Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.
Bản Văn Tin Mừng: Lc 16,1-13 [1]
1 Đức Giê-su còn nói với các môn đệ rằng: “Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông. 2 Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!’ 3 Người quản gia liền nghĩ bụng: ‘Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. 4 Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!’.
5 “Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?’ 6 Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô-liu’. Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi’. 7 Rồi anh ta hỏi người khác: ‘Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy?’ Người ấy đáp: ‘Một ngàn giạ lúa’. Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi’.
8 “Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.
9 “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. 10 Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. 11 Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? 12 Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?
13 “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được”.
***
1.- Ngữ cảnh
Với chương XVI, Tin Mừng Luca thêm vào những dụ ngôn và những lời nói khác của Đức Giêsu. Tuy nhiên, trong khi đề tài của chương XV là niềm vui vì tìm lại được những gì đã mất, trong chương XVI này, đề tài là thái độ đối với của cải và cách sử dụng chúng. Dù thế, vẫn có thể cho rằng đề tài mới này đã được báo trước ở chương XV bằng truyện đứa con thứ phung phí của cải. Bây giờ, chúng ta có hai dụ ngôn, Người quản lý bất lương (câu 1-8a) và Ông nhà giàu với Lazaro (câu 19-31), triển khai rõ ràng đề tài mới này. Ta cũng thấy có những lời Đức Giêsu được gắn vào dụ ngôn thứ nhất (câu 8b-13) và những lời khiển trách người Pharisee ham tiền (câu 14-15). Chỉ có hai lời không liên hệ đến đề tài, đó là lời nói về Lề Luật (câu 16-17) và lời nói về ly dị (câu 18).[2]
Đàng khác, dụ ngôn Người quản lý bất lương được dẫn nhập ở câu 1 bằng từ “de” (“nhưng”) cùng với liên từ “kai” (“cũng”). Ngữ pháp xác nhận rằng khi “de” được nối tiếp bằng “kai”, điều đó có nghĩa là bản văn sau này được liên kết với bản văn trước đó.[3] Trong khi trong dụ ngôn Người cha nhân hậu, người con thứ không có phương tiện, thời gian và tự do để làm lại cuộc đời cho mình, và cũng không biết xoay trở thế nào, thì trong bản văn Lc 16,1-8a, dù không có phương tiện và thời gian, người quản lý vẫn có thể làm lại cuộc đời cho mình, khiến anh ta xứng đáng được khen.
Cho đến nay, bài dụ ngôn Người quản lý bất lương này vẫn là một “crux interpretum” (“thập giá của các nhà chú giải”). Để hiểu dụ ngôn và các áp dụng, điều chủ yếu phải làm sáng tỏ là bản chất luân lý của hành động của người quản lý liên hệ đến các biên nhận của các con nợ của ông chủ. Ý kiến vẫn được đa số chấp nhận là người quản lý, đã bất lương trong quá khứ, khi làm thất thoát tài sản của chủ, nay làm thêm một hành vi bất lương nữa khi sửa lại các biên nhận, khiến tài sản của chủ càng hao hụt thêm. Nhưng nếu đây là ý nghĩa của bản văn, ta khó mà hiểu được là vì sao ông chủ có thể khen ngợi người quản lý là khôn khéo, và vì sao Đức Giêsu có thể rút từ cách hành động này một kết luận chấp nhận được.
Dĩ nhiên, về phương diện luận lý, ta có thể tách sự tiên liệu và khôn khéo ra khỏi những phương diện khác của hành động của người quản lý. Nhưng những phân biệt như thế thì không dễ nắm bắt đối với những tâm trí không quen kiểu làm việc này, còn đám đông Kitô hữu thì hẳn là vẫn cảm thấy lúng túng khi đọc thấy sự song đối Đức Giêsu thiết lập giữa người quản lý và các môn đệ Người. Không lẽ Đức Giêsu, là người vẫn quen ngỏ lời với các con tim, lại thật sự đề ra một dụ ngôn hàm hồ như thế trong một vấn đề đụng chạm đến sự vô luân, bị mọi người phản đối?
