Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan, SJ.
Giám đốc Giáo Hoàng Học Viện Thánh Kinh tại Giêrusalem,
và phụ trách các tu sĩ Dòng Tên phục vụ tại Thánh Địa.
***
***
VII. NHẬN ĐỊNH CỘNG ĐOÀN
(Phần này lấy lại bài đã soạn cho giới tu sĩ TPHCM)
Tiếp sau đây chúng ta sẽ xem thánh I-Nhã và nhóm bạn đầu tiên của ngài đã ứng dụng những nguyên tắc này vào cuộc nhận định cộng đoàn thế nào. Từ đó học lấy cách ứng dụng vào việc nhận định cộng đoàn của chúng ta hiện nay, trong thời kỳ canh tân thích nghi đời tu, thời kỳ mà các hội dòng chúng ta đang cố gắng biên soạn hoặc áp dụng hiến chương mới, đang cố gắng làm sao cho cuộc sống của cộng đoàn, của từng người trong cộng đoàn đáp ứng sát hơn với ơn gọi của mình cũng như với xã hội hiện thời, với những người mình phục vụ, với những hoàn cảnh cụ thể mà vẫn giữ đúng mục tiêu của mình là sống ơn gọi phụng sự Chúa, phục vụ Hội Thánh, phục vụ anh chị em, phục vụ đồng bào của mình. Sự nhận định và lựa chọn đúng đắn, đó là yếu tố quyết định cho tương lai của mỗi cộng đoàn tu sĩ chúng ta.
Nói về nhận định cộng đoàn, đây không chỉ là danh từ theo mốt, cũng không chỉ là một phương pháp tâm lý, bởi vì kinh nghiệm trong Linh thao cho thấy việc nhận định và chọn lựa không thuần túy là một kiểu chọn lựa theo máy tính, nhưng là sự vận dụng toàn thể con người đặt tất cả con người của mình trước một thực tế, trước một vấn đề mình phải chọn lựa và phải chọn lựa thế nào để thực hiện được đúng mục đích cuối cùng của đời mình, tức là ngợi khen, tôn kính, phụng sự Thiên Chúa và cứu rỗi linh hồn mình. Ở đây chúng ta đặc biệt nói về cộng đoàn tu sĩ là cộng đoàn gồm những người đã chọn một con đường sống theo và trong Thánh Thần. Có những lúc chúng ta cũng cần phải cùng nhau nhận định, cùng nhau đi đến những quyết định cụ thể. Dĩ nhiên có thể có người nói đã có Bề trên, cứ để Bề trên nói gì thì nghe vậy, khỏi phải vất vả. Nói như vậy cũng tốt, nhưng chúng ta thấy rằng nhất là từ sau Công Đồng Vatican II, tinh thần cộng đoàn đó trong Giáo Hội sống lại mãnh liệt hơn.
Trở lại lịch sử Giáo Hội (x. phần đầu), chúng ta thấy ngay từ thời các tông đồ, Công Đồng Giê-ru-sa-lem đã là một cuộc nhận định cộng đoàn đầu tiên, ở đó tất cả các tông đồ, các kỳ mục họp nhau dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần để quyết định về nếp sống phải đặt ra cho những người gốc dân ngoại tin Chúa Ki-tô và xin chịu phép rửa. Họ phải sống như thế nào? Vấn đề là họ có phải trở thành người Do-thái cùng một lúc với việc trở thành Ki-tô hữu hay không? Trong Giáo Hội, Công Đồng chính là hình thức nhận định cộng đoàn của toàn thể Giáo Hội. Vậy trong cộng đoàn tu sĩ chúng ta, nhiều khi cần phải đi đến nhận định cộng đoàn, không phải vì không tin tưởng vào bề trên, cũng không phải vì sự vâng phục không đủ để linh hoạt một cộng đoàn, nhưng đó là đường lối của Thiên Chúa, đường lối nhập thể của Người đối với chúng ta. Đó là một nhu cầu vừa vượt qua được những giới hạn tất hữu của từng cá nhân, đồng thời cả cộng đoàn cùng nhau đặt mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúa Giê-su hứa: “Khi có hai, ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ” (Mt 18:20). Chính sự hiệp thông trong Thánh Thần làm nên sự hiệp nhất trong cộng đoàn, và khi tất cả cùng nhau đặt mình dưới ánh sáng Chúa Thánh Thần thì sẽ tạo được sự đồng tâm nhất trí.
