Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.
Bản văn Tin Mừng: Lc 9,11-17 [1]
11 Người tiếp đón họ, nói với họ về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa. 12 Ngày đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giê-su thưa Người rằng: “Xin Thầy cho đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng”. 13 Đức Giê-su bảo: “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Các ông đáp: “Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám dân này”. 14 Quả thật có tới chừng năm ngàn đàn ông. Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Anh em hãy bảo họ ngồi thành từng nhóm khoảng năm mươi người một”. 15 Các môn đệ làm y như vậy, và bảo mọi người ngồi xuống. 16 Bấy giờ Đức Giê-su cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông. 17 Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng.
***
1.- Ngữ cảnh
Truyện này được đặt vào ngay sau phân đoạn nói về việc Đức Giêsu sai phái Nhóm Mười Hai đi rao giảng (Lc 9,1-6: các ông ra đi; Lc 9,7-9: tiểu vương Hêrôđê thắc mắc về Đức Giêsu; Lc 9,10-11: các tông đồ đã đi rao giảng về tường thuật của Đức Giêsu những việc đã làm) và trước lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (Lc 9,18-21) cũng như lời tiên báo Thương Khó lần thứ nhất cùng với các điều kiện của đời môn đệ (Lc 9,22-16).
Riêng truyện hóa bánh ra nhiều trong Tin Mừng Luca (Lc 9,12-17) thì tương ứng với Mc 6,30-44 và Mt 14,13-21.[2] Tác phẩm Luca không có bản văn tương ứng với truyện hóa bánh ra nhiều lần hai ở Mc 8,1-10 và Mt 15,32-39;[3] do đó, bề ngoài bản văn Luca giống với Gioan, bởi vì Gioan cũng chỉ có một bài tường thuật về nhân bánh và cá (Ga 6,1-15).[4]
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
- 1/. Sứ vụ của Đức Giêsu (9,11b);
- 2/. Các môn đệ nhận định về vấn đề (9,12);
- 3/. Đức Giêsu đáp trả (9,13-16):
+ a/. Lệnh thứ nhất cho Nhóm Mười Hai (câu 13),
+ b/. Lệnh thứ hai cho Nhóm Mười Hai (câu 14-15),
+ c/. Một hành động của Người (câu 16);
- 4/. Kết quả (9,17).
3.- Vài điểm chú giải
- Nói với họ về Nước Thiên Chúa (11): hoặc “tiếp tục nói với họ”, vì động từ ở thì vị-hoàn (imperfect). Tác giả Luca đã sửa Mc 6,34 (“nhiều điều”) thành “về Nước Thiên Chúa”. Rõ ràng Luca muốn nối phép lạ sắp kể với lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa.
- Nhóm Mười Hai (12): Trong bản văn song song, Mt 14,15 và Mc 6,35 nói đến “các môn đệ” (hoi mathêtai). Đối với Luca, Nhóm Mười Hai tượng trưng sự nối tiếp với Israel. Trong Cv 1, con số Mười Hai phải được bổ sung sau khi Giuđa chết, để Nhóm Mười Hai đã được tái lập như thế, có thể đón nhận ân huệ đã được Thiên Chúa hứa ban là Thánh Thần và bắt đầu đi làm chứng. Tác giả Luca là tác giả duy nhất nối kết Nhóm Mười Hai với danh hiệu “tông đồ” ở 6,13 (x. Mt 10,2).[5] Đọc Cv 1,21-22,[6] ta thấy Phêrô xác định rằng người thay thế Giuđa phải đã cùng đi với Đức Giêsu kể từ khi Người được Gioan ban phép rửa đền khi Người lên trời, và như thế, trở thành chứng nhân về cuộc Phục Sinh của Người. Như vậy, đối với Luca, Nhóm Mười Hai trở thành dây liên kết nối tiếp lời loan báo của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa với lời Giáo Hội rao giảng Lời Chúa.
