Phạm Huy Thông
Đạo Công Giáo mới du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ XVI-XVII, như vậy tôn giáo này còn khá trẻ, với tuổi đời chưa đầy 500 năm. Thế nhưng tôn giáo này đã có ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống văn hóa, chính trị, xã hội nước ta. Chỉ xét riêng lối sống của người Việt cũng cho thấy rõ điều đó.
1- Chi phối toàn bộ lối sống của cộng đồng tín hữu Công Giáo
Theo thống kê hiện nay, số tín hữu Công Giáo ở Việt Nam có gần 7 triệu người, chiếm khoảng 7,7% dân số cả nước. Người Công Giáo Việt Nam cũng là một bộ phận của người Việt và trước khi họ là người Công Giáo, họ đã là người Việt. Đạo Công Giáo ảnh hưởng trước hết đến cộng đoàn tín hữu này.
Một yêu cầu bắt buộc với người tín hữu là phải tuân giữ giáo lý, giáo luật của Giáo Hội. Điều này đã chi phối toàn bộ lối sống của họ từ khi sinh ra đến cả sau lúc chết đi, từ tư cách cá nhân đến tư cách là một thành viên của gia đình cũng như một thành phần của xã hội. Chỉ ít ngày sau khi họ chào đời, cha mẹ họ đã đưa đến nhà thờ rửa tội để gia nhập đạo. Rồi họ được cha mẹ hay anh chị bế đi nhà thờ. Lớn lên chút nữa, họ tự đi đọc kinh xem lễ, học các lớp giáo lý cho các lứa tuổi, chịu các Bí tích Khai Tâm, học giáo lý để chuẩn bị kết hôn và khi sắp nhắm mắt lìa đời, lại lo chịu Bí tích lần cuối. Con cái họ được sinh ra cũng tiếp tục chu kỳ như vậy. Việc sống đạo theo giáo luật không chỉ buộc họ giữ lễ Chúa Nhật và các ngày lễ trọng, ăn chay kiêng thịt ngày thứ tư lễ Tro và thứ sáu tuần Thánh mà còn rất nhiều điều phải kiêng, giữ nữa. Tín hữu Công Giáo không được coi bói toán, chọn đất chôn táng, ngày giờ tốt xấu. Họ cũng không được xem sách báo, phim ảnh khiêu dâm hay những chỗ dễ sa vào tội như vũ trường, xới bạc. Những điều này giúp cho cuộc sống của Tín hữu vùng giáo lành mạnh, ít tội phạm hơn.
Để giữ đạo tốt hơn, người Công Giáo thường sống quây quần lại thành làng xóm và dù có phải di cư đến vùng đất mới họ cũng giữ nguyên tên làng của mình lúc trước. Nên không ngạc nhiên khi thấy tên các làng Bùi Chu, Kiên Lao, Cầu Cổ ở vùng đất mới khai hoang tại vùng biển huyện Nghĩa Hưng hay tên làng Bùi Phát, Hà Nội, Trà Cổ, Thái Bình… tại Sài Gòn, Đồng Nai sau năm 1954. Tại các làng Công Giáo, trung tâm của làng là ngôi nhà thờ mà dân làng thường gặp gỡ nhau khi đi đọc kinh, xem lễ. Họ lấy tiếng chuông nhà thờ làm đồng hồ của làng, lấy ngày lễ quan thày hay chầu lượt của xứ làm ngày hội làng. Ai được bầu làm chức việc thì vợ con cũng được lên ngôi: vợ ông Chánh, con ông Trùm. Nhà ai cũng có bàn thờ to nhỏ tùy điều kiện kinh tế nhưng đều làm chỗ trang trọng nhất trong nhà. Ai có ảnh chụp với các chức sắc như các linh mục hay Giám mục thì được trưng bày trang trọng để khoe với khách đến. Còn nếu có giấy chứng nhận ghi công đức hay bằng sắc của Tòa thánh thì đặc biệt trân quý.
