Lm. Giuse Lê Minh Thông, OP.
I. DẪN NHẬP
Trong Tự Điển Tiếng Việt, 2007, mục từ “ánh sáng” được định nghĩa như sau: (1) Dạng vật chất do vật phát ra hoặc phản chiếu trên vật, nhờ đó mắt có thể cảm thụ mà nhìn thấy vật ấy (nghĩa đen). (2) Sự soi sáng, sự hướng dẫn (nghĩa bóng). Dựa trên nghĩa tổng quát này Tin Mừng Gio-an đã xây dựng đề tài ánh sáng như thế nào? Ánh sáng trong Tin Mừng nói đến ai và nói về điều gì? Danh từ “ánh sáng” trong Tin Mừng Gio-an có thể chứa đựng nhiều nghĩa không tìm thấy trong tự điển và không có trong những bản văn khác.
Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu nghĩa của đề tài ánh sáng trong Tin Mừng Gio-an. Công việc này có thể kết luận rằng từ ngữ trong mỗi bản văn có nghĩa riêng của nó. Nghĩa của một từ được tạo nên bởi những tình tiết trong bản văn. Vì bản văn không ngừng được tạo ra nên nghĩa của từ ngữ trong bản văn cũng vô cùng phong phú và đa dạng. Bài viết này phân tích đề tài “ánh sáng” trong Tin Mừng Gio-an qua bốn mục: (1) Các nhân vật được đồng hoá với ánh sáng, (2) Sứ vụ của ánh sáng, (3) khước từ ánh sáng, (4) sự chiến thắng của ánh sáng trên bóng tối.
II. NHỮNG ĐOẠN VĂN LIÊN QUAN ĐẾN ÁNH SÁNG
Trong Tin Mừng Gio-an, xuất hiện 23 lần danh từ Hy Lạp “phôs” (ánh sáng), 2 lần động từ “phainô” (chiếu soi, toả sáng) ở 1,5; 5,35 và 1 lần động từ “phôtizô” (chiếu soi) ở 1,9. Tất cả 23 lần danh từ “phôs” (ánh sáng) xuất hiện trong 12 chương đầu sách Tin Mừng (Ga 1–12). (Xem chi tiết về đề tài ánh sáng trong các mục từ: “ánh sáng (phôs)”, “toả sáng (phainô)”, “chiếu soi (phôtizô)” trong Tin Mừng Gio-an ở phần phụ chú).
Tất cả những lần Tin Mừng Gio-an nói về đề tài ánh sáng (phôs, phainô, phôtizô) tìm thấy trong tám đoạn văn:
1) 1,1-11: Lời là ánh sáng thật
2) 3,18-21: Yêu mến bóng tối và ghét ánh sáng
3) 5,33-35: Gio-an Tẩy Giả là ánh sáng của ngọn đèn
4) 8,12: Đức Giê-su là ánh sáng của sự sống
5) 9,1-5: Đức Giê-su là ánh sáng của thế gian
6) 11,6-10: Ánh sáng của thế gian này
7) 12,35-36: Tin vào ánh sáng
8) 12,44-46: Đức Giê-su là ánh sáng đến thế gian
Dưới đây là bản văn của tám đoạn văn này:
1) Tác giả viết trong Lời tựa
1,1-11: “1 Lời có lúc khởi đầu, và Lời ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa. 2 Người ở với Thiên Chúa lúc khởi đầu. 3 Nhờ Người, mọi sự được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành 4 ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng của loài người; 5 và ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh sáng. 6 Có một người được sai đến từ Thiên Chúa, tên ông là Gio-an. 7 Ông ấy đến làm chứng. Ông làm chứng về ánh sáng, để mọi người tin nhờ ông ấy. 8 Ông ấy không phải là ánh sáng, nhưng làm chứng về ánh sáng. 9 Người [Logos] là ánh sáng thật, ánh sáng chiếu soi mọi người, đến trong thế gian. 10 Người ở trong thế gian, thế gian được tạo thành nhờ Người và thế gian đã không nhận biết Người. 11 Người đã đến nhà mình, và những kẻ thuộc về Người đã không đón nhận Người.”
2) Diễn từ của Đức Giê-su
3,18-21: “18 Ai tin vào Người [Con Một Thiên Chúa] thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa. 19 Đây là án xử: Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã yêu mến bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc của họ thì xấu xa. 20 Vì mọi kẻ làm sự dữ thì ghét ánh sáng và không đến với ánh sáng để các việc của họ khỏi bị chê trách. 21 Nhưng kẻ làm sự thật thì đến với ánh sáng để các việc của người ấy được bày tỏ ra là đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
3) Đức Giê-su nói với người Do Thái về Gio-an
5,33-35: “33 Chính các ông đã cử người đến với Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. 34 Phần Tôi, Tôi không nhận lời chứng do người phàm, nhưng Tôi nói những điều này để chính các ông được cứu. 35 Ông ấy là ngọn đèn được thắp lên và toả sáng, chính các ông đã muốn hoan hỷ một thời gian trong ánh sáng của ông ấy.”
4) Đức Giê-su nói với những kẻ chống đối
8,12: “Đức Giê-su lại nói với họ rằng: ‘Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống.’”
5) Đức Giê-su nói với các môn đệ về anh mù
9,1-5: “1 Đi ngang qua, Người [Đức Giê-su] thấy một người mù từ thuở mới sinh. 2 Các môn đệ của Người hỏi Người rằng: ‘Thưa Ráp-bi, ai đã phạm tội, anh ta hay cha mẹ anh ta, để anh ta sinh ra đã bị mù?’ 3 Đức Giê-su trả lời: ‘Không phải anh ta đã phạm tội, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta, nhưng để công việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh ta. 4 Chúng ta phải làm công việc của Đấng đã sai Thầy khi còn là ngày; đêm đến thì không ai có thể làm việc được. 5 Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng của thế gian.’”