- Chính anh em hãy cho họ ăn (13): Những lời Đức Giêsu nói có thể gợi đến 2V 4,42-44:[7] ở đây, một người từ Baan Salisa mang đến biếu ngôn sứ Êlisa hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm. Vị ngôn sứ bảo tiểu đồng: “Phát cho người ta ăn”. Tiểu đồng phản đối: “Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?”; vị ngôn sứ đáp bằng cách nhắc lại lời của Đức Chúa (YHWH): “Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. Nếu gợi ý này quả thực có trong các Tin Mừng Nhất Lãm, thì hẳn là nó có hàm ý là Đức Giêsu đóng vai trò ngôn sứ khi hóa bánh ra nhiều.
- Đức Giêsu cầm lấy (16): Năm hành động của Đức Giêsu được diễn tả bằng những động từ lấy nguyên văn từ Mc 6,41 (x. Mt 14,18): cầm lấy (“labôn”), ngước mắt lên trời (“anablepsas eis ton ouranon”), dâng lời chúc tụng chúng (“eulogêsen autous”), bẻ ra (“kateklasen”), trao cho (“edidou”).
Mt 14,18 cũng nói đến năm hành động ấy nhưng ở những dạng khác. Trong Bữa tối cuối cùng theo Mc 14,22 (x. Mt 26,26),[8] có bốn hành động được nhắc lại: cầm lấy, chúc tụng, bẻ ra, trao cho. Ở Luca 22,19,[9] cũng xuất hiện bốn động từ, nhưng eulogêsas (chúc tụng) được thay thế bằng “eucharistêsas” (tạ ơn). Ở Luca 24,30, có ba động từ, nhưng edidou được thay thế bằng “epedidou” (= ban tự ý; ban làm của hồi môn).[10] Trong bài tường thuật cuộc nhân bánh lần hai (Mc 8,6; Mt 15,36; x. 1Cr 11,24)[11] cũng có những động từ tương tự. Những bản văn dùng “eucharistêsas” (tạ ơn) phải được coi như là phản ánh một đợt muộn hơn trong truyền thống về Bí tích Thánh Thể (“eucharistia”). So với Mc 6,41, động từ này đứng một mình, nên rất có thể có nghĩa là “chúc tụng Thiên Chúa”. Khi gắn đại từ “chúng” (= bánh và cá) vào lời chúc tụng và việc bẻ bánh, tác giả cho hiểu rằng hai hành vi này chính là nguyên nhân đưa tới việc hóa bánh ra nhiều.
- Ngước mắt lên trời (16): Đây là một thuật ngữ của Cựu Ước, thường có ở trong Bản LXX (St 15,5; Đnl 4,19; G 22,26; 2 Mcb 7,28).[12]
- Bẻ ra (16): Các Tin Mừng Nhất Lãm không bao giờ nói rằng Đức Giêsu đã “nhân” bánh ra nhiều. Ta suy ra phương diện phép lạ từ con số những người ăn và những gì còn sót lại, từ khối lượng nhỏ bé lúc khởi đầu.
- Ai nấy được no nê (17): Luca dùng “echortasthêsan” là động từ của Mc 6,42. Ngài cũng dùng động từ này trong Mối Phúc Lc 6,21 (x. Lc 15,16; 16,21).[13] Trong Bản LXX, động từ này thường được dùng để diễn tả lòng nhân lành Thiên Chúa đã hứa để làm no thỏa dân Ngài (x. Tv 37,19; 81,17; 132,15).[14]
- Mười hai thúng (17): Con số “Mười Hai” rõ ràng có một quy chiếu tượng trưng đến “Nhóm Mười Hai” ở câu 12: mỗi ông mang về một thúng đầy và bây giờ có đủ lương thực để nuôi cả những người khác nữa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Sứ vụ của Đức Giêsu (11)
Sau khi mười hai tông đồ đi giảng về và sau khi các ông đã tường thuật cho Người các công việc đã làm (Lc 9,10),[15] Đức Giêsu lại chìm vào trong công việc phục vụ đám đông (Lc 9,11): Giảng về Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa. Từ đầu Tin Mừng đến đây, tác giả đã liên tục giới thiệu hai khía cạnh này trong hoạt động của Đức Giêsu: Lc 4,31-44; 6,18; 8,1-2.[16]