Nói rằng vâng lời mà làm thì cũng được, nhưng khi tất cả cùng nhau đồng tâm nhất trí để mọi người vâng phục một cách trọn vẹn thì những công việc chúng ta làm sẽ đạt kết quả tốt hơn để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho các linh hồn. Chính sự cọ sát các ý kiến giúp chúng ta khách quan hơn, biết chết đi với chính mình, bớt quan trọng hóa chính mình, giúp khiêm tốn hơn. Khi đã cùng nhau nhận ra ý Chúa thì việc thi hành cũng sẽ dễ hơn. Bởi vì vấn đề đặt ra ở đây là những cách tiến hành giúp cho một cộng đoàn có thể đi tới một quyết định theo đúng ý Chúa và giúp cho cả nhóm cũng như từng thành viên dấn thân vào một hoạt động phục vụ tốt hơn. Tất nhiên khi đã nói đến nhận định và chọn lựa thì những nguyên tắc thánh I-Nhã đã nêu lên cho từng cá nhân ở trong Linh thao cũng sẽ ứng dụng cho việc nhận định cộng đoàn, nhưng để dễ hiểu và để có một kinh nghiệm làm mẫu thì không gì bằng chúng ta lấy chính kinh nghiệm của thánh I-Nhã và nhóm bạn đầu tiên của ngài.
1. Kinh nghiệm của Thánh I-Nhã và các bạn
Vào mùa Xuân 1539, lúc đó nhóm gồm có mười người và phải nhận định để đi đến một quyết định quan trọng. Đó là chính việc chọn lựa dẫn tới việc quyết định thành lập Dòng Chúa Giê-su. Để giúp hiểu được vấn đề, trước hết xin giới thiệu một vài nét lịch sử về cuộc thảo luận này, sau đó sẽ đọc biên bản cuộc thảo luận còn lưu lại cho Dòng Tên. Tiếp theo chúng ta sẽ phân tích để rút ra một phương thức áp dụng nguyên tắc nhận định và chọn lựa mà thánh I-Nhã đã đề ra trong Linh thao nhắm áp dụng vào các cộng đoàn chúng ta ngày hôm nay. Một vài phương thức áp dụng cho cộng đoàn không chỉ để nhận định những việc chung của toàn thể Dòng, mà từng cộng đoàn địa phương cũng có thể áp dụng để đi đến sự đồng tâm nhất trí với nhau trong mọi lãnh vực.
Vậy lai lịch việc nhận định đầu tiên của thánh I-Nhã và nhóm bạn vào mùa xuân 1539 như thế nào? Khi học tại Paris, ngài đã đem kinh nghiệm Linh thao ở Manresa giúp cho một số bạn sinh viên tĩnh tâm và nhận định. Trong số những người theo hướng dẫn làm Linh thao, rất nhiều người đã bỏ con đường danh vọng, dâng mình phụng sự Chúa trong nhiều Dòng khác nhau. Có người vào Dòng Chartreux, có người vào Dòng Phan-xi-cô. Nhưng có sáu người chọn cùng một ý hướng với thánh I-Nhã. Lúc đó ngài còn là một sinh viên thường, lớn tuổi, chưa làm linh mục. Ý hướng là hiến thân phụng sự Hội Thánh chứ cũng chưa đặt vấn đề vào một dòng tu nào.
Ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời năm 1534, nhóm bảy người bạn này, trong đó có thánh I-Nhã, thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê và một linh mục duy nhất trong nhóm lúc đó là Phê-rô Favre (sau này được phong chân phước), đã tới nhà thờ Montmartre ở Paris để tuyên khấn. Nội dung lời khấn của họ là: sống độc thân để phục vụ Hội Thánh, sống khó nghèo và sau khi học xong sẽ đi hành hương tới Giê-ru-sa-lem, ở lại đó để giúp ích cho các linh hồn. Nhưng vì việc đi Giê-ru-sa-lem lúc ấy luôn bất trắc nên họ đã đưa ra một khoản phòng hờ là nếu sau khi học xong và chờ đợi một năm mà không thể đi Giê-ru-sa-lem hoặc đi mà không được phép ở lại, thì họ sẽ quay về Roma, đến trình diện Đức Giáo Hoàng và xin ngài tự do xét dụng, sai họ đi làm việc phục vụ Hội Thánh ở bất cứ nơi nào ngài xét thấy có ích lợi.
Vậy năm 1537, nhóm đã tới Ý, rồi tới Roma, xin phép Đức Giáo Hoàng để đi viếng Thánh địa và ở lại đó phục vụ. Đức Giáo Hoàng không những đã cho phép họ đi mà còn cho cả lộ phí, mặc dù khi đến Roma, họ đi với tinh thần khó nghèo, có nghĩa là vừa đi vừa xin ăn. Đồng thời ngài cũng cho phép những người nào trong nhóm họ chưa làm linh mục thì được chịu chức do bất cứ giám mục nào. Vì lý do họ đã học đủ và đã khấn sống khó nghèo. Họ chờ đợi từ giữa năm 1537 tới giữa năm 1538, không có tàu để đi Giê-ru-sa-lem, vì sự cắt đứt bang giao giữa Cộng hòa Venitia với Thổ-nhĩ-kỳ. Thời ấy một phần Địa-trung-hải từ nước Ý sang Thánh địa do hải quân Thổ-nhĩ-kỳ kiểm soát, nên nếu không có sự giao hảo thì không thể đi được. Kết quả là họ phải thực hiện điều khoản phòng hờ ở Montmartre, nghĩa là họ kéo nhau về Roma để ra mắt Đức Giáo Hoàng và xin ngài tùy ý sử dụng họ để phục vụ Hội Thánh.
Lúc này nhóm đã có thêm bạn mới. Bỗng dưng đuợc một nhóm mười người bạn xuất thân từ Đại học Paris, sống đời linh mục gương mẫu, nhiệt thành giảng dạy, ban các bí tích và sống khó nghèo, Đức Giáo Hoàng rất ưng ý, nên ngài bắt đầu sai họ đi rao giảng trong các nhà thờ ở thành phố Roma. Có người được sai đi giảng dạy tại Đại học Roma. Nhưng chẳng bao lâu, vào đầu năm 1539, Đức Giáo Hoàng muốn sai họ đi xa hơn, nhằm lúc vua Bồ-đào-nha xin người sang Ấn-độ và chính Đức Giáo Hoàng cũng muốn sai trong nhóm mười người này. Như vậy, đứng trước viễn tượng được sai đi, mỗi người mỗi ngả, nhóm bạn này sẽ tan rã. Lúc đó nhóm chưa phải là một dòng tu, họ chỉ là một nhóm bạn muốn hiến thân phụng sự Hội Thánh, tuy tất cả đã chịu chức linh mục. Trước khi tới Roma, mười người này tạm trú ở phía Bắc nước Ý. Trên đường đi về Roma, họ đã quyết định với nhau, nếu có ai hỏi họ là nhóm nào thì tự xưng là đoàn Giê-su, bởi họ nghĩ rằng chính Chúa Giê-su đã quy tụ họ qua kinh nghiệm gặp gỡ Người trong Linh thao, nên chẳng có tên nào khác đẹp hơn là “đoàn Giê-su”. Bây giờ Đức Giáo Hoàng bắt đầu sai mỗi người mỗi ngả để phục vụ Hội Thánh, họ băn khoăn, đặt vấn đề là như thế nhóm đến đây là tan, hay là sẽ phải tiếp tục giữ một sự hiệp nhất nào đó. Cuộc thảo luận vào mùa xuân năm 1539 đã kéo dài từ tháng 3 đến lễ thánh Gio-an Tẩy Giả năm đó.
