bị và đến tâm tính của những người tham dự hơn là sự ưa thích của cá nhân mình hay tìm sự dễ dãi. Trong những cử hành cho những nhóm riêng biệt có thể chấp nhận thêm một vài chọn lựa. Tuy nhiên cần phải cẩn trọng để tránh việc xé lẻ tại Giáo hội địa phương trong các "nhà nguyện" tự khép kín.

(84) x. Công đồng Vatican II, Hiến chế phụng vụ thánh, số 118; x. cả số 54: cần dành cho ngôn ngữ địa phương một chỗ thích hợp trong các bài hát, tuy nhiên cũng cần lưu ý đến điều mà các tín hữu có thể cùng đọc hay hát bằng tiếng Latin những phần chung của thánh lễ dành cho họ, đặc biệt kinh lạy Cha, x. sách lễ Rôma, những chỉ dẫn tổng quát, số 19.

(102) : có thể sử dụng các bản văn này trong các bài thuyết giảng, vì nơi đó cho thấy dễ dàng hơn" việc gặp gỡ giữa sự khôn ngoan được Thiên Chúa mạc khải và tư tưởng thanh cao của con người đang tìm chân lý bằng những đường lối khác nhau".