6) Trao đổi giữa Đức Giê-su và các môn đệ
11,6-10: “6 Tuy nhiên, sau khi nghe rằng anh ấy [La-da-rô] bệnh, Người [Đức Giê-su] còn ở lại nơi Người đang ở thêm hai ngày. 7 Sau điều đó, Người nói với các môn đệ: ‘Chúng ta cùng trở lại Giu-đê.’ 8 Các môn đệ nói với Người: ‘Thưa Ráp-bi, mới đây những người Do Thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại đi đến đó sao?’ 9 Đức Giê-su trả lời: ‘Ban ngày chẳng có mười hai giờ sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này. 10 Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã vì ánh sáng không ở trong người ấy.’”
7) Đức Giê-su nói với đám đông vào cuối sứ vụ
12,35-36: “35 Đức Giê-su nói với họ: ‘Còn một ít thời gian nữa, ánh sáng ở giữa các người. Hãy bước đi khi các người có ánh sáng, để bóng tối không bắt được các người. Ai đi trong bóng tối thì không biết mình đi đâu. 36 Khi các người có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng.’ Đức Giê-su đã nói những điều đó rồi Người bỏ đi và lánh khỏi họ.”
8) Đức Giê-su tóm kết sứ vụ công khai
12,44-46: “44 Đức Giê-su đã lớn tiếng nói: “Người tin vào Tôi, không phải là tin vào Tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai Tôi, 45 và ai thấy Tôi là thấy Đấng đã sai Tôi. 46 Tôi là ánh sáng đến trong thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi thì không ở lại trong bóng tối.’”
III. ĐỒNG HÓA VỚI ÁNH SÁNG
Tin Mừng Gio-an đồng hoá ba nhân vật với ánh sáng: Logos (Lời), Đức Giê-su và Gio-an Tẩy Giả. Trong Lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18) Đức Giê-su là Lời (Logos) đã trở thành người phàm (1,14). Trong sứ vụ công khai, ba lần Đức Giê-su đồng hoá Người với ánh sáng (8,12; 9,5; 12,46).
1) Tác giả đồng hoá Logos với ánh sáng (1,4.5.9)
Trong Lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18), tác giả đồng hoá ánh sáng với Logos (Lời) qua hai bước.
a) Sự sống là ánh sáng (1,4)
Trong bước thứ nhất, sự sống được đồng hoá với ánh sáng ở 1,4b: “Sự sống là ánh sáng của loài người.” Tuy nhiên ở 1,3b-4a, tác giả viết: “3b Điều đã được tạo thành 4a ở nơi Người [Logos] là sự sống.” Sự sống là biểu hiện của Logos, nên một cách mặc nhiên, Logos (Lời) đồng hoá với ánh sáng. Sự đồng hoá minh nhiên giữa Logos và ánh sáng tìm thấy ở 1,9. Cụm từ “Sự sống là ánh sáng của loài người” (1,4b) gợi đến kiểu nói “ánh sáng của sự sống” ở 8,12e.
b) Logos là ánh sáng (1,9)
Trong bước thứ hai, Logos (Lời) được đồng hoá với ánh sáng cách minh nhiên ở 1,9: “Người [Logos] là ánh sáng thật, ánh sáng chiếu soi mọi người, đến trong thế gian.” Sự đồng hoá với ánh sáng còn được diễn tả bằng những đặc tính của ánh sáng: “Ánh sáng của loài người” (1,4b), “ánh sáng thật” (1,9a), ánh sáng “đến trong thế gian” (1,9c), “chiếu soi mọi người” (1,9b) và “chiếu soi trong bóng tối” (1,5a).
2) Đức Giê-su là ánh sáng (8,12; 9,5; 12,46)
Ba lần trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su tự đồng hoá mình với ánh sáng (8,12; 9,5; 12,46) bằng kiểu nói đặc thù của Tin Mừng Gio-an: “Tôi là... (egô eimi)”. Xem phân tích chi tiết về “Đức Giê-su là ánh sáng” trong bài viết: “Ánh sáng và bóng tối trong Tin Mừng Gio-an.” Trong bối cảnh tranh luận với những kẻ chống đối, Đức Giê-su nói với họ ở 8,12: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống.”
Ở 9,5, Đức Giê-su tuyên bố trước các môn đệ rằng: “Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng của thế gian.” Lời này định nghĩa sứ vụ của Đức Giê-su trong thế gian như một ngày làm việc, vì Đức Giê-su nói ở 9,4: “Chúng ta phải làm công việc của Đấng đã sai Thầy khi còn là ngày; đêm đến thì không ai có thể làm việc được.” “Ngày” là lúc Đức Giê-su thực hiện sứ vụ công khai của Người, “đêm” là biểu tượng của sự chết.
Cuối ch. 12, trong những lời cuối cùng của Đức Giê-su để kết thúc sứ vụ công khai, Người lại khẳng định Người là ánh sáng và mời gọi độc giả tin vào Người. Đức Giê-su tuyên bố: “Tôi là ánh sáng đến trong thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi thì không ở lại trong bóng tối” (12,46).
3) Gio-an Tẩy Giả và ánh sáng (1,7.8; 5,35)
Có hai khẳng định xem ra trái ngược nhau liên quan đến Gio-an Tẩy Giả và ánh sáng. Ở 1,7.8, tác giả quả quyết Gio-an Tẩy Giả không phải là ánh sáng. Trong khi ở 5,35, Đức Giê-su lại nói Gio-an Tẩy Giả là ánh sáng. Chúng ta quan sát những câu trên để hiểu tương quan giữa Gio-an Tẩy Giả và ánh sáng trong mạch văn. Xem “Gio-an Tẩy Giả là ánh sáng (5,35)” trong bài viết: “Ở Ga 1,21 Gio-an Tẩy Giả không phải là Ê-li-a, nhưng ở Mt 17,13 Gio-an là Ê-li-a, mâu thuẫn hay bổ sung lẫn nhau?”
a) Gio-an Tẩy Giả không phải là ánh sáng (1,8)
Trong Tin Mừng Gio-an, Gio-an Tẩy Giả xuất hiện lần đầu tiên ở Lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18). Hai đoạn văn nói về vai trò của Gio-an Tẩy Giả (1,6-8; 1,15), được chèn vào Lời tựa (1,1-18) cho thấy tầm quan trọng của nhân vật này qua vai trò làm chứng. Tuy nhiên, tác giả khẳng định cách rõ ràng: Gio-an Tẩy Giả không phải là ánh sáng (1,8a) và nhấn mạnh vai trò của Gio-an bằng cách lặp lại hai lần: Gio-an đến “làm chứng cho ánh sáng” (1,7.8b). Trong bối cảnh đoạn văn 1,1-9, việc khẳng định Gio-an Tẩy Giả không phải là ánh sáng là điều cần thiết bởi vì ánh sáng được đồng hoá với Logos–Giê-su.
b) Gio-an Tẩy Giả là ánh sáng (5,35)
Trong một bối cảnh khác, Gio-an Tẩy Giả được Đức Giê-su đồng hoá với ánh sáng (5,35). Khi những người Do Thái đang tìm cách giết Đức Giê-su (5,18), Người nói với họ diễn từ về “những việc của người Con” (5,19-29) và tiếp theo đó, Đức Giê-su liệt kê một loạt các lời chứng về Người (5,30-47). Trong đoạn văn này, Người nói đến lời chứng của Gio-an Tẩy Giả ở 5,33-35. Ở 5,35a, Đức Giê-su nói Gio-an là “ngọn đèn được thắp lên và toả sáng.” Động từ “toả sáng (phainô)” chỉ xuất hiện hai lần trong Tin Mừng Gio-an (1,5; 5,35a). Lần thứ nhất để nói về Logos (Lời), Lời là “ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh sáng” (1,5). Lần thứ hai nói về Gio-an Tẩy Giả, ông ấy là “ngọn đèn được thắp lên và toả sáng” (5,35a).
Ở 5,35b, Đức Giê-su nói với những người Do Thái về Gio-an Tẩy Giả: “Chính các ông đã muốn hoan hỷ một thời gian trong ánh sáng của ông ấy.” Dịch sát: “hoan hỷ một giờ (hôran) trong ánh sáng của ông ấy” (5,35b). Sứ vụ ngắn ngủi của Gio-an được ví như “ánh sáng của một giờ”, nghĩa là trong khoảng thời gian ngắn ngủi. Theo Tin Mừng Mát-thêu, Gio-an Tẩy Giả bị Hê-rô-đê bắt bỏ tù (Mt 14,3) và nhà vua đã ra lệnh chém đầu (Mt 14,9). Ở Ga 5,35b, động từ “hoan hỷ” (agalliaô) diễn tả sự kính trọng và sự đóng góp có ý nghĩa của Gio-an cho dân Ít-ra-en. Đức Giê-su đề cao vai trò của Gio-an bằng cách dùng biểu tượng ánh sáng để nói về ông. Gio-an Tẩy Giả là ngọn đèn toả sáng qua việc làm chứng cho “ánh sáng đích thực” là Đức Giê-su.
IV. SỨ VỤ CỦA ÁNH SÁNG
1) Ánh sáng đến chiếu soi thế gian
Tin Mừng Gio-an dùng nhiều cách diễn tả tương quan giữa ánh sáng và thế gian: Ánh sáng “đến trong thế gian” (1,9c; 3,19; 12,46a) để “chiếu soi mọi người” (1,9b). Ánh sáng được xác định là “ánh sáng của loài người” (1,4b), “ánh sáng của thế gian” (9,5b). Như thế, Logos–Giê-su là ánh sáng và có sứ vụ cụ thể trong thế gian. Đó là chiếu soi mọi người qua sự hiện diện và giáo huấn của Người.
2) Mời gọi “đến với” và “tin” vào ánh sáng
Đức Giê-su là ánh sáng, Người thi hành sứ vụ trong thế gian bằng lời nói và việc làm của Người. Người mời gọi thính giả và độc giả “làm sự thật” và “đến với ánh sáng” (3,21a), “đi theo” Người (8,12c) để “không bước đi trong bóng tối” (8,12d) và “có ánh sáng của sự sống” (8,12e). Đức Giê-su đề nghị với đám đông bước đi trong ánh sáng khi ánh sáng còn ở giữa họ (12,35a). Người mời gọi họ “tin vào ánh sáng” để “trở nên con cái ánh sáng” (12,36a). Như thế, người tin vào Đức Giê-su thì không ở lại trong bóng tối (12,46b). Ở 11,9-10, Đức Giê-su nói đến những ai “thấy ánh sáng của thế gian này” thì không vấp ngã, còn những ai “ánh sáng không ở trong người ấy” thì vấp ngã. Nghĩa là “thấy Đức Giê-su” và “có Đức Giê-su ở với mình” thì sẽ vững vàng tiến bước trong ánh sáng của sự sống.
Tóm lại, với nhiều động từ liên kết với ánh sáng, Đức Giê-su mời gọi thính giả và độc giả hãy...