Chúng ta đọc lại biên bản cuộc nhận định và phân tích xem thánh I-Nhã cùng các bạn của ngài đã đặt cuộc đời mình trước mặt Chúa trong kinh nghiệm Linh thao thế nào để chọn hướng đi phục sự Chúa và phục vụ Hội Thánh. Nhóm đã áp dụng những nguyên tắc nhận định và chọn lựa để làm một cuộc nhận định cộng đoàn và đi đến một hướng đi chung cho đoàn Giê-su thế nào?
Sau đây là biên bản cuộc thảo luận từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1539 (những chỗ dùng chữ ngiêng là do tôi đưa vào để giúp người đọc).
1. Trong mùa Chay vừa qua, khi thấy đã đến lúc phải chia tay nhau và phân tán đi, cũng chính là lúc mà chúng tôi vẫn hết lòng mong ước để mau chóng đạt tới cùng đích mà từ lâu lắm rồi chúng tôi đã nhắm tới và đã tự xác định. Vậy chúng tôi quyết định tụ họp nhau trong nhiều ngày trước khi chia tay nhau và cùng nhau thảo luận về ơn gọi của chúng tôi. Chúng tôi đã thảo luận điều này nhiều lần, nhưng nhóm chúng tôi gồm những người Pháp, Tây-ban-nha, Savoie, Bồ-đào-nha... Chúng tôi có những ý kiến khác nhau, liên quan đến cách sống của chúng tôi. Trong khi chúng tôi vẫn có cùng một ý nghĩ và cùng một ý muốn là tìm kiếm ý Chúa “tốt đẹp và hoàn hảo” theo con đường ơn gọi Người đã ban cho chúng tôi; nhưng về các phương thế thích hợp nhất và hữu hiệu nhất đối với bản thân chúng tôi cũng như đối với người khác thì chúng tôi có nhiều ý kiến khác biệt. Chẳng ai phải ngạc nhiên về những sự khác biệt quan điểm giữa chúng tôi là những người hèn yếu, bởi lẽ chính các tông đồ là những vị lãnh đạo và cột trụ của Hội Thánh cùng nhiều nhân vật rất thánh thiện khác mà chúng tôi chẳng dám sánh ví một chút nào, cũng đã có những ý kiến khác biệt nhau, thậm chí đôi khi đối ngược nhau. Và các vị ấy đã để lại bút tích về những sự đối ngược ấy của họ.
Chúng tôi cũng đã phán đoán khác nhau vì chúng tôi đều chú tâm và lo lắng làm sao tìm ra một con đường hoàn toàn rõ rệt, dẫn chúng tôi đến việc hiến thân làm của lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa, bằng cách đặt tất cả mọi lợi ích của chúng tôi vào việc ngợi khen, tôn kính Người. Cuối cùng chúng tôi nhất trí xác định sẽ cầu nguyện, cử hành Thánh lễ và suy niệm sốt sắng hơn bình thường, và sau khi đã hết sức chăm lo việc ấy, thì phó thác mọi nỗi âu lo của chúng tôi cho Thiên Chúa, với niềm hy vọng rằng Người là Đấng Chí Nhân và quảng đại, không từ chối ban Thần trí tốt lành của Người cho bất cứ ai lấy lòng khiêm nhượng đơn sơ mà cầu xin Người, nhưng ban ơn Thần trí của Người một cách quảng đại cho mọi người mà không hối tiếc, thì Người cũng không từ chối chúng tôi mà còn trợ giúp chúng tôi với lòng nhân hậu rộng rãi vượt xa những gì chúng tôi có thể cầu xin hay mong ước.
2. Vậy chúng tôi bắt đầu tung hết nỗ lực từ phía chúng tôi và đặt ra một vài câu hỏi phải xem xét kỹ lưỡng và tìm tòi nghiêm túc. Chúng tôi suy nghĩ đắn đo về những điều ấy suốt ngày; việc cầu nguyện cũng là một phương thế cho chúng tôi tìm kiếm. Đến tối, mỗi người chúng tôi trình bày trước anh em cách giải quyết mà mình cho là tốt hơn và có lợi hơn; chúng tôi muốn nhờ đó để cùng nhau đón nhận ý kiến chính đáng nhất, ý kiến này phải xuất phát từ một cuộc thảo luận chung và dựa trên những lý do vững chắc nhất.
3. Trong cuộc họp buổi tối đầu tiên, chúng tôi đưa ra câu hỏi sau đây: Một khi con người và cuộc sống của chúng tôi đã được chính chúng tôi tự dâng hiến cho Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, và Đấng đại diện đích thực và hợp pháp của Người ở dưới đất để ngài sử dụng chúng tôi và sai chúng tôi đi đến nơi nào mà ngài xét thấy việc tông đồ của chúng tôi sẽ được phong phú hơn, hoặc đến nơi người Thổ-nhĩ-kỳ hoặc là đất Ấn-độ, hay đến với những người lạc giáo hoặc giữa bất cứ dân tộc nào khác có đạo hay ngoại đạo, thì nên chọn đàng nào hơn: liên kết với nhau một cách chặt chẽ làm thành một thân thể duy nhất, không một sự ngăn cách bên ngoài nào dù lớn đến đâu có thể khiến chúng tôi lìa nhau, hay là làm ngược lại? Một thí dụ soi sáng vấn đề: Đức Thánh Cha sắp gởi hai người trong chúng tôi đến Sienna; chúng tôi có phải giữ một sự nhất trí với nhau hay là chẳng giữ một sự gắn bó nào với họ hơn là với những người bên ngoài Đoàn?
Chúng tôi kết thúc bằng một quyết định giữ sự gắn bó với nhau. Bởi lẽ chúng tôi nghĩ Chúa đã đoái thương lấy lòng nhân từ và thương xót của Người mà tụ họp chúng tôi là những con người hèn yếu nhất, xuất phát từ nhiều xứ khác nhau với những tập tục khác nhau như thế, để liên kết chúng tôi chặt chẽ với nhau, thì chúng tôi không được phá vỡ sự hiệp nhất của Nhóm do Chúa đã tác thành, nhưng phải tiếp tục củng cố và duy trì sự hiệp nhất ấy bằng cách làm nên một thân thể duy nhất. Một sự quan tâm đến nhau và một sự nhất trí hoàn toàn với nhau sẽ đảm bảo đem lại hoa trái dồi dào hơn cho các linh hồn: những sức lực kết hợp lại thì có sức kháng cự và năng lực để thực hiện những công việc lớn lao khó khăn hơn là khi chia rẽ và phân tán nhau. Tuy nhiên, trong tất cả những điều vừa trình bày, xin hiểu cho đúng: Chúng tôi hoàn toàn không đưa ra điều gì do sáng kiến riêng hoặc do ý riêng của chúng tôi, nhưng chỉ đưa ra những gì mà Chúa soi sáng và Tòa Thánh phê chuẩn, dù kết quả ra sao đi nữa.
4. Sau khi giải quyết dứt khoát vấn đề thứ nhất này, chúng tôi đề cập một vấn đề khác khó hơn nhưng cũng không kém phần đòi hỏi phải suy nghĩ và xem xét. Tất cả chúng tôi đã tuyên lời khấn khiết tịnh trọn đời và lời khấn khó nghèo trong tay vị Sứ thần Tòa Thánh khi chúng tôi ở Venise. Có cần phải tuyên lời khấn thứ ba là lời khấn tuân phục một người trong chúng tôi không? Điều này cốt để hoàn thành ý Chúa trong mọi sự một cách thuần khiết hơn hầu ngợi khen Chúa hơn và được công phúc hơn, đồng thời thực hiện ý muốn tự do và chỉ thị của Đức Thánh Cha bởi chúng tôi đã hết lòng dâng chính mình chúng tôi, ý muốn, trí hiểu, hành động cho ngài.
5. Sau khi đã mất nhiều ngày để cầu xin tha thiết và suy nghĩ tìm cách giải quyết vấn đề này mà không thấy được điều gì thỏa đáng, chúng tôi đã đặt hết hy vọng vào Chúa và bắt đầu bàn với nhau xem có cách nào giải quyết được thỏa đáng hơn nỗi nghi ngờ của chúng tôi. Trước hết liệu có nên cùng nhau lui vào một nơi tĩnh mạc nào đó và ở đó ba mươi hay bốn mươi ngày mà lo việc suy gẫm ăn chay và hãm mình để được Thiên Chúa chấp nhận những ước nguyện của chúng tôi và đoái thương đặt chắc chắn vào tâm trí chúng tôi cách giải quyết vấn đề này? Hoặc là ba hay bốn người trong chúng tôi có nên thay mặt cho mọi người đến đó vì cùng một mục đích? Hoặc không ai phải đi đến nơi tĩnh mạc ấy? Chúng tôi có thể cứ ở lại Roma, nhưng dành nửa ngày chỉ để lo việc của chúng tôi mà thôi? Như vậy việc suy gẫm, suy nghĩ và cầu nguyện có thể được thực hiện một cách thuận lợi hơn và lâu giờ hơn, nửa ngày còn lại chúng tôi vẫn sử dụng vào việc tông đồ quen thuộc là giảng dạy và giải tội.
6. Cuối cùng, sau khi đã bàn cãi và xem xét các điều này, chúng tôi đã quyết định tất cả phải ở lại Roma, nhất là vì hai lý do sau đây:
a) Một là để tránh những lời đàm tiếu và gương xấu trong thành phố và trong dân là những người có thể xét đoán, suy nghĩ. Con người vẫn có khuynh hướng phát biểu một cách nhẹ dạ, cho rằng chúng tôi chạy trốn hoặc âm mưu một cái gì mới, hoặc thiếu cương quyết và bền vững trong công việc ban đầu của chúng tôi.
b) Hai là không để cho sự vắng mặt của chúng tôi gây thiệt hại cho mùa gặt mà chúng tôi thấy thật đáng kể trong việc giải tội, giảng dạy và các việc thiêng liêng khác, đáng kể đến nỗi dù cho chúng tôi có đông gấp bốn lần cũng không thể thỏa mãn nhu cầu của mọi người, như hiện nay chúng tôi cũng không thỏa mãn nổi.
Phương thế thứ hai mà chúng tôi bắt đầu thảo luận để tìm ra con đường đi tới giải pháp là đề nghị cho tất cả và từng người thực hiện được trong tâm hồn mình ba thái độ sau đây:
- 1/ Mỗi người phải chuẩn bị và chăm lo việc cầu nguyện dâng Thánh lễ và suy gẫm như thế nào để cho mọi nỗ lực của mình hướng tới việc tìm thấy niềm vui và bình an trong Thánh Thần về vấn đề vâng phục bằng cách làm hết sức để nghiêng chiều ý muốn của mình về đàng vâng phục hơn là về đàng được quyền ra lệnh, nếu nhờ đó sẽ phát sinh vinh quang và lời ngợi khen Chúa như nhau.
- 2/ Thái độ bề trong thứ hai là không ai nói chuyện với người khác trong nhóm về vấn đề này, cũng không hỏi người nào về những lý do của người ấy, như vậy sẽ không ai bị ảnh hưởng do ý kiến của người khác mà nghiêng chiều về sự vâng phục hơn là không vâng phục, hoặc ngược lại mỗi người chỉ tìm kiếm điều gì nhờ cầu nguyện và suy gẫm thấy được là có ích hơn.
- 3/ Thái độ thứ ba là mỗi người phải tự coi mình như là một kẻ xa lạ đối với nhóm và như thể không bao giờ sẽ được nhận vào nhóm này. Nhìn vấn đề như thế thì không một tình cảm nào sẽ làm cho họ nghĩ và phán đoán thiên về một bên nào, nhưng có thể nói là với tư cách một người ngoài cuộc, người ấy sẽ tự do bộc lộ ý kiến của mình về kế hoạch vâng phục hay không vâng phục, và cuối cùng lấy sự phán đoán của mình xác nhận và chấp thuận phía nào mình thấy sẽ phục vụ Thiên Chúa hơn và bảo đảm hơn cho sự duy trì Đoàn lâu dài.
7. Chính trong những thái độ bề trong đã chuẩn bị trước như thế, chúng tôi quyết định gặp nhau ngày hôm sau, khi mọi người đã sẵn sàng, để mỗi người phát biểu những vấn nạn có thể đưa ra chống lại sự vâng phục. Tất cả mọi lý do thấy được và mỗi người đã khám phá ra trong suy nghĩ, suy gẫm và cầu nguyện, đều lần lượt được mỗi người trình bày. Chẳng hạn người thì nói: đối với dân Ki-tô hữu, “danh từ Dòng tu” hay vâng phục không còn cái tiếng tốt lẽ ra phải có là do sự thiếu nhân đức và do tội lỗi của chúng ta. Người khác nói: “Nếu chúng ta muốn sống vâng phục, có lẽ chúng ta sẽ bị Đức Giáo Hoàng bắt phải sống theo một luật Dòng nào đã có sẵn và đã được thiết lập, hậu quả sẽ là chúng ta chẳng còn dịp cũng chẳng còn phương thế để làm việc cho phần rỗi các linh hồn, mà sau phần rỗi của chúng ta thì phần rỗi các linh hồn là mục đích duy nhất chúng ta nhắm tới, như vậy mọi ước vọng của chúng ta sẽ hỏng hết, thế mà chúng ta lại có đủ lý do để tin rằng những ước vọng ấy đã được Thiên Chúa là Chúa chúng ta chấp thuận”. Người khác nữa lại nói: “Trong trường hợp chúng ta vâng phục một người thì số người mà Dòng chúng ta quy tụ được để làm việc trong vườn nho của Chúa với lòng nhiệt thành, chân thật sẽ bị giảm, mà mùa gặt thì nhiều và những thợ gặt đích thật thì ít, vì theo quy luật của sự yếu đuối và dòn mỏng của con người, phần đông lo tìm lợi ích riêng và ý riêng mình hơn là những lợi ích của Đức Giê-su Ki-tô và sự từ bỏ mình hoàn toàn”. Người khác lại nói điều khác nữa, rồi người thứ tư, thứ năm và cứ như thế, chúng tôi lần lượt trình bày chi tiết những vấn nạn gặp thấy chống lại sự vâng phục.
Một thời gian rất ngắn sau đó, vào một ngày khác, chúng tôi thảo luận về quan điểm ngược lại, bằng cách đưa ra tất cả những lợi ích của sự vâng phục như mỗi người thấy được nhờ cầu nguyện và suy gẫm. Mỗi người lần lượt trình bày kết quả sự suy nghĩ của mình, khi thì bằng cách đặt ra một giả thuyết không thể thực hiện được để dẫn tới điều mình muốn nói, khi thì bằng cách khẳng định trực tiếp. Chẳng hạn có người đưa tới sự phi lý và sự không thể làm được bằng cách sau đây: “Giả thử nhóm chúng ta được trao phó một công việc tông đồ mà không có sự trợ giúp của ách vâng phục, thì chẳng ai sẽ thực sự chịu trách nhiệm cả, mỗi người sẽ đẩy gánh nặng cho người khác như chúng ta đã có kinh nghiệm nhiều lần về việc ấy. Cũng vậy, giả thử không có quyền bính ở trong nhóm chúng ta, thì nhóm không thể duy trì hay tồn tại lâu dài; điều ấy đi ngược với ý hướng ban đầu của chúng ta là duy trì đoàn chúng ta mãi mãi, vì không gì có thể duy trì nhóm hơn là sự vâng phục.
Sự vâng phục cần thiết, nhất là đối với chúng ta là những người khấn sống khó nghèo vĩnh viễn và chúng ta liên lỉ chìm ngập trong những công việc thiêng liêng và thế tục ít thuận lợi cho việc duy trì đoàn chúng ta. Một người khác tiến hành theo khẳng định, anh nói: “Vâng phục là mẹ của mọi hành động và mọi nhân đức anh hùng bền bỉ. Do thực sự sống theo vâng phục thì hoàn toàn sẵn sàng thi hành mọi mệnh lệnh được đề ra cho mình, dù mệnh lệnh ấy có khó khăn hoặc phải làm trò cười trước mắt thiên hạ khiến cho mình bối rối; chẳng hạn như người ta bắt tôi phải đi ra phố và những nơi công cộng mình trần hay mặc những thứ áo quần kỳ cục. Dù chưa bao giờ có một mệnh lệnh như thế được ban ra, nhưng khi người ta sẵn sàng thi hành mệnh lệnh ấy, từ bỏ mọi phán đoán riêng và ý muốn riêng, thì người ta sẽ luôn luôn ở trong một tình trạng anh hùng, bao giờ cũng có công hơn”. Hoặc người khác nói: “Không gì bẻ gãy tính kiêu ngạo và tự phụ hơn là sự tuân phục. Người kiêu ngạo hết sức yêu mến việc theo phán đoán riêng và ý muốn riêng của mình, không chịu nhường ai. Người ấy bước đi trên những con đường tìm sự cao sang hào nhoáng vượt sức mình. Sự vâng phục chiến đấu theo hướng ngược hẳn lại, bởi vì bao giờ cũng nghe theo phán đoán không phải của mình và theo ý muốn của một người khác. Người vâng phục thì vâng phục mọi người và gắn bó với sự khiêm nhường là kẻ thù của sự kiêu ngạo”.
8. Vậy sau nhiều ngày bàn luận theo nhiều hướng về rất nhiều điểm liên quan đến cách giải quyết vấn đề, cân nhắc và xem xét những lý do nghiêm túc nhất và mạnh mẽ nhất trong khi chúng tôi vẫn giữ thói quen chăm lo cầu nguyện, suy gẫm và suy xét; cuối cùng nhờ Chúa ban ơn giúp sức, chúng tôi đã đạt được kết luận không phải là theo đa số phiếu, nhưng là sự nhất trí tuyệt đối: Chúng tôi vâng phục một người trong anh em, đó là điều rất đáng chọn và rất cần thiết cho chúng tôi. Như vậy, những ước muốn ban đầu của chúng tôi là hoàn thành ý Chúa trong mọi sự, sẽ được thực hiện tốt hơn và chính xác hơn; đồng thời cũng bảo đảm hơn cho việc duy trì Đoàn. Và sau hết, chúng tôi có thể lo liệu khôn khéo hơn cho từng chi tiết của việc thường ngày về những mặt thiêng liêng cũng như thế tục.
9. Trong khi tuân thủ cùng một cách thức bàn luận và tiến hành đối với tất cả những vần đề khác và bao giờ cũng xét đến hai quan điểm đối ngược, chúng tôi đã lưu lại trên các vấn đề này và các vấn đề khác gần ba tháng trời, từ giữa mùa Chay cho đến lễ thánh Gio-an Tẩy Giả. Hôm ấy mọi sự đã kết thúc dứt khoát trong niềm vui và sự hòa hợp hoàn toàn của tâm hồn anh em. Đi trước sự bàn định dứt khoát này không thiếu những buổi canh thức, những giờ cầu nguyện và những nỗi mệt nhọc tinh thần cũng như thể xác.