Ngoài ra, cứ cho đi là người quản lý đã giả mạo các biên nhận nợ, thì anh ta chỉ càng làm cho hoàn cảnh của mình thêm trầm trọng, mà cũng chẳng giữ được kín, vì anh sắp phải báo cáo sổ sách, với lại bản văn cho thấy là ông chủ biết rất nhanh chuyện vừa xảy ra. Và cũng khó mà hiểu vì sao anh lại được khen là khôn khéo. Nếu thế, dụ ngôn này nói về một hành động khó có thật.
Chúng ta đừng quên rằng Đức Giêsu không hề đánh giá hành vi của người quản lý về mặt luân lý, mà chỉ nói là anh khôn khéo thôi. Chính câu 8 gọi anh là “bất lương”, nhưng đó là trong quá khứ, trước khi anh ta làm hành động được bài dụ ngôn kể ra, còn hành động này không nhất thiết là bất lương.[4]
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1/. Dụ ngôn Người quản lý bất lương (16,1-8a);
2/. Ba áp dụng của Dụ ngôn (16,8b-13):
a/. Áp dụng 1 (câu 8b-9),
b/. Áp dụng 2 (câu 10-12),
c/. Áp dụng 3 (câu 13).
3.- Vài điểm chú giải
- Một người quản lý (1): Danh từ Hy Lạp “oikonomos” thường là một người nô lệ sinh ra tại nhà chủ,[5] nhưng không nhất thiết là như thế. Tại Palestin, người quản lý không được trả lương; anh toàn quyền thay mặt chủ để giao dịch làm ăn. Nếu anh ta biển thủ, thì không có một hành vi pháp lý nào có thể giúp chủ thu hồi của cải cả; ông chủ chỉ có thể phạt bằng cách trách mắng, tiết lộ hành vi bất lương của anh ta để làm anh mất tiếng tốt, rồi thải hồi anh thôi. Sau khi đã biết quyết định của chủ, người quản lý phải tính sổ, nhưng vẫn đại diện của chủ. Vì không có lương, người quản lý có thể cho vay lấy lãi. Thật ra Luật Moses cấm cho vay lấy lãi (x. Xh 22,25; Lv 25,36; Đnl 23,20-21),[6] nhưng người Do Thái có cách xoay sở: người ta bảo là Luật nhắm che chở những người túng cực khỏi bị bóc lột. Do đó, nếu chứng minh được là người vay mượn đã có một phần của cải anh muốn mượn, và như vậy phần vay mượn không là cấp bách, thì có thể lấy lãi. Chẳng hạn dầu và lúa (đó là lý do khiến hai thứ này được đưa ra làm ví dụ ở đây): ai mà chẳng có đủ dầu để đốt một cái đèn? Ai lại không có đủ lúa để làm một cái bánh? (Mishna). Ở đây, anh quản lý tha phần lãi (quá đáng) để trả lại nguyên vốn cho chủ.[7]
- Tố cáo (1): Động từ Hy Lạp “diaballein” thường có sắc thái vu khống.
- Phung phí của cải (1): Động từ Hy Lạp “diaskorpizein” cũng được dùng trong dụ ngôn Người con phung phá (Lc 15,13) để mô tả một cách sử dụng hoang phí các của cải.[8] Bản văn không nói rõ anh “phung phí của cải” trong những chuyện gì.
- Một trăm thùng dầu Olive (6): Danh từ Hy Lạp “batos” phiên âm từ tiếng Hippri “bat”, “thùng” tương đương với khoảng 45 lít.[9]
- Viết năm chục (6): Câu này không có nghĩa là anh ta giả mạo số nợ người ta mắc với ông chủ của anh. Điều này có nghĩa là con nợ hiện mắc nợ ông chủ chỉ năm mươi thùng dầu, còn năm mươi thùng kia là hoa hồng của người quản lý. Như thế, số lãi là 50%. Bên Cận Đông, những món nợ về lương thực thường có lãi cao như thế thật.