* Các môn đệ nhận định về vấn đề (12)
Lần đầu tiên trong Tin Mừng Luca, Nhóm Mười Hai lấy sáng kiến và quan tâm đến tương quan của Đức Giêsu với đám đông. Vì trời đã xế chiều, các ông đã nêu những nhận định và đề ra phương án giải quyết rất thực tế: đây là nơi hoang vắng, mà người ta thì đông; do đó, tốt nhất nên giải tán đám đông để họ tự giải quyết vấn đề nơi ăn chốn ở. Tác giả Luca nói ở 9,12 về “Nhóm Mười Hai”, trong khi ở 9,14.16, ngài thay đổi từ vựng: Đức Giêsu ngỏ lời với các “môn đệ”. Từ ngữ “môn đệ” này rất có thể cả ở đây cũng chỉ một nhóm đông hơn trong đó chắc chắn có Nhóm Mười Hai. Dù sao, sáng kiến phát xuất từ Nhóm Mười Hai khi họ vừa đi giảng về và lại tháp tùng Đức Giêsu. Qua sáng kiến này, rất có thể tác giả muốn cho thấy là, do chuyến đi truyền giáo vừa qua, các tông đồ đã nhạy cảm hơn với các nhu cầu của dân chúng.
Ở đây, chúng ta sắp gặp lại đề tài quen thuộc trong Tin Mừng thứ III, đó là “các bữa ăn Đức Giêsu chia sẻ với người khác” (x. Lc 4,16–9,6). Nay chúng ta sắp sửa chứng kiến một phương diện mới: qua sứ mạng của Đức Giêsu là rao giảng về Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa đang thực hiện các lời Ngài hứa, là nuôi dưỡng tạo thành đói khát (x. Is 25,5-6).[17]
Cụm từ “nơi hoang vắng” (câu 12) khiến chúng ta nhớ đến đoàn dân Israel đang sống kiếp nô lệ, nay băng qua sa mạc để tiến dần về tự do, về với một cuộc sống mới.
* Đức Giêsu đáp trả (13-16)
Đức Giêsu trả lời bằng hai lệnh truyền (Lc 9,13.14) và một hành động (Lc 9,16).
Do Nhóm Mười Hai đã tỏ ra có ý thức trách nhiệm đối với dân chúng, Người trao cho một trách nhiệm quan trọng hơn và xác nhận nhiệm vụ: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Lc 9,13); chính anh em hãy nuôi dưỡng đoàn dân Israel vừa mới được tái lập. Với cái nhìn thực tế và với trái tim sẵn sàng, các ông nhận thấy tài nguyên của các ông quá nghèo nàn, các ông tình nguyện đi mua thức ăn cho dân chúng. Nhưng Đức Giêsu phản ứng với một lệnh thứ hai: “Bảo họ ngả mình thành từng nhóm năm mươi” (Lc 9,14). Các ông đã thi hành chính xác lệnh truyền (Lc 9,15). Đức Giêsu không lập một cơ quan phân phối bánh, để mỗi người có thể đến lấy phần của mình. Các môn đệ phải bố trí họ thành những nhóm trật tự (Lc 9,14).
Bây giờ đến hành động quyết liệt của Đức Giêsu. Sau khi đã đọc lời chúc tụng và bẻ bánh và cá ra, Người trao cho các môn đệ để các ông phân phát cho đám đông. Các môn đệ đã vâng theo lệnh thứ hai của Người, nên giờ đây Đức Giêsu làm cho họ cũng có khả năng thực hiện lệnh thứ nhất: cho đám đông ăn (so sánh Lc 9,13 // Lc 9,16). Các từ ngữ được Luca dùng để mô tả hành động Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều (cầm lấy, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho) thuộc về bài tường thuật việc thiết lập Bí tích Thánh Thể (Lc 22,19) và truyện hai môn đệ Emmau (Lc 24,30, cũng liên hệ với Bí tích Thánh Thể). Các môn đệ của Đức Giêsu sẽ phải tiếp tục nuôi dưỡng đám đông bằng Bí tích Thánh Thể.
