Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.
Bản Văn Tin Mừng: Ga 8,1-11[1]
1 Còn Đức Giê-su thì đến núi Ô-liu. 2 Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. 3 Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, 4 rồi nói với Người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. 5 Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” 6 Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. 7 Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. 8 Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. 9 Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Đức Giê-su, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. 10 Người ngẩng lên và nói: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” 11 Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả”. Đức Giê-su nói: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”.
***
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này nằm trong Phần I của Tin Mừng thứ IV (“Sách các Dấu lạ của Đức Giêsu”, tức chương 2–12), nhưng được coi như một bản văn không thuộc về bản gốc Tin Mừng thứ IV. Lý do: bản văn này không có trong những thủ bản Hy Lạp quan trọng phát xuất từ Đông phương (chẳng hạn bản Papyrus Bodmer II = P,66 năm 200); các tác giả Hy Lạp viết về Tin Mừng Gioan thuộc thiên niên kỷ I không hề bình luận bản văn này; nó chỉ xuất hiện vào khoảng năm 900 trong bản văn Hy Lạp chuẩn. Ngoài ra, còn có những tiêu chuẩn văn chương: bản văn có từ vựng và văn phong của các Tin Mừng Nhất Lãm, đặc biệt của Tin Mừng Luca; nó có vẻ không ở đúng chỗ, dù là tại chỗ hiện nay (giữa Ga 7,52 và Ga 8,12),[2] hay ở trong ngữ cảnh tổng quát là Tin Mừng thứ IV.
Giai thoại này được đặt ở đây có lẽ để minh họa lời khẳng định của Đức Giêsu ở Ga 8,15: “Phần tôi, tôi không xét đoán ai cả”. Chúng ta thấy như thế trong một số thủ bản chữ hoa Hy Lạp, nhất là bản D (Codex Bèze), trong các thủ bản Latin cổ, và dĩ nhiên trong bản Phổ thông (Vulgatha).
Bản văn này chứa một truyền thống Tin Mừng về cuộc sống công khai của Đức Giêsu: cách thức xử sự của các người tố cáo được các đoạn khác của Tin Mừng làm chứng; thái độ quen thuộc của Đức Giêsu khi đối diện với Luật Moses, và sự tha thứ Người ban cho những kẻ tội lỗi. Do đó, ta không thể hoài nghi về sử tính của bản văn. Đàng khác, từ vựng cũng như xu hướng thần học khiến ta nghĩ rằng, đây là công trình của tác giả Luca. Chính vì thế, có một loạt thủ bản chép đoạn văn này vào sau Lc 21,38.[3]
Người ta cũng đoán lý do khiến bản văn này không thuộc về các Tin Mừng ngay từ đầu: rất có thể lý do mạnh nhất, đó là khó mà dung hòa sự tha thứ quá trọn vẹn Đức Giêsu ban cho người phụ nữ với việc đền tội nghiêm khắc mà Hội Thánh sơ khai quy định cho tội ngoại tình.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1/. Khung cảnh (8,1-2);
2/. Vụ án “Người phụ nữ ngoại tình” (8,3-11):
a- Các Kinh sư/Pharisee – Người phụ nữ “đứng ở giữa” – [Đức Giêsu] (câu 3),
b- Các kinh sư/Pharisee – Đức Giêsu – [Người phụ nữ] (câu 4-6),
c- Đức Giêsu và các kinh sư/Pharisee: câu nói tạo khúc quanh (câu 7-8),
b’- Đức Giêsu – Các kinh sư/Pharisee – [Người phụ nữ] (câu 9a),
a’- Đức Giêsu – Người phụ nữ “đứng ở giữa” – [Các kinh sư/Pharisee] (câu 9b-11).
3.- Vài điểm chú giải
- Vừa tảng sáng (2): Ngoại trừ chỗ này trong Tin Mừng thứ IV, từ “orthros”- “bình minh” (orthrou: “lúc bình minh, lúc tảng sáng”) chỉ xuất hiện trong Tin Mừng Luca và Công Vụ Tông Đồ thôi (x. Lc 24,1; Cv 5,21).[4] Riêng Lc 21,38 dùng động từ “orthrizo” - “dậy sớm”.
