Saturday, 28 December 2019 10:59

Lc 24,1-12: Các Phụ Nữ Tại Mộ Đức Giêsu Featured

Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.

 

Bản Văn Tin Mừng: Lc 24,1-12 [1]

1 Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. 2 Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. 3 Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. 4 Họ còn đang phân vân, thì bỗng có hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. 5 Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? 6 Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê, 7 là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại”.

8 Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. 9 Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. 10 Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a, mẹ ông Gia-cô-bê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông Đồ như vậy. 11 Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin.

12 Dầu vậy, ông Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông thấy chỉ còn có những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra.

***

1.- Ngữ cảnh

Chúng ta cần phải đọc bản văn Lc 24,1-12 trong toàn bộ phân đoạn Lc 23,55–24,12 vì đây là một bài tường thuật liên tục.

Sau khi Đức Giêsu được mai táng (Lc 23,50-54), đã đến giờ của các phụ nữ Galilee. Tác giả đã nói đến họ trước đây (Lc 8,2t; 23,49),[2] nhưng chỉ ở Lc 23,55–24,10, chứ không ở bất cứ bản văn nào khác, sự quan tâm mới được tập trung vào các bà. Các bà là những người duy nhất tỏ ra năng động. Tình yêu của các bà đối với Đức Giêsu vẫn còn sống động. Các bà làm những gì có thể làm (x. Mc 14,8),[3] tức khắc các bà bố trí một việc nghĩa (tốt) cho Đức Giêsu (x. Mc 14,6) [4] và tìm cách thực hiện càng nhanh càng tốt. Đến mộ, thấy tình trạng lạ lùng, các bà còn đang phân vân thì hai thiên sứ đã thông tin: sứ điệp không nói đến các môn đệ mà chỉ nói với các bà thôi. Các bà về cộng đoàn như là những sứ giả đầu tiên của cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu.

2.- Bố cục

Bản văn Tin Mừng này có thể chia thành bốn phần:

     - 1) Các phụ nữ đi ra mộ Đức Giêsu (24,1-3);

     - 2) Hai người đàn ông thông tin cho các bà (24,4-8);

     - 3) Các phụ nữ đưa tin cho Nhóm Mười Một (24,9-10a);

     - 4) Nhóm Mười Một phản ứng trước các lời của các bà (24,10b-12).

3.- Vài điểm chú giải

- Họ còn đang phân vân (4): Động từ “aporein” (x. Mc 6,20) [5]“aporeisthai” (x. Lc 24,4; Ga 13,22; Cv 25,20) [6] có nghĩa là: “bị lúng túng, ở trong tình trạng lưỡng lự, khó khăn; không biết phải tính sao” (“poros”: “con đường”; “aporos”: “một người không có đường đi”).

- Các bà sợ hãi (5): “Emphobos” - “sợ hãi” (x. Lc 24,37; Cv 10,4; 24,25).[7] Trong công thức “emphobos genomenos”, nỗi sợ hãi luôn luôn là hậu quả của một kinh nghiệm đi trước.

- Cúi gầm xuống đất (5): Công thức “klinein to prosôpon” này không hề có trong bất cứ đoạn nào của Tân Ước, thậm chí cả trong Bản Hy Lạp LXX. Nhưng lại thường xuyên có công thức “klinein tên kephalên” - “tựa đầu; nghiêng đầu” trong Tân Ước (Mt 8,20; Lc 9,58; Ga 19,30) [8]“klinein to ous” - “nghiêng tai, lắng tai” ở trong Bản Hy Lạp LXX (chẳng hạn Tv 30,2; Hc 4,8).[9] Công thức “piptein epi prosôpon” - “ngã sấp mặt xuống đất” có trong Bản Hy Lạp LXX và Tân Ước (x. Mt 17,6; 26,39; Lc 5,12; 17,16).[10] Đây là một cử chỉ dữ dội nên dường như không tương đương với “klinein to prosôpon”. Các bà chỉ “nghiêng mặt về phía mặt đất” (và không dám nhìn lên) vì sợ hãi hoang mang. Có thể so sánh phản ứng này với Mc 16,5b.[11]

- Người Sống ở giữa kẻ chết?Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy (5-6): Hai câu này theo cách chuyển hoán vừa tóm lại nhưng cũng vừa giải thích hai yếu tố của câu hỏi các thiên sứ đặt ra:

     a = Người Sống

          b = kẻ chết

          b’ = không ở đây

     a = đã trỗi dậy

- Các bà kể cho Nhóm Mười Một (9): Động từ “apangellein” - “đưa tin, làm cho biết, kể lại” (Mt 8 lần; Mc 5 lần; Lc 11 lần; Ga 1 lần; Cv 16 lần) là hoạt động của những người đã chứng kiến cùng một biến cố này và cung cấp thông tin; Mt 28,8.10 và Lc 14,9 áp dụng cho các phụ nữ.[12] Các bà thông tri “tất cả những sự việc ấy”, tức là tất cả những gì các bà đã chứng kiến ở Lc 24,2-8, tất cả kinh nghiệm họ đã có khi ở tại mộ Đức Giêsu.

- Mấy bà nói đây là bà Maria Magdalene, (…). Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói (10): Câu này có thể hiểu hai cách:

+ a/. Trong trong hợp thứ nhất, toàn câu xác định các bà đã đưa tin ở Lc 24,9 cho Nhóm Mười Một là ai: “Là bà Maria Magdalene, bà Gioanna, và bà Maria, mẹ ông Giacobe và các bà khác cùng đi với mấy bà này”. Rồi tác giả nhắc lại việc các bà kể truyện và nói (có chút lặp lại): “Họ (= tất cả các phụ nữ) nói với các tông đồ các điều này”. Bản Tân Ước Hy Lạp “Nestle-Aland” năm 1998 theo cách đọc này.