* Kết quả (17)
Đám đông đã được no nê mà các mảnh vụn còn thừa đã được người ta thu lại được mười hai thúng (Lc 9,17). Trong biến cố này, Nhóm Mười Hai, là những bạn đồng hành của Đức Giêsu, không chỉ chứng kiến việc Người làm, mà còn được đưa vào cộng tác trực tiếp. Các ông đã nhận lệnh cho đám đông ăn (Lc 9,13) và các ông đã được Đức Giêsu làm cho có khả năng thực hiện điều đó (Lc 9,16).
Điều đánh động chúng ta khi đến cuối truyện này là Luca không ghi lại một phản ứng nào của đám đông trước phép lạ (ngược với Ga 6,14-15). Chính Phêrô sẽ làm phát ngôn nhân cho họ khi tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô của Thiên Chúa” (Lc 9,20).
Ta có thể so sánh với Lc 22,19, trong đó cũng Nhóm Mười Hai nhận bánh do Đức Giêsu trao ban, bây giờ với lời giải thích và lệnh truyền: “Đây là Mình Thầy, hiến trao vì anh em; anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy”. Các ông lại nhận và phải cho đi.
Về đời sống của cộng đoàn tiên khởi, sách Công Vụ Tông Đồ viết: “Các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42). Như Simôn và các môn đệ đầu tiên vào dịp mẻ cá lạ lùng (Lc 5,4-11),[18] Nhóm Mười Hai cũng trải nghiệm trực tiếp về quyền lực của Đức Giêsu.
+ Kết luận
Khi tỏ mình ra như là chúa tể ban cơm bánh, Đức Giêsu cũng tỏ mình ra như là chúa tể ban sự sống và khuyến khích Nhóm Mười Hai tin tưởng bẻ ra và phân phát bánh đã nhận trong Bữa Tối cuối cùng. Nhóm Mười Hai đã đề nghị giải tán đám đông và như thế là chấm dứt sự hiện diện và kết hợp của họ với Đức Giêsu. Nhưng dân chúng không bị buộc phải rời bỏ Đức Giêsu mới tìm được các kế sinh nhai. Đức Giêsu có quyền năng duy trì sự hiệp nhất trong tư cách là chúa tể ban cơm bánh và sự sống. Người có thể quy tụ lại và bảo toàn cộng đoàn vĩ đại quanh Người. Cả điều này cũng thuộc về kinh nghiệm mà Nhóm Mười Hai vừa trải nghiệm.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Bữa tiệc Đức Giêsu vừa chiêu đãi thật vĩ đại. Tuy nhiên, nếu đã có kết quả ấy là bởi vì các môn đệ đã góp phần của mình vào (lương thực: năm chiếc bánh và hai con cá; phục vụ: phân phối đám đông thành nhóm trật tự và phát bánh với cá). Bữa tiệc này gợi đến Thánh Lễ chúng ta dâng. Khi đó, chúng ta cũng phải góp phần nhỏ bé của mình vào để cho tất cả được no nê. Bữa tiệc Thánh Thể lại tiên báo Bữa tiệc vĩnh cửu trên thiên quốc, mà mỗi người chúng ta hiện đang góp phần để thực hiện, dù là phần khiêm tốn bé nhỏ.
2. Quả thật, một Thánh Lễ mà không đưa tới hành vi cụ thể giúp đỡ những người túng cực, để ai nấy được no đủ, thì chỉ là một hành vi dối trá. “Những miếng vụn còn thừa thu lại được mười hai thúng” (câu 17): Bánh Thánh Thể không phải là thứ dành riêng cho những người đạo đức; đây là một quà tặng Đức Kitô ban không bao giờ cạn kiệt. Quà tặng này sẽ tiếp tục được phân phát cho tới ngày bắt đầu bữa tiệc vĩnh cửu, và khi đó lễ mừng sẽ không bao giờ chấm dứt.