- Các Kinh sư và người Pharisee (2): Đây là một công thức quen thuộc của các Tin Mừng Nhất Lãm, còn Tin Mừng Gioan thì chuộng kiểu nói “các thượng tế và người Pharisee” (x. Ga 7,32.45; 11,45.57);[5] ngoài đoạn văn này, Tin Mừng Gioan không bao giờ nói đến các Kinh sư.
- Bị bắt gặp đang ngoại tình (3): Câu 4 sẽ xác định rõ hơn: “bị bắt quả tang đang ngoại tình”. Theo Đnl 19,15,[6] phải có ít ra hai người làm chứng rằng đã thấy sự việc, không kể người chồng. Không chỗ nào nói đến anh tình nhân, có lẽ anh này đã trốn mất. Có thể so sánh truyện này với truyện bà Susanna (Đn 13,36-40 Vg).[7]
- Thưa Thầy (4): Danh xưng “didaskalos” ở hô-cách[8] này rất quen thuộc với truyền thống Nhất Lãm; còn trong Gioan, tác giả thường dùng từ “Rabbi” để thưa với Đức Giêsu (Ga 1,38).[9]
- Trong sách Luật, ông Moses truyền (5): Các Kinh sư và người Pharisee đang quy chiếu về Lv 20,10 và Đnl 22,22-24 để lý luận.[10]
- Họ nói thế nhằm thử Người (6): Câu này hầu như cũng là câu Ga 6,6 trong tiếng Hy Lạp.[11]
- Để có cớ tố cáo Người (6): Câu này hầu như cũng là câu Lc 6,7 trong tiếng Hy Lạp.[12]
- Viết trên đất (6): Có nhiều gợi ý về điểm này.
+ 1/. Thánh Jeronimo cho rằng, Đức Giêsu đã viết tội của những người tố cáo người phụ nữ. Ngài nghĩ như thế vì dựa trên Gr 17,13;[13]
+ 2/. Theo J.D.M. Derrett, người chồng đã lập mưu với các người chứng để bắt quả tang vợ phạm tội; do đó dựa theo câu 6, Đức Giêsu đã viết lên đất câu Xh 23,1b: “để làm chứng gian”,[14] và dựa theo câu 8, Người đã viết Xh 23,7a.[15] Với lại, sách Đaniel đã quy chiếu về câu trong Xuất Hành này ở trong truyện bà Susanna (Đn 13,53);[16]
+ 3/. T.W. Manson lưu ý rằng, trong cách thực hành của Luật Roma, trước tiên vị thẩm phán viết bản án ra, rồi mới đọc to lên. Như thế, hẳn là câu 6 cho thấy Đức Giêsu đã viết bản án ra, rồi công bố ở câu 7; rồi ở câu 8, Người lại viết những gì sẽ công bố ở câu 11.
Cách giải thích hợp lý nhất, đó là Đức Giêsu chỉ vạch các đường nét trên mặt đất trong khi Người suy nghĩ, hoặc muốn tỏ ra không nao núng hay Người đang kềm hãm các cảm giác chán ngán về sự hăng hái đầy gian ác của những người tố cáo. E. Power ghi lại nhiều trường hợp từ nền văn chương Ả Rập cho thấy thói quen Sêmít vẽ trên đất khi không muốn can thiệp vào vụ việc nào đó. Dù sao, chúng ta có cảm tưởng là nếu là chuyện quan trọng hơn, thì nội dung của những nét vẽ đó đã được kể lại.
- Ai trong các ông sạch tội,… ném trước… (7): Đức Giêsu cũng trích dẫn Đnl 13,9-10 và ch. 17. Đnl 17,7 nhìn nhận rằng người làm chứng chống lại bị cáo có một trách nhiệm đặc biệt đối với cái chết của kẻ ấy.
- Họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao? (10): Đức Giêsu hỏi vì ngạc nhiên hay là có ý châm biếm? Có lẽ phải nói lời này vừa có ý minh giải hoàn cảnh vừa tạo sự yên tâm cho người phụ nữ, và như thế tương đương với câu: “Như vậy, họ đã bỏ rơi vụ này rồi”. Vì những người chứng và những người tố cáo đã bỏ đi, vụ việc đã hỏng rồi. Động từ “lên án” ở đây là động từ chuyên môn “Katakrinein”; ở những chỗ khác, khi nói về sự phê phán, phán đoán, tác giả Gioan luôn luôn sử dụng động từ trung lập hơn, đó là “Krinein” (Ga 3,17.18; 5,22.30; 8,15.16…).[17]
4.- Ý nghĩa của bản văn
Cách thức Đức Giêsu đối xử với những người tội lỗi lâu nay chắc chắn không được các đối thủ của Người chấp nhận. Người đã ăn uống đồng bàn với những người tội lỗi, đã loan báo cho họ biết Thiên Chúa từ bi thương xót, sẵn sàng tha thứ cho họ. Trong khi đó, các đối thủ của Người tỏ một thái độ khinh bỉ, giữ khoảng cách với những người tội lỗi, không muốn bị họ làm cho ra “nhơ uế”. Họ phản đối cách thức xử sự của Đức Giêsu và muốn chứng tỏ cho Người thấy rằng chỉ lối sống của họ mới tương ứng với Lề Luật, nghĩa là với ý muốn của Thiên Chúa đã được mạc khải.
Hôm nay, lại có một sự cố xảy ra để cho thấy những điểm này.
* Khung cảnh (1-2)
Đức Giêsu đang giảng dạy tại Đền Thờ trong tuần lễ cuối cùng của đời Người. Nhiều chi tiết cho biết như thế: Núi Ôliu, Đền Thờ, giảng dạy có uy quyền chung quanh Đền Thờ. Dân chúng vây quanh, lắng nghe Người. Tác giả nói “toàn dân” để cho hiểu là lời rao giảng của Đức Giêsu gây một ảnh hưởng lớn trên người Do Thái.
* Vụ án “người phụ nữ ngoại tình” (3-11)
Lần này, các kẻ thù của Người tưởng là cuối cùng họ đã có thể đưa Người vào bẫy để tiêu diệt Người. Họ không tranh luận với Người nữa, mà họ điệu đến cho Người một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Vụ việc đã quá rõ: bà này có tội. Để xác định tội trạng, thì đã có những người có uy tín nhất trong xã hội, những người biết giải thích Luật. Ở đây chúng ta thấy có các kinh sư và người Pharisee: các kinh sư là những chuyên viên về Luật; còn các Pharisee là những người ra sức bảo vệ việc áp dụng Luật theo mặt chữ. Họ trích Luật liên hệ đến trường hợp này. Lề Luật tuyên bố minh nhiên: “Khi người đàn ông nào ngoại tình với đàn bà có chồng, ngoại tình với vợ người đồng loại, thì cả đàn ông ngoại tình lẫn đàn bà ngoại tình phải bị xử tử” (Lv 20,10; x. thêm Đnl 13,7-10; 17,2tt).[18] Trường hợp ở đây thì quá rõ, vì đây là ca bắt quả tang.
Các đối thủ của Đức Giêsu tận dụng tình thế này để gây khó khăn cho Người. Họ đưa người đàn bà ngoại tình đến và xin Người cho ý kiến: “Trong sách Luật, ông Moses truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”. Đức Giêsu còn có thể làm gì nếu không phải là đồng thuận đi theo cách thực hành của các đối thủ, tức là yêu cầu ném đá người đàn bà tức khắc? Hoặc là Người ưng theo cách thực hành của họ, hoặc là Người chứng tỏ Người khinh thường Lề Luật. Tất cả mọi chuyện này xảy ra nơi thanh thiên bạch nhật, trước sự chứng kiến của dân chúng đang nghe Đức Giêsu. Nếu Người đồng thuận với các xử sự của các đối thủ, Người cũng đồng thuận với lập trường của họ đối với những người tội lỗi, Người sẽ bị buộc phải phủ nhận cách xử sự của Người và thế là Người sẽ bị lật mặt nạ ra như là vị thầy giả hiệu. Ngược lại, nếu Người không chấp nhận lối xử sự của họ, Người sẽ phủ nhận một khoản luật rất rõ ràng và cũng sẽ bị toàn dân coi là kẻ vị phạm Lề Luật. Đức Giêsu sẽ ứng xử thế nào trong hoàn cảnh có vẻ không ngõ thoát này?