+ b/. Trong trường hợp thứ hai, câu văn được cắt đôi như sau: “Là bà Maria Magdalene, bà Gioanna, và bà Maria, mẹ ông Giacobe. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các tông đồ như vậy”.[13] Lời kể của các bà này được coi như là một lời xác nhận lại lời kể của các bà đầu và như thế, bản văn không có vẻ lặp lại. Tuy nhiên, cách cắt như thế dường như đi ngược lại với logic của cả đoạn Lc 23,55–24,10. Ngay lúc đầu, ở Lc 23,55, nhóm các phụ nữ được nêu lên không có chia nhóm nhỏ; rồi khi nói đến các hành động của họ sau đó, kể cả Lc 24,9, ta hiểu đó là hành động của cả một nhóm, và chỉ đến cuối, ở Lc 24,10a, tác giả mới cho biết nhóm đó gồm những ai. Cả ở câu Lc 24,11, “các ông cho đó là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin các bà”, thái độ không tin được các tông đồ tỏ ra là với cả nhóm các phụ nữ. Chỉ ở Lc 24,10 mới có sự chia nhóm thì khó thuyết phục. Do đó, có thể nói, ở Lc 24,9-10a, tác giả nhấn mạnh trên việc các phụ nữ loan tin, còn ở Lc 24,10b-12, ngài nhấn mạnh trên phản ứng của các tông đồ.

- Tông đồ (10b): Tác giả Luca đặc biệt quan tâm đến danh hiệu “hoi apostoloi” và chức năng thừa sai của các ông (Lc 6,13; 9,10; 11,49; 17,5; 22,14; 24,10;[14] trong Cv 28 lần; x. Mt 10,2; Mc 3,14; 6,30).[15] Các ông là những người đã được Đức Giêsu ký thác cho sứ mạng tiếp tục công việc của Người (x. Lc 9,1-6).[16]

- Nhưng các ông cho đó là chuyện vớ vẩn (11): dịch sát là “Các lời ấy (ta rhêmata tauta) có vẻ là lời nói sảng (lêros)”.[17] Từ nghữ “rhêma - “lời nói; sự việc”  thường được tác giả Luca dùng (Mt 5 lần; Mc 2 lần; Lc 19 lần; Ga 12 lần; Cv 14 lần); để chỉ một khối các lời nói và/hoặc các sự việc thì tác giả dùng số phức (Lc 1,65; 2,19.51; 7,1; 24,8.11).[18] Ở Lc 7,1 và Lc 24,8, từ này chĩ có ý nghĩa giới hạn là “các lời nói”; ở Lc 1,65 và Lc 2,19.51, từ này có nghĩa là “các lời và các hoàn cảnh”. Bởi vì “lêros” (chỉ có trong quyển ngụy thư 4 Mcb 5,11 và Lc 24,11) có nghĩa là “nói ba hoa; nói nhảm; nói sảng”  và được dùng ở Lc 24,11 để nêu đặc tính của “ta rhêmata tauta”, công thức này dường như chỉ có nghĩa là “các lời này”; do đó chuyển dịch như Nguyễn Thế Thuấn là sát nghĩa hơn. Mọi sự chỉ dừng lại ở bình diện các lời nói.

- Ông trở về nhà (12): Công thức “aperchesthai pros heauton” có nghĩa là “trở về nhà” (x. Ga 20,10);[19] Bản Kinh Thánh “Nova Vulgata” dịch là “rediit ad sua”.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Các phụ nữ đi ra mộ Đức Giêsu (1-3)

Các phụ nữ đã quyết định đi tẩm liệm lại thi hài của Đức Giêsu. Vào ngày Sabath, các bà đã giữ luật nghỉ ngày thứ bảy để giữ đúng lệnh Thiên Chúa truyền (kata tên entolên). Đây là một thời gian yên tĩnh và suy nghĩ. Vào ngày thứ nhất trong tuần, lúc tảng sáng (orthros bathys: “vừa hừng sảng”), các bà đã đi ra mộ Đức Giêsu. Lý do các bà đi ra đó được báo trong câu tiếp sau: “mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn” (x. Lc 23,56a). Câu này kết nối bản văn với phần đi trước. Vào ngay chiều an táng Đức Giêsu (khác với Mc 16,1),[20] các phụ nữ đã chuẩn bị dầu và thuốc thơm, rõ ràng là để tẩm liệm thi hài Đức Giêsu, cho dù tác giả Luca không dùng minh nhiên động từ “aleiphein” - “xức dầu” (x. Mc 14,6). Tình thương mến của các bà đối với Đức Giêsu, nay chỉ còn là một thi hài, được diễn tả ra trong“việc tốt” (x. Mc 14,6) là việc xức dầu. Do đó các bà đã chuẩn bị, rồi bây giờ đi ra mộ càng nhanh càng tốt.Nhưng có hai khám phá lạ lùng và trái ngược với những gì các bà đang chờ đợi: 1/. Tảng đá đã lăn ra khỏi mộ; 2/. Không thấy thi hài Đức Giêsu.