3. Mối bận tâm đến lương thực hằng ngày là nguyên do khiến con người phân tán, bởi vì mỗi người sẽ phải lo làm công việc của mình, và đôi khi cũng là nguyên nhân đưa đến những mâu thuẫn do đấu tranh để bảo toàn sự sống và cạnh tranh về nghề nghiệp. Đức Giêsu cung cấp một bữa tiệc: Người muốn kiến tạo đời sống cộng đoàn hợp nhất. Các môn đệ hôm nay phải hướng về Đức Giêsu: Người đã chứng tỏ là Người có ý muốn và Người có khả năng làm mục tử chăn dắt đoàn chiên này, quy tụ họ lại trong sự duy nhất và sự hiệp thông, dọn cho họ một bàn tiệc và quy tụ họ lại quanh mình để sống tình hiệp nhất cộng đoàn trong sự bình an và thân tình.
4. Khi đi tham dự Lễ Tế Tạ ơn, chúng ta tham dự vào một cộng đoàn huynh đệ được Đức Giêsu nuôi dưỡng. Khi đó, chúng ta hưởng sự tự do được ở với nhau trong tình thương, trong sự an bình và trong niềm vui. Như ngày xưa với đám đông, hôm nay với các tín hữu đến tham dự thánh lễ, không có việc làm nào cả, không có sự mệt nhọc nào cả, không có sự bân tâm nào cả, không có sự phân biệt nào cả: mọi chuyện ấy không còn nữa, khi Đức Giêsu có mặt.
5. Hôm nay khi đứng trước những vấn đề nan giải, các tín hữu nhớ rằng Đức Giêsu sẽ giúp họ giải quyết, nhưng họ cũng phải góp phần nhỏ bé vào. Khi đã đạt được kết quả, thì đừng quên rằng họ chỉ là tôi tớ, đã biết vâng theo những lệnh truyền của Đức Giêsu và cộng tác với Người. Nhưng con số mười hai thúng đầy gợi ý là, sau khi đã chia sẻ tiệc Thánh Thể với những anh chị em hiện diện, bây giờ chính chúng ta cũng có thể và phải chia sẻ lương thực cho những anh chị em không có mặt, để họ cũng được liên kết với đoàn dân Chúa.
Việc thờ phượng của chúng ta hôm nay nhắm đến Mình và Máu Chúa Kitô và những hàm ý về những ai được gọi là “môn đệ”. Bánh được bẻ ra; Chúa Kitô chia sẻ cuộc sống của Người với chúng ta hầu chúng ta được bẻ ra cho tha nhân nhân danh Người. Chén được đổ ra cho chúng ta, đến lượt mình, chúng ta sẽ đổ chính mình ra khi tha thứ cho những ai xúc phạm đến mình; cho kẻ đói ăn và trở nên sự hướng dẫn cho những ai đang ở “những nơi bị bỏ rơi” (Siciliano).
6. Cũng ghi nhận là tác giả Luca nối truyện này trực tiếp vào lời Đức Giêsu tiên báo Thương Khó và với những giáo huấn của Người về việc vác thập giá hằng ngày (Lc 9,18-27).[19] Cử hành Bí tích Thánh Thể để tưởng nhớ Đức Giêsu (Lc 22,19) là chia sẻ không những sứ mạng của Người (Lc 9,1-6),[20] mà cũng còn là chia sẻ định mệnh của Người, được tượng trưng bằng thập giá (Lc 9,18-27).
[1] Bản Việt ngữ của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh
[2] Mc 6,30-44: 30 Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. 31 Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. 32 Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. 33 Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. 34 Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. 35 Vì bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Người và thưa: “Ở đây hoang vắng và bây giờ đã khá muộn. 36 Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm và làng mạc chung quanh mà mua gì ăn”. 37 Người đáp: “Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi!” Các ông nói với Người: “Chúng con phải đi mua tới hai trăm quan tiền bánh mà cho họ ăn sao?” 38 Người bảo các ông: “Anh em có mấy chiếc bánh? Đi coi xem!” Khi biết rồi, các ông thưa: “Có năm chiếc bánh và hai con cá”. 39 Người ra lệnh cho các ông bảo mọi người ngồi thành từng nhóm trên cỏ xanh. 40 Họ ngồi xuống thành từng đám, chỗ thì một trăm, chỗ thì năm mươi. 41 Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người. 42 Ai nấy đều ăn và được no nê. 43 Người ta thu lại những mẩu bánh được mười hai thúng đầy, cùng với cá còn dư. 44 Số người ăn bánh là năm ngàn người đàn ông.
