Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.
Bản Văn Tin Mừng: Lc 4,21-30[1]
21 Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. 22 Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?” 23 Người nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!” 24 Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
25 “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en ; 26 thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. 27 Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi”.
28 Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. 29 Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. 30 Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
***
I.- Ngữ cảnh
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay nằm trong bối cảnh là “Hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê” (Lc 3,1–9,50), và thuộc về phân đoạn Lc 4,16-30: “Đức Giêsu tại Nazareth”. Chúng ta có thể xác định cầu trúc của bản văn 4,16-30 như sau:
- Mở: Đức Giêsu đến Nazareth (câu 16a); Người vào hội đường (câu 16b).
1/. Đọc sách Isaia
a Dẫn nhập (câu 16c)
b Chuẩn bị đọc (câu 17)
c Bản văn Isaia (câu 18-19)
b’ Kết thúc việc đọc (câu 20ab)
a’ Kết luận (câu 20c)
- Chuyển tiếp: Mọi người trong hội đường chăm chú nhìn Người (câu 20d)
2/. Các lời nói của Đức Giêsu
A.- Can thiệp thứ nhất của Đức Giêsu
a/. Lời nói về hoàn tất (câu 21)
b/. Các hậu quả đầu tiên nơi các thính giả (câu 22)
B.- Can thiệp thứ hai của Đức Giêsu
a/. Lời nói về thầy thuốc (câu 23)
b/. Lời nói về ngôn sứ (câu 24)
C.- Can thiệp thứ ba của Đức Giêsu
a/. Dân Israel trước Êlia (câu 25-26)
b/. Dân Israel trước Êlisa (câu 27)
- Kết: Dân Nazareth đuổi Đức Giêsu khỏi hội đường (câu 28-29). Người rời Nazareth (câu 30)
II.- Bố cục
Bản văn Lc 4,21-30 có thể chia thành bốn phần:
1/. Phản ứng tích cực của cử tọa đối với các lời Đức Giêsu nói (Lc 4,21-22);
2/. Đức Giêsu xác định chiều hướng của sứ vụ của Người (Lc 4,23-24);
3/. Đức Giêsu chứng minh bằng các lối xử sự của các ngôn sứ (Lc 4,25-27);
4/. Dân chúng loại trừ Đức Giêsu (Lc 4,28-30).
III.- Vài điểm chú giải
- Hôm nay (21): Trạng từ “sêmeron” hiếm khi được hiểu theo nghĩa tổng quát là “vào ngày hôm nay: nowadays”. Do vị trí nhấn mạnh ở đầu câu, trạng từ này đánh dấu một điểm quan trọng trong các nhìn lịch sử của tác giả Luca (x. 4,21; 5,26; 19,5.9; 23,43): những điểm này, những lời nói này của Đức Giêsu vẫn còn giá trị cho cuộc sống của người Kitô hữu hôm nay.
- Đều tán thành (22): “Emartyroun autô” dịch sát là “đều làm chứng cho [về] điều này? / cho [về] ngài?”. Đa số các nhà chú giải hiểu là đại từ autô ở tặng-cách (dative) nam-tính và có nghĩa là “cho Người”, tức là ca ngợi Người, chẳng hạn cha Nguyễn Thế Thuấn: “Mọi người đều làm chứng cho Ngài”. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng giáo sư Fitzmyer có lý khi cho rằng đại từ autô ở tặng-cách (dative) trung-tính (neuter) và có nghĩa là “về điều này”. Do đó, có thể dịch là “tán thành”, theo nghĩa là “làm chứng về điều này”.
- Thán phục (22): Động từ “thaumazein” có thể diễn tả sự kinh ngạc (đi đôi với chỉ trích, nghi ngờ, phê phán; x. Lc 11,38) hoặc sự thán phục (đi đôi với sự thích thú bất ngờ; x. Lc 1,63; 2,18; 2,33; 7,9.8.25; 9,43;11,14; 20,26;…). Theo ngữ cảnh (đến sau “tán thành” và được nối với động từ bằng “và”), chỉ có thể chọn nghĩa “thán phục”.
- Không phải là con ông Giuse đó sao? (22): Câu này có thể diễn tả sự khó chịu, bực bội, khinh bỉ hoặc một sự ngạc nhiên đầy thích thú, sự thán phục. Theo ngữ cảnh, có thể hiểu là sự thán phục.
- Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình (23): Đức Giêsu dùng câu tục ngữ này để diễn tả ra nguyện vọng thầm kín của người Do Thái: Vì họ đã nghe biết nhiều về hoạt động của Đức Giêsu tại Caphácnaum, họ ước muốn Người cũng làm như thế cho quê hương. Câu nói tiếp theo câu tục ngữ đã giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ. Người dân Nazareth đang tính toán vụ lợi.
- Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương (24): Khi dịch tính từ “dektos” bằng “được chấp nhận”, Bản Dịch Nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh đã coi “dektos” có ý nghĩa tương tự như “atimos” trong Mc 6,4 và Mt 13,57, mà thật ra đây cũng là cách dịch của các Bản dịch nổi tiếng thế giới là BJ, TOB và NAB, và là ý kiến của một giáo sư chuyên về truyền thống Luca, J.A. Fitzmyer.[2] Tuy nhiên, lúc ấy ta thấy là phản ứng mạnh của Đức Giêsu như thế không phù hợp với thái độ của cử tọa. Hơn nữa, các lời Đức Giêsu nói lại không thống nhất: người ta xin Người làm phép lạ (điều này giả thiết là người ta có tin, dù chút ít), Người lại than trách là bị tiếp đón tệ bạc (câu 24). Đã thế, các ví dụ Người nêu ra ở câu 25-27 lại không phù hợp với hoàn cảnh: không phải là các ngôn sứ bị tiếp đón tệ bạc (như Người), nhưng lại là các ngôn sứ mới từ chối làm những phép lạ để giúp đỡ người đồng hương. Như vậy, phải kết luận là bản văn Luca thiếu mạch lạc?
Vấn đề là các học giả đã hiểu bản văn Luca theo hướng của các bản văn song song Marcô và Matthew, thế mà bản văn Luca lại khác: thay vì dùng từ “atimos” (“bị khinh bỉ”), tác giả dùng “dektos”. “Dektos”là một tính từ phái sinh từ động từ “dechomai” (“đón nhận, đón tiếp, chấp nhận”) và thường có nghĩa bị động (passive); trong trường hợp này, “dektos” tương đương với “atimos”. Tuy nhiên, tính từ này cũng có một nghĩa chủ động (active),[3] “đón nhận, ân cần, thuận thảo, thuận lợi”. Và trong thực tế, cách đó năm câu, từ “dektos” có ý nghĩa chủ động (eniautos dektos: “năm hồng ân = năm thuận lợi; năm đón nhận”). Nếu như thế, câu nói của Đức Giêsu hẳn sẽ có nghĩa là: không một ngôn sứ nào dành ưu tiên / thiên vị cho / với quê hương; và hiểu cụm từ “không một ngôn sứ nào” là một cụm từ nói “ngoa”, chứ không theo nghĩa chữ và nghĩa xấu (= một ngôn sứ luôn luôn tỏ ra bất thuận lợi với quê hương mình), bởi vì trong thực tế Mt 13,58 và Mc 6,5 cho thấy là Đức Giêsu cũng có làm một vài phép lạ tại Nazareth. Cuối cùng, câu nói của Đức Giêsu có ý nghĩa là: Một ngôn sứ không tỏ ra thuận thảo với quê hương mình hơn là với người ngoại quốc; tất cả là vấn đề đức tin và tình trạng tâm hồn sẵn sàng. Hiểu như thế, bản văn rất mạch lạc.
Có người bẻ lại: bản văn nói “en tê patridi”: “patri”, “quê hương”; giới từ “en”, “tại, trong”; vậy “en tê patridi” có nghĩa là “tại quê hương”, mà như thế, nghĩa bị động của “dektos” được biện minh. Thật ra, trong Hy-ngữ phổ thông [koinê] (Hy-ngữ Tân Ước là Hy-ngữ này), “en” không chỉ có nghĩa nơi chốn, mà còn có nghĩa thời gian, dụng cụ, nguyên nhân,v.v... Trong nhiều cách sử dụng ấy, “en” thường được dùng với các động từ nói về tình cảm để diễn tả “điều mà tâm tình hướng về”.[4]
- Nhưng quả thật, tôi nói cho các ông hay (25): “De”, “nhưng”, tiêu từ ở đầu câu 25 này rất quan trọng, diễn tả một ý đối lập.
- Hạn hán ba năm sáu tháng (25): 1V 18,1 nói rằng có mưa “vào năm thứ ba”. Ở đây, tác giả Luca kế thừa một truyền thống khác, có được nhắc đến trong Gc 5,17. Theo truyền thống này, thời gian hạn hán kéo dài bằng thời gian khốn quẫn trong văn chương khải huyền (thời gian này được rút ra từ thời gian cuộc bách hại dưới triều Antiôkhô IV Êpiphanê: Đn 7,25; 12,7; x. Kh 11,2; 12,6.14). Luca không quan tâm đến ý nghĩa khải huyền. “Trời hạn hán”: dịch sát là “trời bị đóng [cửa] lại”: thái bị động thay tên Thiên Chúa.