Do phải tuân giữ giáo lý nên người tín hữu phải biết bảo vệ thiên nhiên, môi trường vì đó là sản phẩm mà “Chúa dựng nên” và cũng không được khai thác cho riêng mình bởi là sản phẩm chung của nhiều thế hệ. Đạo Công Giáo sớm dạy cho Tín hữu các tri thức mới của phương Tây từ khoa học, kỹ thuật như thiên văn, địa lý đến kỹ thuật dệt vải khổ rộng, in ấn bằng con chữ đúc bằng kim loại cũng như nuôi trồng nhiều vật nuôi, cây cối từ nước ngoài như con cừu, cây khoai tây, cây phi lao. Cũng vì sớm tiếp thu các văn minh, kỹ thuật từ phương Tây truyền vào và không bị tư tưởng Nho giáo ràng buộc nên có nhiều người Công Giáo có “tư duy vượt thời đại” như nhà cải cách Nguyễn Trường Tộ (1830 – 1871), linh mục Đặng Đức Tuấn (1806 - 1874) hay triết gia linh mục Lương Kim Định (1915-1997). Các giáo sĩ cũng nghiêm cấm tín hữu không được uống rượu trắng, hút thuốc phiện nhằm bảo tồn văn hóa dân tộc.
Người Công Giáo bị cấm không được “sống thử” trước hôn nhân, không được nạo phá thai và càng không được ly hôn. Đây là những giá trị đạo đức mà người tín hữu đóng góp vào cuộc sống. Nước ta hiện nay được xếp vào hạng 5 nước có tỷ lệ phá thai cao trên thế giới với khoảng 300.000 ca mỗi năm. Tình trạng ly hôn cũng đáng báo động, mà nỗi khổ dồn lên những đứa trẻ thiếu vắng tình thương của cha mẹ nên dễ sa vào phạm tội. Theo một báo cáo cho biết, những năm 1977-1982, mỗi năm có trung bình 5.672 vụ ly hôn. Đến năm 1991 tăng lên 22.049 vụ, năm 1994 là 34.376 vụ và năm 1995 là 35.684 vụ. Năm 2000 có 51.361 vụ, năm 205 tăng 65.929 vụ và năm 2010 là 126.325 vụ ly hôn. Tại Hà Nội, năm 2005 có 4.100 đôi ra tòa ly dị và riêng 6 tháng đầu năm 2006 có 2.068 vụ ly hôn.[1] Trong khi đó ở xã Hải Vân (Hải Hậu, Nam Định) nơi có 6.000 giáo dân sinh sống suốt 8 năm (1982-2000) chỉ có 2 cặp bỏ nhau. Còn xứ Hạ Hồi (Thanh Trì, Hà Nội) cũng có 1.500 nhân danh nhưng suốt từ năm 1845 đến nay cũng chỉ có 2 đôi ly thân.
Một thế mạnh và là dấu chỉ của người Công Giáo là yêu người như bản thân mình nên ngay từ đầu thế kỷ XVII, dân kinh thành Thăng Long đã gọi các Tín hữu tôn giáo này theo “đạo yêu nhau”. Họ giúp đỡ những người túng thiếu, bệnh tật, lập các nhà thương để chăm sóc kẻ ốm đau. Những trung tâm từ thiện này vừa ích lợi cho cộng đồng, vừa không tốn phí cho ngân sách Nhà nước. Chính vì lý do này, không ít lần chính quyền bảo hộ Pháp ở Đông Dương muốn thay đạo Công Giáo bằng Tin Lành nhưng đành chịu vì lợi ích quá lớn. Với truyền thống ấy, nhiều tín hữu Công Giáo nhất là các nữ tu đã gắn bó cả đời mình với các bệnh nhân phong cùi, HIV/AIDS hay nạn nhân chất độc dioxin như nữ tu Nguyễn Thị Mậu hơn 40 năm ở trại phong Di Linh, các nữ tu Dòng Phaolô Đà Nẵng với các bệnh nhân HIV/AIDS, các nữ tu Dòng bác ái Vinh Sơn với các trẻ em đường phố. Nhiều cơ sở từ thiện Công Giáo trở thành những địa chỉ bác ái có tiếng như nhà Dục Anh (Bùi Chu), trung tâm Thiên Phước (Thành phố Hồ Chí Minh), phòng khám Kim Long (Huế)… Theo tinh thần “kính Chúa, yêu người”, nhiều tín hữu đã sẵn sàng hy sinh thân mình như chị Nguyễn Thị Mai (Quảng Bình) đã bất chấp hiểm nguy để cứu người bị lũ cuốn năm 2009 và mình thì hy sinh. Không ít người “điên khùng” ngày đêm đi thu gom cả chục ngàn thai nhi về chôn cất tại nghĩa trang làm trên đất nhà mình như bà Nguyễn Thị Nhiệm (Sóc Sơn, Hà Nội), ông Nguyễn Văn Bao (Nghĩa Thắng, Nam Định) hay anh Tống Phước Phúc (Nha Trang).