Rất có thể các bà chờ đợi gặp một ngôi mộ đóng kín (x. Mc 16,3-4),[21] bây giờ lại thấy một ngôi mộ mở. Một ngôi mộ mở luôn luôn làm cho người ta sợ: nó làm cho ta nghĩ đến một “cái mõm của một con quái vật” sẵn sàng nuốt trửng các nạn nhân. Nó đã nuốt trửng một nạn nhân cách đây ba ngày, thế mà chưa đủ sao? Điều đầu tiên các bà nghĩ tới là hẳn đã có trộm. Dù có bản án tử hình cho kẻ nào xúc phạm đến các ngôi mộ, cám dỗ vẫn rất lớn. Biết đâu các bà cũng nghĩ rằng hay là linh hồn Đức Giêsu đã nhập vào lại thân xác Người, nên Người lại sống, nhưng Người đâu rồi? Các bà lại không thấy thi hài Đức Giêsu đâu cả. Đến lúc này, các bà không còn biết phải làm gì nữa, các bà lúng túng (câu 4). Ở Lc 24,3, hành vi các bà bước vào mộ không được kết nối với việc các bà thấy mộtthiên sứ (khác với Mc 16,5); và chính các bà nhận ra rằng không có thi hài, chứ không do vị thiên sứ lưu ý (như trong Mc 16,6). Trong Luca, sự phân vân bối rối của các bà hoàn toàn dựa trên các nhận xét của chính các bà là những người phàm; và đây là khung cảnh trong đó hai thiên sứ xuất hiện.

* Hai người đàn ông thông tin cho các bà (4-8)

Có hai người đàn ông đến bên họ, y phục sáng chói (câu 4). Cv 1,10 có kể lại một cuộc xuất hiện tương tự của hai người đàn ông. [22] Khi đó, bởi vì các môn đệ còn đang ngơ ngác khi chứng kiến Đức Giêsu biến mất, hai vị ấy đã giải thích hoàn cảnh: Đức Giêsu đã được đưa lên trời và một ngày nào đó, Người sẽ trở lại (Cv 1,11).[23] Sự kiện các vị này có mặt hai người chứng tỏ họ là những chứng nhân (x. Đnl 19,15) [24] và nêu bật giá trị của các lời của các vị. Y phục sáng chói (x. Mt 28,3) [25] cho hiểu là các vị đến từ thiên giới. Ở xa hơn, hai người này được nhận dạng là “thiên thần” (Lc 24,23). Marco thì nói là “một người thanh niên” (Mc 16,5), Matthew thì nói rằng “thiên thần Chúa từ trời xuống” (Mt 28,2), còn Gioan thì nói đến “hai thiên thần” (Ga 20,12). Các tác giả Tin Mừng dùng ngôn ngữ khác nhau, nhưng sứ điệp thì y như nhau: trời cao đã gửi ánh sáng xuống để làm sáng tỏ mầu nhiệm sự chết, để trả lời cho một trong những điều bí nhiệm lớn lao nhất vẫn đang làm rối loạn các con tim.

Thấy hai người lạ đó, các bà “sợ hãi” (“emphobos”: x. Lc 24,37; Cv 10,4; 24,25); đây là một phản ứng bên trong. Tác giả còn ghi thêm một cử chỉ bên ngoài: các bà “cúi gầm xuống đất”, tức không dám ngước mắt lên nhìn. Hai người đàn ông bắt đầu can thiệp (câu 5b-7) bằng một câu hỏi, tiếp theo là hai khẳng định rồi kết thúc bằng một mệnh lệnh cách; ở đầu không có lời khuyến khích “đừng sợ” như ở Mt 28,5 và Mc 16,6. Câu hỏi nêu bật đặc tính phi lý của hành vi của các bà. Các bà tìm cách đến gần Đức Giêsu, nhưng đã chọn sai chỗ. Ta có thể ghi nhận một thứ “đóng khung” giữa hai câu hỏi: Lc 2,49: “mà tại sao lại tìm con” và Lc 24,5: “tại sao các bà đi tìm Người Sống ở giữa kẻ chết”. Câu hỏi thứ nhất, Đức Giêsu 12 tuổi ngỏ lời với Maria và Giuse; còn câu thứ hai là do hai nhân vật ngỏ với các phụ nữ. Trong cả hai trường hợp, vấn đề là “đi tìm” Đức Giêsu theo cách không xứng hợp. Ở Lc 24,15, ta ghi nhận sự đối lập rõ ràng giữa “Người Sống” (ho zôn)“giữa kẻ chết” (meta tôn nekrôn). Hai người đàn ông đã tỏ bày cho biết Đức Giêsu là “Người Sống”. Đặc điểm phù hợp với Đức Giêsu nhất, đó là sự sống (Lc 24,23; Cv 1,3; 25,19; Kh 1,18):[26] Người không còn thuộc về vương quốc của kẻ chết một tí nào nữa. Câu hỏi của hai thiên sứ có hàm ẩn một ý trách móc, dù sao cũng nhằm sửa chữa cách hành động của các phụ nữ. Các câu 5 và 6 ở thể chuyển hoán nhắc lại và giải thích câu hỏi của các thiên sứ. Lời khẳng định: “Người không ở đây!” nhắc lại rằng, Đức Giêsu không còn ở trong mộ nữa, không còn ở giữa kẻ chết nữa. Lời khẳng định: “Người đã trỗi dậy!” giải thích sự vắng mặt của Người và cũng xác định bản chất của sự sống của Người. Người không quay lại với sự sống trần thế, vì Thiên Chúa đã đưa Người vào trong sự sống thần linh của Ngài (x. Lc 24,34).