- Không được sai đến (26): Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa. Xem cả câu 27, “được sạch”.
- Bà góa thành Sarépta (26): xem 1V 17,9 (bản LXX).
- Ông Naaman (27): xem 2V 5,1-19.
- Thành này được xây trên cao (29): Nazareth hiện đại được xây trên một triền đồi, xung quanh có các đồi khác vây bọc. Nhưng ta không thể xác định được nơi nào đã xảy ra sự cố kể đây; với lại, thật ra cũng khó tìm được một chỗ nào ở đây có dốc núi để có thể xô người ta xuống cho chết, hoặc để ném đá. Vào thế kỷ ix, có một truyền thống đã coi địa điểm này là một chỗ cách Nazareth khoảng ba cây số về phía đông nam, nhưng nay người ta không chấp nhận giả thuyết này nữa. Đây rất có thể là dấu chứng tỏ Luca không biết rõ địa lý Paléttina và cũng có thể cho hiểu là tác giả đã ép các dữ kiện để báo trước việc Israel giết Đức Giêsu.
- Người băng qua giữa họ mà đi (30): Không nhất thiết đây là một phép lạ. Điều chính yếu đối với Luca là cho thấy Đức Giêsu còn phải tiếp tục con đường của Người để loan báo Tin Mừng, và con đường này chỉ kết thúc tại Jerusalem (x. Lc 13,33).
IV.- Ý nghĩa của bản văn
* Phản ứng tích cực của cử tọa đối với các lời Đức Giêsu nói (21-22)
Người dân Nazareth đang ca ngợi và thán phục Đức Giêsu. Do đó, họ bắt đầu tính toán: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (câu 22). Nếu đây đúng là con ông Giuse, nay đã thành ngôn sứ và thầy chuyên làm phép lạ, sao ta lại không tận dụng cơ hội để có lợi cho làng ta? Câu trả lời sau đó của Đức Giêsu cho hiểu là quả thật dân chúng đang tính toán như thế.
* Đức Giêsu xác định chiều hướng của sứ vụ của Người (23-24)
Đức Giêsu đã dùng một tục ngữ để lật tẩy lối giải thích vụ lợi của những người đồng hương về sứ mạng của Người: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy chính mình” (câu 23); “chính mình” đây là dân làng của Người. Người lập luận: Đơn giản chỉ vì các ông là người đồng hương với tôi, mà các ông đòi hỏi tôi phải làm ở đây những phép lạ giống như tôi đã làm ở Caphácnaum! Họ muốn Nazareth cũng được hưởng nhờ quyền lực của Người là “thầy thuốc-thầy làm phép lạ”. Nhưng một ngôn sứ không hề chiếu cố riêng đến quê hương mình (câu 24). Người phải làm việc theo kế hoạch của Thiên Chúa.
* Đức Giêsu chứng minh bằng các lối xử sự của các ngôn sứ (25-27)
Các ông cứ nghĩ đến trường hợp ngôn sứ Êlia và Êlisa. Có biết bao bà góa Israel phải đói, khi trời hạn hán ba năm sáu tháng; thế mà Êlia lại chỉ nuôi bà góa Sarépta mà thôi (1V 17,9-16). Vào thời Êlisa, tại Israel đâu có thiếu người phong hủi; thế mà Êlisa chỉ chữa lành một người ngoại quốc mà thôi (2V 5,1-19). Đức Giêsu từ chối liên kết các ân huệ thiên sai với những quan hệ thân tộc hoặc tình làng nghĩa xóm. Người là ngôn sứ; Người phải chu toàn một sứ mạng Thiên Chúa giao; chẳng phải là những yêu cầu của dân Nazareth có thể xác định hướng hoạt động cho Người. Đứng trước Thiên Chúa, phải bỏ đi mọi yêu sách, mọi đòi hỏi: Thiên Chúa hòan toàn tự do trong việc ban tặng các ân huệ; chỉ có một đức tin khiêm nhường và tín thác mới có thể trông chờ (chứ không đòi hỏi) một phép lạ.
* Dân chúng loại trừ Đức Giêsu (28-30)
Bởi vì Đức Giêsu không chiều theo ý họ, họ đã nổi giận và loại trừ Người. Nhưng Người còn phải tiếp tục ra đi để loan báo Tin Mừng và tiến về Jerusalem (Lc 9,51; 13,22.33; 17,11; 19,28), tiến đến thập giá và vinh quang. Lúc này người ta chưa chặn được sứ vụ của Người. Người sẽ tiếp tục phục vụ những người nghèo ở Israel và cả các dân nước.