Một nét đẹp dễ nhận ra là lối sống của người Công Giáo Việt là vừa mang văn hóa quốc tế vừa mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Hãy xem những ngôi nhà thờ dù mang kiến trúc phương Tây nhưng vẫn đậm dấu ấn Việt Nam từ các tiểu tiết trang trí đào, cúc, trúc, mai hay những bàn thờ sơn son thiếp vàng, theo triết lý xây dựng “sơn thủy hữu tình”, “thiên địa nhân nhất thể” mà nhà thờ nào cũng có núi non, hồ ao. Còn những nhà thờ đậm bản sắc kiến trúc Việt như nhà thờ Phát Diệm, Pleichuet (ảnh trên), Cam Ly thì thấy rõ từng nét đình chùa, nhà rông, nhà sàn dân tộc ở đó. Hay chỉ việc bố trí nơi ngồi cho Tín hữu theo nguyên tắc “nam tả, nữ hữu” chỉ có ở Việt Nam. Một cuộc rước Công Giáo cũng đủ các hội trống, hội trắc, bát âm. Cũng chú hề son phấn lòe loẹt nhảy múa, cũng các ông khăn xếp, áo the như hội làng. Có khác là khác mấy ca đoàn hát nhạc mới hay đội kèn đồng mà thôi. Người Công Giáo cũng biết làm riêng cho mình một nền văn học, nghệ thuật, báo chí và làm phong phú văn hóa nước nhà. Nhiều tác gia như Trương Vĩnh Ký, Hàn Mạc Tử, Thế Lữ, Bàng Bá Lân, Hồ Dzếnh, Lê Văn Đệ, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Đình Khiêm, Trần Lục,… là những nhà văn hóa lớn của dân tộc.
Cũng theo hướng dẫn của Giáo Hội, người Công Giáo phải có lòng yêu nước bởi:
“Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào đối với người Công Giáo không những là tình cảm tự nhiên phải có mà còn là một đòi hỏi của Phúc âm… Lòng yêu nước của chúng ta phải thiết thực nghĩa là chúng ta phải ý thức những vấn đề hiện tại của quê hương, phải hiểu biết đường lối chính sách của Nhà nước và tích cực cùng đồng bào toàn quốc góp phần bảo vệ và xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh và hạnh phúc”.[2]
Không phải đến Thư chung năm 1980, người Công Giáo mới được hướng dẫn yêu nước mà bổn phận đóng thuế, chấp hành luật pháp, bảo vệ quốc gia của người công dân được nói nhiều trong Kinh thánh. Do vậy, khi sống dưới ách nô lệ, người Công Giáo còn bị một cổ hai tròng áp bức. Một là của nhà nước thực dân. Hai là do chính sự khinh miệt, kỳ thị của hàng giáo sĩ nước ngoài. Cho nên dễ hiểu, ngay từ rất sớm, nhiều người tín hữu kể cả hàng giáo sĩ đã tham gia các cuộc khởi nghĩa hay các phong trào yêu nước để chống Pháp. Một báo cáo của Khâm sứ Trung Kỳ E. Groleau gửi lên Toàn quyền Đông Dương ngày 11-2-1911 viết:
“Những kẻ cầm đầu phong trào đã lôi cuốn vào hàng ngũ của họ nhiều linh mục và thày giảng Công Giáo vùng Nghệ Tĩnh… Qua các linh mục ấy, chiến dịch tuyên truyền chống chúng ta đã được phổ biến khá hữu hiệu trong giới Công Giáo. Và họ đã góp những số tiền quyên giúp khá lớn vào việc gia tăng ngân sách cho phe Cường Để”.[3]
Nhiều người Công Giáo bị bắt, bị đày đi Côn Đảo và chết trong tù như linh mục Nguyễn Tường (1852-1917). Không ít người gia nhập Việt Minh, ủng hộ kháng chiến. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, trong bộ máy của chính quyền mới tháy có nhiều gương mặt Công Giáo như bác sĩ Vũ Đình Tụng - Bộ trưởng Y tế, thạc sĩ Nguyễn Mạnh Hà - Bộ trưởng Kinh tế, nhân sĩ Ngô Tử Hạ- Bộ trưởng Cựu chiến binh, linh mục Phạm Bá Trực là Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội khóa I và hai Giám mục Lê Hữu Từ, Hồ Ngọc Cẩn là cố vấn cho Chính phủ Hồ Chí Minh. Trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc hàng vạn thanh niên Công Giáo đã lên đường cầm súng bảo vệ quê hương và không ít người đã ngã xuống cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Riêng thành phố Hà Nội đã có 59 bà mẹ Công Giáo được phong danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”, 1144 liệt sĩ, 516 thương binh. Nhiều người được phong là anh hùng lực lượng vũ trang như các anh hùng Đỗ Văn Chiến, Nguyễn Quang Hạnh. Trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, sản xuất cũng có nhiều cá nhân Công Giáo được vinh danh là GS.TS, NGND, TTND, NSND.