- ĐẾN VỚI ánh sáng (3,21b)
- ĐI THEO ánh sáng (8,12c)
- CÓ ánh sáng của sự sống (8,12e)
- THẤY ánh sáng của thế gian này (11,9e)
- Ở trong ánh sáng (11,10c)
- BƯỚC ĐI trong ánh sáng (12,35b)
- TIN vào ánh sáng (12,36b.46b)
- TRỞ THÀNH con cái ánh sáng (12,36c)
- KHÔNG BƯỚC ĐI trong bóng tối (8,12c)
- KHÔNG Ở LẠI trong bóng tối (12,46d).
V. KHƯỚC TỪ ĐẾN VỚI ÁNH SÁNG
Theo Tin Mừng Gio-an, những ai từ chối mời gọi của Đức Giê-su trên đây là tự mình lựa chọn “bước đi trong bóng tối” (8,12c) và “ở lại trong bóng tối” (12,46d). Việc khước từ ánh sáng đã được nói đến trong Lời tựa (1,1-18). Logos–lumière ở trong thế gian nhưng thế gian đã không nhận biết Người (1,10). “Người đã đến nhà mình, và những kẻ thuộc về Người đã không đón nhận Người” (1,11).
Trong sứ vụ công khai của Đức Giê-su, việc từ chối đến với ánh sáng tỏ lộ cách rõ ràng nơi những kẻ chống đối. Ở 3,18, Đức Giê-su nói đến sự “tự mình xét xử (auto jugement).” Điều này được áp dụng cho những ai không tin vào ánh sáng. Đức Giê-su tuyên bố ở 3,18: “Ai tin vào Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa.” Đức Giê-su cho biết lý do tại sao người ta khước từ ánh sáng trong câu tiếp theo 3,19: “Đây là án xử: Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã yêu mến bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc của họ thì xấu xa.”
Trong Tin Mừng Gio-an, kiểu nói: “Các việc xấu xa” có nghĩa thần học. “Việc xấu xa” trong Tin Mừng Gio-an nói đến hành động thù nghịch và ý định tìm giết Đức Giê-su (5,18; 8,37.40). Hành động này là quyết định khước từ ánh sáng ở cấp độ cao nhất. Đó là những người đã lựa chọn “yêu mến bóng tối” (3,19) và “ghét ánh sáng” (3,20). Đức Giê-su cho biết ở 3,20: “Mọi kẻ làm sự dữ thì ghét ánh sáng và không đến với ánh sáng để các việc của họ khỏi bị chê trách.”
Lời tuyên bố của Đức Giê-su về sự khước từ tin vào Người (3,18-19) được thực hiện qua sự thù ghét của thế gian, được nói đến trong đoạn văn 15,18–16,4a. Thực vậy, thế gian “yêu thích” những gì thuộc về nó (15,19) và “ghét” Chúa Cha, “ghét” Đức Giê-su (15,23.24) và “ghét” các môn đệ của Người (15,18.19). Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 15,18: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước.” Ở 7,1-7, những người Do Thái ghét Đức Giê-su và tìm cách làm hại Người. Còn các thượng tế, và những người Pha-ri-sêu thì tìm cách bắt Người (7,45-46). Vì thế những kẻ chống đối Đức Giê-su và bách hại các môn đệ trong Tin Mừng Gio-an là những người Do Thái, những người Pha-ri-sêu và các thượng tế. Họ là những người từ chối đến với ánh sáng, từ chối tin vào ánh sáng và tìm cách dập tắt ánh sáng.
VI. SỰ CHIẾN THẮNG CỦA ÁNH SÁNG TRÊN BÓNG TỐI
Khi tìm giết Đức Giê-su, những kẻ chống đối đã “yêu mến bóng tối” và thuộc về bóng tối. Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối trong bối cảnh vụ kiện là đề tài quan trọng trong Tin Mừng Gio-an. Chiến thắng của ánh sáng trên bóng tối đã nói đến ngay trong Lời tựa sách Tin Mừng: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh sáng” (1,5). Tuy nhiên sự chiến thắng này được trình bày cách nghịch lý. Thực vậy, trong Tin Mừng Gio-an “ánh sáng – Giê-su” sẽ không còn chiếu sáng nữa. Đức Giê-su nói với đám đông ở cuối sứ vụ công khai: “35 Còn một ít thời gian nữa, ánh sáng ở giữa các người. Hãy bước đi khi các người có ánh sáng, để bóng tối không bắt được các người. Ai đi trong bóng tối thì không biết mình đi đâu. 36 Khi các người có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng” (12,35-36). Như vậy, cuối ch. 12, “ánh sáng–Giê-su” chỉ còn một ít thời gian nữa thôi. Những kẻ chống đối và khước từ ánh sáng sẽ thành công trong việc loại trừ ánh sáng khỏi thế gian. “Đức Giê-su–ánh sáng” sẽ chết trên thập giá. Vậy phải hiểu sự chiến thắng của ánh sáng trên bóng tối trong Tin Mừng Gio-an theo nghĩa nào?
Trong suốt sứ vụ công khai của Đức Giê-su, những kẻ chống đối Người đã nhiều lần muốn bắt “Đức Giê-su – ánh sáng” nhưng họ không thực hiện được. Người thuật chuyện cho biết ở 7,30: “Bấy giờ họ tìm bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay trên Người, vì giờ của Người chưa đến.” Cuối sứ vụ, Đức Giê-su nói với những người Pha-ri-sêu ở 10,17-18: “17 Vì điều này mà Cha yêu mến Tôi: Tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại nó. 18 Không ai lấy nó khỏi Tôi, nhưng chính Tôi tự mình hy sinh nó. Tôi có quyền hy sinh nó và Tôi có quyền lấy lại nó. Tôi đã nhận mệnh lệnh này từ nơi Cha của Tôi.” Lời mặc khải này cho thấy, Đức Giê-su tự hiến dâng mạng sống mình vì yêu mến Cha của Người và vì yêu mến các môn đệ cho đến cùng (cf. 13,1; 14,31). Không một ai có thế lấy đi mạng sống của Người được.
Quyền năng của Đức Giê-su trên đây tỏ lộ trong lúc các thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pha-ri-sêu đến bắt Người trong thửa vườn bên kia thung lũng Kít-rôn (18,1-3). Người thuật chuyện kể ở 18,4-6: “4 Đức Giê-su biết mọi sự sắp xảy đến cho mình, Người đi ra và nói với họ: ‘Các anh tìm ai?’ 5 Họ trả lời Người: ‘Giê-su người Na-da-rét.’ Người nói với họ: ‘Chính là Tôi.’ Giu-đa, kẻ nộp Người, đứng với họ. 6 Khi Người vừa nói: ‘Chính là Tôi’ họ lùi lại và ngã xuống đất.” Chỉ với hai chữ Đức Giê-su nói ra: “Chính là Tôi (egô eimi)” mà những kẻ đến bắt đã “lùi lại và ngã xuống đất” (18,6). Tương quan lực lượng như thế thì họ không thể tra tay bắt Đức Giê-su được. Sở dĩ việc “cơ đội và viên chỉ huy cùng các thuộc hạ của những người Do Thái bắt Đức Giê-su và trói Người lại” (18,12) đã xảy ra là vì chính Đức Giê-su để cho họ làm như thế. Câu chuyện cho thấy rõ ràng quyền năng của ánh sáng mạnh mẽ hơn quyền lực của bóng tối.
Trong viễn cảnh này, cái chết của Đức Giê-su trở thành sự kết án cho thủ lãnh của thế gian này. Đức Giê-su cho các môn đệ biết về hoạt động của Đấng Pa-rác-lê ở 16,8-11: “8 Khi Đấng ấy đến [Đấng Pa-rác-lê], Người sẽ chứng minh thế gian sai lầm về tội, về sự công chính và về sự xét xử. 9 Về tội: Họ không tin vào Thầy. 10 Về sự công chính: Thầy đi về với Cha, và anh em không còn thấy Thầy. 11 Về sự xét xử: Thủ lãnh của thế gian này đã bị xét xử.” Theo Tin Mừng Gio-an, biến cố Thương Khó của Đức Giê-su được hiểu là biến cố Người về với Cha của Người (16,10b) và qua cuộc Thương Khó, thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử (16,11b). Đồng thời Đức Giê-su đã chiến thắng thế gian như người đã khích lệ các môn đệ ở 16,33: “Những điều này, Thầy nói với anh em để trong Thầy, anh em có sự bình an. Trong thế gian, anh em có sự khốn khó, nhưng anh em hãy can đảm, chính Thầy đã thắng thế gian.”
Tóm lại, theo thần học Gio-an, ánh sáng đã chiến thắng bóng tối cách nghịch lý. Ánh sáng đã ngự trị trên bóng tối ngay khi ánh sáng bị giập tắt. Trên bình diện trần thế và lịch sử, ánh sáng đã tắt với cái chết của Đức Giê-su trên thập giá. Nhưng trên bình diện mặc khải và thần học, sự chết của Đức Giê-su–ánh sáng là biến cố tôn vinh. Qua sự chết, Đức Giê-su về với Cha của Người, Người được tôn vinh trong vinh quang của Chúa Cha và ánh sáng đã mãi mãi chiến thắng bóng tối.
VII. KẾT LUẬN
Những quan sát bản văn trên cho thấy sự độc đáo của Tin Mừng Gio-an trong cách xây dựng đề tài “ánh sáng”. Đó là sự phong phú về ý nghĩa của một đề tài trong một bản văn cụ thể: Tin Mừng Gio-an. Nhiều nhân vật được đồng hoá với ánh sáng: Logos (Lời), Đức Giê-su, Gio-an Tẩy Giả. Sự đồng hoá này cho phép hoán chuyển lẫn nhau giữa Đức Giê-su và ánh sáng. Sứ vụ của Đức Giê-su là sứ vụ của ánh sáng, vì Đức Giê-su là ánh sáng. Ánh sáng đến thế gian để chiếu soi nhân loại. Sự vụ này quy vào lời mời gọi trọng yếu: “Tin” vào Đức Giê-su và “tin” vào giáo huấn của Người để có sự sống đời đời, ngay từ bây giờ, ngay trong cuộc sống trần thế này. Lời mời gọi này được diễn tả bằng nhiều động từ: “Thấy”, “đến với”, “đi theo” và “có” ánh sáng; “ở trong” ánh sáng, “bước đi” trong ánh sáng, “tin vào” ánh sáng và “trở thành” con cái ánh sáng. Lời đề nghị “đến với ánh sáng” là để con người thoát ra khỏi bóng tối, nghĩa là để “không bước đi” và “không ở lại” trong bóng tối.
Đức Giê-su mời gọi thính giả và độc giả đến với ánh sáng. Người không áp đặt hay làm áp lực để buộc người ta đến với ánh sáng. Vì thế, có những người tin vào Đức Giê-su, nhưng cũng có những kẻ từ chối tin vào Người. Trong bối cảnh vụ kiện giữa “ánh sáng” và “bóng tối”, sự khước từ ánh sáng ở cấp độ cao nhất diễn tả bằng lựa chọn “yêu mến bóng tối” và “ghét ánh sáng” (3,19-20). Khi tìm giết Đức Giê-su, những kẻ chống đối đã thuộc về bóng tối, thuộc về quỷ (8,44). Họ đã thành công trong việc loại trừ ánh sáng ra khỏi thế gian. Đức Giê-su là ánh sáng, nhưng đã chết trên thập giá. Tuy nhiên, Đức Giê-su mặc khải cho độc giả biết sự thật sâu xa: Một cách nghịch lý, ánh sáng đã mãi mãi chiến thắng bóng tối. Ánh sáng đã được tôn dương và tôn vinh trong chính khi ánh sáng tắt đi trên thập giá. Đó cũng là lúc mà thủ lãnh của thế gian này bị kết án và hoàn toàn thất bại (16,11).