Hết sức bình thản, Đức Giêsu cúi xuống viết, hoặc vẽ những dấu trên mặt đất. Người chẳng hề liếc nhìn họ hay trả lời họ gì cả. Dường như Người hoàn toàn chỉ lo làm công việc là dùng ngón tay vẽ trên đất. Mọi người cứ chờ một lời nói của Người: các đối thủ thì rất tự tin, người phụ nữ thì cam chịu, dân chúng thì căng thẳng. Người vẽ như thế để làm gì? Người muốn làm cho các đối thủ phải mệt mỏi hoặc bực bội chăng? Đây là một cử chỉ biểu tượng chăng? Ở Gr 17,13, chúng ta đọc được: “Ai tráo trở với Người sẽ có tên viết mặt đất, vì chúng đã bỏ Yavê, mạch nước hằng sống”.[19] Phải chăng Đức Giêsu muốn nhắc cho họ nhớ rằng họ đã thất trung với Thiên Chúa, nên tên họ đáng bị viết trên mặt đất để rồi xóa đi? Dù sao, họ cũng nôn nóng, thúc bách Người cho câu trả lời.
Từ đầu đến giờ Đức Giêsu chưa nói lời nào. Đến đây câu chuyện chuyển sang hướng khác, do lời đầu tiên Người nói với các kinh sư và người Pharisee. Bấy giờ Đức Giêsu mới ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7). Họ đã chỉ nhìn đến Lề Luật và tội lỗi của người đàn bà; họ tự tin, họ ngạo nghễ dương dương tự đắc. Ngược lại, Đức Giêsu lại nhắc họ nhớ đến tội lỗi của họ: họ không thể đề mình ra như những kẻ vô phương trách cứ và không có tội; chính họ cũng cần chạy đến xin Thiên Chúa kiên nhẫn với họ và thương xót họ. Làm sao mà họ có thể vội vã yêu cầu xử tử người đàn bà này như thế, mà không hề nghĩ lại? Họ đã chỉ muốn xử người phụ nữ chỉ như một “ca” đơn thuần, cách lạnh lùng, y như một bài toán thôi. Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho câu hỏi của họ; trái lại, Người kéo họ chú ý đến một sự kiện họ đã quên mất, đó là tình trạng thật của họ trước mắt Thiên Chúa: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (câu 7). Đức Giêsu bắt họ phải đưa bản thân ra mà xét đoán. Và Người cho họ có thì giờ: Người lại cúi xuống, và viết nữa. Thế là xảy ra một kết quả: các đối thủ của Đức Giêsu đủ lương thiện để chấp nhận lời Đức Giêsu trong lòng. Không một ai dám khẳng định là mình không có tội; không một ai dám cầm đá mà ném trước cả. Tất cả đã bỏ đi.
Khi Đức Giêsu ngẩng lên lần nữa, thì chỉ còn lại người phụ nữ đứng đó. Cho tới đây, Người chỉ quan tâm đến các kẻ tố cáo người phụ nữ; bây giờ Người ngỏ lời với bà. Hai câu hỏi của Người đã làm sáng tỏ hoàn cảnh mới này: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” (câu 10). Tất cả mọi kẻ tố cáo đã bỏ đi, không ai kết án bà phải chịu ném đá. Đến đây Đức Giêsu mới lấy lập trường: chính Người cũng không kết án bà phải chịu ném đá, nhưng Người khuyến cáo: “Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (câu 11). Đức Giêsu không hề chuẩn nhận cho lối sống của người phụ nữ này hoặc giảm thiểu mức độ của lối sống đó. Những gì bà đã làm là tội lỗi, là những điều đi ngược lại thánh ý Thiên Chúa. Đức Giêsu mạnh mẽ khuyến khích bà tránh đi lối sống đó. Người tha thứ cho bà và chỉ cho bà thấy trách nhiệm mới của bà.