Người Công Giáo tích cực đóng góp công sức cho các hoạt động từ thiện nhân đạo bác ái, chương trình xây dựng nông thôn mới. Rất nhiều làng Công Giáo đạt danh hiệu làng văn hóa cấp toàn quốc như Tân Độ, Chuôn Thượng, Văn Minh (Hà Nội) và hơn 93% số gia đình Công Giáo đạt danh hiệu “gia đình văn hóa” đã minh chứng cho nhận định của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu với Giáo hoàng Benedicto XVI ngày 25-1-2007 tại Vatican: “Ở Việt Nam, cộng đồng những người Công Giáo là một cộng đồng năng động kính Chúa, yêu nước và có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng và phát triển đất nước”.[4]
2- Lối sống đẹp của người Công Giáo lan tỏa vào cộng đồng
Lối sống của người Công Giáo không chỉ làm phong phú văn hóa Việt Nam với dấu ấn của một tôn giáo từ phương Tây du nhập vào và được cộng đồng đón nhận như chữ quốc ngữ, cách làm báo, phương pháp in với con chữ đúc rời, nhiều văn minh, văn hóa phương Tây như nhạc đồng, âm nhạc 5 dòng, các thiết kế xây dựng Gotich, Roman. Văn học nghệ thuật Việt có thêm một đề tài sáng tác và có nhiều thành công như các nhạc phẩm “Làng tôi” của Văn Cao, “Em ơi Hà Nội phố” của Phú Quang, tiểu thuyết “Đất mặn”, “Bão biển” của Chu Văn, phim “Ngày lễ thánh” của đạo diễn Bạch Diệp, tranh “Giáng sinh” của Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Vân Anh… Các lễ hội Noel, Valentin, mốt đeo ảnh tượng bây giờ đâu có phải là riêng của giới Công Giáo mà là của toàn xã hội, nhất là giới trẻ. Đâu phải cứ nhà thờ mới có tháp vòm, tháp nhọn mà công sở, nhà dân cũng dựng rất nhiều.
Sự lan tỏa đó thể hiện hàng năm có nhiều người ngoại giáo xin gia nhập đạo Công Giáo để sống như người Công Giáo. Theo thống kê của Giáo Hội, năm 2002 có 141.543 người rửa tội trong đó có 29.313 người lớn. Năm 2006 có 149.495 người gia nhập đạo, trong đó có 33.477 người trưởng thành. Có nhiều lý do gia nhập đạo Công Giáo như kết hôn với người có đạo (khoảng 1/5 số người gia nhập đạo hàng năm), để tìm hiểu về đạo nhưng quan trọng nhất là cảm phục lối sống đạo của người Công Giáo.