- Một trăm bồ lúa (7):[10] Tức là một trăm “kor” lúa. Từ Hy Lạp “koros” phiên âm từ từ ngữ Hippri “kor”, tương đương với 10 “bats”, hoặc 450 lít (bên Hy Lạp có đơn vị đo lường medimnos = 1,5 kor).
- Viết tám trăm (7): Trong trường hợp này, hoa hồng là 25% (trên tám mươi bồ/giạ lúa). Lãi 1/3 hay 1/4 là chuyện bình thường.
- Và ông chủ khen (8): “Ho kyrios” có thể hiểu là “Chúa (Đức Giêsu)” hay “ông chủ”. Ở đây, ta hiểu là “nhà phú hộ kia” (câu 1) hay “ông chủ” (câu 3.5). Vì các lý do:
+ (1) “Nhà phú hộ” rất có thể là một chủ đất thường xuyên đi vắng, nên đã giao việc quản lý công việc làm ăn cho một người quản lý (oikonomos). Anh này không phải chỉ là một người tôi tớ được đặt đứng đầu những tôi tớ khác (như ở Lc 12,42),[11] mà là một nhân viên của ông chủ, được huấn luyện, được tin tưởng và được giao quyền thay chủ. Anh này có thể hành động nhân danh chủ trong những giao dịch: theo cách thông thường, anh này cho những người khác mượn của cải của ông chủ với một phần hoa hồng hoặc lãi được cộng thêm vào biên nhận; trong biên nhận này thường chỉ ghi số nợ, nghĩa là phần vốn cộng với phần lãi. Đây là tập tục rất thông dụng bên vùng đông Địa Trung Hải, Ai Cập dưới thời Hy Lạp và Roma, Palestin, Syri, Assyri, và Babylon.
+ (2) Vậy tại sao ông chủ lại khen người quản lý? Tuy không biết số hoa hồng người quản lý có được, chắc chắn ông chủ biết là anh có làm theo thói tục lúc đó. Nhưng nếu người quản lý cố tình giả mạo biên nhận, hẳn là khó mà cho rằng ông chủ lại khen anh. Ở đây, ông chủ khen người quản lý là vì thấy anh khôn khéo, vì thấy anh này chấp nhận loại bỏ phần hoa hồng khỏi những biên nhận trước đây, trong đó có phần cho vay nặng lãi. Như thế, anh đã biến những con nợ của chủ thành người chịu ơn anh, mà không làm thiệt hại gì đến chủ.
- Con cái ánh sáng (8): Đây là một cách gọi các môn đệ Kitô hữu (x. 1Tx 5,5; Ep 5,8; Ga 12,36).[12]
- Nơi ở vĩnh cửu (9): Dịch sát là “các lều vĩnh cửu”. Có lẽ hình ảnh này lấy từ lễ Lều, vì lễ này được coi như một tiền ảnh của thời đại cứu độ (Dcr 14,16-21).[13]
- Tiền của bất chính (9): Danh từ “mamonas” là dạng Hy-hóa của danh từ Hippri “mamôn” hoặc danh từ Aram “mamôna’”. Cách giải thích hợp lý nhất là cho rằng, từ này là một dạng của ngữ căn ’mn, và có nghĩa là “điều mà người ta đặt tin tưởng vào”, từ đó chuyển sang nghĩa là “tiền bạc, của cải”. Đây là tiền của thủ đắc hợp pháp, tức theo luật lệ của loài người, nhưng hư hỏng dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Dụ ngôn Người quản lý bất lương (1-8a)
Bản văn dường như mô tả một sự cố đã thật sự xảy ra. Người quản lý bị tố cáo là bất lương, nhưng chúng ta không được biết đích xác trong chuyện gì. Chúng ta chỉ biết là bây giờ, khi thấy hoàn cảnh của anh đã thành bấp bênh, vì ông chủ đã quyết định sa thải anh, anh biết phản ứng nhanh và dứt khoát.
Người quản lý biết rằng có nhiều người đang nợ chủ anh những món nợ kếch sù. Anh gọi các con nợ đến, rồi hỏi người thứ nhất: “Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?”. Người ấy đáp: “Một trăm thùng dầu Olive”. Người quản lý bảo: “Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi”. Món nợ đã được giảm từ 4.500 lít dầu Olive xuống còn 2.250 lít, tương đương với tiền công nhật một năm.
Anh ta gọi người thứ hai đang mắc nợ một trăm bồ lúa (tức một ngàn giạ lúa), tương đương khoảng 35 tấn (là kết quả thu hoạch của hơn 42 mẫu ruộng tốt). Nay món nợ của ông giảm xuống còn 80 bồ thôi, tức là bớt đi khoảng 7 tấn!
“Ông chủ” (câu 8), dù là Đức Giêsu hay là ông phú hộ, đã khen ngợi sự khôn khéo và sáng suốt của anh. Người ta vẫn giải thích hành vi anh ta hướng dẫn những người làm biên nhận là một hành vi bất lương: thay vì bảo các con nợ viết đủ số nợ thì lại bảo họ viết bớt đi. Trong thực tế, vào thời Đức Giêsu, các quản lý không có lương, nên họ được phép lấy hoa hồng từ món nợ (25-50%). Như thế, ở đây, người quản lý không làm thiệt hại cho chủ, nhưng chỉ bớt món hoa hồng lẽ ra anh được hưởng. Anh hy sinh một món lợi nhuận ngắn hạn như thế để mong được người ta tiếp đón lâu dài. Vì thế, anh ta mới được khen là sáng suốt và biết khôn ngoan tiên liệu.
Cho dù chọn cách giải thích nào, các độc giả vẫn phải nhớ điểm nhắm của dụ ngôn là: sự thông minh của một người khi nhìn đến tương lai của mình, hoặc nói bằng ngôn ngữ tôn giáo hơn, các chọn lựa thận trọng khi nhìn đến việc cứu độ bản thân. Các môn đệ của Đức Giêsu cũng phải biết tận dụng thì giờ, phải hành động một cách minh mẫn và khôn ngoan, “phronimôs”, nghĩa là với cái đầu. Đức Giêsu bảo họ rằng họ có thể học được nhiều nơi các con cái thế gian trong việc phân tích kỹ lưỡng hoàn cảnh, suy nghĩ chín chắn và có một cách ứng xử thích hợp.
* Ba áp dụng của Dụ ngôn (8b-13)
Thế rồi Đức Giêsu đã chuyển từ ngôn ngữ kinh tế của dụ ngôn sang ngôn ngữ phù hợp với Do Thái giáo. Ba áp dụng chứng tỏ cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã sớm mặc cho dụ ngôn một bộ áo luân lý. Cả ba thuộc về những ngữ cảnh khác nhau:
- Áp dụng thứ nhất (câu 8b-9) mang màu sắc Semite rõ ràng, có lẽ có một bối cảnh Palestin, với những thuật ngữ “con cái thế gian”, “con cái ánh sáng”, “Tiền Của bất chính”, “nơi ở vĩnh cửu”. Áp dụng này đặt con cái thế gian ngang hàng với người quản lý (câu 8a). Do sự “khôn khéo” của họ, họ hơn các “con cái ánh sáng”, tức các môn đệ của Đức Giêsu, trong cách dàn xếp với thế hệ này. Như thế, các Kitô hữu có thể học được điều gì đó từ sự khôn khéo của họ. Câu 8b là một lời bình tổng quát hóa về kết luận của bài dụ ngôn, nhấn mạnh trên sự khôn khéo trong đời sống Kitô hữu. Câu 9 nêu ra khía cạnh cánh chung của lời khuyên. Các Kitô hữu phải khôn khéo trong cách sử dụng của cải vật chất, bây giờ được gọi là “tiền của bất chính”, để tạo lấy những bạn bè sẽ đón họ vào nơi cư ngụ vĩnh cửu. Như vậy, quyết định khôn khéo của người quản lý (câu 4) được ẩn-dụ-hóa để trở thành một khuyến khích sử dụng khôn khéo của cải vật chất.