+ Kết luận
Một giai thoại thật tuyệt vời để diễn tả sâu sắc chương trình và cách thức Thiên Chúa cứu độ loài người. Cả những kẻ tố cáo cũng như người phụ nữ bị tố cáo đều trải nghiệm nơi Đức Giêsu lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Những người tố cáo thì hiểu rằng chính họ cũng cần đến lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa, nên họ không được cư xử cách tự phụ và thiếu lòng từ bi với người thân cận. Người phụ nữ đã được Đức Giêsu cứu thoát khi bà rơi vào hoàn cảnh nguy hiểm và qua Đức Giêsu, đã trải nghiệm được ơn tha thứ từ bi của Thiên Chúa. Hẳn là những người chứng kiến sự cố hôm ấy có thêm một lý chứng để xác tín về giáo lý cứu độ của Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1/. Qua vụ việc này, chúng ta thấy rằng các kinh sư và người Pharisee thiếu lòng từ bi thương xót: họ nằng nặc tố cáo người phụ nữ; họ nôn nóng đưa Đức Giêsu vào bẫy. Khi mục đích là tiêu diệt kẻ khác, thì mọi sự việc, kể cả con người, đều có thể trở thành phương tiện cho người ta thực hiện ý đồ gian ác. Luật lệ có thể trở thành phương thế để gây áp lực; con người có thể trở thành cái bẫy để ám hại kẻ khác. Các kinh sư và người Pharisee coi người phụ nữ ngoại tình như một “ca” đơn thuần, cách lạnh lùng, y như thể là một bài toán phải tìm ra đáp án. Đức Giêsu mời gọi chúng ta: khi hành động, cần phải xem ý hướng chúng ta thế nào. Ở đây, chúng ta gặp lại các giáo huấn của Đức Giêsu trong Bài Giảng trên núi (Mt 7,1-5).[20]
2/. Bài Tin Mừng này cũng cho thấy rằng Đức Giêsu đã đưa mạc khải về lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa trong Cựu Ước đến chỗ hoàn tất. Là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu đã đến để làm chứng về tình thương này; là Đấng Cứu Thế, Người đã đến để cứu những gì đã mất; là thầy thuốc, Người đã đến để chữa các bệnh nhân. Nếu chúng ta có được sự thẳng thắn để nhìn nhận rằng chúng ta cũng là những kẻ bị mất, bị đau ốm, chúng ta sẽ biết mở lòng ra đón tiếp Người.
3/. Là những con người cũng mắc vô số thiếu sót và lầm lỗi, chúng ta cũng cần chạy đến với lòng kiên nhẫn và từ bi thương xót của Thiên Chúa. Thế thì vì sao chúng ta lại có thể vội vàng và không hề áy náy xin kết án kẻ khác? Chúng ta có chia sẻ thao thức của Đức Giêsu là cứu chữa, hay chúng ta có một niềm vui thiếu lành mạnh trong lòng khi kết án kẻ khác, vì lúc đó chúng ta có cảm tưởng mình không có tội (x. 1Cr 13,6)?[21] Chúng ta khó chịu với các kinh sư vì họ định ném đá người phụ nữ, nhưng chúng ta lại không giống họ sao? Chúng ta lại không nói với người ta những điều y như ném đá vào họ đó sao? Chúng ta cần ý thức rằng ơn gọi của chúng ta vừa là ra đi đưa lại ơn cứu chữa như Đức Giêsu đã làm xưa kia, vừa là làm chứng về ơn cứu chữa mà chính chúng ta liên tục đón nhận.
4/. Đã có những lần chúng ta được Đức Giêsu tha thứ. Điều đó không có nghĩa là Người chuẩn nhận cho cách sống chúng ta vẫn theo lâu nay. Ơn tha thứ cũng kèm theo một khuyến khích mãnh liệt, thậm chí một đòi hỏi, hãy thay đổi đời sống. Nếu hôm nay, chúng ta vẫn còn thấy nơi mình một xu hướng mãnh liệt kết án người khác, thì cách chữa trị xu hướng bệnh tất đó hay nhất là xem chúng ta đã đi xưng tội bao nhiêu lần, đã bao nhiêu lần nhận được ơn tha thứ, và rồi đã sống theo lời khuyến cáo của Đức Giêsu đến đâu: “Hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Tại sao lại có khá nhiều Kitô hữu có vẻ thích thú khi tìm ra và công khai hóa các lỗi lầm của người khác?