+ Kết luận
Con người không có quyền gì để được hưởng các ân huệ của Thiên Chúa. Không một tư cách nào cho phép con người được quyền hưởng ơn cứu độ thiên sai. Ơn cứu độ được ban cho nhân loại, nơi bản thân Đức Giêsu, hoàn toàn là ân huệ. Đó là điều mà dân Nazareth đã không muốn hiểu. Chính thái độ này, khi đã phổ biến khắp Israel, đã khiến Đức Giêsu đi ngỏ lời với mọi người ngoài Do Thái.
V.- Gợi ý suy niệm
1. Vì thấy Đức Giêsu là đồng hương, dân Nazareth nghĩ Người có bổn phận chiếu cố đến họ trước. Đức Giêsu đã thẳng thắn đánh tan ngộ nhận này. Sự sai lầm của người Nazareth, người tín hữu vẫn có thể mắc phải, khi nại ra tư cách đã được rửa tội, đã sống đạo lâu năm (là người “đạo dòng, đạo gốc”, là tu sĩ, là linh mục,…), đã đóng góp nhiều cho Giáo Hội bằng công sức và của cải… Thiên Chúa hoàn toàn tự do ban phát các ân huệ cho bất cứ ai, như và khi Ngài muốn. Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta mãi mãi là những con người nghèo hèn, bất xứng, luôn luôn cần được Ngài chiếu cố đến. Đức Giêsu không cứu chúng ta bằng cách làm phép lạ, nhưng bách cách loan báo Tin Mừng của Người và hy sinh mạng sống cho chúng ta. Phép lạ chính là Lời của Người; chính Lời này làm ra các phép lạ và biến đổi dân chúng và sẽ tạo ra một thế giới mới.
2. Bằng cách nêu bật sứ mạng của hai ngôn sứ Êlia và Êlisa, Đức Giêsu cho hiểu rằng hoạt động của Người cũng nhằm chiếu cố đặc biệt đến Dân ngoại. Đấy là điều Đức Giêsu còn chứng tỏ khi đến sống tại Caphacnaum, một thành đầy người ngoại giáo. Ở đây sứ mạng của người Kitô hữu được phác họa ra. Họ cũng được sai đi để chuyển trao ân phúc của Thiên Chúa cho Dân ngoại, như Đức Giêsu ngày trước, và như thế, chương trình sống của Đức Giêsu được công bố tại Nazareth (Is 61,1-2; 58,6) cũng phải là chương trình sống của mỗi Kitô hữu.
3. Với việc dân Nazareth từ khước Đức Giêsu, bắt đầu tiến trình kết án sẽ đưa Người đến thập giá. Nhưng chính lập trường của Đức Giêsu củng cố niềm tin của chúng ta. Người chính là Đấng Mêsia đích thực của Thiên Chúa, một Đấng Mêsia không vận dụng quyền lực mình để thực hiện một hoàn cảnh cứu độ trần thế, nhưng đặt tại trung tâm sứ điệp về Thiên Chúa. Nhu thế, khi sống trong một hoàn cảnh khó khăn, cùng quẫn, ta có thể đặt trọn niềm tin nơi Ngài, bởi vì chính Ngài sẽ ban cho chúng ta ơn cứu độ trọn vẹn.
4. Trong tư cách là Con Thiên Chúa, với uy quyền lớn lao nhất, Đức Giêsu loan báo Tin Mừng cho người nghèo. Là Đấng sống một cuộc sống nghèo, Đức Giêsu chính là lời chuẩn nhận rằng Thiên Chúa dủ thương chiếu cố đến những người nghèo. Đức Giêsu quy hướng niềm hy vọng của loài người không vào của cải trần thế, nhưng vào lòng nhân lành của Thiên Chúa.
5. Đức Giêsu nói năng tự do bởi vì Người không lo lắng tìm kiếm thành công riêng tư hay lợi lộc hoặc tránh né tiếng xấu có thể lan tỏa đi các làng phụ cận, hoặc mất sự tín nhiệm nơi các thính giả. Người chứng tỏ là một nhà rao giảng có tinh thần hoàn toàn tự do. Người cho thấy có một tầm nhìn bao trùm thế giới, nhìn tới các chân trời của chính Thiên Chúa.
[1] Bản Việt ngữ của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh
[2]x. The Gospel according to Luke I-IX, The Anchor Bible, Doubleday NY 1970, 537.
[3]x. M. Zerwick, Biblical Greek, Rome 1963, số 142.
[4]W. Bauer, A Greek-English Lexicon of the New Testament and Other Early Christian Literature, The University of Chicago Press, Chicago 1957, tr 160: III,3b.