Mt 14,13-21: 13 Nghe tin ấy, Đức Giê-su lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người. 14 Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ. 15 Chiều đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: “Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. 16 Đức Giê-su bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn”. 17 Các ông đáp: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!” 18 Người bảo: “Đem lại đây cho Thầy!” 19 Rồi sau đó, Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và môn đệ trao cho dân chúng. 20 Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. 21 Số người ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.
[3] Mc 8,1-10: 1 Trong những ngày ấy, lại có một đám rất đông, và họ không có gì ăn, nên Đức Giê-su gọi các môn đệ lại mà nói: 2 “Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn! 3 Nếu Thầy giải tán, để họ nhịn đói mà về nhà, thì họ sẽ bị xỉu dọc đường. Trong số đó, lại có những người ở xa đến”. 4 Các môn đệ thưa Người: “Ở đây, trong nơi hoang vắng này, lấy đâu ra bánh cho họ ăn no?” 5 Người hỏi các ông: “Anh em có mấy chiếc bánh?” Các ông đáp: “Thưa có bảy chiếc”. 6 Người truyền cho họ ngồi xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn, và bẻ ra, trao cho các môn đệ để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho đám đông. 7 Các ông cũng có mấy con cá nhỏ. Người đọc lời chúc tụng, rồi bảo các ông dọn cả cá ra. 8 Đám đông đã ăn và được no nê. Người ta nhặt lấy những mẩu bánh còn thừa: bảy giỏ! 9 Mà đám đông có khoảng bốn ngàn người. Người giải tán họ. 10 Lập tức, Đức Giê-su xuống thuyền với các môn đệ và đến miền Đan-ma-nu-tha.
Mt 15,32-39: 32 Đức Giê-su gọi các môn đệ lại mà nói: “Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường”. 33 Các môn đệ thưa: “Trong nơi hoang vắng này, chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như vậy ăn no?” 34 Đức Giê-su hỏi: “Anh em có mấy chiếc bánh?” Các ông đáp: “Thưa có bảy chiếc bánh và một ít cá nhỏ”. 35 Bấy giờ, Người truyền cho đám đông ngồi xuống đất. 36 Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. 37 Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được bảy thúng đầy. 38 Số người ăn có tới bốn ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con. 39 Sau khi giải tán đám đông, Đức Giê-su lên thuyền, sang miền Ma-ga-đan.
[4] Ga 6,1-15: 1 Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a. 2 Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. 3 Đức Giê-su lên núi và ngồi đó với các môn đệ. 4 Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái. 5 Ngước mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” 6 Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. 7 Ông Phi-líp-phê đáp: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. 8 Một trong các môn đệ, là ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, thưa với Người: 9 “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” 10 Đức Giê-su nói: “Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”. Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. 11 Vậy, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. 12 Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi”. 13 Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. 14 Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giê-su làm thì nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!” 15 Nhưng Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
[5] x. Mt 10,2: Sau đây là tên của mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê và ông Gio-an, em của ông.
[6] Cv 1,21-22: 21 “Vậy phải làm thế này: có những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giê-su suốt thời gian Người sống giữa chúng ta, 22 kể từ khi Người được ông Gio-an làm phép rửa cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời. Một trong những anh em đó phải cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh”.
[7] 2V 4,42-44: 42 Có một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Thiên Chúa: hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Ê-li-sa nói: “Phát cho người ta ăn”. 43 Nhưng tiểu đồng hỏi ông: “Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người ăn được?” Ông bảo: “Cứ phát cho người ta ăn! Vì ĐỨC CHÚA phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư”. 44 Tiểu đồng phát cho người ta. Họ đã ăn, mà vẫn còn dư, như lời ĐỨC CHÚA phán.
[8] Mc 14,22: Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy”. x. Mt 26,26: Cũng trong bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy”.
[9] Lc 22,19: Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy”.
[10] Lc 24,30: Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ.