Sau đó, bằng mệnh lệnh “hãy nhớ lại” (mnêsthête), hai người yêu cầu các bà nhớ lại các lời Đức Giêsu đã nói trước với các bà khi còn ở Galilee và kết nối sứ điệp vừa được nghe với các lời báo trước đó. Như thế không phải là các bà mới nghe sứ điệp này lần đầu tiên, bởi vì sứ điệp này chỉ là ghi nhận sự hoàn tất các lời Đức Giêsu đã nói trước đây. Không những các môn đệ mà cả các phụ nữ cũng đã ở với Đức Giêsu tại Galilee (Lc 8,1-3) [27] và đã đi với Người trên đường lên Jerusalem (Lc 24,55). Do đó, các bà phải biết các lời tiên báo này (Lc 9,22.44; 17,25; 18,32t).[28] Trong khi Mt 28,6 chỉ vắn tắt nhắc tới các tiên báo đó của Đức Giêsu,[29] thì Lc 24,7,[30] cho dù không trích rõ ràng một lời nào, lại hàm chứa mọi yếu tố của các lời tiên báo đó: nói đến Con Người (x. Lc 9,22.44; 17,25; 18,31) bằng cách để ở đầu câu; nêu bật ý muốn cứu độ của Thiên Chúa (“dei” - “điều cần thiết”; x. 9,22; 17,25); nhắc đến việc Người bị nộp vào tay người tội lỗi (x. Lc 9,44 nhưng không có từ “tội lỗi”), việc Người bị đóng đinh (nhưng Lc 9,22 và Lc 17,33 nói là “bị giết”) [31] và việc Người sống lại (Lc 17,33: “anastêsetai”) vào ngày thứ ba (Lc 9,22; 17,33). Liên hệ giữa các lời tiên báo của Đức Giêsu và các biến cố thuộc số phận Người được khẳng định mạnh mẽ, rõ ràng là để giúp chấp nhận và hiểu con đường của Đức Giêsu. Chính Đấng Phục Sinh cũng quy chiếu về các lời Người đã nói trước đây (Lc 24,44), nhưng đặc biệt quy chiếu đến những gì được viết về Người trong Kinh Thánh (Lc 24,25-27.44-46; x. Lc 17,31-33).[32]

Với lời kêu gọi hãy nhớ lại, chấm dứt các lời nói của hai người. Các bà không được cử đi đến với các môn đệ và không phải loan báo cho họ mộtcuộc gặp gỡ với Đức Giêsu Phục Sinh tại Galilee. Tác giả Luca cũng không ghi lại một phản ứng tình cảm nào của các bà khi được nghe sứ điệp Phục Sinh (Mt 28,8: “sợ hãi và rất đỗi vui mừng”; Mc 16,8). Ngài chỉ cho thấy rằng các bà đã thật sự nhớ lại những điều Đức Giêsu đã nói (Lc 24,8).

* Các phụ nữ đưa tin cho Nhóm Mười Một (9-10a)

Trong khi Lc 24,1-8 được xác định là mộ Đức Giêsu, đoạn văn tiếp theo lại tập trung vào cuộc gặp gỡ của các phụ nữ với Nhóm Mười Một và những người khác (Lc 24,9-12). Tuy nhiên, phản ứng của Phêrô đã lại đưa ông ra mộ (câu 12). Ở bên trong Lc 24,9-12, có thể phân biệt ra bài tường thuật của các phụ nữ (câu 9-10a) và phản ứng của những người nghe (câu 10b-12): các phụ nữ, nay được giới thiệu rõ ràng tên tuổi, đã về tường thuật tình hình cho các tông đồ (câu 9-10a), nhưng các tông đồ cho là chuyện phi lý nên không tin các bà (câu 10b-12). Thật ra, nhóm nghe các bà kể lại là “Nhóm Mười Một và mọi người khác” (“tois hendeka kai pasin tois loipois”: Lc 24,9 // Lc 24,33: “tous hendeka kai tous syn autois”, “Nhóm Mười Một và những người đang ở với các ông”).

Nòng cốt của nhóm này là “Nhóm Mười Một” (“hoi hendeka”: Mt 28,16; Lc 24,9.33; Cv 1,26; 2,14),[33] nghĩa là những người thuộc “Nhóm Mười Hai” (“hoi dôdeka”: Mt 8 lần; Mc 11 lần; Lc 7 lần; Ga 4 lần) còn trung thành sau khi Judas Iscariot đã hư hỏng (Lc 22,3-6). Đây là một cộng đoàn có tổ chức, cũng là điểm quy chiếu cho các kinh nghiệm của từng thành viên, đặc biệt cho những gì liên hệ đến các biến cố Vượt Qua (Lc 24,9.33).

Khi nêu rõ tên gọi của ba phụ nữ (x. Mt 28,1 và Mc 16,1),[34] tác giả cho hiểu rằng lời chứng của các bà không vô danh và kém giá trị, nhưng đến từ những người được xác định rõ. Trong khi ở Lc 23,49.55, tác giả Luca chỉ nói đến các phụ nữ (“gynaikes”; ở Mt 27,56.61 và Mc 15,40.47, các bà có tên),[35] bây giờ (Lc 24,10), ngài nêu lên một vài tên đã nói đến trong lần đầu (Lc 8,2tt). Ở vị trí đầu tiên, luôn luôn là bà Maria Magdalene (cả trong Mt và Mc; x. Ga 19,25; 20,1.18);[36] bà này có vẻ là người hướng dẫn, là người năng động nhất. Chỉ ở Lc 24,10, xuất xứ của bà (Magdalene) mới được nêu ra, có lẽ để phân biệt với một Maria khác. Cùng với các tên riêng, có ghi nhận về các bà khác. Ba bà được nêu tên là nòng cốt của một nhóm đông hơn (x. 24,9.33).