Cách dùng đa dạng, ý nghĩa phong phú của đề tài ánh sáng cho thấy sự độc đáo của Tin Mừng Gio-an. Dùng ánh sáng để diễn tả những điều trên đây thì chỉ có trong Tin Mừng Gio-an. Mỗi sách Tin Mừng sử dụng từ ngữ và xây dựng đề tài theo cách thức riêng, nên nghĩa của các từ ngữ cũng khác nhau trong những bản văn khác nhau. Có thể nói, tra tự điển để biết nghĩa của một từ trong một bản văn nào đó là chưa đủ để hiểu hết ý nghĩa của từ ấy trong bản văn cụ thể. Cần đọc chính bản văn để xem nghĩa của từ ngữ ấy được xây dựng như thế nào trong bản văn đó. Ý nghĩa đề tài ánh sáng như trên không tìm thấy trong các tự điển đại cương. Cần đọc Tin Mừng để hiểu ý nghĩa của từ ngữ trong bản văn Tin Mừng. Bài viết cho thấy đề tài ánh sáng trong Tin Mừng Gio-an là một trong những đóng đóp quý báu và độc đáo cho cuộc đời của độc giả và cho nền thần học chung của Tân Ước./.
***
PHỤ CHÚ
CÁC MỤC TỪ LIÊN QUAN
A. Phôs (ánh sáng), Phainô (toả sáng), Phôtizô (chiếu soi) trong Tin Mừng Gioan
I. ÁNH SÁNG, dt., phôs, trong Tin Mừng Gioan
Danh từ Hy Lạp: “phôs” (tiếng Việt: ánh sáng; Anh: light; Pháp: lumière) xuất hiện 23 lần trong Tin Mừng Gio-an và chỉ xuất hiện trong 12 chương đầu (Ga 1–12).
Danh từ “ánh sáng” xuất hiện 23 lần ở các nơi: 1,4.5.7.8a.8b.9; 3,19a.19b.20a.20b.21; 5,35; 8,12a.12b; 9,5; 11,9.10; 12,35a.35b.36a.36b.36c.46.
Danh từ “phôs” (ánh sáng) xuất hiện nhiều nhất trong các chương: ch. 1 (6 lần); ch. 3 (5 lần) và ch. 12 (6 lần).
Phần thứ hai của sách Tin Mừng (Ga 13–21) không xuất hiện danh từ “phôs”. Trong Tin Mừng Gio-an, danh từ “ánh sáng” được dùng theo nghĩa đen, nghĩa biểu tượng và nghĩa thần học. Đề tài “ánh sáng” trong Gio-an sẽ được trình bày theo năm mục:
1) Lời là ánh sáng (4 lần: 1,5.7.8b.9)
2) Đức Giê-su là ánh sáng (3 lần: 8,12a; 9,5; 12,46)
3) Ánh sáng gợi ý về chính Đức Giê-su (12 lần: 3,19a.19b.20a.20b.21; 11,9.10; 12,35a.35b.36a.36b.36c)
4) Ánh sáng và sự sống (2 lần: 1,4; 8,12b)
5) Ánh sáng và Gio-an Tẩy Giả (2 lần: 1,8a; 5,35)
1) Lời là ánh sáng (4 lần)
Danh từ “ánh sáng” (phôs) được đồng hoá với “Lời” (Logos), xuất hiện 4 lần (1,5.7.8b.9) trong lời tựa sách Tin Mừng (1,1-18). Ở 1,9 Lời (Logos) được đồng hoá với ánh sáng. Người thuật chuyện viết: “Người (Logos) là ánh sáng (phôs) thật, ánh sáng chiếu soi mọi người, đến trong thế gian” (1,9). Ba nơi khác (1,5.7.8b) “ánh sáng” được gián tiếp đồng hoá với Lời (Logos): “Ánh sáng (phôs) chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh sáng” (1,5); “Ông (Gio-an) làm chứng về ánh sáng, để mọi người tin nhờ ông ấy” (1,7) ; “Ông ấy (Gio-an) không phải là ánh sáng, nhưng làm chứng về ánh sáng (phôtos)” (1,8). Vì “Lời” chính là Đức Giê-su, nên Lời là ánh sáng sẽ được đồng hoá với Đức Giê-su trong nội dung sách Tin Mừng.
2) Đức Giêsu là ánh sáng (3 lần)
Nghĩa thần học của từ “ánh sáng” được trình bày cách minh nhiên qua sự đồng hóa giữa Đức Giê-su và ánh sáng. Trong Tin Mừng Gio-an, ba lần (8,12a; 9,5; 12,46) Đức Giê-su tuyên bố chính Người là ánh sáng với kiểu nói đặc trưng: “Tôi là…” (egô eimi…):
(a) Lần thứ nhất (8,12a), Đức Giê-su nói với những kẻ chống đối trong bối cảnh tranh luận: “Chính Tôi là ánh sáng (phôs) của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống” (8,12).
(b) Lần thứ hai (9,5) Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy là ánh sáng (phôs) của thế gian” (9,5). Đức Giê-su là ánh sáng của thế gian, nên Người làm cho người mù từ thuở mới sinh được thấy (Ga 9). Nhưng sự thấy đích thực của người mù chỉ được tỏ lộ vào cuối ch. 9 khi anh ta gặp Đức Giê-su và tuyên xưng lòng tin vào Người: “Tôi tin, thưa Ngài” (9,38). Như thế, theo Tin Mừng Gio-an, “thấy thực sự” đồng nghĩa với “tin vào Đức Giê-su”.
(c) Lần thứ ba (12,46), Đức Giê-su vừa đồng hóa mình với ánh sáng, vừa nối kết với hành động “tin”. Trong phần tóm kết Sách các dấu lạ (Ga 1–12), Đức Giê-su tuyên bố ở 12,46: “Tôi là ánh sáng (phôs) đến trong thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi thì không ở lại trong bóng tối.” (Tin Mừng Gio-an được chia làm hai phần lớn. (1) Ga 1–12: Sách các dấu lạ, thuật lại các dấu lạ; (2): Ga 13–21: Sách Giờ Tôn Vinh, thuật lại biến cố Thương khó – Phục Sinh của Đức Giê-su).
Tóm lại, cả 3 lần Đức Giê-su đồng hóa mình với ánh sáng và hàm ẩn lời mời gọi tin: (a) Tin vào Đức Giê-su thì có ánh sáng và không bị vấp ngã (8,12a). (b) Tin vào Đức Giê-su thì thực sự thấy ánh sáng (9,5.38). (c) Tin vào Đức Giê-su thì không ở lại trong bóng tối (12,46). Còn nhiều nơi khác trong Tin Mừng Gio-an dùng từ ánh sáng để nói về Đức Giê-su.
3) Ánh sáng hàm ẩn Đức Giêsu (12 lần)
Phần lớn cách dùng từ “ánh sáng” trong Tin Mừng Gio-an (12 lần) gợi đến chính Đức Giê-su. Cách dùng này xuất hiện ở 3 đoạn văn: (a) 3,19-21 (5 lần: 3,19a.19b.20a.20b.21); (b) 11,9-10 (2 lần: 11,9.10); (c) 12,35-36 (5 lần: 12,35a.35b.36a.36b.36c).
a) Ga 3,19-21 (5 lần: 3,19a.19b.20a.20b.21)
Danh từ “ánh sáng” xuất hiện 5 lần trong đoạn văn 3,19-21. Trong đoạn văn 3,16-21, Đức Giê-su nói về Người và về sứ vụ của Người như sau: “3,16 Vì Thiên Chúa đã quá yêu mến thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để bất cứ ai tin vào Người thì không hư mất, nhưng có sự sống đời đời. 17 Vì Thiên Chúa không sai Con đến thế gian để lên án thế gian, nhưng để nhờ Người, thế gian được cứu. 18 Ai tin vào Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa. 19 Đây là án xử: Ánh sáng (phôs) đã đến thế gian, nhưng người ta đã yêu mến bóng tối hơn ánh sáng (phôs), vì các việc của họ thì xấu xa. 20 Vì mọi kẻ làm sự dữ thì ghét ánh sáng (phôs) và không đến với ánh sáng (phôs) để các việc của họ khỏi bị chê trách. 21 Nhưng kẻ làm sự thật thì đến với ánh sáng (phôs) để các việc của người ấy được bày tỏ ra là đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (3,16-21).
b) Ga 11,9-10 (2 lần: 11,9.10)
Trong lời Đức Giê-su tuyên bố ở Ga 11,9-10, nghĩa đen của từ “ánh sáng” gợi đến nghĩa thần học. Người nói với các môn đệ: “9 Ban ngày chẳng có mười hai giờ sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng (phôs) của thế gian này. 10 Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã vì ánh sáng (phôs) không có ở trong người ấy” (11,9-10).
Kiểu nói “thấy ánh sáng của thế gian này” (11,9) và “có ánh sáng ở nơi mình” mang nghĩa thần học vì nói về Đức Giê-su. Bao lâu Đức Giê-su còn hiện diện thì bấy lâu thế gian còn có ánh sáng. Ai tin vào Đức Giê-su thì “thấy ánh sáng” và “có ánh sáng” nên sẽ không vấp ngã. Như thế, danh từ “phôs” (ánh sáng) ở 11,9-10 vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa thần học, từ nghĩa đen của từ “ánh sáng” gợi đến nghĩa thần học của từ này.
c) Ga 12,35-36 (5 lần: 12,35a.35b.36a.36b.36c)
Trong chương cuối (ch. 12) của Sách các dấu lạ (Ga 1–12), Đức Giê-su tuyên bố với đám đông lần cuối cùng ở 12,35-36: “35 Còn một ít thời gian nữa, ánh sáng (phôs) ở giữa các người. Hãy bước đi khi các người có ánh sáng (phôs), để bóng tối không bắt được các người. Ai đi trong bóng tối thì không biết mình đi đâu. 36 Khi các người có ánh sáng (phôs), hãy tin vào ánh sáng (phôs), để trở nên con cái ánh sáng (phôtos).” Kiểu nói đặc trưng của Tin Mừng Gio-an: “Tin vào ánh sáng” và “trở nên con cái ánh sáng” (12,36) mô tả sứ vụ của Đức Giê-su. “Tin vào ánh sáng” là tin vào Đức Giê-su, “trở nên con cái ánh sáng” là trở nên môn đệ của Người.
4) Ánh sáng và sự sống (2 lần)
Trong Tin Mừng Gio-an, có hai lần (1,4; 8,12b) đề tài “ánh sáng” liên kết với đề tài “sự sống”. Trong lời tựa sách Tin Mừng, người thuật chuyện đồng hoá sự sống với ánh sáng: “Ở nơi Người (Logos) là sự sống, và sự sống (zôê) là ánh sáng (phôs) của loài người” (1,4). Ở 8,12, Đức Giê-su tuyên bố với những kẻ chống đối: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng (phôs) của sự sống (zôês)” (8,12).
5) Ánh sáng và Gioan Tẩy Giả (2 lần)
Ánh sáng và Gio-an Tẩy Giả được nói đến 2 lần (Ga 1,8a; 5,35). Ở 1,8, người thuật chuyện xác định Gio-an không phải là ánh sáng: “Ông ấy (Gio-an) không phải là ánh sáng (phôs), nhưng làm chứng về ánh sáng” (1,8). Đến 5,35 Đức Giê-su lại dùng hình ảnh “ánh sáng để nói về sứ vụ của Gio-an Tẩy Giả. Trong diễn từ độc thoại của Đức Giê-su (5,19-47), Người nói với những người Do Thái: “5,33 Chính các ông đã cử người đến với Gio-an, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. 34 Phần Tôi, Tôi không nhận lời chứng do người phàm, nhưng Tôi nói những điều này để chính các ông được cứu. 35 Ông ấy là ngọn đèn được thắp lên và toả sáng, chính các ông đã muốn hoan hỷ một thời gian trong ánh sáng (phôti) của ông ấy” (5,33-35).
Tóm lại danh từ “ánh sáng” (phôs) trong Tin Mừng Gio-an là đề tài thần học quan trọng và được triển khai trong 12 chương đầu của sách Tin Mừng (Sách các dấu lạ). Sách Tin Mừng mở đầu bằng việc đồng hoá “Lời” (logos) với “ánh sáng” (phôs), phần giữa Sách các dấu lạ (Ga 1–12) nhấn mạnh khẳng định của Đức Giê-su: Chính Người là ánh sáng cho trần gian. Đến cuối sứ vụ công khai Đức Giê-su mời gọi “Tin vào ánh sáng” và “trở nên con cái ánh sáng” (12,36). Ánh sáng là chính Đức Giê-su và ánh sáng đem đến sự sống đích thực cho con người (8,12). Gio-an Tẩy giả không phải là ánh sáng, ông đến làm chứng cho ánh sáng là Đức Giê-su. Cái chết vì lời chứng của Gio-an Tẩy Giả làm cho ông được tham dự vào ánh sáng đích thực là Đức Giê-su (5,35). Như thế, theo thần học Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su được đồng hoá với ánh sáng và ánh sáng đó là sự sống đích thực cho nhân loại. Tuy nhiên đề tài “ánh sáng” trong Tin Mừng Gio-an thường được trình bày tương phản với “bóng tối” (xem phân tích về tương quan giữa “ánh sáng” và “bóng tối” mục từ BÓNG TỐI).
II. TOẢ SÁNG, đt., phainô, trong Tin Mừng Gioan
Động từ Hy Lạp: “phainô” (tiếng Việt: toả sáng, chiếu soi; Anh: shine; Pháp: briller, luire) xuất hiện 2 lần trong Tin Mừng Gio-an ở 1,5; 5,35.
Trong lời tựa sách Tin Mừng Gio-an (1,1-18), “Lời” (Logos) được đồng hoá với “ánh sáng” và “ánh sáng chiếu soi (phainei) trong bóng tối, và bóng tối đã không lấn át được ánh sáng” (1,5). Ở 5,35, Đức Giê-su nói với những người Do Thái về ông Gio-an Tẩy Giả như sau: “Ông ấy là ngọn đèn được thắp lên và toả sáng (phainôn), chính các ông đã muốn hoan hỷ một thời gian trong ánh sáng của ông ấy” (5,35).
III. CHIẾU SOI, đt., phôtizô, trong Tin Mừng Gioan
Động từ Hy Lạp “phôtizô” (tiếng Việt: chiếu soi; Anh: give light, enlighten; Pháp: éclairer, illuminer) xuất hiện 1 lần ở 1,9.
Người thuật chuyện nói về Lời (Logos) trong lời tựa sách Tin Mừng như sau: “Người (logos) là ánh sáng (phôs) thật, ánh sáng chiếu soi (phôtizei) mọi người, đến trong thế gian” (1,9).
B. Hêmera (ngày), Nux (đêm) trong Tin Mừng Gioan
- hêmera, -as, hê, dt., ngày
- nux, nuktos, hê, dt., đêm
1. Hêmera, -as, hê, dt., ngày
Danh từ Hy lạp hêmera (ngày) xuất hiện 31 lần trong Tin Mừng Gio-an ở 1,39; 2,1.12.19.20; 4,40.43; 5,9; 6,39.40.44.54; 7,37; 8,56; 9,4.14; 11,6.9a.9b.17.24.53; 12,1.7.48; 14,20; 16,23.26; 19,31; 20,19.26.
2. Nux, Nuktos, Nê, đt., đêm
Danh từ Hy lạp nux (đêm) xuất hiện 6 lần trong Tin Mừng Gio-an ở 3,2; 9,4; 11,10; 13,30; 19,39; 21,3.
Tương phản giữa “ánh sáng ban ngày” và “bóng tối ban đêm” tìm thấy ở hai đoạn văn: 9,4-5 và 11,9-10.
C. Skotia, Skotos (bóng tối) trong Tin Mừng Gioan
- skotia, -as, hê, dt., bóng tối
- skotos, -ous, to, dt., bóng tối, tối tăm
1. Skotia, -as, hê, dt., bóng tối
Danh từ Hy Lạp “skotia” (tiếng Việt: bóng tối; Anh: darkness; Pháp: ténèbres) xuất hiện 8 lần trong Tin Mừng Gio-an: 1,5a.5b; 6,17; 8,12; 12,35a.35b.46; 20,1.
2. Skotos, -ous, to, dt., bóng tối, tối tăm
Danh từ Hy Lạp “skotos” (tiếng Việt: bóng tối, sự tối tăm; Anh: darkness; Pháp: ténèbres, obscurité) chỉ xuất hiện 1 lần ở 3,19.