- Áp dụng thứ hai (câu 10-12) rút một bài học từ bài dụ ngôn như là một toàn thể và hệ quả về cách quản lý có trách nhiệm. Khía cạnh cánh chung của câu 9 biến mất, để nhường chỗ cho ý tưởng về trách nhiệm và sự trung tín ngày qua ngày. Áp dụng gồm ba câu ở thể song đối đối nghĩa: câu 1 là câu tuyên bố (tương phản giữa trung tín trong việc rất nhỏ và trung tín trong việc lớn); câu 2 và 3 ngắn hơn, là câu hỏi (tương phản giữa trung tín trong việc sử dụng những của cải thông thường và những của cải chân thật; tương phản giữa việc sử dụng của cải của người khác và của cải của chính mình). Như thế, cả ba tương phản tóm tắt vai trò của sự trung tín trong đời sống Kitô hữu.
- Áp dụng thứ ba (câu 13) được đặt ở đây do từ móc “tiền của” ở câu 9,11 và 13d. Áp dụng này không liên hệ với bài dụ ngôn, nhưng tóm một thái độ tổng quát đối với của cải. Có thể nói áp dụng này bình luận câu 10-12 dể đưa ra câu hỏi cho Kitô hữu: Anh em muốn phục vụ ai?
+ Kết luận
Bài dụ ngôn không lưu ý về bản tính độc hại của của cải, cũng không chuẩn nhận cho sự bất lương của người quản lý (câu 1-2), hoặc chuẩn nhận cho việc anh ta giả mạo các biên nhận khiến gây thiệt hại cho chủ. Câu chuyện nhắm đến sự khôn khéo của ngưởi quản lý biết cách sử dụng phần của cải thuộc về mình để lo cho tương lai. Như thế, “người quản lý bất lương” trở thành điển hình cho các Kitô hữu về sự sáng suốt, khôn khéo. Đứng trước một tình trạng khủng hoảng do sự bất cẩn và những lầm lạc trong phán đoán thuộc quá khứ, anh biết khôn ngoan đánh giá tình hình và xoay sở hợp lý. Các Kitô hữu cũng đang phải đối diện với đòi hỏi của Nước Trời đang đến, nên cũng cần biết sử dụng của cải để có thể ứng phó với hoàn cảnh này.
Với ba áp dụng thêm vào, bài dụ ngôn đưa tới chỗ khuyến cáo các Kitô hữu phải biết sử dụng của cải với tinh thần trách nhiệm và để phục vụ hạnh phúc của người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu đã đến như ánh sáng thế gian. Ai theo Người, thì có ánh sáng, với điều kiện phải để cho ánh sáng hướng dẫn. Muốn sống như là “con cái ánh sáng”, các môn đệ Đức Giêsu phải để cho Người hướng dẫn. Các môn đệ Đức Giêsu thỉnh thoảng phải nghĩ đến tương lai của họ, để không bị bắt chợt mà trắng tay. Họ phải quan tâm không những đến tương lai gần, mà cả tương lai ở bên kia cái chết. Đó là nhắm đạt được những “cái lều vĩnh cửu”, tức sống hiệp thông bền vững với Thiên Chúa. Tương lai ấy, người ta đạt được hay bị mất, là do cách hành động trong hiện tại. Tương lai này, Đức Giêsu giúp các con cái ánh sáng đạt được, nhưng họ phải chuẩn bị bản thân bằng một cách sống biết tiên liệu. Chính họ cũng phải biết sử dụng của cải vật chất cách khéo léo và sao cho có thể đảm bảo tương lai, nhờ biết tạo cho mình những bạn hữu. Họ phải chứng tỏ họ là những người quản lý được tin cậy và trung tín trong những điều nhỏ nhất. Họ chỉ đạt được như thế nếu họ phục vụ Thiên Chúa chứ không phải tiền của.