[11] x. 1Cr 11,24: Người dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy”.
[12] St 15,5: Rồi Người đưa ông ra ngoài và phán: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không”. Người lại phán: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!”; Đnl 4,19: Khi anh (em) ngước mắt lên trời và thấy mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao, toàn thể thiên binh, thì đừng bị lôi cuốn mà sụp xuống lạy và phụng thờ chúng. ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã phân chia chúng cho mọi dân thiên hạ; G 22,26: Bấy giờ anh sẽ lấy Đấng Toàn Năng làm nguồn hoan lạc, và sẽ ngẩng mặt lên hướng về Thiên Chúa; 2Mcb 7,28: Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy.
[13] x. Lc 6,21; 15,16; 16,21: 21 “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười. 15 16 Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. 16 21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
[14] x. Tv 37,19; 81,17; 132,15: 19 Buổi gian nan họ không hề hổ thẹn, ngày đói kém lại được no đầy. 81 17 còn dân Ta, Ta sẽ nuôi bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, Ta cho hưởng thoả thuê”. 132 15 Ta sẽ đổ xuống muôn hồng ân, cho Xi-on được lương thực dồi dào, và ban cho kẻ nghèo được no nê cơm bánh.
[15] Lc 9,10: Các Tông Đồ trở về thuật lại cho Đức Giê-su những việc các ông đã làm. Người đem các ông đi riêng với mình, lui về thành kia gọi là Bết-xai-đa.
[16] Lc 4,31-44; 6,18; 8,1-2: 31 Người xuống Ca-phác-na-um, một thành miền Ga-li-lê, và ngày sa-bát, Người giảng dạy dân chúng. 32 Họ sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì lời của Người có uy quyền. 33 Trong hội đường, có một người bị quỷ thần ô uế nhập, la to lên rằng: 34 “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” 35 Nhưng Đức Giê-su quát mắng nó: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” Quỷ vật người ấy ngã xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta, nhưng không làm hại gì anh. 36 Mọi người rất đỗi kinh ngạc và nói với nhau: “Lời ấy là thế nào? Ông ấy lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất!” 37 Và tiếng đồn về Người lan ra khắp nơi trong vùng. 38 Đức Giê-su rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Si-môn. Lúc ấy, bà mẹ vợ ông Si-môn đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà. 39 Đức Giê-su cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất: tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài. 40 Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ. 41 Quỷ cũng xuất khỏi nhiều người, và la lên rằng: “Ông là Con Thiên Chúa!” Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Ki-tô. 42 Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi. 43 Nhưng Người nói với họ: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó”. 44 Và Người rao giảng trong các hội đường miền Giu-đê. 6 18 đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật. Những kẻ bị các thần ô uế quấy nhiễu cũng được chữa lành. 8 1 Sau đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai 2 và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ.
[17] x. Is 25,5-6: 5 Như nắng thiêu trên đất khô cằn, Ngài chế ngự tiếng ồn ào náo động của lũ ngoại bang. Như bóng mây ngăn sức nắng thiêu, Ngài dập tắt những lời ca tiếng hát của quân bạo cường. 6 Ngày ấy, trên núi này, ĐỨC CHÚA các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế.
[18] Lc 5,4-11: 4 Giảng xong, Người bảo ông Si-môn: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. 5 Ông Si-môn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. 6 Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. 7 Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. 8 Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” 9 Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. 10 Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. 11 Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.
[19] Lc 9,18-27: 18 Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người hỏi các ông rằng: “Dân chúng nói Thầy là ai?” 19 Các ông thưa: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại”. 20 Người lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”. 21 Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không được nói điều ấy với ai. 22 Người còn nói: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. 23 Rồi Đức Giê-su nói với mọi người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. 24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 25 Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì? 26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần. 27 “Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa”.
[20] Lc 9,1-6: 1 Đức Giê-su tập họp Nhóm Mười Hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật. 2 Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. 3 Người nói: “Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo. 4 Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó và cũng từ đó mà ra đi. 5 Hễ người ta không đón tiếp anh em, thì khi ra khỏi thành, anh em hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ”. 6 Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi.