Lm. Giuse Lê Minh Thông, OP.
DẪN NHẬP
Trong Tin Mừng Gio-an, động từ Hy Lạp “pisteuô” (tin) xuất hiện 99 lần. Tính từ “pistos” (người tin) và tính từ “apistos” (người không tin) chỉ xuất hiện 1 lần ở Ga 20,27. Đức Giê-su Phục Sinh nói với Tô-ma ở 20,27: “Đưa ngón tay của anh vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay của anh ra và đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng trở thành người không tin (apistos), nhưng là người tin (pistos).”
Với 99 lần trong Tin Mừng Gio-an, động từ “pisteuô (tin)” là đề tài thần học quan trọng. Tác giả nhấn mạnh “hành động tin” bằng cách chỉ dùng động từ “pisteuô” (tin), danh từ “pistis” (lòng tin, đức tin) không xuất hiện trong Tin Mừng này. Để tìm hiểu động từ “pisteuô (tin)” trong Tin Mừng Gio-an, bài viết sẽ trình bày ba mục chính: (I) Số lần và nơi xuất hiện động từ “pisteuô” (tin); (II) Cách dùng động từ “pisteuô” (tin); (III) Ba cấp độ tin vào Đức Giê-su.
I. SỐ LẦN VÀ NƠI XUẤT HIỆN ĐỘNG TỪ “pisteuô” (tin)
99 lần động từ “pisteuô” (tin) trong Tin Mừng Gio-an được phân bổ như thế nào? Nếu chia Tin Mừng này làm hai phần lớn: (1) Sách Các dấu lạ (Ga 1–12) và (2) Sách Giờ tôn vinh (Ga 13–21) thì có hơn 3/4 lần động từ “tin” xuất hiện trong Sách các dấu lạ. Cụ thể là trong ch. 1–12, động từ “pisteuô” (tin) xuất hiện 77 lần; trong ch. 13–21, 22 lần. Như thế, đề tài “tin” được triển khai chủ yếu trong phần đầu của sách Tin Mừng (ch. 1–12). Số lần của động từ “tin” tăng dần trong 12 chương đầu, và giảm dần trong phần thứ hai (ch. 13–21) sách Tin Mừng.
Nếu chia sách Tin Mừng Gio-an thành nhiều phần với độ dài khoảng 4 chương, sẽ thấy đỉnh cao số lần động từ “tin” xuất hiện trong ch. 9–12. Cụ thể như sau: Ch 1–4: 22 lần; ch. 5–8: 26 lần; ch. 9–12: 29 lần; ch. 13–17: 15 lần; ch. 18–21: 7 lần. Các chương có động từ “tin” nhiều nhất, theo thứ tự giảm dần là ch. 12 (10 lần); ch. 6 (9 lần); ch. 11 (9 lần); ch. 3 (8 lần); ch. 4 (7 lần); ch. 5 (7 lần); ch. 14 (7 lần); ch. 10 (6 lần); ch. 20 (6 lần). Có hai chương (ch. 13 và 19) động từ “tin” chỉ xuất hiện 1 lần (13,19; 19,35), và ba chương (ch. 15; 18 và 21) không có động từ “tin”. (Xem liệt kê chi tiết 99 lần động từ “tin” trong phần "MỤC TỪ NGỮ" cuối bài viết)
Trong lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18) đề tài “tin” (pisteuô) đã được nói đến cách long trọng và rõ ràng. Gio-an Tẩy Giả làm chứng về Đức Giê-su là “để mọi người tin nhờ ông ấy” (1,7). Người tin được định nghĩa ở 1,12-13: “12 Những ai đã đón nhận Người [Logos], Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. Họ là những người tin vào danh của Người. 13 Họ được sinh ra không bởi khí huyết, cũng không bởi ước muốn của người phàm, cũng không bởi ước muốn của đàn ông, nhưng bởi Thiên Chúa.” Trong phần sứ vụ công khai của Đức Giê-su (ch. 1–12), người thuật chuyện triển khai đề tài “tin” qua giáo huấn và mặc khải của Đức Giê-su cho đám đông, cho các môn đệ và cho những kẻ chống đối Người (những người Pha-ri-sêu và những người Do Thái).
Trong phần diễn từ từ biệt (ch. 13–17), Đức Giê-su nói về lòng tin của các môn đệ, chẳng hạn Người khích lệ các môn đệ ở 14,1: “Lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thầy.” Đến cuối sách Tin Mừng, đề tài “tin” được nói đến trong kết luận thứ nhất (20,30-31) như là mục đích của sách Tin Mừng. Người thuật chuyện viết ở 20,30-31: “30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác trước mặt các môn đệ [của Người]; chúng không được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều đã được ghi chép là để anh em [độc giả] tin rằng: Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa; và nhờ tin, anh em có sự sống trong danh của Người.” Như thế, đề tài “tin” xuyên suốt sách Tin Mừng và mục đích những gì được viết ra là “để anh em [độc giả] tin” và “nhờ tin anh em có sự sống” (20,31).
II. CÁCH DÙNG ĐỘNG TỪ “pisteuô” (tin)
Cách dùng 99 lần động từ “tin” chia làm ba loại chính: (1) Tin vào ai? (2) Tin vào điều gì? (3) “Tin” (không có bổ túc từ).
A. Tin vào ai?
Về đối tượng của hành động “tin”, Tin Mừng Gio-an nói đến (a) Tin vào Đức Giê-su; (b) Tin vào Thiên Chúa; (c) Tin vào Mô-sê; và (d) Tin vào dân chúng.
1. Tin vào Đức Giê-su
Phần lớn số lần động từ “tin” trong Tin Mừng Gio-an nói về việc “tin” hay “không tin” vào Đức Giê-su. Trong tiếng Hy Lạp, có hai cách diễn tả ý tưởng “tin vào ai”: (1) Động từ “pisteuô” (tin) + giới từ “eis” (vào) + đại từ hay danh từ ở đối cách (accusative). (2) Động từ “pisteuô” (tin) + đại từ hay danh từ ở tặng cách (dative).
(1) Bốn cách dùng: “pisteuô + eis”:
(a) Cách trình bày thứ nhất khẳng định hay phủ định hành động “tin vào Đức Giê-su.” Khẳng định “tin vào Đức Giê-su”, xuất hiện 20 lần ở 2,11; 3,15.16; 3,18a.36; 4,39; 6,29.35.40; 7,31.48; 8,30; 9,36; 10,42; 11,45.48; 12,11.42; 14,1a; 17,20 và phủ định “không tin vào Đức Giê-su”, 4 lần ở 7,5; 12,37.44; 16,9.
(b) Cách thứ hai nói gián tiếp về tin vào Đức Giê-su, xuất hiện 2 lần: “Tin vào Con Người” (9,35); “tin vào ánh sáng” (12,36).
(c) Trong cách thứ ba, động từ “tin” được chia ở “lối động tính từ (participle) + giới từ “eis” (vào)”, có nghĩa là “người tin vào Đức Giê-su”, xuất hiện 7 lần (7,38.39; 11,25.26a; 12,44.46; 14,12).
(d) Cách thứ tư dùng kiểu nói: “Tin vào danh Đức Giê-su”, hay “tin vào danh Con Một Thiên Chúa”, xuất hiện 3 lần ở 1,12; 2,23; 3,18c.
Tóm lại, kiểu diễn tả: “Tin vào (pisteuô + eis) Đức Giê-su” được dùng 33 lần; và “tin vào (pisteuô + eis) danh Đức Giê-su”: 3 lần.
(2) Cách dùng “động từ pisteuô + đại từ hay danh từ ở tặng cách (dative)” xuất hiện ít hơn “pisteuô + eis”. Kiểu nói khẳng định: “Tin vào Đức Giê-su” (pisteuô + tặng cách) xuất hiện 4 lần ở 4,21; 5,46b; 6,30; 8,31 và phủ định: “Không tin vào Đức Giê-su” (pisteuô + tặng cách): 6 lần ở 5,38; 8,45; 8,45.46; 10,37.38a. Như thế, cách dùng “pisteuô + tặng cách”, xuất hiện 10 lần trong kiểu nói khẳng định và phủ định.
Với hai cách dùng “pisteuô + eis” và “pisteuô + tặng cách”, động từ “tin” (pisteuô) được sử dụng tất cả 46 lần để trình bày đề tài “tin hay không tin” vào Đức Giê-su.
2. Tin vào Thiên Chúa
Đề tài “tin vào Thiên Chúa” chỉ xuất hiện 2 lần trong Tin Mừng Gio-an với hai cách dùng: “pisteuô + eis” (14,1b) và “pisteuô + tặng cách” (5,24). Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 14,1: “Lòng anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thầy.” Ở 5,24a, Đức Giê-su nói với những người Do Thái: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi, thì có sự sống đời đời.” Trong câu này, Đức Giê-su gọi Thiên Chúa là “Đấng đã sai Tôi”. Qua sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su trong thế gian, Người thực hiện sứ vụ Thiên Chúa giao phó (x. 6,38).
Tuy đề tài “tin vào Thiên Chúa” chỉ xuất hiện 2 lần nhưng có tầm quan trọng đặc biệt do hai điều này: (1) Đức Giê-su đồng hoá “Đấng đã sai Đức Giê-su” với “Thiên Chúa”. “Tin vào Thiên Chúa” (14,1a) là “tin vào Đấng đã sai Đức Giê-su” (5,24) đến thế gian. (2) Trong cả hai lần (5,24 và 14,1a) niềm tin vào Thiên Chúa nối kết chặt chẽ với “nghe lời Đức Giê-su” (5,24) và “tin vào Đức Giê-su” (14,1b).
Hai điều này quan trọng vì cho phép phân biệt “môn đệ của Đức Giê-su” với “những kẻ chống đối Người” (những người Do Thái và những người Pha-ri-sêu). Họ cũng tin vào Thiên Chúa và cho rằng Thiên Chúa là Cha của họ (8,41b). Thật vậy, khi tranh luận với Đức Giê-su, những người Do Thái nói với Người ở 8,41b: “Chúng tôi không phải là con đẻ hoang. Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa.” Nhưng thật ra họ không có Thiên Chúa là Cha, vì Đức Giê-su trả lời họ ở 8,42: “Nếu Thiên Chúa là Cha các ông, các ông đã yêu mến Tôi, vì chính Tôi phát xuất và đến từ nơi Thiên Chúa. Tôi không tự mình mà đến, nhưng chính Đấng ấy đã sai Tôi.” Hơn nữa, điều làm cho các môn đệ của Đức Giê-su khác với những kẻ chống đối Người là niềm tin của môn đệ vào Thiên Chúa và vào Đức Giê-su. Theo thần học Gio-an, “tin vào Thiên Chúa” không thể tách khỏi hành động “tin vào Đức Giê-su” (14,1b) và “nghe lời của Người” (5,24). Những người Do Thái và những người Pha-ri-sêu đã không tin vào Đức Giê-su và không lắng nghe lời Người.
Trong viễn cảnh này, đã có sự phân biệt giữa “môn đệ của Đức Giê-su” và “môn đệ của Mô-sê” trong ch. 9. Người thuật chuyện kể ở 9,28-29: “28 Họ [những người Do Thái và những người Pha-ri-sêu] mắng anh ta [anh mù từ thuở mới sinh] và nói: ‘Anh, anh là môn đệ của Ông ấy [Đức Giê-su]; còn chúng tôi, chúng tôi là môn đệ của Mô-sê. 29 Chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã nói với Mô-sê; nhưng người này [Đức Giê-su], chúng tôi không biết Ông ta từ đâu đến.” Những người Do Thái và những người Pha-ri-sêu tự hào mình là “môn đệ của Mô-sê” và không biết Đức Giê-su từ đâu đến. Họ khinh bỉ anh mù từ thuở mới sinh được chữa lành bằng cách gán cho anh ta là “môn đệ của Đức Giê-su.”
3. Tin vào Mô-sê
Chỉ có 1 lần Đức Giê-su nói đến “tin vào Mô-sê” (pisteuô + tặng cách) ở 5,46. Đức Giê-su chất vấn những người Do Thái ở 5,46-47: “46 Vì nếu các ông tin Mô-sê, các ông cũng tin Tôi, vì ông ấy đã viết về Tôi. 47 Nhưng nếu chữ viết của ông ấy, các ông không tin, làm sao các ông tin những lời của Tôi?”
4. Tin vào dân chúng
Kiểu nói: “tin vào dân chúng”, với cách dùng “pisteuô + tặng cách” ở thể phủ định, chỉ xuất hiện 1 lần ở 2,24. Người thuật chuyện kể ở 2,23-24: “23 Trong lúc Người [Đức Giê-su] ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, nhiều kẻ đã tin vào danh của Người khi thấy các dấu lạ mà Người đã làm. 24 Nhưng Đức Giê-su, chính Người không tin họ, vì Người biết tất cả.”
Tóm lại, đề tài “tin vào ai” trình bày như sau: “Tin vào Đức Giê-su” (46 lần) “tin vào Thiên Chúa” (2 lần: 14,1b; 5,24); “tin vào Mô-sê” (1 lần: 5,46); “Đức Giê-su không tin dân chúng” (1 lần: 2,24).
B. Tin vào điều gì?
“Tin vào Đức Giê-su” và “tin vào điều gì” là hai nội dung chính của mặc khải trong Tin Mừng Gio-an. Trả lời câu hỏi “Tin vào điều gì?” sẽ nhận ra nội dung niềm tin của các môn đệ theo thần học Tin Mừng Gio-an. Nội dung niềm tin này được trình bày với hai công thức: (1) “pisteuô hoti...” (tin rằng:…) và (2) “pisteuô + tặng cách (dative)”. Có 2 lần (5,47; 12,38) cách dùng “pisteuô + tặng cách” không liên quan đến việc tin vào Đức Giê-su.
1. Chín nội dung niềm tin của các môn đệ
Tin Mừng Gio-an dùng kiểu nói: “pisteuô hoti...” (tin rằng:…) để trình bày nội dung niềm tin. Tin vào Đức Giê-su là đón nhận Người, là bước vào tương quan với Người, để từ đó tin vào lời Người mặc khải về Chúa Cha và về chính Người. Tin Mừng Gio-an dùng 11 lần công thức “pisteuô hoti...” (tin rằng:…) để trình bày năm nội dung niềm tin:
[1] Tin rằng Đức Giê-su là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian (2 lần: 11,27; 20,31a).
[2] Tin rằng Chúa Cha đã sai Đức Giê-su (3 lần: 11,42; 17,8.21).
[3] Tin rằng Đức Giê-su LÀ, với công thức “Ta Là (egô eimi)” (2 lần: 8,24; 13,19). Xem bài viết: “Ta Là” (Egô Eimi) Trong Tin Mừng Gioan”.
[4] Tin rằng Đức Giê-su từ Thiên Chúa mà đến (2 lần: 16,27.30).
[5] Tin rằng Đức Giê-su ở trong Cha và Cha trong Đức Giê-su (2 lần: 14,10.11).
Ba nội dung niềm tin khác được diễn tả qua công thức “pisteuô + tặng cách (dative)” với đối tượng không phải là con người (cách dùng “pisteuô + tặng cách” với đối tượng là con người đã trình bày ở trên). Cách dùng này xuất hiện 5 lần và trình bày 3 nội dung niềm tin:
[6] Tin vào Kinh Thánh (1 lần ở 2,22).
[7] Tin vào lời Đức Giê-su (3 lần: 2,22; 4,40; 5,47b). Trong đó ở 2,22b và 4,50 dùng danh từ Hy Lạp “logos” (lời); ở 5,47b dùng danh từ “rêma” cũng có nghĩa là “lời”.
[8] Tin vào các việc Đức Giê-su làm (1 lần: 10,38b).
[9] Riêng ở 11,26b, người thuật chuyện dùng kiểu nói: “pisteuô + đối cách (accusative)”, chỉ xuất hiện 1 lần trong Tin Mừng Gio-an, để trình bày nội dung niềm tin quan trọng. Mặc khải của Đức Giê-su ở 11,25-26 là nội dung thứ 9 của đức tin. Trong hoàn cảnh La-da-rô em của Mác-ta và Ma-ri-a đã chết bốn ngày, Đức Giê-su đến Bê-ta-ni-a gặp Mác-ta và nói với chị ở 11,25-26: “25 Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, dù đã chết cũng sẽ được sống, 26 và tất cả những ai sống và tin vào Thầy, muôn đời sẽ không chết. Chị có tin điều đó không?” (11,25-26). Câu Đức Giê-su hỏi Mác-ta: “Chị có tin điều đó không?” dùng động từ “pisteuô + đối cách” diễn tả nội dung mặc khải quan trọng ở 11,25-26a. Đây là câu trả lời của Đức Giê-su liên quan đến “sự chết” và “sự sống” của Đức Giê-su, “sự chết” và “sự sống” của La-da-rô và của người tin qua mọi thời đại.
Tin Mừng Gio-an trình bày chín nội dung niềm tin cách minh nhiên như trên, trong đó động từ “pisteuô” (tin) được nói đến cách minh nhiên, nhưng thật ra nên hiểu là toàn bộ nội dung mặc khải trong sách Tin Mừng là đối tượng của niềm tin. Chẳng hạn tác giả Tin Mừng mời gọi độc giả tin Đức Giê-su là “Logos” như tác giả tuyên bố ở 1,1: “Lời (Logos) có lúc khởi đầu, và Lời ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa.” Nội dung sách Tin Mừng mời gọi độc giả tin rằng Thiên Chúa đã yêu mến thế gian đến nỗi ban Con Một của Người là Đức Giê-su (x. 3,16); tin rằng Đức Giê-su là con đường, là sự thật và là sự sống, và không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Đức Giê-su (x. 14,6); tin rằng thủ lãnh thế gian đã bị xét xử rồi (x. 16,11), và tin rằng Đức Giê-su đã chiến thắng thế gian (x. 16,33) v.v... Tóm lại, toàn bộ mặc khải trình bày trong sách Tin Mừng Gio-an là nội dung niềm tin của các môn đệ qua mọi thời, ở mọi nơi.
2. Động từ “tin” dùng theo nghĩa khác
Trong Tin Mừng Gio-an, xuất hiện 2 lần cách dùng “pisteuô + tặng cách” (5,47; 12,38) không liên quan đến niềm tin vào Đức Giê-su:
(1) Đức Giê-su kết tội những người Do Thái là họ đã không tin vào những điều Mô-sê viết (5,47a).
(2) Người thuật chuyện trích dẫn ngôn sứ I-sai-a ở Ga 12,38: “Ai đã tin lời rao giảng của chúng con?” để giải thích sự từ chối tin vào Đức Giê-su. Sứ vụ của Đức Giê-su được tóm kết qua lời trích dẫn ngôn sứ I-sai-a. Người thuật chuyện kể ở Ga 12,37-38: “37 Người [Đức Giê-su] đã làm quá nhiều dấu lạ trước mặt họ, mà họ không tin vào Người, 38 để lời ngôn sứ I-sai-a được nên trọn như đã nói: ‘Lạy Đức Chúa, ai đã tin lời rao giảng của chúng con? Và cánh tay của Đức Chúa đã được tỏ cho ai?’” Trong câu: “Ai đã tin lời rao giảng của chúng con?” sử dụng công thức “pisteuô + tặng cách”.
Tóm lại, với ba cách dùng: “pisteuô hoti…”, “pisteuô + tặng cách” và “pisteuô + đối cách”, nội dung niềm tin của các môn đệ được trình bày qua 9 mục trên. Ba cách dùng này xuất hiện 17 lần, cùng với 2 lần cách dùng “pisteuô + tặng cách” ở 5,47a; 12,38 không liên quan đến việc tin vào Đức Giê-su.
C. “Tin” (pisteuô) không có bổ túc từ
Tin Mừng Gio-an dùng 30 lần động từ “tin” (pisteuô) không có bổ túc từ và được chia làm hai nhóm: (a) Câu khẳng định: “tin” và (b) Câu phủ định: “không tin.”
(a) Nhóm khẳng định (tin) xuất hiện 19 lần. Trong đó, động từ “tin” không có bổ túc từ, chia ở lối trình bày (indicative mode): 16 lần ở 1,7.50; 3,12b; 4,41.42.53; 6,69; 9,38; 11,15.40; 14,29; 16,31; 19,35; 20,8.29a.31b; và chia ở lối động tính từ (participle mode) “ho pisteuôn” (người tin): 3 lần ở 3,18b; 6,47; 20,29b.
(b) Nhóm phủ định (không tin) xuất hiện 11 lần. Trong đó, động từ “tin” không có bổ túc từ, chia ở lối trình bày (indicative mode): 10 lần ở 3,12a; 4,48; 5,44; 6,36.64a; 9,18; 10,25.26; 12,39; 20,25; và chia ở lối động tính từ (participle mode): 1 lần ở 6,64b.
Khi người thuật chuyện dùng động từ “tin” không có bổ túc từ thường bao hàm nhiều khía cạnh của niềm tin (tin vào ai và tin vào điều gì). Chẳng hạn, khi Si-môn Phê-rô và người môn đệ khác, người Đức Giê-su thương mến, đi ra mộ Đức Giê-su, vào ngày thứ nhất trong tuần (20,1-7), họ không thấy Đức Giê-su trong mộ, họ chỉ “6b thấy những băng vải còn để đó, 7 và khăn che đầu của Người không để với những băng vải, nhưng cuốn lại để riêng ra một nơi” (20,6b-7). Người thuật chuyện viết về người môn đệ Đức Giê-su thương mến ở 20,8b: “Ông ấy đã thấy và đã tin.” Trong câu này, hai động từ “thấy” và “tin” không có bổ túc từ.
Như thế, trước khi Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ vào tối ngày hôm đó (20,19-23), môn đệ Đức Giê-su thương mến là người đầu tiên đã tin. Cách thức “thấy” và “tin” của người môn đệ này được đề cao trong trình thuật, đó là “thấy thực sự” và “tin thực sự”. Điều đáng chú ý là người môn đệ này “đã thấy” và “đã tin” khi “không thấy Đức Giê-su”, ông chỉ thấy ngôi mộ trống, thấy khăn che đầu và những băng vải. “Thấy” và “tin” của người môn đệ này gợi đến lời chúc phúc của Đức Giê-su dành cho “người không thấy Đức Giê-su mà tin vào Người” ở cuối sách Tin Mừng. Đức Giê-su nói với Tô-ma ở 20,29: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin? Phúc cho những người không thấy mà là những người tin.”
Hành động “thấy” và “tin” ở 20,8 không có bổ túc từ cho phép liên tưởng đến nhiều khía cạnh của hai động từ này. Điều người môn đệ này thấy, không chỉ là thấy những băng vải, mà ông còn thấy ngôi mộ trống rỗng, thấy Đức Giê-su không còn đó. Xa hơn, gợi đến những gì người môn đệ này đã thấy khi đứng dưới chân thập giá (x. 19,25-37). Động từ “tin” ở 20,8 không có túc từ cho phép hiểu: Người môn đệ này không chỉ tin Đức Giê-su đã sống lại mà còn tin vào những lời Đức Giê-su đã nói, tin Đức Giê-su là Đấng Chúa Cha sai đến (17,21.23), tin Đức Giê-su có “những lời đem lại sự sống đời đời” và Người là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” như lời tuyên xưng của Si-môn Phê-rô trước Đức Giê-su ở 6,68-69: “68 Thưa Thầy, chúng con sẽ bỏ đi với ai? Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời. 69 Phần chúng con, chúng con đã tin và đã nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” Lòng tin ở cấp độ cao nhất là tin Đức Giê-su là “Chúa” (kurios) và là “Thiên Chúa” (theos) như lời Tô-ma tuyên xưng trước Đấng Phục Sinh ở 20,28: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.”
“Thấy” và “tin” theo nghĩa tuyệt đối, không có túc từ, cho thấy người môn đệ Đức Giê-su thương mến đã hiểu ý nghĩa biến cố Thương Khó – Phục Sinh. (Xem bài viết: “Ga 20, 1-9: “Ông Đã Thấy Và Đã Tin” (20,8). Ai thấy? Thấy Gì? Tin Gì?”). Hành động “thấy” và “tin” của người môn đệ Đức Giê-su thương mến (20,8) không theo nghĩa bình thường mà theo nghĩa thần học như Đức Giê-su đã nói với đám đông ở 6,40: “Đây là ý muốn của Cha Tôi: Tất cả những ai thấy người Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời.” Tuy nhiên, giữa việc “thấy bằng mắt” (thấy thể lý) và “tin” có một khoảng cách lớn lao. Bởi lẽ ngôi mộ trống và những băng vải không phải là bằng chứng hiển nhiên về việc Đức Giê-su Phục Sinh. Người môn đệ Đức Giê-su yêu mến chỉ thấy “dấu chỉ”, chứ không thấy Đức Giê-su sống lại mà ông đã tin.
Tóm lại, 99 lần động từ “pisteuô” (tin) trong Tin Mừng Gio-an được phân bổ như sau: “Tin vào ai?” (50 lần), “tin vào điều gì?” (19 lần), và “tin không có bổ túc từ” (30 lần).
III. BA CẤP ĐỘ TIN VÀO ĐỨC GIÊSU
Đề tài “tin” trong Tin Mừng Gio-an chia ra ba cấp độ: (1) “Không thực sự tin vào Đức Giê-su”, (2) “Chưa thực sự tin vào Đức Giê-su” và (3) “Thực sự tin vào Đức Giê-su”.
1. Không thực sự tin vào Đức Giê-su (8,31)
Người thuật chuyện nói đến lòng tin của những người Do Thái ở 8,31-32: “31 Vậy, Đức Giê-su nói với những người Do Thái đã tin Người: ‘Nếu các ông ở lại trong lời của Tôi các ông thực sự là môn đệ của Tôi, 32 các ông sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng các ông.’” Lòng tin của những người Do Thái ở 8,31 có phải là lòng tin thực sự vào Đức Giê-su hay không? Nội dung trình thuật 8,31-59 sẽ trả lời câu hỏi này.
Nối tiếp đoạn văn 8,21-30 là đoạn văn 8,31-59. Trong đoạn văn 8,21-30 Đức Giê-su tranh luận với “những người Do Thái” (8,22) về sứ vụ của Người và về tương quan giữa Người với Chúa Cha. Đoạn văn tiếp theo (8,31-59) mở đầu bằng việc “Đức Giê-su nói với những người Do Thái đã tin Người” (8,31a), tuy nhiên nội dung đoạn văn 8,31-59 cho thấy tranh luận giữa Đức Giê-su và những người Do Thái ngày càng gay gắt cho đến hết ch. 8 (8,59). Bối cảnh văn chương của hai đoạn văn 8,21-30 và 8,31-59 cho phép kết luận: Lòng tin của những người Do Thái ở 8,31a không phải là lòng tin đích thực vào Đức Giê-su.
Thật vậy, họ đã không thực sự tin, vì họ đã không hiểu và không đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su. Hơn nữa, họ đã chống lại Đức Giê-su càng lúc càng dữ dội đến nỗi tìm giết Người (8,37.40). Sự kết án qua lại giữa Đức Giê-su và những người Do Thái rất nặng nề. Đức Giê-su nói với những người Do Thái ở 8,44a: “Các ông thuộc về quỷ là cha các ông, và các ông muốn làm những ước muốn của cha các ông.” Về phía những người Do Thái, họ kết tội Đức Giê-su ở 8,48: “Ông là người Sa-ma-ri và là người bị quỷ ám.” Trong đoạn văn 8,31-59, câu chuyện mở đầu bằng “những người Do Thái đã tin vào Đức Giê-su” (8,31) nhưng lại kết thúc bằng sự thù ghét của những người Do Thái này: “Họ [những người Do Thái] liền lượm đá để ném Người [Đức Giê-su]. Nhưng Đức Giê-su ẩn mình và đi ra khỏi Đền Thờ” (8,59).