2. Các Kitô hữu sống như “con cái ánh sáng” là có trái tim thuộc về Thiên Chúa. Ngài phải là Đức Chúa mà họ yêu mến và họ hướng tới. Chỉ khi đã khởi đi từ một quan hệ như thế với Ngài, họ mới có thể có một tương quan đúng đắn với của cải trần thế và là tương quan bảo đảm tương lai cho họ. Ai nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa tể thì cũng nhìn nhận Ngài là Chúa tất cả của cải vật chất và biết rằng bản thân mình không phải là chủ tuyệt đối các của cải đó, nhưng chỉ là người quản lý.
3. Một người quản lý lệ thuộc chủ mình và chịu trách nhiệm trước mặt chủ. Anh không điều hành một của cải của riêng anh, nhưng một của cải của người khác, của cải được Thiên Chúa ký thác. Anh là người trung tín và đáng tin nếu anh biết đi theo ý muốn của chủ mình, chứ không cư xử theo tính ngẫu hứng. Tất cả các ý tưởng của anh phải nhắm đảm bảo sao cho chủ không bị thiệt hại gì cả, không có gì xảy ra ngược ý muốn của chủ. Qua tương quan với các của cải của chủ, người quản lý chứng tỏ giá trị của tương quan của mình với chủ. Như thế, các của cải trần thế đã được ký thác cho chúng ta là để thử lòng chúng ta. Như những người quản lý, qua các của cải ấy, chúng ta phải chứng tỏ tương quan của chúng ta với Thiên Chúa; chúng ta phải chứng tỏ lòng trung thành và khả tín của mình.
4. Chúng ta chứng tỏ mình biết sử dụng đúng đắn các của cải khi biết dùng của cải mà tạo cho mình những bạn hữu, do dùng của cải mà phục vụ người thân cận. Các của cải không được ban cho chúng ta để chúng ta hưởng thụ cách ích kỷ, nhưng là để chúng ta dùng trong chiều hướng nhắm đến tương lai, thể theo ý muốn của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói đến của cải vật chất, nhưng điều Ngài nói cũng có giá trị cho mọi thứ của cải trần thế khác, như các khả năng tinh thần, các tài năng, kiến thức, học vấn,… Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải sáng suốt và biết tiên liệu. Như thế, không thể phung phí của cải trần thế vào việc hưởng thụ trong hiện tại. Đàng khác, ai cho rằng mình có quyền bố trí các của cải theo ý mình, là sai lầm. Chúng ta được liên kết trước tiên vào Chúa. Chúng ta không phải là chủ nhân tự trị, nhưng chỉ là những quản lý các của cải của chúng ta. Và của cải được trao vào tay chúng ta là để chúng ta dùng mà phục vụ anh chị em. Chỉ khi đó, chúng ta mới đảm bảo được tương lai của mình.
5. Theo hình ảnh Đức Giêsu sử dụng, thời gian là khoảng khắc chọn lựa đối với mỗi một môn đệ. Thời gian không phải chỉ là những giây phút qua đi, nhưng là khoảng khắc cứu độ, cơ hội Thiên Chúa ban cho con người để cứu lấy chính mình. Đức Giêsu không có ý rao giảng rằng con người tự cứu lấy chính mình nhờ tài kháo và sức riêng, bởi vì ơn cứu độ hoàn toàn là ân sủng Thiên Chúa ban. Nhưng cũng đúng là con người phải lãnh trách nhiệm trong việc tận dụng những gì mình nhận được mà bảo đảm lấy ơn cứu độ.
[1] Bản Việt ngữ của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh
[2] Lc 16,14-31: 14 Người Pha-ri-sêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo Đức Giê-su. 15 Người bảo họ: “Các ông là những kẻ làm ra bộ công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng các ông, bởi vì điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa. 16 “Cho đến thời ông Gio-an, thì có Lề Luật và các ngôn sứ; còn từ thời đó, thì Tin Mừng Nước Thiên Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào. 17 “Trời đất qua đi còn dễ hơn là một cái phết của Lề Luật rụng mất. 18 “Bất cứ ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị chồng rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình. 19 “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. 20 Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, 21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. 22 Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. 23 “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. 24 Bấy giờ ông ta kêu lên: ‘Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!’ 25 Ông Áp-ra-ham đáp: ‘Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. 26 Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được’. 27 “Ông nhà giàu nói: ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, 28 vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!’ 29 Ông Áp-ra-ham đáp: ‘Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó’. 30 Ông nhà giàu nói: ‘Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối’. 31 Ông Áp-ra-ham đáp: ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin’”.