* Nhóm Mười Một phản ứng trước các lời của các bà (10b-12)

Sau một ghi nhận ngắn về việc các bà tường thuật các sự việc, tác giả ghi ra hai phản ứng: toàn Nhóm Mười Một không tin các bà và Phêrô chạy ra mộ.

Tại Lc 24,10, thay vì Nhóm Mười Một, tác giả nói đến các “tông đồ” và không nhắc đến những người khác. Tác giả nêu bật nhóm trung tâm và nhiệm vụ của các ông là những người được sai đi. Nay các ông từ khước chứng từ của các phụ nữ.

Tác giả nhắc ba lần đến việc các bà kể lại: “apêngeilan tauta panta” (câu 9); “elegon… tauta” (câu 10b); “ta rhêmata tauta” (câu 11). Mọi sự chỉ dừng lại ở bình diện các lời nói. Các tông đồ không nhìn nhận rằng các lời nói của các phụ nữ được đặt trên các sự kiện, nhưng không có thật giống các lời nói sảng của một người đang mơ (x. Bản Kinh Thánh Nova Vulgata: “Et visa sunt ante illos sicut deliramentum verba ista”). Bằng cách đó, tác giả cũng nêu bật tính cách phi thường và khôn tả của những gì vừa được khẳng định trong các lời này. Hậu quả là các tông đồ không tin các phụ nữ (“êpistoun autais”; x. Lc 24,41),[37] không coi các bà là những người đáng tin.

Tác giả cũng nói đến một phản ứng riêng của Phêrô: ông chạy ra mộ để kiểm chứng những gì các bà đã tường thuật. Ngay từ đầu Phêrô đã đóng một vai trò đặc biệt (x. Lc 4,38; 5,1-11; 6,14; v.v…);[38] Đức Giêsu đã cầu nguyện cho đức tin của ông và đã ký thác cho ông nhiệm vụ củng cố các anh em ông (Lc 23,31t). Lần cuối cùng ông xuất hiện, đó là vào dịp chối Đức Giêsu ba lần (Lc 22,54-62). Bây giờ ông đi lại hành trình mà các phụ nữ đã thực hiện trước ông (Lc 24,1) và chạy đến mộ (x. Ga 20,3.4.6; theo Lc 24,24 và Ga 20,1-9, ông không đi một mình).[39] Hành vi chạy là một cách ứng xử lạ thường đối với một người lớn (x. Lc 15,20; 19,4; Mt 28,8) [40] và cho thấy một sự quan tâm và một nỗ lực đặc biệt. Ông cũng chỉ thấy một ngôi mộ trống, nhưng ông kiểm chứng kỹ càng (Lc 24,12; x. Ga 20,5).

Vào dịp liệm thi hài Đức Giêsu, cả bốn tác giả Tin Mừng đều nhắc đến tấm khăn dùng để bọc thi hài Đức Giêsu (“hê sindôn” = tấm vải lanh mịn, tấm khăn: Mt 27,59; Mc 15,46; Lc 23,53; “ta othonia” = các dải vải lanh, các dải vải: Ga 19,40).[41] Chỉ có Luca và Gioan nói đến việc Phêrô (và trong Gioan, với một môn đệ khác) kiểm chứng ngôi mộ. Vào dịp này, cả Luca cũng nói đến “othonia” (Lc 24,12; x. Ga 20,5.6.7).[42] Phêrô ghi nhận, trong tư cách chứng nhân mắt thấy (“blepein”: nhìn xem) rằng ở trong mộ chỉ có các dải vải, chứ không có thi hài mà các dải vải này đã bọc lại. Ít ra phần tường thuật này của các bà được chứng tỏ là thật. Từ “không tin”, vị tông đồ chuyển sang “ngạc nhiên” (“thaumazôn”; x. Lc 24,41 là nơi tác giả kết nối “apistein” với “thaumazein”). Đối tượng của sự ngạc nhiên là “to gegonos” - “sự việc đã xảy ra”, dường như không chỉ là ngôi mộ trống, mà còn là tất cả những gì có trước đó, kẻ cả những gì các phụ nữ đã kể. Thế là “ông trở về nhà” (apêlthen pros heauton). Sự kiện tác giả không nói rằng Phêrô trở về cộng đoàn (x. Lc 24,9.33), dường như chuẩn bị cho truyện Chúa Phục Sinh hiện ra cho riêng Phêrô (Lc 24,34).[43]

+ Kết luận

Qua bản văn này, các phụ nữ Galilee là cái cầu liên kết sự hiện diện chứng kiến hoạt động của Đức Giêsu tại Galilee (Lc 8,1-3) với sự hiện diện trong hành trình của Người lên Jerusalem, khi Người chết và được mai táng (Lc 23,49.55) [44] và với lời loan báo Người sống lại. Bài tường thuật liên tục Lc 23,55–24,10-12 [45] là một biểu tượng về sự kết hiệp liên tục, và được xác nhận cách tuyệt vời, của các phụ nữ Galilee với Đức Giêsu. Các bà đã làm tất cả những gì có thể làm về phương diện con người, để rồi ghi nhận mồ đã trống và thi hài của Đức Giêsu không còn ở đó nữa (Lc 24,2t; x. Ga 20,2); rồi Phêrô cũng đến để đích thân ghi nhận như thế (Lc 24,12). Bây giờ, các bà lại được coi là những con người ân cần, đáng tin cậy. Các bà cũng xuất hiện (= được nhắc tới) trong truyện hai môn đệ Emmau như là những người đầu tiên đã đánh thức cộng đoàn để ra khỏi tình trạng tê cóng (Lc 24,22-24) để rồi lại tiếp tục hiện diện ở trong lòng cộng đoàn (x. Cv 1,14).[46]

5.- Gợi ý suy niệm

1/. Các phụ nữ rời mộ như là những người đã chứng kiến sự trống trải và đã nhận được một lời giải thích có thế giá cho sự kiện, tương ứng với chính những lời Đức Giêsu đã nói. Nay các bà xác tín rằng việc xức dầu cho thi hài không còn phải là cách xứng hợp để diễn tả tình yêu đối với Đức Giêsu nữa; tình yêu của các bà bây giờ đã có một “đối tượng” mới, hết sức cao vời, đó là Đức Giêsu đã sống lại và đang sống. Tất cả những điểm này chính là nội dung các bà loan báo cho cộng đoàn (Lc 24,8).

2/. Các phụ nữ không nhận được nhiệm vụ đi đến với các môn đệ để xác nhận với họ những gì Đức Giêsu đã nói với họ trước khi di vào cuộc Thương Khó. Các bà không phải là các sứ giả để đưa ơn gọi mới đến cho các môn đệ, để giao hòa các ông với Đức Giêsu và để đưa các ông đi gặp Người tại Galilee. Điều này tương ứng với các bản văn khác của Luca. Tác giả không nói đến lời tiên báo của Đức Giêsu có ở Mt 26,32; 28,7 và Mc 14,28; 16,7.[47] Các môn đệ không có mặt kể từ khi Đức Giêsu bị bắt (Lc 22,54) cho đến khi các phụ nữ loan tin Người đã sống lại (Lc 24,9), ngoại trừ Phêrô (Lc 22,54-62). Nhưng tác giả Luca không nhắc lại sự thất bại của họ, không kể lại lời tiên báo của Đức Giêsu về sự sa sút của họ (x. Mt 26,31; Mc 14,27),[48] cũng như việc họ bỏ Người mà trốn (x. Mt 26,56; Mc 14,50).[49] Trong Luca, không có đề tài nói về sự bất trung của nhóm gần kề Đức Giêsu nhất và nói về việc Đức Giêsu giao hòa với họ; sự tha thứ cho việc Phêrô chối Người dường như đã được hiểu ngầm trong lời Đức Giêsu cầu nguyện cho ông, trong nhiệm vụ được giao cho ông trong tương lai (Lc 22,31tt) và trong cái nhìn Đức Giêsu hướng về ông sau sự cố (Lc 23,61tt).

3/. Bản văn là một lời mời gọi thấy tầm quan trọng của các lời Đức Giêsu. Các phụ nữ được mời gọi nhớ lại các lời Đức Giêsu đã nói. Nhờ nhớ lại các lời ấy, nhờ suy nghĩ cân nhắc về tương quan giữa các lời và các biến cố, các lời được trân trọng và các biến cố được đánh giá và hiểu đúng đắn. Các lời và các biến cố soi sáng lẫn nhau. Chỉ dưới ánh sáng của các lời Đức Giêsu đã nói (x. Lc 22,61; 24,8; Ga 2,22) [50] và của Kinh Thánh (x. Lc 24,25-27.44; Ga 2,17; 12,16),[51] các biến cố thuộc cuộc đời Đức Giêsu mới nên sáng tỏ và hiểu được. Chúng ta có thể gặp được Đức Giêsu qua Lời của Người. Nhờ nhớ lại Lời của Người, chúng ta mở lòng ra với Người là Đấng Phục Sinh.

4/. Chứng tá của các phụ nữ là nhắm đến cộng đoàn các môn đệ Đức Giêsu. Trong Matthew và Marco, nhiệm vụ của các bà chỉ nhắm đến Nhóm Mười Một (x. Mt 28,16; Mc 14,17; 14,28; 16,7).[52] Trong Luca, cộng đoàn với Nhóm Mười Một như là nòng cốt, xuất hiện ra như một nhóm khá vững chắc và như là điểm quy chiếu rõ ràng cho các cá nhân (Lc 24,9.33; Cv 1,13tt). Cộng đoàn nên phong phú nhờ các kinh nghiệm của từng cá nhân cũng như các lời chứng của các phụ nữ (Lc 24,9), của hai môn đệ Emmau (Lc 24,35) và của Phêrô (Lc 24,34). Những kinh nghiệm và chứng tá đó cuối cùng được xác nhận và đóng ấn bởi chính Đức Giêsu Phục Sinh khi Người hiện ra. Khi đó, cộng đoàn trở thành một cộng đoàn thật sự vượt qua, vững vàng trong niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.

5/. Chính sự khó tin của các tông đồ cho thấy rằng lời loan báo về Đức Giêsu Phục Sinh không phát xuất từ những con người ngây ngô dễ tin, nhưng từ những con người chín chắn và có óc phê bình. Phản ứng của Phêrô cho thấy rằng chứng từ của các phụ nữ đã là một thứ kích thích đưa ông ra khỏi tình trạng bất động, để tiến đi trong một hành trình kiểm chứng đưa tới chỗ gặp Đức Giêsu Phục Sinh (Lc 24,12.34).