Thái độ không đón nhận và thù nghịch với Đức Giê-su trong đoạn văn 8,31-59, không thể dung hoà với lòng tin vào Người (8,31a). Ngay từ đầu đoạn văn 8,31-59, Đức Giê-su mời gọi những người Do Thái ở 8,31b-32: “31b Nếu các ông ở lại trong lời của Tôi các ông thực sự là môn đệ của Tôi, 32 các ông sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng các ông.” Nhưng nội dung đoạn văn cho thấy họ “không thực sự là môn đệ của Đức Giê-su” (8,31c) vì họ đã không “ở lại trong lời của Người” (8,31b), nghĩa là họ đã không lắng nghe và đón nhận mặc khải của Đức Giê-su. Như thế, lòng tin của những người Do Thái ở 8,31a không phải là lòng tin đích thực. Cấp độ thứ hai của lòng tin là “chưa thực sự tin vào Đức Giê-su”. Điều này thể hiện nơi đám đông dân chúng ở 2,23-25.
2. Chưa thực sự tin vào Đức Giê-su (2,23-25)
Người thuật chuyện tóm kết hoạt động của Đức Giê-su ở 2,23-25: “23 Trong lúc Người ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, nhiều kẻ đã tin vào danh của Người khi thấy các dấu lạ mà Người đã làm. 24 Nhưng Đức Giê-su, chính Người không tin họ, vì Người biết tất cả, 25 và Người không cần có ai làm chứng về con người, vì chính Người biết có gì nơi con người.”
Ở 2,23, có sự nối kết giữa “thấy các dấu lạ” và “tin vào Đức Giê-su.” Người thuật chuyện dùng 2 lần động từ “tin” (pisteuô) ở 2,23-24 với tương phản mạnh mẽ: Lần thứ nhất ở 2,23 cho biết nhiều người đã tin vào Đức Giê-su khi thấy những dấu lạ Người làm (2,23). Lần thứ hai ở 2,24 cho biết chính Đức Giê-su đã không tin vào niềm tin của họ (2,24). Như thế lòng tin của nhiều người trong trường hợp này chưa phải là “tin thực sự”. Đây là trường hợp “tin nhờ thấy dấu lạ”, nhưng lòng tin ấy chưa trưởng thành, cần được nuôi dưỡng và phát triển để đạt tới lòng tin đích thực.
3. Thực sự tin vào Đức Giê-su
Thế nào là thực sự tin vào Đức Giê-su? Đề tài quan trọng này được Tin Mừng diễn tả nhiều cách và có thể xếp thành ba loại: (a) Tin đích thực nhờ dấu lạ; (b) Tin đích thực nhờ lời Đức Giê-su và (c) Tin đích thực nhờ lời các môn đệ.
a) Tin đích thực nhờ dấu lạ
Sau khi Đức Giê-su thực hiện dấu lạ đầu tiên: Nước lã hoá thành rượu ngon (2,1-11), người thuật chuyện kết thúc câu chuyện ở 2,11: “Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na, miền Ga-li-lê, Người đã tỏ vinh quang của Người, và các môn đệ của Người đã tin vào Người.” Như thế dấu lạ nước hoá thành rượu là cách thức Đức Giê-su bày tỏ vinh quang của Người, các môn đệ đã nhận ra điều đó và tin vào Người. Tuy trình bày ngắn gọn nhưng đây là lòng tin đích thực vào Đức Giê-su.
Dấu lạ đầu tiên ở Ca-na (2,1-12) gợi đến dấu lạ thứ hai ở Ca-na: Đức Giê-su chữa lành con của một quan chức nhà vua (4,46-54). Người thuật chuyện kết thúc dấu lạ thứ hai này như sau: “Ông ấy và cả nhà của ông đã tin” (4,53). Đây là cách dùng động từ “tin” không có bổ túc từ (xem mục II. 3. trên đây), nên hàm ẩn cả hai ý: “Tin vào Đức Giê-su” và “tin vào lời của Người”. Thực vậy, dấu lạ chữa lành này (4,46-54) cũng đề cao việc “tin vào lời Đức Giê-su”. Khi viên quan chức nhà vua xin Đức Giê-su đến Ca-phác-na-um để chữa lành đứa con trai bị bệnh sắp chết (4,46-47), Đức Giê-su nói với ông ấy: “Nếu các ông không thấy dấu lạ, điềm thiêng, chắc chắn các ông không tin” (4,48). Viên quan chức nhà vua nói với Người: “Thưa Ngài, xin Ngài hãy xuống trước khi con tôi chết” (4,49). Đức Giê-su nói với ông ấy: “Ông hãy đi về, con ông sống” (4,50a). Người thuật chuyện cho biết phản ứng của viên quan chức nhà vua: “Người này tin vào lời Đức Giê-su nói với mình và đi về” (4,50b). Như thế, dấu lạ chữa lành được thực hiện là nhờ viên quan chức đã “tin vào lời Đức Giê-su” (4,50b). Phần ở giữa hai dấu lạ tại Ca-na (2,1-12 và 4,46-54) là trình thuật Đức Giê-su gặp gỡ người phụ nữ Sa-ma-ri (4,1-43). Trình thuật này mô tả loại thứ hai của hành động tin đích thực: Tin nhờ lời Đức Giê-su.
b) Tin đích thực nhờ lời Đức Giê-su
Cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp (4,7-9) về nước sự sống (4,10-15) và về cách thức thờ phượng Chúa Cha (4,20-24) kết thúc bằng niềm tin của những người Sa-ma-ri (4,39-42). Đây là trình thuật điển hình về “tin nhờ lời Đức Giê-su”. Thật vậy, sau cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri (4,5-25), người thuật chuyện kể về phản ứng của người phụ nữ ở 4,28-29: “28 Vậy người phụ nữ để lại vò nước của mình đi vào thành và nói với mọi người: 29 ‘Hãy đến và xem một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm, Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?’” Nhờ lời này mà dân thành Xy-kha đến gặp Đức Giê-su và sau đó người thuật chuyện cho biết: “Trong thành đó, nhiều người Sa-ma-ri đã tin vào Người, nhờ lời người phụ nữ làm chứng rằng: ‘Ông ấy nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm’” (4,29). Đây là trường hợp nhiều người tin vào Đức Giê-su nhờ lời chứng của người khác, cụ thể là nhờ lời chứng của người phụ nữ Sa-ma-ri. Chị ấy giữ vai trò sứ giả (báo cho biết) và là chứng nhân (làm chứng về Đức Giê-su).
Câu chuyện còn đi xa hơn khi kết thúc ở 4,40-42: “40 Vậy khi những người Sa-ma-ri đến với Người, họ xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. 41 và nhiều người hơn nữa đã tin, nhờ lời của Người. 42 Họ nói với người phụ nữ rằng: ‘Không còn phải vì lời của chị mà chúng tôi tin. Vì chính chúng tôi đã nghe và đã biết rằng Người thật là Đấng cứu độ thế gian.’” Nhờ lời người phụ nữ, “nhiều người” đã tin vào Đức Giê-su” (4,39), và sau khi Đức Giê-su ở lại với những người Sa-ma-ri hai ngày, “nhiều người hơn nữa” đã tin (4,41) nhờ chính lời của Đức Giê-su. Như thế, người tin đã nhiều hơn trước đây và là “tin nhờ lời Đức Giê-su”. Điều đáng chú ý là Đức Giê-su không làm dấu lạ nào ở Sa-ma-ri, Người chỉ nói chuyện, trao đổi và ở lại với họ. Vì thế, đây là trình thuật điển hình về “tin vào Đức Giê-su” nhờ “lời người khác” và nhờ “lời Đức Giê-su”.
c) Tin đích thực nhờ lời các môn đệ
Cuối sứ vụ công khai, trước khi Đức Giê-su đi về với Cha của Người qua biến cố Thương Khó – Phục Sinh, Đức Giê-su ngỏ lời với Cha trước sự hiện diện của các môn đệ ở 17,18: “Như Cha đã sai Con đến thế gian, Con cũng sai họ [các môn đệ] đến thế gian.” Qua lời này, Đức Giê-su gián tiếp trao sứ vụ cho các môn đệ, họ sẽ nối tiếp sứ vụ của Đức Giê-su trong thế gian. Sau khi Phục Sinh, Đức Giê-su đã trực tiếp sai các môn đệ: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (20,21b). Trong đoạn văn 17,20-21, Đức Giê-su can thiệp với Cha của Người cho những ai tin vào Người nhờ lời các môn đệ. Đức Giê-su nói với Cha ở 17,20-21: “20 Con không chỉ can thiệp cho những người này [các môn đệ], nhưng còn cho những người tin vào Con nhờ lời của họ, 21 để tất cả nên một, lạy Cha, như Cha trong Con và Con trong Cha để họ cũng ở trong Chúng Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con.”
Tóm lại, Tin Mừng Gio-an mở đầu bằng “tin vào Đức Giê-su nhờ dấu lạ” (2,1-12), sau đó là “tin vào Đức Giê-su nhờ lời của Người” (4,1-43) và Tin Mừng kết thúc bằng “tin vào Đức Giê-su nhờ lời của các môn đệ rao giảng” (17,20). Sứ vụ các môn đệ tiếp nối sứ vụ của Đức Giê-su. Giai đoạn thứ nhất là tin vào Đức Giê-su nhờ dấu lạ và nhờ nghe lời Đức Giê-su rao giảng. Giai đoạn thứ hai là sứ vụ của các môn đệ thuộc thế hệ thứ nhất. Kết quả rao giảng giai đoạn này là các môn đệ từ thế hệ thứ hai trở đi, họ là những người “không thấy Đức Giê-su mà vẫn tin vào Người” (x. 20,29). Như thế, đề tài “tin” trong Tin Mừng Gio-an luôn hướng về tương lai. Độc giả qua mọi thời đại được mời gọi tin vào Đức Giê-su nhờ lời chứng thuật lại trong sách Tin Mừng. Người thuật chuyện đã ngỏ lời trực tiếp với độc giả về mục đích của sách Tin Mừng trong phần kết luận ở 20,30-31: “30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác trước mặt các môn đệ [của Người]; chúng không được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều đã được ghi chép là để anh em tin rằng: Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa; và nhờ tin, anh em có sự sống trong danh của Người.”
“Tin vào Đức Giê-su” là một hành trình suốt cả cuộc đời và người môn đệ được mời gọi sống niềm tin ấy trong mọi hoàn cảnh. Tin Mừng Gio-an cho thấy không dễ dàng sống tư cách người môn đệ và làm chứng cho niềm tin. Trình thuật Tin Mừng Gio-an cho thấy các môn đệ đã rơi vào tình trạng khủng hoảng niềm tin. Vì lý do gì mà các môn đệ rơi vào tình trạng khủng hoảng niềm tin và đâu là giải pháp giúp các môn đệ giữ vững niềm tin? Đề tài này sẽ được bàn đến trong một bài viết khác.