5/. Tội là điều nghiêm trọng, vì nó làm cho chúng ta không hạnh phúc và phá hỏng cuộc đời chúng ta. Đức Giêsu không bảo người phụ nữ: “Chị cứ đi bình an, chị có lý khi phản bội chồng chị, cứ tiếp tục đi!”, nhưng dường như muốn bảo: “Chị hãy ngưng gây hại cho chính chị, đừng phá hỏng đời sống chị nữa chỉ vì một ít khoảnh khắc lạc thú”. Không ai ghét tội cho bằng Đức Giêsu, bởi vì không ai yêu thương chúng ta cho bằng Đức Giêsu. Thế nhưng Người không kết án những kẻ phạm lỗi, cũng không góp thêm phần tàn phá vào những gì kẻ tội lỗi đã làm nơi chính họ. Người bảo: “Từ nay đừng phạm tội nữa!”.
6/. Sứ mạng của Đức Giêsu là cứu chữa qua lòng nhân từ và tha thứ. Nhờ Phép Rửa, tất cảchúng ta được trở nên thọ tạo mới và chia sẻ bản tính của Người. Khi những người khác vội vã kết án thì Đức Giêsu tuyên bố, im lặng và cho họ cơ hội để rút lui. Chẳng có ai ở lại với người phụ nữ ngoại trừ Đức Giêsu, và câu chuyện nhắc nhở chúng ta rằng bản tính của Người không phải là kết án, nhưng là để giải thoát. Đức Giêsu đã nghiêm túc nhìn nhận người phụ nữ kia. Chị không phải là đối tượng cho việc tranh luận về vấn đề đạo đức với các Kinh sư và những người Pharisee. Thay vào đó, Đức Giêsu xem chị như một con người có trách nhiệm, bất luận quá khứcủa chị ra sao, Người đã giải thoát và ban cho chị ta một tương lai mới mẻ. Chúng ta lên án tội lỗi, nhưng trong khuôn mặt của tội nhân, chúng ta nên động lòng trắc ẩn như Đức Giêsu đã làm (Siciliano).
[1] Bản Việt ngữ của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh
[2]Ga 7,52: Họ đáp: “Cả ông nữa, ông cũng là người Ga-li-lê sao? Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Ga-li-lê cả”. Và Ga 8,12: Đức Giê-su lại nói với người Do-thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống”.
[3]Lc 21,38: Sáng sớm, toàn dân đến với Người trong Đền Thờ để nghe Người giảng dạy.
[4]Lc 24,1: Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn.; Cv 5,21: Nghe thế, các ông vào Đền Thờ ngay từ lúc rạng đông và bắt đầu giảng dạy.Vị thượng tế cùng những người kề cận đến và triệu tập Thượng Hội Đồng và toàn thể viện bô lão Ít-ra-en, rồi sai người vào nhà giam điệu các Tông Đồ tới.
[5]Ga 7,32.45; 11,45.57: 32 Người Pha-ri-sêu nghe dân chúng bàn tán với nhau về Người như thế, nên họ và các thượng tế sai vệ binh đi bắt Người. 45 Các vệ binh trở về với các thượng tế và người Pha-ri-sêu. Họ liền hỏi chúng: “Tại sao các anh không điệu ông ấy về đây?” 1145 Trong số những người Do-thái đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Đức Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người. 57 Còn các thượng tế và người Pha-ri-sêu thì ra lệnh: ai biết được ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt.
[6]Đnl 19,15: Một nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ một tội một lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét.
[7]Đn 13,36-40: 36 Các kỳ lão nói: “Chúng tôi đang dạo chơi một mình trong vườn, thì mụ này đã vào với hai tớ gái, đóng cửa vườn lại, rồi cho các tớ gái đi ra. 37 Một gã thanh niên núp sẵn ở đó, đến bên mụ và nằm với mụ. 38 Lúc ấy, chúng tôi đang ở một góc vườn, thấy chuyện đồi bại, liền chạy tới. 39 Chúng tôi thấy chúng ăn nằm với nhau, nhưng không tóm được gã thanh niên, vì hắn khoẻ hơn chúng tôi, và đã mở cửa chạy mất. 40 Còn mụ này, chúng tôi bắt được và hỏi mụ ta xem gã thanh niên kia là ai.
[8] Vocative: một sự thay đổi về ngữ pháp trong danh từ để diễn tả việc xưng hô.
[9]Ga 1,38: Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?”.