6/. Chúa Giêsu có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Người đã thay đổi đời sống chúng ta, và đứng bên cạnh những ngôi mộ của chúng ta, chúng ta “nhớ” Chúa Giêsu. Chúng ta “nhớ” đức tin chúng ta đặt vào Chúa Kitô sống lại từ cõi chết, làm chúng ta thêm can đảm thắng những sự dữ trong đời chúng ta, giúp chúng ta tiếp tục cố gắng làm những gì để sự sống Nước Trời được thực hiện trong đời sống chúng ta, và giúp chúng ta không chán nản vì sự thay đổi chậm trễ trong đời sống chúng ta và đời sống kẻ khác. Chúng ta nhớ lời Chúa Giêsu khi chúng ta được tin buồn, và khi chúng ta nhìn ngôi mộ của sự chán nản và thất bại: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. “Đây là mình Thầy…”. “Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Chúng ta nhìn vào ngôi mộ trống không với các phụ nữ, và chúng ta nghe lời khuyên bảo của hai người đàn ông mặc áo chói lóa ở đó. Chúng ta nhớ lời Chúa Giêsu nói. Lời Chúa và Bí Tích Thánh Thể là lương thực hàng ngày, là của ăn đường giúp chúng ta sống như lời nói trong phụng vụ ngày hôm nay “chúng ta vui mừng chờ đợi ngày Đức Giêsu Kitô đến” (Siciliano).

 

 

 


[1] Bản Việt ngữ của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh

[2] Lc 8,2-3; 23,49: 2 và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, 3 bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ. 2349 Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giê-su cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Ga-li-lê; các bà đã chứng kiến những việc ấy.

[3] x. Mc 14,8: Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng.

[4] x. Mc 14,6: Nhưng Đức Giê-su bảo họ: “Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa”.

[5] x. Mc 6,20: Thật vậy, vua Hê-rô-đê biết ông Gio-an là người công chính thánh thiện, nên sợ ông, và còn che chở ông. Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích nghe.

[6] x. Lc 24,4: Họ còn đang phân vân, thì bỗng có hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ; Ga 13,22: Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai; Cv 25,20: Phần tôi, phân vân trước cuộc tranh luận về những chuyện ấy, tôi hỏi xem ông ta có muốn đi Giê-ru-sa-lem để được xử tại đó về vụ này không.

[7] x. Lc 24,37: Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma; Cv 10,4; 24,25: 4 Ông nhìn thẳng vào thiên sứ và phát sợ, ông nói: “Thưa ngài, có việc chi vậy?” Thiên sứ đáp: “Lời cầu nguyện và việc cứu trợ của ông đã thấu toà Thiên Chúa khiến Người nhớ đến ông. 2425 Nhưng khi ông Phao-lô biện luận về đức công chính, sự tiết độ và cuộc phán xét mai sau, thì ông Phê-lích phát sợ nên nói: “Bây giờ ông có thể lui ra. Khi nào tiện dịp, tôi sẽ cho gọi ông đến”.

[8] Mt 8,20: Đức Giê-su trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”; Lc 9,58: Người trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”; Ga 19,30: Nhắp xong, Đức Giê-su nói: “Thế là đã hoàn tất!” Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.

[9] Tv 30,2: Lạy CHÚA, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con”; Hc 4,8: Hãy lắng nghe kẻ nghèo, và nhã nhặn chào lại họ.

[10] x. Mt 17,6; 26,39: 6 Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. 2639 Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”; Lc 5,12; 17,16: 12 Khi ấy, Đức Giê-su đang ở trong một thành kia; có một người đầy phong hủi vừa thấy Người, liền sấp mặt xuống, xin Người rằng: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. 1716 Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri.

[11] Mc 16,5b: Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ.

[12] Mt 28,8.10: 8 Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay. 10 Bấy giờ, Đức Giê-su nói với các bà: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó”; và Lc 14,9: Và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho vị này’. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối.

[13] Bản dịch nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh

[14] Lc 6,13; 9,10; 11,49; 17,5; 22,14; 24,10: 13 Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ. 910 Các Tông Đồ trở về thuật lại cho Đức Giê-su những việc các ông đã làm. Người đem các ông đi riêng với mình, lui về thành kia gọi là Bết-xai-đa. 1149 “Vì thế mà Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã phán: “Ta sẽ sai Ngôn Sứ và Tông Đồ đến với chúng: chúng sẽ giết người này, lùng bắt người kia. 175 Các Tông Đồ thưa với Chúa Giê-su rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”. 2214 Khi giờ đã đến, Đức Giê-su vào bàn, và các Tông Đồ cùng vào với Người. 2410 Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a, mẹ ông Gia-cô-bê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông Đồ như vậy.

[15] x. Mt 10,2: Sau đây là tên của mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê và ông Gio-an, em của ông; Mc 3,14; 6,30: 14 Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, 630 Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy.

[16] x. Lc 9,1-6: 1 Đức Giê-su tập họp Nhóm Mười Hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật. 2 Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. 3 Người nói: “Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo. 4 Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó và cũng từ đó mà ra đi. 5 Hễ người ta không đón tiếp anh em, thì khi ra khỏi thành, anh em hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ”. 6 Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi.

[17] Kinh Thánh, Nguyễn Thế Thuấn chuyển ngữ.

[18] Lc 1,65; 2,19.51; 7,1; 24,8.11: 65 Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê. 219 Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. 51 Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. 71 Sau khi đã nói hết những lời ấy cho dân chúng nghe, Đức Giê-su vào thành Ca-phác-na-um. 248 Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. 11 Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin.

[19] x. Ga 20,10: Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.

[20] Mc 16,1: Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su.

[21] x. Mc 16,3-4: 3 Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?” 4 Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.

[22] Cv 1,10: Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh.

[23] Cv 1,11: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”.

[24] Đnl 19,15: Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ một tội một lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét.

[25] x. Mt 28,3: diện mạo Người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết.

[26] Lc 24,23: không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống; Cv 1,3; 25,19: 3 Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. 2519 Họ chỉ tranh luận với ông ta về một số vấn đề liên quan đến tôn giáo riêng của họ, và liên quan đến một ông Giê-su nào đó đã chết, mà Phao-lô quả quyết là vẫn sống; Kh 1,18: Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ.

[27] Lc 8,1-3: 1 Sau đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai 2 và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, 3 bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ.

[28] Lc 9,22.44; 17,25; 18,32t: 22 Người còn nói: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. 44 “Phần anh em, hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời”. 1725 Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ. 1832 Quả vậy, Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, nhục mạ, khạc nhổ. 33 Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. 34 Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói.

[29] Mt 28,6: Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm.

[30] Lc 24,7: là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại.

[31] Lc 17,33: Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống.

[32] Lc 24,25-27.44-46: 25 Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! 26 Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? 27 Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. 44 Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”. 45 Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh 46 và Người nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; x. Lc 17,31-33: 31 “Ngày ấy, ai ở trên sân thượng mà đồ đạc ở dưới nhà, thì đừng xuống lấy. Cũng vậy, ai ở ngoài đồng thì đừng quay trở lại. 32 Hãy nhớ chuyện vợ ông Lót. 33 Ai tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được mạng sống.

[33] Mt 28,16: Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến; Lc 24,9.33: 9 Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. 33 Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó; Cv 1,26; 2,14: 26 Họ rút thăm, thăm trúng ông Mát-thi-a: ông được kể thêm vào số mười một Tông Đồ. 214 Bấy giờ, ông Phê-rô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với họ rằng: “Thưa anh em miền Giu-đê và tất cả những người đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây.

[34] x. Mt 28,1: Sau ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ. và Mc 16,1: Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su.

[35] Mt 27,56.61: 56 Trong số đó, có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a mẹ các ông Gia-cô-bê và Giô-xếp, và bà mẹ các con ông Dê-bê-đê. 61 Còn bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a ở lại đó, quay mặt vào mồ. và Mc 15,40.47: 40 Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a mẹ các ông Gia-cô-bê Thứ và Giô-xết, cùng bà Sa-lô-mê. 47 Còn bà Ma-ri-a Mác-đa-la và bà Ma-ri-a mẹ ông Giô-xết, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người.

[36] x. Ga 19,25; 20,1.18: 25 Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. 201 Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. 18 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.

[37] x. Lc 24,41: Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?”.

[38] x. Lc 4,38; 5,1-11; 6,14: 38 Đức Giê-su rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Si-môn. Lúc ấy, bà mẹ vợ ông Si-môn đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà. 51 Một hôm, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. 2 Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. 3 Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông. 4 Giảng xong, Người bảo ông Si-môn: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. 5 Ông Si-môn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. 6 Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. 7 Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. 8 Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” 9 Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. 10 Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. 11 Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người. 614 Đó là ông Si-môn mà Người gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô.

[39] x. Ga 20,3.4.6: 3 Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. 4 Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. 6 Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó; Lc 24,24: Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy”.

[40] x. Lc 15,20; 19,4: 20 Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. “Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. 194 Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó.; Mt 28,8: Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay.

[41] Mt 27,59: Khi đã nhận thi hài, ông Giô-xếp lấy tấm vải gai sạch mà liệm; Mc 15,46: Ông này mua một tấm vải gai, hạ xác Đức Giê-su xuống, lấy tấm vải ấy liệm Người lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi đá, rồi lăn tảng đá lấp cửa mộ; Lc 23,53: Ông hạ xác Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ; “ta othonia” = “các dải vải lanh, các dải vải”: Ga 19,40: Các ông lãnh thi hài Đức Giê-su, lấy băng vải tẩm thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái.

[42] x. Ga 20,5.6.7: Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. 6 Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, 7 và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.

[43] Lc 24,34: Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn”.

[44] Lc 23,49.55: 49 Đứng đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giê-su cũng như những phụ nữ đã theo Người từ Ga-li-lê; các bà đã chứng kiến những việc ấy. 55 Cùng đi với ông Giô-xếp, có những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào.

[45] Lc 23,55 – 24,10-12: 55 Cùng đi với ông Giô-xếp, có những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê. Các bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào. 56 Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày sa-bát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền. 241 Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. 2 Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. 3 Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. 4 Họ còn đang phân vân, thì bỗng có hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. 5 Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? 6 Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê, 7 là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại”. 8 Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. 9 Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. 10 Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a, mẹ ông Gia-cô-bê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông Đồ như vậy. 12 Dầu vậy, ông Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông thấy chỉ còn có những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra.

[46] Lc 24,22-24: 22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, 23 không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. 24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy”.; x. Cv 1,14: Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su.

[47] Mt 26,32; 28,7: 32 Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em”. 28 7 rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay”. và Mc 14,28; 16,7: 28 Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em”. 16 7 Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông”.

[48] x. Mt 26,31: Bấy giờ Đức Giê-su nói với các ông: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác.; Mc 14,27: Đức Giê-su nói với các ông: “Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác”.

[49] x. Mt 26,56: Nhưng tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm những lời chép trong Sách Các Ngôn Sứ”. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết.; Mc 14,50: Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết.

[50] x. Lc 22,61; 24,8: 61 Chúa quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: “Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần”. 248 Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói.; Ga 2,22: Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.

[51] x. Lc 24,25-27.44: 25 Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! 26 Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? 27 Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. 44 Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”.; Ga 2,17; 12,16: 17 Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. 1216 Lúc đầu, các môn đệ không hiểu những điều ấy. Nhưng sau khi Đức Giê-su được tôn vinh, các ông mới nhớ lại là Kinh Thánh đã chép những điều đó về Người, và dân chúng đã làm cho Người đúng y như vậy.

[52] x. Mt 28,16: Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến.; Mc 14,17.28; 16,7: 17 Chiều đến, Đức Giê-su và Nhóm Mười Hai cùng tới. 28 Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em”. 167 Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông”.