KẾT LUẬN
Phân tích trên cho thấy tầm quan trọng của động từ “tin” trong Tin Mừng Gio-an. “Tin” là một trong những từ xuất hiện nhiều nhất trong sách Tin Mừng này (99 lần). Đặc biệt đề tài “tin” xuyên suốt sách Tin Mừng. Thật vậy, lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18) định nghĩa thế nào là “tin” (1,11-13). Tiếp theo nội dung Tin Mừng cho biết thế nào là “không tin”, thế nào là “không thực sự tin” hay “chưa thực sự tin” và thế nào là “thực sự tin vào Đức Giê-su.” Cuối sách Tin Mừng Gio-an, người thuật chuyện mời gọi độc giả tin rằng: “Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa” (20,31a); và nhờ tin, độc giả sẽ có sự sống trong danh của Người (20,31b).
“TIN” là đề tài quan trọng, nhưng tin như thế nào? Tin vào ai? Và tin vào điều gì? Để “tin” con người cần mở lòng đón nhận giáo huấn của Thiên Chúa (6,45), cần được sinh ra bởi trên (3,3.7), đón nhận Đức Giê-su và bước vào tương quan lòng mến với Người. Tin vào ai? Tin Mừng mời gọi Tin vào Đức Giê-su như là Đấng từ trời xuống để ban sự sống đời đời cho người tin, Người là Đấng Chúa Cha sai đến thế gian để cứu thế gian khỏi hư mất (3,16-17). Tin vào Đức Giê-su cũng là tin vào Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su. Nội dung của niềm tin là gì? Tin Mừng Gio-an trình bày nội dung niềm tin qua công thức: “tin rằng:...” Với 9 nội dung niềm tin như đã trình bày, Tin Mừng Gio-an cho biết cách “sống”, “thực hành” và “tuyên xưng” niềm tin. Thiết nghĩ, điều quan trọng hơn cả của hành động “tin” là bước vào tương quan tình yêu, cách mới mẻ và sống động, với Đức Giê-su, với Chúa Cha và với anh chị em mình. Đó là niềm tin có khả năng đem lại “sức sống” và “sự sống” đích thực cho con người. Nhờ tin, người môn đệ được lãnh nhận sự sống đời đời ngay bây giờ, ngay đời này và sự sống ấy sẽ nên trọn vẹn trong đời sau.
Với cách trình bày chi tiết liên quan đến nhiều khía cạnh của đề tài “tin”, Tin Mừng Gio-an đã góp phần quan trọng cho độc giả qua mọi thời đại. Những ai muốn nếm hưởng sự sống đích thực nhờ “tin vào Đức Giê-su” có thể tìm đến với Tin Mừng Gio-an. Những ai muốn sống niềm tin cách sống động, muốn củng cố niềm tin đã có, hay muốn vượt qua khủng hoảng niềm tin... đều có thể tìm thấy những câu trả lời cụ thể và thiết thực trong Tin Mừng Gio-an. Với tầm quan trọng đặc biệt và xuyên suốt của đề tài “tin”, có thể gọi Tin Mừng Gio-an là “Tin Mừng của niềm tin”./.
***
MỤC TỪ NGỮ
- apistos, -on, tt., người không tin (1 lần: 20,27)
- pisteuô, đt., tin (99 lần)
- pistos, -ê, -on, tt., người tin (1 lần: 20,27)
1. pisteuô, đt., tin (99 lần)
Động từ Hy Lạp “pisteuô (tin)” (tiếng Anh: to believe; Pháp: croire) xuất hiện 99 lần và được phân bổ như sau:
Ch. 1–12: 77 lần (Sách Các dấu lạ)
Ch. 1–4: 22 lần
1,7.12.50 (3 lần)
2,11.22.23.24 (4 lần)
3,12a.12b.15.16.18a.18b.18c.36 (8 lần)
4,21.39.41.42.48.50.53 (7 lần)
Ch. 5–8: 26 lần
5,24.38.44.46a.46b.47a.47b (7 lần)
6,29.30.35.36.40.47.64a.64b.69 (9 lần)
7,5.31.38.39.48 (5 lần)
8,24.30.31.45.46 (5 lần)
Ch. 9–12: 29 lần
9,18.35.36.38 (4 lần)
10,25.26.37.38a.38b.42 (6 lần)
11,15.25.26a.26b.27.40.42.45.48 (9 lần)
12,11.36.37.38.39.42.44a.44b.46.47 (10 lần)
Ch. 13–21: 22 lần (Sách Giờ tôn vinh)
Ch. 13–17: 15 lần
13,19 (1 lần)
14,1a.1b.10.11a.11b.12.29 (7 lần)
15, động từ này không xuất hiện
16,9.27.30.31 (4 lần)
17,8.20.21 (3 lần)
Ch. 18–21: 7 lần
18, động từ này không xuất hiện
19,35 (1 lần)
20,8.25.29a.29b.31a.31b (6 lần)
21, động từ này không xuất hiện
2. apistos, -on, tt., người không tin (1 lần: 20,27)
3. pistos, -ê, -on, tt., người tin (1 lần: 20,27)
Tính từ Hy lạp “pistos” (tiếng Việt: người tin; Anh: believing; Pháp: croyant), chỉ xuất hiện 1 lần ở 20,27. Tính từ “apistos” (tiếng Việt: người không tin; Anh: unbelieving, faithless; Pháp: incroyant, incrédule) chỉ xuất hiện 1 lần ở 20,27.
Đức Giê-su Phục Sinh nói với Tô-ma ở 20,27: “Đưa ngón tay của anh vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay của anh ra và đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng trở thành người không tin (apistos), nhưng là người tin (pistos).”
***
Các bài viết liên quan:
1. Tin (Pisteuô) Trong Tin Mừng Gioan.
2. Khủng Hoảng Niềm Tin Vào Đức Giêsu Và Giải Pháp Trong Tin Mừng Gioan.
3. Không Thực Sự Và Thực Sự Đến Với Đức Giêsu, Thấy Người Và Tin Vào Người Trong Tin Mừng Gioan.