[3]F. Blass – A. Debrunner, Grammatica del greco del Nuovo Testamento (Paideia, Brescia, 19972, § 447 I, d).
[4] x. Dụ ngôn ông quan tòa bất chính đã xử công bình cho bà góa (Lc 18,2-8).
[5] x. St 15,3: ben bayit, “một người con của nhà”; St 14,14: yelid bayit, “người sinh ra của nhà”.
[6] x. Xh 22,25: 25 Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn.
Lv 25,36: 36 Với nó, (các) ngươi không được lấy lãi ăn lời, nhưng (các) ngươi phải kính sợ Thiên Chúa, và người anh em của (các) ngươi sẽ có thể sống bên (các) ngươi.
Đnl 23,20-21: 20 Anh (em) không được cho người anh (em) mình vay lấy lãi: vay bạc, vay lương thực, vay bất cứ thứ gì sinh lãi. 21 Người nước ngoài, anh (em) được cho vay lấy lãi, còn người anh em của anh (em) thì không được cho vay lấy lãi; như vậy, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em) sẽ chúc phúc cho anh (em), trong mọi công việc tay anh (em) làm, trên đất anh (em) sắp vào chiếm hữu.
[7] Xem: J.D.M. Derrett, Law in the New Testament (London 1970), pp. 48-77; ““Take Thay Bond… and Write Fifty” (Luke xvi, 6): The Nature of the Bond” (JTS 23 [1972]), pp. 438-440; P.W. Pestman, “Loans Bearing No Interest”, Journal of Juristic Papyrology, pp. 16-17 (1971), pp. 7-29.
[8] Lc 15,13: 13 Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.
[9] Theo sử gia Joseph, một batos = 72 xestai Hy Lạp hoặc 72 sextarii Roma.
[10] Bản dịch Kinh Thánh của Cha Nguyễn Thế Thuấn. Nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh dịch là “Một ngàn giạ lúa”.
[11] Lc 12,42: 42 Chúa đáp: “Vậy thì ai là người quản gia trung tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc?
[12] x. 1Tx 5,5: 5 Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối.
Ep 5,8: 8 Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng.
Ga 12,36: 36 Bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng”. Nói thế xong, Đức Giê-su rời nơi đó và lánh đi không cho họ thấy.
[13] Dcr 14,16-21: 16 Sau đó, mọi người còn sót lại từ mọi dân tộc đã tiến đánh Giê-ru-sa-lem, hằng năm sẽ lên thờ lạy Đức Vua, tức là ĐỨC CHÚA các đạo binh, và mừng lễ Lều. 17 Thị tộc nào trong các thị tộc trên cõi đất không lên Giê-ru-sa-lem thờ lạy Đức Vua, tức là ĐỨC CHÚA các đạo binh, thì sẽ không có mưa cho chúng. 18 Nếu thị tộc Ai-cập không lên và không đến thì nó sẽ phải chuốc lấy tai ương mà ĐỨC CHÚA đã giáng xuống các dân tộc không lên mừng lễ Lều. 19 Đó sẽ là án phạt dành cho Ai-cập và án phạt dành cho mọi dân tộc không lên mừng lễ Lều. 20 Ngày ấy trên lục lạc ngựa sẽ có ghi: “Thánh hiến cho ĐỨC CHÚA” và các nồi niêu trong Nhà ĐỨC CHÚA sẽ được xem như những chiếc bình rảy ở trước bàn thờ. 21 Mọi nồi niêu ở Giê-ru-sa-lem và ở Giu-đa sẽ được thánh hiến cho ĐỨC CHÚA các đạo binh. Tất cả những người dâng hy lễ sẽ đến lấy những nồi niêu đó mà nấu nướng. Ngày ấy, sẽ không còn lái buôn trong Nhà ĐỨC CHÚA các đạo binh nữa.