Bác sĩ Vũ Hữu Ngoạn nguyên là Giám đốc trung tâm da liễu Quy Hòa 31 năm. Ông chính là người đã tự nguyện tiêm vi khuẩn Hansan vào mình để chứng minh rằng bệnh phong hủi không lây qua tiếp xúc, xóa đi mặc cảm cho người bệnh khi giao tiếp với cộng đồng. Sau những năm tháng cống hiến cho bệnh nhân và xã hội, ông được đề nghị làm thủ tục để nhận danh hiệu anh hùng lao động và giải thưởng Ghandi với số tiền thưởng khá lớn nhưng ông đã từ chối. Ông tâm sự rằng, mình là đảng viên, là Giám đốc ăn lương Nhà nước thì sự hy sinh của mình có đáng là bao so với các nữ tu Phan Sinh ở trung tâm. Họ không phải cán bộ, đảng viên, không hưởng lương mà còn dấn thân quên mình vì bệnh nhân thì họ phải được khen thưởng trước. Ông kể:
“Nhiều năm sống và làm việc bên cạnh những người tu hành của Dòng tu này mới biết họ có một lối sống đặc biệt. Họ chấp nhận cuộc sống khổ hạnh, tích cực làm việc thiện một cách âm thầm để phục vụ những người bất hạnh. Họ không thích được ca tụng và cuộc sống của họ tuân theo một nguyên tắc thật đơn giản: bàn tay trái không được biết việc của bàn tay phải và ngược lại. Nhiều tấm gương của các nữ tu này đã được bệnh nhân truyền tụng. Họ kể về seour Charles Antoine, nguyên Giám đốc của trại, có lần bà ấy vào thăm nơi ăn ở của bệnh nhân, thấy một hố xí bị tắc mà không ai dám đến gần. Bà ấy liền thọc tay xuống và moi lên miếng giẻ mà ai đã vô tình vứt xuống”.[5]
Chính vì lòng cảm phục đó, bác sĩ Ngoạn đã xin gia nhập đạo Công Giáo vào năm 2012 mặc dù chưa có nhiều sự đồng thuận của phía gia đình.
Trường hợp của vua Bảo Đại cũng đặc biệt. Ông được phép của Vatican kết hôn với cô Nguyễn Thị Lan là Tín hữu Công Giáo năm 1934 trước cả khi Công Đồng Vatican II cho phép kết hôn với người khác tôn giáo. Bà Nam Phương hoàng hậu đã tự nguyện quyên góp tất cả nữ trang của mình cho Nhà nước Việt Nam trong “Tuần lễ vàng”. Bà đã sinh 5 người con cùng vua Bảo Đại, nhưng lối sống phóng túng của bậc đế vương vẫn lôi ông đến với những phụ nữ khác. Vì vậy, năm 1946 bà Nam Phương đã ly thân với vị vua này và về Pháp ở. Song bà không hề ghen tuông mà vẫn ân cần chăm sóc vua với tư cách là người vợ. Bà viết thư cho cô Lý Lệ Hà - một hoa khôi xứ Bắc đang ăn ở với vua:
“Chị ở xa Đức cựu hoàng hàng vạn dặm trường nhưng chị biết em hết sức chăm sóc cựu hoàng đế ở Hồng Kông. Chị cầu mong lịch sử mai đây sẽ không buông cựu hoàng. Đức Từ cung thái hậu và chị trọn kiếp nhớ thương em”.[6]
Cảm động trước cách cư xử này, về cuối đời, Bảo Đại đã xin gia nhập đạo Công Giáo lấy tên thánh là Jean Robert.
Trường hợp của nữ tu Mai Thị Mậu (ảnh dưới) - người đã 40 năm gắn bó với trại phong Di Linh và được tặng danh hiệu anh hùng lao động năm 2006 cũng là tấm gương được nhiều người dân ở đây noi theo. Y tá K’ Sửu vẫn còn mãi ấn tượng từ lúc mình sinh ra đã được bà Mậu chăm sóc, nâng niu nên quyết tâm học y tá để trở về trại phụ giúp bà Mậu và cũng chính là giúp các bệnh nhân phong ở đây. Ông K’ Bles, bố đẻ của bác sĩ K’ Diu cũng tự hào vì cả hai vợ chồng ông đều là bệnh nhân phong cùi, vậy mà con ông nay đã thành bác sĩ và là Phó Giám đốc Trung tâm. Ông nói:
“Tất cả chúng tôi ở trại Di Linh, Lâm Đồng đều biết ơn bà Mậu mà chúng tôi gọi âu yếm là Mơi Mậu tức Mẹ Mậu. Ông bà chúng tôi, bố mẹ chúng tôi rồi chúng tôi và con cái chúng tôi dù không là bệnh nhân nhưng bà ấy vẫn chăm lo như con cháu ruột thịt trong nhà. Vì vậy, tôi quyết cho con trai tôi theo học nghề y để về phục vụ bà con như bà ấy”.[7]
Hôn nhân Công Giáo buộc giữ đôi vợ chồng phải chung thủy với nhau suốt đời, không được ly dị. Đây cũng là điều kiện để giữ cho các gia đình bền vững, mà gia đình có bền vững, xã hội mới vững bền, ổn định. Bởi nếu cha mẹ ly hôn, con cái sẽ là người gánh hậu quả nặng nề của sự ly tán, một số đã lao vào con đường nghiện ngập, hư hỏng. Tại trường giáo dưỡng Ninh Bình, nơi tiếp nhận trẻ em hư, phạm pháp cho biết. 15,77% số trẻ ở đây không có đủ cha hoặc mẹ, 11,43% trẻ của gia đình ly hôn, 28% trẻ có bố, mẹ nghiện rượu. Do đó, mẫu hôn nhân Công Giáo được coi là lý tưởng trong xã hội có nhiều bất ổn về gia đình hiện nay. Giới văn nghệ sĩ vốn có tiếng là sống phóng khoáng nhưng nhà văn Nguyên Hồng - một người Công Giáo thì khác. Nhà văn Lê Đại Thanh kể:
“Có một cô gái đẹp và lãng mạn mê anh vì đã đọc “Những ngày thơ ấu” của anh. Nhưng Nguyên Hồng là một núi băng. Phạm Cao Củng, người chuyên viết chuyện kiếm hiệp cho nhà xuất bản Mai Lĩnh đã rỉ tai Nguyên Hồng:
- Phải thương nó. Nó tương tư cậu…
Nguyên Hồng tìm gặp cô gái và xin lỗi:
- Tôi là người Công Giáo đạo gốc. Tôi lại là người cầm bút viết văn dạy người đạo đức. Tôi không thể nói dối vợ tôi và làm hại đời cô.
Cô gái này đã khóc và sau đó đi Nam cũng tìm yêu một người Công Giáo vì cảm phục Nguyên Hồng”.[8]
Khi căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS bùng phát, Giáo Hội đã sớm lập các trung tâm Hoa Mai, Thiên Phước để chăm sóc cho các bệnh nhân này. Năm 2004, Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh cũng lập một trung tâm chăm sóc bệnh nhân loại này giai đoạn cuối ở Bình Phước nhưng không sao tìm được nhân viên phục vụ dù có chế độ lương bổng khuyến khích. Cuối cùng, thành phố phải nhờ phía Giáo Hội Công Giáo trợ giúp và 8 nữ tu y tá đầu tiên đã lên đường. Bây giờ ở đây đã có 40 bác sĩ, y tá là nữ tu phục vụ.
Trong bối cảnh hội nhập với thế giới hiện nay, người Công Giáo đã tranh thủ thế mạnh của cộng đồng Công Giáo của người Việt tại nước ngoài để xây dựng quê hương nhằm cũng nhân lên lối sống của người có đạo. Xã Quỳnh Thanh (Quỳnh Lưu, Nghệ An) nơi có 11.360 nhân khẩu đều là người Công Giáo. Mỗi năm, kinh phí xây dựng cơ bản của xã là 2,9 tỷ đồng trong đó dân đóng góp 30%, ngân sách Nhà nước 30,8%, địa phương bỏ ra 13%, còn lại 26,2% là do các linh mục quê hương ở nước ngoài quyên góp. Năm 1995, xây trường trung học của xã hết 647 triệu đồng, linh mục Trần Minh Công (Thụy Sĩ) góp 468 triệu. Năm 2001 xây trường phổ thông cơ sở hết 852 triệu, linh mục này quyên góp ủng hộ 644 triệu. Năm 2004, làm nhà máy nước sạch hết 5,4 tỷ đồng, các linh mục và bà con giáo dân ủng hộ 1 tỷ đồng. Tại giáo xứ Thanh Đức (Đà Nẵng) xây nhà thờ hết 2.612 triệu, các giáo họ chỉ quyên góp được 388 triệu, dâng cũng 24 triệu, còn lại là bà con quê hương Công Giáo ở nước ngoài giúp đỡ.[9] Qua cách làm này, lối sống Công Giáo được thể hiện không chỉ với cộng đồng trong nước mà còn mang tính quốc tế. Nó cũng là kinh nghiệm hay cho đất nước ta trong tiến trình hội nhập. Nhiều gương người Công Giáo ở nước ngoài được tôn vinh như nữ tu Nguyễn Thị Hằng được Tổng thống Hoa Kỳ tặng Huân chương Nhân đạo vì có công trợ giúp 700 nạn nhân trận bão Katrina năm 2006 ở Hoa Kỳ hay linh mục Nguyễn Văn Hùng (Đài Loan) được Liên hiệp quốc tôn vinh là 1 trong số 10 người có thành tích xuất sắc bênh vực cộng đồng năm 2006 vì đã giúp đỡ 2000 phụ nữ Việt bị đối xử bất công ở xứ này cũng là những ghi nhận lối sống đẹp của người Công Giáo Việt trong cộng đồng thế giới.
Lối sống tốt lành của người Công Giáo Việt Nam còn là một cơ sở để Nhà nước Việt Nam xây dựng quan hệ đối ngoại với Vatican ngày càng phát triển như hiện nay. Chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định: “ Việt Nam mong muốn Tòa thánh Vatican có tiếng nói khích lệ cộng đồng Công Giáo Việt Nam luôn gắn bó với đất nước và dân tộc làm nền tảng cho sự phát triển quan hệ giữa Việt Nam và tòa thánh Vatican”.[10]
Việc Nhà nước vinh danh những người Công Giáo như nữ tu Mai Thị Mậu, liệt sĩ Nguyễn Thị Mai, anh Tống Phước Phúc, kiện tướng thông tin Nguyễn Công Hùng… và hàng trăm cá nhân, tập thể người Công Giáo trong phong trào thi đua yêu nước thời gian vừa qua là trực tiếp cổ vũ lối sống tốt lành của người Công Giáo và muốn được nhân ra nhiều hơn nữa trong xã hội Việt Nam.
Tóm lại, lối sống tốt đẹp của người Công Giáo Việt Nam không chỉ ảnh hưởng đến cộng đồng tín hữu mà còn lan tỏa vào xã hội, được xã hội ghi nhận và nhân lên trong cuộc sống hiện nay.
- Ghi chú: Bài viết "Ảnh hưởng từ đạo Công Giáo đến lối sống của người Việt" là kết quả nghiên cứu của đề tài: “Ảnh hưởng của tôn giáo đến lối sống người việt và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng lối sống mới hiện nay”, mã số 12-3-2013 do Quỹ Nafosted tài trợ. Tác giả là Phó Trưởng ban Tư duy, Trung tâm Khoa học Tư duy (CTS).
[1] Phạm Huy Thông, Ảnh hưởng qua lại giữa đạo Công Giáo và văn hóa Việt Nam (Hà Nội: Tôn giáo, 2012), tr. 82.
[2] Niên Giám Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Thư chung năm 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam (Hà Nội: Tôn giáo, 2005), số 9, tr. 243.
[3] Nguyễn Thanh Tâm, Người Công Giáo Việt Nam hưởng ứng phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, Nguyệt san Công Giáo và dân tộc, số 129, tr. 49.
[4] Phạm Huy Thông, Ảnh hưởng qua lại giữa đạo Công Giáo và văn hóa Việt Nam (Hà Nội: Tôn giáo, 2012), tr. 97.
[5] Quỳnh Giao, Một con người, một bác sĩ, một tín hữu, trong “Đối thoại tôn giáo”, tập 2 (Hà Nội: Tôn giáo, 2007), tr. 328.
[6] Lý Nhân Phan Thứ Lang, Vua Bảo Đại - vị vua cuối cùng của triều Nguyễn (Đà Nẵng, 2004), tr. 112.
[7] Phạm Huy Thông, Ân nhân của những bệnh nhân phong, Tạp chí Mặt trận số chuyên đề 13, tháng 8-2012.
[8] Theo Báo Văn nghệ số 30 ngày 27-7-1996.
[9] Phạm Huy Thông, Ảnh hưởng qua lại giữa đạo Công Giáo và văn hóa Việt Nam (Hà Nội: Tôn giáo, 2012), tr. 95-96.
[10] Ibid., tr 97.