Tuesday, 07 January 2020 06:32

Chúa Thánh Thần Trong Đời Sống Kitô Hữu (2) Featured

Học Viện Đaminh

 

III. NHẬN BIẾT VÀ ĐÁP LẠI LỜI GỌI MỜI TỪ CHÚA THÁNH THẦN

1. Một vài dấu hiệu để nhận biết Thánh Thần

Thánh Thần - hay Thần Khí của Thiên Chúa - là một thực tại vô hình, không ai thấy được bằng đôi mắt xác thịt và cũng không ai nghe được bằng đôi tai xác thịt. Sách GLHTCG số 687 nói rằng:

Thánh Thần mạc khải cho con người biết Thiên Chúa, biết Ðức Kitô là Ngôi Lời hằng sống, nhưng Thánh Thần lại không nói về mình. Thánh Thần đã "dùng các ngôn sứ mà phán dạy", để giúp chúng ta nghe được lời của Chúa Cha. Nhưng còn chính Người, chúng ta lại không nghe tiếng Người, chúng ta chỉ nhận biết Người qua việc Người mạc khải và chuẩn bị tâm hồn chúng ta đón nhận Ngôi Lời bằng đức tin. Thánh Thần Chân Lý “vén màn cho ta thấy” Ðức Kitô, nhưng “không nói điều gì về mình” (Ga 16,13). Một kiểu xóa mình như vậy, đúng là phong cách của Thiên Chúa, giải thích tại sao, “thế gian không thể đón nhận Người, vì thế gian không thấy và không biết Người”, còn những ai tin vào Ðức Kitô thì biết Người vì Người ở lại với họ (Ga 14, 17).[69]

Như vậy, chúng ta chỉ nhận biết Người qua việc Người mạc khải và qua những biểu hiện cụ thể của Người mà thôi. Cụ thể không có nghĩa là căn cứ vào các hoạt động bên ngoài, để nhận định sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Vì thực tế, một việc bên ngoài có thể được xem là tốt lành, nhưng được sai khiến bởi những động lực tầm thường. Tiêu chuẩn để nhận ra có sự hiện diện và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần dựa trên những cảm nghiệm nội tâm. Khi người Kitô hữu thấy mình được thúc đẩy làm một điều gì tốt, như yêu thương và hy sinh cho người khác, tha thứ những lầm lỗi cho họ, hay khi người tín hữu cảm thấy muốn cầu nguyện với Thiên Chúa… thì biết ngay và biết chắc chắn rằng Thánh Thần đang hoạt động trong họ, thúc đẩy họ làm những việc ấy. Vì không có một việc gì tốt đẹp khởi lên trong lòng người tín hữu mà không phải do Thánh Thần: “Không ai biết được những gì thuộc về Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa” (1Cr 2,11b); “Tất cả những điều ấy, cũng một Thần Khí duy nhất làm ra và phân chia cho mỗi người, như ý Thần Khí muốn” (1Cr 12,11); “Hoa quả của Thần Khí là : bác ái, hoan lạc, bình an, kiên nhẫn,, nhân hậu, hảo tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23a).[70]

Ngay từ thời các tông đồ, những biểu lộ của Thánh Thần đã cần được làm sáng tỏ. Vì thế, thánh Phaolô đã giúp cho tín hữu phân định những lẫn lộn bằng cách đưa ra một tiêu chuẩn Kitô học:[71] đó là phủ nhận quyền làm Chúa của Đức Giêsu hay nhìn nhận quyền này là một dấu hiệu chắc chắn cho biết ở đó có Thánh Thần hay không có Thánh Thần. Ngài nói: “Vì thế, tôi nói cho anh em biết: chẳng có ai phát ngôn nhờ sức Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói : “Giê-su là đồ khốn kiếp!” ; cũng không ai có thể nói rằng : “Đức Giê-su là Chúa”, nếu người ấy không nhờ sức Thánh Thần”.(1Cr 12,3). Cùng với tiêu chuẩn đó, thánh Gioan tông đồ khuyên nhủ rằng:

Anh em yêu quý, đừng bạ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy nhận định các thần khí xem thần khí nào bởi Thiên Chúa, vì có nhiều ngôn sứ giả đã xuất hiện trong thế gian. Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa : thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu Ki-tô là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa ; còn thần khí nào không tuyên xưng Đức Giê-su, thì không bởi Thiên Chúa ; đó là thần khí của tên Phản Ki-tô. Anh em đã nghe nói là nó đang tới và hiện nay nó ở trong thế gian rồi”. (1Ga 4,1-3).

Vì là sự hiệp thông sống động trong đức tin các Tông Đồ do Hội Thánh lưu truyền, nên người tín hữu nhận biết Thánh Thần nhờ và trong Hội Thánh. Sách GLHTCG số 688 đưa ra những yếu tố mà người tín hữu có thể nhận biết Thánh Thần nhờ và trong Hội Thánh:[72]

- trong Thánh Kinh được Người linh hứng;

- trong Thánh Truyền, mà các giáo phụ là những chứng nhân cho mọi thời đại.

- trong Huấn Quyền được Người trợ lực

- trong Phụng Vụ Bí Tích mà qua các lời nói và biểu tượng, Thánh Thần giúp chúng ta hiệp thông với Ðức Ki-tô.

- trong kinh nguyện, lúc Người chuyển cầu cho chúng ta.

- trong các đặc sủng và thừa tác vụ xây dựng Hội Thánh.

- trong các dấu chỉ của đời sống tông đồ và thừa sai.

Một cách cụ thể để nói về các dấu hiệu nhận biết Thánh Thần, dựa trên những cơ sở trên, ta có thể trình bày một vài điểm sau đây:

a. Hoạt động của Thần Khí Thiên Chúa

Thần Khí của Thiên Chúa làm việc của Người cách nhẹ nhàng nơi các tâm hồn lành thánh. Người đi vào cách bình an, êm ái. Người soi sáng cho người tín hữu có những tư tưởng, những tâm tình đạo đức, thậm chí nâng đỡ họ lên tới một sự chiêm niệm sâu thẳm với Thiên Chúa, đồng thời, Người cũng ban cho họ sức mạnh và lòng can đảm để vượt qua những khó khăn, nhờ đó họ mạnh mẽ để tự chiến thắng bản thân và làm vinh danh Thiên Chúa.

Trái lại, Người đối xử cứng rắn với những tâm hồn có tội và ngoan cố. Người thúc đẩy họ bằng việc “cắn rứt” lương tâm, không cảm thấy bình an trong những vinh quang trần gian và trong những hào nhoáng do của cải giàu sang, để khi họ đã kinh nghiệm được rồi, họ quay trở vào với chính nội của mình.

Đặc điểm riêng của Thần Khí Thiên Chúa là đi vào trong các linh hồn tín hữu và biến đổi họ cách trọn vẹn.[73]

b. Dấu hiệu hoạt động của Thần Khí Thiên Chúa

 Bằng các hoạt động của Thánh Thần (“Thánh Thần sẽ ngự xuống”: Lc 1,35), Thiên Chúa tạo nên những cuộc tiếp xúc với con người, hoặc bằng những cuộc hiện ra bên ngoài hay bằng một thị kiến bên trong, hoặc những mạc khải, thì Ngài đưa sự sợ hãi thâm nhập vào linh hồn con người ngay từ đầu. Nhưng nỗi sợ hãi này sẽ nhường chỗ cho bình an, niềm vui và sự an ủi thiêng liêng. Bởi vì chính Thánh Thần soi sáng, trấn an tâm hồn và làm cho tâm hồn họ chan hòa những niềm an ủi ngọt ngào, như trường hợp của Áp-ra-ham (St 15,12), Đức Ma-ri-a (x. Lc 1,30)…

c. Phân định khuynh hướng và động cơ

- Nhìn nhận những khuynh hướng

Chúng ta cần nhận thức rằng khuynh hướng thúc đẩy ước muốn yêu mến, phục vụ thường đưa đến cảm nghiệm bình an, nhưng tiêu chuẩn đáng tin cậy nhất để nhận ra sự hiện diện của Thần Khí Thiên Chúa không phải chỉ là cảm nghiệm bình an hay cảm giác được an ủi.

Trước hết chúng ta phải nhấn mạnh rằng Chúa Thánh Thần vẫn hiện diện trong chúng ta ngay khi chúng ta ước muốn yêu mến, phục vụ mà không chỉ cảm thấy được cảm giác vui thích, hay yên ủi. Chúa Thánh Thần có thể biến đổi lòng muốn của chúng ta, nhưng không luôn luôn cùng lúc biến đổi cảm giác của ta. Riêng những lúc chúng ta cảm thấy niềm an ủi cùng xảy đến với lòng ước muốn yêu mến, phục vụ Thiên Chúa và tha nhân, thì lúc đó chúng ta có thể tin nhận là Chúa Thánh Thần đang biến đổi cảm giác của chúng ta trong cảm nghiệm nội tâm của mình. Chúng ta biết rằng trạng thái cảm giác của chúng ta thay đổi hàng ngày hàng giờ. Do đó, việc cảm thấy thiếu vắng những vui thú hay an ủi ngọt ngào không thể dùng làm tiêu chuẩn xác định không có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Khi chúng ta thực tâm ước muốn yêu mến phục vụ Thiên Chúa và tha nhân ngay cả trong những khi chúng ta cảm thấy chán chường, đó là lúc chúng ta đáp lại sự soi sáng của Thần Khí  ở mức độ sâu thẳm nhất.[74]

Cảm nghiệm bình an không phải là tiêu chuẩn tốt nhất để giúp nhận ra sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Bình an đích thực[75] ở đây phải là sự bình an thâm tín cách chắc chắc rằng tất cả mọi sự đều đúng và phải lẽ giữa bản thân với Thiên Chúa và tha nhân có chết cũng chẳng sợ hoặc chẳng hối tiếc gì. Khi có sự bình an như thế, chúng ta có thể nói được rằng Chúa Thánh Thần không những chỉ biến đổi lòng ước muốn của chúng ta mà còn biến đổi cả những khía cạnh khác của lý trí chúng ta nữa.

Tuy nhiên có những lúc cảm thấy Thiên Chúa dường như quá xa cách, và lòng chúng ta cảm thấy thật trống vắng không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Những lúc đó, không những chúng ta cảm thấy không được an ủi hoặc không có sự hiện diện của Thiên Chúa mà chúng ta còn cảm thấy dường như Thiên Chúa bỏ chúng ta. Những lúc như thế, chúng ta nhớ rằng bao lâu lòng ước muốn phục vụ Thiên Chúa và tha nhân còn đó thì bấy lâu chúng ta còn ở trong vòng ảnh hưởng của Thiên Chúa. Bởi vì chúng ta phải tin nhận rằng tự sức riêng mình, chúng ta không thể có lòng ước muốn đó được. Do đó chúng ta có thể kết luận rằng có được lòng ước ao yêu mến phục vụ Thiên Chúa và tha nhân là dấu chỉ của sự hiện diện của Thần Khí  nơi chúng ta.

Lý do đặt tiêu chuẩn cho việc nhận ra sự hiện diện của Thần Khí được nói chung với việc yêu mến phục vụ Thiên Chúa và tha nhân là vì mọi tình yêu đến từ Thiên Chúa. Do đó Chúa Thánh Thần có thể được nhận ra trong tình yêu tha nhân cũng như trong tình yêu Thiên Chúa. Đức Giêsu  đã xác nhận chân lý này khi Người dạy về hai điều răn quan trọng nhất: điều răn thứ hai là yêu mến tha nhân cũng quan trọng như điều răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa (Lc 10,25-28). Đồng thời chúng ta cũng phải nhận ra rằng yêu mến tha nhân cũng đến từ yêu mến Thiên Chúa.[76]

- Chúa Thánh Thần trong các sinh hoạt hàng ngày

 Nhiều người quan niệm sự hiện diện của Thần Khí chỉ ở trong một số sinh hoạt có tính cách thiêng liêng. Nhưng Thần Khí hiện diện trong cuộc sống hằng ngày nhiều hơn người ta nghĩ. Để có được cảm nghiệm sâu xa hơn về sự hiện diện của Thần Khí trong đời sống, thiết tưởng người Kitô hữu nên duyệt qua lịch trình các hoạt động hàng ngày xem những sinh hoạt nào được thực hiện bởi lòng ước muốn yêu mến phục vụ Thiên Chúa và tha nhân, những hoạt động nào không được thực hiện theo lòng ước muốn đó. Làm điều này là vì người tín hữu muốn nhận ra sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong đời sống hằng ngày hầu giúp họ biết ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa vì những hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi mình.[77]

- Tổ chức đời sống

Qua việc ôn duyệt chương trình sinh hoạt hằng ngày, người tín hữu có thể có được cảm nghiệm về sự hiện diện hay vắng bóng của Chúa Thánh Thần trong đời sống. Tuy nhiên, để đáp lại lời mời gọi của Chúa Thánh Thần cách trọn vẹn đòi phải có hai điều kiện:

+ Điều kiện thứ nhất là người tín hữu phải tổ chức một đời sống hòa hợp với Thiên Chúa. Đời sống này không những đòi buộc họ phải chu toàn các việc làm và bổn phận của mình, mà còn đòi hỏi họ phải sống và chu toàn bổn phận ấy trong một lối sống phản ánh sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong khi thi hành bổn phận.

+ Điều kiện thứ hai là biết can đảm nhìn nhận những khuynh hướng xấu nơi bản thân: Tất cả mọi người đều cảm nghiệm thấy có những biến đổi nội tâm thường hướng chiều về đàng xấu cũng như về đàng tốt. Thực vậy, khi người ta càng suy tư nhiều về những động lực nội tâm, thì dường như họ càng thấy rõ hơn mình bị ô nhiễm bởi những ước muốn ích kỷ. Họ phải nhìn nhận sự thật là họ vẫn còn là con người và luôn bị cám dỗ.

Ước muốn yêu mến phục vụ Thiên Chúa và tha nhân phát xuất từ nội tâm là tiêu chuẩn giúp người tín hữu nhận định xem có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần hay không. Trong các sinh hoạt hằng ngày, họ cần dành thời giờ để ôn duyệt ý thức nội tâm này hầu luôn biết đặt mình trong ảnh hưởng của Thần Khí.[78]

- Thức tỉnh trong Thánh Thần

Sự thức tỉnh trong Chúa Thánh Thần là một tiến trình trên bước đường theo Đức Kitô. Có sự khác nhau giữa trước và sau thức tỉnh. Trước khi thức tỉnh, người tín hữu cố gắng theo Đức Kitô bằng cách tỏ ra trung thành trong việc tuân giữ lề luật, thực hành các giáo huấn, và bắt chước gương Đức Kitô cách máy móc vì bổn phận hay vì lề luật đòi buộc. Còn sau khi thức tỉnh, người tín hữu không những cố gắng sống theo lề luật và các giáo huấn của Đức Kitô như một đòi hỏi, mà họ còn đáp lại cách tự do và yêu mến đối với sự hướng dẫn, thúc giục của Chúa Thánh Thần ở nội tâm của mình.

Khi người Kitô hữu ý thức về Chúa Thánh Thần, chứng nghiệm được những hoạt động của Chúa Thánh Thần trong bản thân mình, trong đời sống của mình, đồng thời ngày càng vững tin vào quyền năng của Thánh Thần, thì đời sống tâm linh và siêu nhiên của người Kitô hữu sẽ phát triển mạnh mẽ. Nhờ đó họ sẽ có kinh nghiệm về Chúa Thánh Thần thật sự, vì ai tìm thì sẽ thấy (Mt 7,8). Đức tin về Thánh Thần và quyền năng của Thánh Thần được xây dựng trên những chứng nghiệm thật sự mới chắc chắn và có tác dụng thật sự trong đời sống.[79]

2. Người Kitô hữu đáp lại Chúa Thánh Thần

 Từ những hồn ân Thánh Thần ban được, người Kitô hữu đáp lại Thánh Thần bằng thái độ và hành động đối với chính Chúa Thánh Thần (tin tưởng, yêu mến Người), cũng như đối với bản thân và tha nhân.

a. Đối với Thánh Thần: Tin tưởng, yêu mến Thánh Thần

Chúa Thánh Thần luôn hiện diện trong đời sống người Kitô hữu. Đức Giêsu đã hứa: “Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác để Đấng ấy ở với anh em mãi mãi” (Ga 14,16). Vì vậy, người tín hữu phải có một niềm tin tưởng vững chắc vào Chúa Thánh Thần: tin vào sự hiện diện của Người ở khắp mọi nơi, nhất là trong tâm hồn những người công chính; tin vào những hoạt động nhiệm mầu và kỳ diệu của Người trong linh hồn.

Một niềm tin sống động vào những sự thật này sẽ cho phép người tín hữu có một sự phụng thờ Chúa Thánh Thần cho đúng. Họ bước đi trong sự hiện diện của Người, tôn vinh Người bằng một đời sống thánh thiện và luôn chạy đến xin Người nâng đỡ. Họ cùng làm việc với Người và tránh làm trở ngại cho các hành động yêu thương của Người.[80]

Không chỉ đặt niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu còn phải yêu mến Người và luôn cầu xin Người đến với tâm hồn mình.

Yêu mến Chúa Thánh Thần là tránh không làm buồn lòng Người. Thánh Phaolô căn dặn: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là ấn tín đóng trên anh em, chờ ngày cứu chuộc” (Ep 4,30). Điều làm Thánh Thần buồn nhất là tội lỗi, là khinh dể, dửng dưng, cứng lòng, giả điếc làm ngơ trước lời mời gọi của Người và lạm dụng đối với ơn thánh của Người, là chống lại với ơn thánh Người gieo vào lòng mỗi người tín hữu. Người bị đuổi ra khỏi trái tim họ khi họ phạm tội trọng, đáng lẽ họ phải thánh thiện vì họ được gọi là đền thờ của Thánh Thần: “Thật thế, Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1Cr 3,17). Có những tội đối với Chúa Thánh Thần là một sự lăng nhục hơn các tội khác. Đức Giêsu đã nói rõ về điều này: “Vì thế, tôi bảo các ông, mọi tội lỗi và lời phạm thượng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói lời chống lại Con Người thì sẽ được tha ; còn ai nói chống lại Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau.” (Mt 12,31-32).

Khi yêu mến, người Kitô hữu không những không được làm phiền lòng Chúa Thánh Thần mà còn muốn làm đẹp lòng Người. Họ phải mau lẹ và vui vẻ làm theo những ơn Người soi sáng, đồng thời, họ cần phải luôn hướng các việc làm của mình lên Chúa Thánh Thần, Chúa Cha và Chúa Con. Họ không ngừng dâng lên Người những lời ngợi khen và tri ân của mình.[81]

Việc đáp lại Chúa Thánh Thần của người Kitô hữu còn được thể hiện trước những hồng ân Thánh Thần ban cho mình. Họ không chôn cất đi mà cộng tác Người để làm triển nở trong đời sống cá nhân và tha nhân. Đó là sống theo Thánh Thần.

b. Sống theo Thánh Thần

Thần Khí là nguồn mạch và là chuẩn mực hướng dẫn đời người Kitô hữu. Thánh Phaolô đã dạy: “Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước” (Rm 5,5).

- Đối với bản thân: tích cực sửa đổi và lớn lên trong Thánh Thần

Hoạt động của Thánh Thần nơi người tín hữu không tự động, bởi vì cùng với hoạt động đó, Người không chấp nhận thái độ thụ động, trái lại, con người cần cộng tác vào bằng cách loại trừ điều gì có thể làm ngăn trở công việc của Người. Macaire l’Egyptien quả quyết ý muốn con người là chính yếu để Thiên Chúa có thể hành động nơi họ: “Có thể nói, ý muốn con người là điều kiện cốt yếu; nếu không có ý muốn này, thì một mình Người, Thiên Chúa không làm gì hết” (Bài giảng, XXXVII,10). Việc con người cộng tác với Thiên Chúa để tinh luyện tâm hồn khỏi mọi ô uế của tội lỗi và mọi tham vọng ngăn trở hình ảnh của Thiên Chúa chiếu tỏa, được truyền thống Kitô giáo gọi là “tu luyện”. Grégoire de Nysse viết: “Tâm trí con người, do tội lỗi, giống như tấm gương lộn ngược, khiến cho, thay vì phản chiếu Thiên Chúa, lại phản chiếu hình ảnh vật chất dị hình” (Việc tạo dựng con người, XII). Chính vì lẽ đó mà các tham vọng làm đảo lộn sự hòa hợp sơ khai nơi con người, khiến cho tạo vật dễ dàng và vội vàng “hưởng thụ” vật chất chóng qua thay vì Đấng Tạo Hóa, những hình bóng giả tạo thay vì nguyên hình.[82]

Chính vì vậy, Thánh Thần can thiệp vào, trợ giúp con người tái tạo nơi mình hình ảnh của Thiên Chúa, như đoạn văn rất hay của giám mục Basile d’Cesarée, tổng hợp hoạt động đó của Thánh Thần nơi các tâm hồn, tạo nên các thành quả như sau:

Về sự kết hợp thân mật của Thánh Thần với tâm hồn, điều đó không hệ tại ở sự gần gũi về nơi chốn… mà ở sự loại trừ các tham vọng. Nó tinh luyện chúng ta khỏi những ô uế do các tật xấu, tìm gặp lại vẻ đẹp của bản tính, và tái tạo nguyên hình cho ảnh thực thụ qua sự trong sạch; với điều kiện này, Đấng Bảo Trợ ngự đến. Và Người, giống như mặt trời tác động đến con mắt trong sạch, sẽ chỉ cho bạn hình ảnh của Đấng vô hình nơi Người; trong sự chiêm ngắm đầy diễm phúc về hình ảnh đó, bạn sẽ thấy vẻ đẹp vô giá về khuôn mẫu đầu tiên. Nhờ Thánh Thần, tâm hồn được nâng cao, những kẻ yếu đuối được bàn tay dẫn dắt, những người tiến bộ trở nên trọn lành.[83]

- Đối với tha nhân: yêu thương phục vụ

Tình yêu được xếp đầu trong hoa trái Thần Khí, đổ tràn trong tâm hồn người tín hữu (Rm 5,5). Như tất cả mọi hoạt động của Thiên Chúa ra bên ngoài đều được coi như trào ra từ tình yêu trao ban nội tại của Ba Ngôi, nghĩa là tất cả những gì Thiên Chúa làm trong vũ trụ và lịch sử nhân loại đều bởi Tình yêu Thánh Thần, tình yêu trao ban và đón nhận giữa Cha và Con, thì người Kitô hữu phục vụ tha nhân bằng tình yêu Thánh Thần đã được đổ tràn trong tâm hồn mình như vậy. Bởi vì chính tình yêu Thánh Thần là căn tính và lý do hiện hữu của con người: con người được dựng nên vì và cho tình yêu. Trong thư gửi tín hữu Galat, thánh Phaolô đã dạy: “…hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi” (Gl 5,14). Tình yêu Thánh Thần chính là sự chân tình, lòng thương cảm, con tim rộng mở: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ…” (Rm 12,10-11). Ðó là khả năng hiểu được nỗi đau, niềm vui của người khác: Vui với người vui, khóc với người khóc(Rm 12,15). Đây vừa là dấu chỉ của người môn đệ Ðức Kitô vừa là mệnh lệnh: Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là anh em hãy yêu thương nhau; “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12).  Tình yêu Thánh Linh vẫn được coi như Tình Yêu liên kết Cha và Con, Tình Yêu trao ban hỗ tương.

Vì thế, chỉ có Tình yêu Thánh Thần mới giúp người tín hữu chia sẻ tình yêu của mình cho người khác. Tình yêu này giữ vai trò căn bản trong đời sống Kitô hữu. Nhờ đó, toàn thể đời sống người tín hữu trở nên của lễ đẹp lòng Thiên Chúa. Quả vậy, mọi sự tốt lành, khôn ngoan ,thánh thiện đều bắt nguồn bởi Tình yêu Thánh Thần tác động lên người tín hữu làm cho họ không chỉ yêu mến Thiên Chúa, mà còn yêu thương người khác nữa.[84] Nói cách khác, tình yêu  của Thánh Thần là thầy dạy yêu mến, biến đổi người Kitô hữu bằng những đường lối riêng biệt và làm cho họ nên giống Chúa Kitô.

Thế Đức Kitô đã yêu thương như thế nào? Theo Tin mừng Nhất Lãm, mục tiêu của việc Đức Giêsu đến thế gian không phải là “được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Tinh thần phục vụ của Người được Tin mừng Gioan diễn tả cách cụ thể: “Người cúi xuống rửa chân cho các môn đệ” (Ga 13,1-17). Đức Giêsu qua Chúa Thánh Thần cũng kêu gọi các môn đệ và Hội Thánh bắt chước Người để phục vụ như vậy, vì là thái độ nền tảng và là một chọn lựa căn bản.[85]

- Phục vụ phải là thái độ nền tảng : Người Kitô hữu được mời gọi phải đặt phục vụ là thái độ nền tảng chi phối toàn bộ đời sống, từ lời nói, cử chỉ cho đến mọi quyết định và hành động. Thái độ nền tảng của người phục vụ là tự đặt mình ở dưới, là thái độ sống cho tha nhân và vì tha nhân. Muốn có thái độ nền tảng này, họ phải là những con người tràn đầy Thần Khí. Ngài sẽ khai mở lòng trí, giúp người tín hữu vượt ra khỏi chính mình (cái tôi ích kỷ), đưa họ đến với Thiên Chúa và tha nhân.

- Phục vụ là một chọn lựa: vì chúng ta có thể từ chối không phục vụ. Lựa chọn này rất cơ bản vì nó đụng tới những gì vừa thâm sâu, vừa thực tế trong cuộc đời. Sự lựa chọn này rất cam go vì nó ảnh hưởng đến tinh thần và vật chất của con người. Nó đòi sự từ bỏ thời gian, sở thích, sức khỏe và các quan hệ gia đình; và cấp độ cao nhất là sẵn sàng hy sinh mạng sống để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại.[86] Từ bỏ mạng sống mình theo như Đức Kitô đòi hỏi, biểu hiện trong thực tế bằng việc người Kitô hữu phải rất can đảm phấn đấu và nỗ lực hằng ngày mới có thể lựa chọn con đường phục vụ, sống cho Thiên Chúa và tha nhân. Vì thế, họ cần có sự giúp đỡ của Thần Khí để kiên trì bước đi trên con đường dấn thân phục vụ.

Ngoài ra, Thần Khí soi sáng để người tín hữu nhận ra các bậc thang giá trị và cấp thiết của các nhu cầu và biết được khả năng của mình hầu phục vụ tha nhân cách tích cực. Phục vụ tích cực là vừa sinh ích cho người khác và vừa tôn trọng tự do của người khác bằng thái đội khiêm tốn và âm thầm.[87] Như vậy, họ sẽ tìm thấy niềm vui hạnh phúc trong phục vụ.

KẾT LUẬN

Qua những gì đã được trình bày trên đây, ta có thể nhận thấy vai trò Chúa Thánh  Thần trong đời sống người Kitô hữu như thế nào! Ngài thực sự là tâm điểm, là hơi thở của chính người Kitô hữu. Do đó người Kitô hữu không những phải tin tưởng và yêu mến Chúa Thánh Thần, mà còn phải sống bằng Thần Khí và hít thở trong Ngài.

Trong cuộc đời mình, người tín hữu cần phải tìm gặp lại một số giá trị căn bản của đời sống mình, là được sống và rao giảng dưới ánh sáng của Thánh Thần. Như thế, người Kitô hữu sẽ không bao giờ nhấn mạnh đủ về sự kiện ơn thánh hóa. Ơn này không là một cái gì đó trừu tượng, mà là chính sự sống của Thiên Chúa kết nối người Kitô hữu nhờ ơn huệ Thánh Thần.

Ơn cứu độ không phải là hoa quả do sự chinh phục của con người. Thật vậy, nhờ ân sủng của Thánh Thần, con người đi sâu vào đời sống mới, được dẫn vào trong thực tại siêu nhiên của đời sống thần linh, thành chi thể của thân mình Đức Kitô, thành ngôi đền thở của Chúa Thánh Thần. Trong đền thờ ấy, Thánh Thần nâng cao những ước muốn của con người khiến cho họ chỉ sống và ước muốn những điều thuộc về Thánh Thần chứ không còn lo thỏa mãn những đam mê thuộc xác thịt nữa. Nhờ mối tương quan mật thiết với Thánh Thần, con người hiểu mình, biết địa vị cao cao của mình là được dựng nên gống hình ảnh cua Thiên Chúa, “là thụ tạo duy nhất ở trần gian này được Thiên Chúa dựng nên vì chính họ”.[88]

Con người nhận ra được chân giá trị của mình không chỉ hiệp thông với Ba Ngôi Thiên Chúa, mà còn hiệp thông hiệp thông với anh em đồng loại. Bởi vì khi thông ban cho con người Thánh Thần, Thiên Chúa biến đổi thế giới nội tâm của con người “ban cho họ một trái tim mới và một thần khí mới”. Một Thần Khí mới của Đấng Phục Sinh luôn tác động trên và trong họ để họ có quả tim biết trao ban, chia sẻ với người khác. Đây là không gian trách nhiệm, theo đó mỗi tín hữu được mời gọi sống phục vụ chứng tá và đức ái. Được mời gọi xây dựng những tương quan mới với chính anh em mình và với thực tại trọn vẹn, người tín hữu thực hiện căn tính của mình, được đánh giá như  một con đường tiến đến tự do qua kinh nhiệm đích thực trong Thánh Thần: đó là con đường giải thoát mình để yêu thương.

Ngày nay, người Kitô hữu đang bước đi trong một thời đại, một thế giớ đầy hy vọng và lo âu.[89] Ánh sáng và bóng tối đan xen nhau. Thế giới đang cần đến những chứng cứ sống động và cụ thể từ những người Kitô hữu, từ Giáo hội của Đức Kitô. Điều này cho thấy, người Kitô hữu không thể không gắn kết với Thánh Thần và sức năng động của Người, ngõ hầu có sức biến đổi những điều mà dưới mắt của con người không thể nào làm đảo ngược được. Điều cần thiết trước tiên là làm sao để cho Thánh Thần Thiên Chúa thấm nhuần vào từ lời nói đến hành động của người Kitô hữu để trên mọi sự người Kitô hữu ao ước được Thánh Thần Thiên Chúa và tác động của Người.

***

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

Kinh Thánh Trọn Bộ - Tân Ước và Cựu Ước. Bản dịch của Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ. Hà Nội: Tôn Giáo. 2008.

Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Bản dịch của Tổng Giáo Phận Sài Gòn. 1993.

Sách lễ Rôma, Kinh Tiền tụng IV. 2007.

Công đồng Vaticanô II. Sắc lệnh Hiệp nhất. 1960.

__________________. Sắc lệnh về Hoạt động Truyền giáo. 1965.

__________________. Hiến chế Lumen Gentium. 1964

__________________. Hiến chế Gaudium et spect. 1965.

Gioan Phaolô II. Tông huấn Kitô giáo dân Christifideles Laici. 1988.

_____________. Thông điệp Redemptoris Missio. 1990.

_____________. Thông điệp Dominum et Vivificantem. 1998.

_____________. Chúa Thánh Linh - Đấng Ban Sự Sống Và Tình Yêu. Nguyễn Đức Tuyên chuyển ngữ. [nơi xuất bản, nhà xuất bản không rõ]. 2005.

Martinez, M. True Devotion to the Holy Spirit. Sophia Institute Press. 1957.

Horton, Stanley. M. What the Bible says about the Holy Spirit. Gosple publishing house. 1986.

Moltmann. Lo Spirito della Vita. Per una pneumatologia integrale [1991], Queriniana, Brescia. 1994.

Harrington, Wilfrid. Nouvelle - Introduction A La Bible. Bản việt ngữ Dẫn vào Kinh Thánh nói chung, [dịch giả, nơi xuất bản, nhà xuất bản và năm xuất bản không rõ].

Tigpen, Paul. Bản Việt ngữ Suy niệm về Thánh Linh. Martin Lưu và các người khác chuyển dịch. Tủ sách Ngàn năm Thứ Ba. [nơi xuất bản, nhà xuất bản không rõ]. 1998.

Conseil de Présidence du Grand Jubilé de l’An 2000. L’Esprit Saint Remplit L’Univers. Éd. Mane. 1997. Bản Việt ngữ Thánh Thần chan hòa vũ trụ. [dịch giả không rõ].

Bùi Văn Đọc & Võ Đức Minh. Chúa Thánh Thần Đấng Ban Sự Sống. Tp.HCM: Tp.HCM. 1997.

________________________. Chúa Thánh Thần trong Kinh Thánh.  Hà Nội: Tôn Giáo. 2009.

Norberto. Thiên Chúa Ba Ngôi. [nơi xuất bản, nhà xuất bản không rõ]. 2000.

Aquinas, Thomas. Bản Việt ngữ Tổng Luận Thần học: về Hạnh Phúc của con người I-II. Nguyễn Văn Liêm dịch. Tp. HCM: Chân lý. 2003.

Durrwell, F.X. Bản Việt ngữ Hiểu Và Sống Mầu Nhiệm Thánh Thần Thiên Chúa. Vũ Văn Thiện chuyển dịch. Hà Nội: Tôn Giáo. 2004.

Nguyễn Ngọc Rao. Các Sách Ngôn Sứ. Tp. HCM: Chân lý. 2006.

Manise, Ernest. Bản Việt ngữ Chúa Thánh Thần Đấng Thánh Hóa Linh Hồn Qua Bảy Ơn Thánh. Nguyễn Thị Chung chuyển dịch. Hà Nội: Tôn Giáo. 2010.

Lê Minh Thông. Đấng Pa-rác-lê – Thần Khí sự thật – trong Tin Mừng thứ tư. Hà Nội: Tôn Giáo. 2010.Thần Khí với đời sống thiêng liêng. Hợp tuyển thần học. số 45

Nguyễn Kim Long. Chúa Thánh Thần Trong Đời Sống Kitô Hữu. Truy cập ngày 01-10-2011. http://www.huynhde.conggiao.net/Tailieuthamkhao.htm

Nguyễn Chính Kết. Hãy chứng nhận Thần Khí trong cuộc sống. Truy cập ngày 01-10-2011.

http://www.dongcong.net/LoiChua-SuyNiem/SuyNiemNamA/JK/ps2a.htm

Bài 17: Hãy Nhận Lấy Thánh Thần. Truy cập ngày 20-10-2011. http://vietcatholic.com/News/PdfHandler.ashx?id=24324

Bài 33: Thần Linh: Bảo Chứng của Niềm Hy Vọng Cánh Chung. Truy cập ngày 20-10-2011. http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/1caotinh/33mach.htm.;

Thánh Thần được trao ban cho Giáo Hội; Truy cập ngày 20-10-2011. http://www.simonhoadalat.com/Suyniem/BaiGiang/GiangLeChuaNhat/NamA/LeHienXuong.htm

 

 

 

 


[69] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, Bản dịch của Tổng Giáo Phận Sài Gòn, 1993, số 687.

[70] Nguyễn Chính Kết, Hãy chứng nhận Thần Khí trong cuộc sống, truy cập ngày 01/10/2011; http://www.dongcong.net/LoiChua-SuyNiem/SuyNiemNamA/JK/ps2a.htm

[71] Ủy Ban Mục Vụ và Truyền Giáo của năm Toàn xá 2000, Thánh Thần là Chúa và là Đấng Ban Sự Sống, Tài liệu hướng dẫn Mục vụ Truyền giáo năm 1998, tr. 71.

[72] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, Bản dịch của Tổng Giáo Phận Sài Gòn, 1993, số 688.

[73] Inhaxiô, Qui tắc 2 để Biện Biệt Thần Khí  (Nguyễn Kim Long, Chúa Thánh Thần Trong Đời Sống Kitô Hữu, Luận văn tốt nghiệp, tr. 32-35, truy cập ngày 01/10/2011; http://www.huynhde.conggiao.net/Tailieuthamkhao.htm, tài liệu số 8.

[74] Nguyễn Kim Long, sđd., tr.37.

[75] Sau khi hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ, Chúa Giêsu ban bình an cho các ông, và Người giải thích rằng bình an của của Người ban tặng trong Thánh Thần không phải là bình an thế gian của thế gian. Cho nên dù gặp khó khăn thử thách cũng đừng lo lắn và sao xuyến (x. Ga 14,16-27).

[76] Nguyễn Kim Long, sđd., tr. 37-38.

[77] Sđd., tr. 38-39.

[78] X. Sđd., tr. 40-41

[79] Nguyễn Chính Kết, Hãy chứng nhận Thần Khí trong cuộc sống, truy cập ngày 01/10/2011;
http://www.dongcong.net/LoiChua-SuyNiem/SuyNiemNamA/JK/ps2a.htm

[80] Ernest Manise, bản Việt ngữ Chúa Thánh Thần Đấng Thánh Hóa Linh Hồn Qua Bảy Ơn Thánh, Nguyễn Thị Chung dịch (Hà Nội: Tôn Giáo, 2010), tr.31-32.

[81] X. Sđd, tr. 32-35

[82] Conseil de Présidence du Grand Jubilé de l’An 2000, Sđd., tr. 244-245.

[83] Basile d’Cesarée, Về Thánh Thần, IX,23.

[84]  Gioan Phaolô II, Chúa Thánh Linh - Đấng Ban Sự Sống Và Tình Yêu, Nguyễn Đức Tuyên chuyên ngữ, (Nơi xuất bản không rõ: nhà xuất bản không rõ, 2005), tr. 502-504.

[85] Bùi Văn Đọc & Võ Đức Minh, sđd., tr. 350-352.

[86] Sđd., tr. 360-363.

[87] X. Sđd, tr. 357.

[88] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Mục vụ Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes), số 24.

[89] Sđd., số 11.