[10]Lv 20,10: Khi người đàn ông nào ngoại tình với đàn bà có chồng, ngoại tình với vợ người đồng loại, thì cả đàn ông ngoại tình lẫn đàn bà ngoại tình phải bị xử tử.; Và Đnl 22,22-24: 22 Nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với một người đàn bà có chồng, thì cả hai sẽ phải chết: người đàn ông đã nằm với người đàn bà, và cả người đàn bà. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại ở Ít-ra-en. 23 Khi một cô gái còn trinh đã đính hôn với một người đàn ông, mà một người đàn ông khác gặp cô trong thành và nằm với cô, 24 thì anh (em) sẽ lôi cả hai ra cửa thành ấy và ném đá, và chúng sẽ phải chết: cô gái, vì lý do ở trong thành mà đã không kêu cứu, và người đàn ông, vì lý do đã cưỡng bức vợ người đồng loại. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em).
[11]Ga 6,6: Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi.
[12]Lc 6,7: Các kinh sư và những người Pha-ri-sêu rình xem Đức Giê-su có chữa người ấy trong ngày sa-bát không, để tìm được cớ tố cáo Người.
[13]Gr 17,13: Lạy ĐỨC CHÚA, niềm hy vọng của Ít-ra-en là Ngài, hết những ai lìa bỏ Ngài sẽ phải xấu hổ, những kẻ quay lưng lại với Ngài sẽ bị bứng khỏi đất, vì họ đã lìa bỏ ĐỨC CHÚA là mạch nước trường sinh.
[14]Xh 23,1b: Ngươi không được phao tin đồn nhảm. Đừng làm chứng gian mà tiếp tay với kẻ xấu.
[15]Xh 23,7a: Ngươi phải lánh xa điều gian dối. Ngươi không được giết kẻ vô tội và công chính, vì Ta không cho kẻ có tội được trắng án.
[16]Đn 13,53: Ông đã xử bất công, kết án người vô can, tha bổng kẻ đắc tội, bất kể lời Chúa dạy: “Ngươi chớ giết người vô tội và người công chính”.
[17]Ga 3,17.18; 5,22.30; 8,15.16: 17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. 18 Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. 522 Quả thật, Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử, 30 Tôi không thể tự ý mình làm gì. Tôi xét xử theo như tôi được nghe, và phán quyết của tôi thật công minh, vì tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi. 815 Các ông xét đoán theo kiểu người phàm; phần tôi, tôi không xét đoán ai cả. 16 Mà nếu tôi có xét đoán, thì sự xét đoán của tôi vẫn đúng sự thật, vì không phải chỉ có mình tôi, nhưng có tôi và Đấng đã sai tôi.
[18]Lv 20,10: Khi người đàn ông nào ngoại tình với đàn bà có chồng, ngoại tình với vợ người đồng loại, thì cả đàn ông ngoại tình lẫn đàn bà ngoại tình phải bị xử tử.; x. thêm Đnl 13,7-10; 17,2tt: 7 Nếu người anh em của anh (em), con của mẹ anh (em), hoặc con trai con gái anh (em), hoặc người vợ anh (em) âu yếm, hoặc người bạn anh (em) coi như chính mình, lén lút rủ rê anh (em): “Chúng ta hãy đi phụng thờ các thần khác” những thần mà anh (em) và cha ông anh (em) không biết, 8 trong số các thần của những dân ở chung quanh, gần hay xa anh (em), từ đầu đến cuối xứ, 9 thì anh (em) đừng ưng thuận, đừng nghe nó, đừng nhìn nó mà thương hại, đừng xót thương, đừng bao che nó; 10 trái lại, nhất định anh (em) phải giết nó. Anh (em) phải là người đầu tiên tra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp tay sau. 172 Nếu ở giữa anh (em), tại một trong các thành mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), thấy có một người đàn ông hay đàn bà làm điều dữ trái mắt ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), vi phạm giao ước của Người.
[19] Kinh Thánh, Nguyễn Thế Thuấn chuyển ngữ
[20]Mt 7,1-5: 1 “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, 2 vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em. 3 Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? 4 Sao anh lại nói với người anh em: “Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn”, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh? 5 Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.
[21]1Cr 13,6: không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật.