Tuesday, 14 January 2020 04:17

Kinh Mân Côi Với Dòng Đaminh Featured

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.

 

Kinh Mân Côi đáng được bàn riêng ra một mục xét vì tầm quan trọng của kinh này trong lịch sử Hội Thánh. Tuy nhiên, trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ xin khái lược qua lịch sử hình thành; tiếp đến là tóm lược về ý nghĩa và giá trị thần học của Kinh Mân Côi; cuối cùng, và đây là phần chính mà chúng tôi muốn trình bày, đó là kinh Mân Côi với Dòng Đaminh.

I. KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH KINH MÂN CÔI

Lịch sử thành hình kinh Mân Côi kéo dài từ thế kỷ XII cho đến thế kỷ XVI. Vào thế kỷ XII, việc đọc kinh Kính Mừng được phổ biến bên Tây phương. Dĩ nhiên, các tín hữu đã bắt đầu lặp lại lời thiên sứ Gabriel chào kính Đức Mẹ từ lâu đời (thậm chí cả trong kinh Phụng Vụ với những tiền xướng hoặc ca Hiệp Lễ); nhưng từ thế kỷ XII mới nảy sinh thói tục đọc một chuỗi 150 kinh Kính Mừng, dựa theo tục lệ nơi vài đan viện cho phép các đan sĩ không biết đọc được thay thế kinh Nhật Tụng bằng 150 kinh Lạy Cha (thay vì đọc 150 Thánh Vịnh). Dù sao thì vào thời đó, kinh Kính Mừng chỉ gồm có lời thiên sứ Gabriel và lời của bà Elizabeth. Nói khác đi, kinh Mân Côi chỉ dàibằng nửa kinh chúng ta đọc ngày nay, bởi vì phần thứ hai của kinh Kính Mừng chỉ thành hình trong những thế kỷ XIV-XV.

Mặt khác, các đan sĩ cũng không đọc một mạch 150 kinh Lạy Cha, nhưng họ chia thành ba phần tương ứng với những giờ kinh Phụng Vụ. Dựa theo tục lệ ấy, vào thế kỷ XIV, đan sĩ Henrico Kalkar (Dòng Chartreux) cũng chia “bộ Thánh Vịnh Đức Mẹ” thành 15 chục; ở đầu mỗi chục thì thêm kinh Lạy Cha. Cũng vào thời này mà nảy ra truyền thuyết về việc Đức Mẹ ban tràng hạt cho thánh Đaminh; truyền thuyết này được tu sĩ Alain de la Roche, O.P. (Alanus a Rupe, 1428-1475) quảng bá. Thực ra, kinh Mân Côi (hiểu như là việc đọc 150 kinh Kính Mừng) đã ra đời trước thánh Đaminh (1170-1221). Dù sao thì cho mãi tới thế kỷ XV người ta mới kèm theo việc suy gẫm các mầu nhiệm Phúc Âm đan xen với việc đọc kinh Kính Mừng.

Vào khoảng những năm 1410-1439, đan sĩ Dominic Prussia (Dòng Chartreux, ở Cologne) đã đề nghị một hình thức mới để đọc “Thánh Vịnh Đức Mẹ”: thay vì đọc 150 kinh Kính Mừng thì rút gọn còn 50 thôi, nhưng mà mỗi kinh Kính Mừng sẽ được kết thúc với một đoạn văn Phúc Âm ngắn tưởng nhớ các mầu nhiệm của Đức Kitô:

- 14 câu nhắc tới cuộc đời ẩn dật

- 6 câu nhắc tới cuộc đời công khai

- 24 câu tưởng nhớ cuộc tử nạn

- 6 câu kính nhớ cuộc khải hoàn của Đức Giêsu và Mẹ Maria.

Sáng kiến của Dominic Prussia được nhiều người tán thành, và người ta đếm tới 300 câu được gắn vào kinh Kính Mừng. Thế nhưng sau này, Alain de la Roche, O.P. đã cải tổ lại: “Thánh Vịnh Đức Mẹ” được đổi tên thành “Vòng hoa hường trinh nữ Maria” (Rosarium có nghĩa là: Vòng hoa hường, “rosa”), và cách thức việc đọc kinh là: Vòng 150 kinh được chia thành 3 phần; mỗi phần dành cho việc suy niệm các mầu nhiệm: Nhập Thể, Tử Nạn của Đức Kitô, Vinh hiển của Chúa Kitô và của Mẹ Maria.

Vào năm 1569, Đức Giáo Hoàng Pius V đã xác định việc đọc kinh Mân Côi với sắc chiếu Consueverunt Romani Pontifices” (17-09-1569). Cũng chính vị Giáo Hoàng này đã thiết lập lễ Mân Côi để kính nhớ việc chiến thắng đạo quân Thổ Nhĩ Kỳ ở vịnh Lépanto (07-10-1571). Ngoài ra, qua Tông hiến “Salvatoris Domini” (05-03-1572), Đức Giáo Hoàng Pius V ban ơn đại xá cho những ai gia nhập Hội Mân Côi và năng lần hạt Mân Côi.

Tiếp theo đó, rất nhiều Giáo Hoàng, đặc biệt là Đức Giáo Hoàng Leo XIII với 12 Thông điệp và 2 Tông thư, đã cổ động khuyến khích việc đọc kinh Mân Côi và ban nhiều ân xá kèm theo. Cách đặc biệt hơn, sau những lần Đức Mẹ hiện ra tại Lourdes và Fatima, việc đọc kinh Mân Côi càng được đẩy mạnh hơn nữa. Chúng ta có thể điểm qua một số các văn kiện đó như:

- Đức Giáo Hoàng Gregorius XIII (1572-1585): Tông thư Monete apostolos (01-04-1573);

- Đức Giáo Hoàng Sixtus V (1585-1590): Tông sắc “Dum ineffabilis” (30-01-1586);

- Đức Giáo Hoàng Clemente  XIII: Tông thư “Ad Augendam”  (18-01-1785);

- Đức Giáo Hoàng Gregorius XVI: Tông thư “Benedicentes” (27-01-1832);

- Đức Giáo Hoàng Leo XIII: Thông điệp “Supremi Apostolatus Officio” (01-09-1883), Tông thư “Salutaris Ille” (24/12/1883), Thông điệp “Superiore Anno” (30/08/1884), Thông điệp “Quod Auctoritate” (22/12/1885), Thông điệp “Vi È Ben Noto” (20/09/1887), Thông điệp ”Quamquam Pluries” (15/08/1889), Thông điệp “Octobri Mense” (22/09/1891), Thông điệp “Magnae Dei Matris” (08/09/1892), Thông điệp “Laetitiae Sanctae” (08/09/1893), Tông thư ”Iucunda Semper Expectatione” (08/09/1894), Thông điệp “Adiutricem” (05/09/1895), Thông điệp “Fidentem Piumque Animum” (20/09/1896), Thông điệp “Augustissimae Virginis Mariae” (12/09/1897), Thông điệp ”Diuturni Temporis” (05/09/1898);

- Đức Giáo Hoàng Benedictus XV: Tông thư “In Caetu soladium” (29/10/1916) gửi cho Tổng Quyền Dòng Đaminh, Thông điệp “Appetente Die Fausto” (29/06/1921);

- Đức Giáo Hoàng Pius XI: Thông điệp “Rerum Ecclesiae” (28/02/1926), Tông thư “Inclytam Ac Perillustrem” (06/03/1934), Thông điệp “Ingravescentibus Malis” (29/09/1937);

- Đức Giáo Hoàng Pius XII: Thông điệp “Mediator Dei” (20/11/1947), Tông thư “Ingruentium Malorum” (15/09/1951); Tông thư “Novimus Libenter” (11/07/1959);

- Đức Giáo Hoàng Ioannes XXIII: Thông điệp ”Grata Recordatio” (26/09/1959), Tông  thư   “Il Religioso Convegno”  (29/09/1961), Tông thư “Oecumenicum Consilium” (28/04/1962);

- Đức Giáo Hoàng Paulus VI: Thông điệp “Mense Maio” (29/04/1965), Tông thư “Christi Matri” (15/09/1966), Tông huấn “Recurrens Mensis October” (07/10/1969).

Một văn kiện Tòa Thánh đặc biệt đáng chú ý được ban hành sau Công Đồng Vatican II bàn về kinh Mân Côi với nội dung thần học sâu xa là Tông thư Marialis cultus của Đức Giáo Hoàng Paulus VI.[1] Tuy nhiên, nguyên ủy của văn kiện ấy được ra đời như thế này: Với cuộc canh tân phụng vụ sau Công Đồng Vatican, xem ra kinh Mân Côi đã trở nên lỗi thời, và đáng cho vào bảo tàng viện. Các Giám mục Hoa Kỳ viết thư hỏi Tòa Thánh xem cảm tưởng ấy có đúng không. Lúc đầu, Đức Thánh Cha muốn trả lời trực tiếp cho câu hỏi ấy, nhưng sau đó, ngài nhân cơ hội đó để trình bày ý nghĩa của lòng tôn kính Đức Maria dưới ánh sáng thần học Công Đồng Vatican II. Chính vì lẽ đó, Kinh Mân Côi ngày nay cần được lồng trong bối cảnh ấy.

Ngoài ra, vào những năm đầu tiên của Thiên Niên Kỷ mới, ngày 16 tháng 10 năm 2002, Đức Giáo Hoàng Ioannes Paulus II đã ban hành Tông thư đặc biệt về kinh Mân Côi với nhan đề “Rosarium Virginis Mariae”.[2] Tông thư ca tụng giá trị tuyệt vời của kinh Mân Côi qua 2000 năm, để hướng lòng tín hữu bước vào ngàn năm thứ 3 với lòng tin tưởng mạnh mẽ “ra khơi truyền giáo”. Tông thư khuyến khích tín hữu coi chuỗi Mân Côi như là phương pháp cứu rỗi chắc chắn nhất. Đồng thời, Đức Giáo Hoàng thêm vào mầu nhiệm 5 Sự Sáng vào chuỗi Mân Côi, bên cạnh các mầu nhiệm truyền thống trước đó: Vui-Thương-Mừng. Đây là được kể là Tông Thư dài nhất trong các Tông Thư, nói lên rất nhiều vấn đề của chuỗi hạt Mân Côi.

Ngày nay, bằng nhiều cách thức khác nhau, cùng với sự phát triển của hệ thống khoa học kỹ thuật toàn cầu, Giáo Hội cũng đã áp dụng các phương tiện kỹ thuật vào phát triển việc truyền bá kinh Mân Côi: Đài phát thanh Vatican truyền thanh kinh Mân Côi mỗi ngày; Đức Giáo Hoàng John Paul II chủ sự buổi đọc kinh vào mỗi thứ Bảy đầu tháng; phổ biến các tài liệu trên các phương tiện Internet; truyền hình trực tiếp các buổi suy niệm kinh Mân Côi ở Tòa Thánh và nhiều nơi khác trên thế giới;…

II. Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ

Tông huấn “Marialis cultus” của Đức Giáo Hoàng Paulus VI đã chỉ ra những giá trị của kinh Mân Côi là: Một kinh nguyện dựa trên Phúc Âm; giúp ích cho việc chiêm niệm; sát với kinh nguyện Phụng Vụ. Qua đó, chúng ta có thể tóm tắt những đặc điểm chính của kinh Mân Côi như sau:

- Kinh nguyện đơn giản: Kết cấu của kinh Mân Côi là những kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng, kinh Sáng Danh, mà người Kitô hữu nào cũng thuộc lòng. Kinh Mân Côi thích hợp cho những người đơn sơ bình dân, và dành cho những tâm hồn mang tinh thần khó nghèo của Phúc Âm.

- Kinh nguyện chiêm niệm: Tuy giản đơn, nhưng kinh Mân Côi mang một nội dung phong phú. Bởi vì đi đôi với việc đọc kinh, người tín hữu còn được mời chiêm ngắm những mầu nhiệm căn bản của đức tin Kitô giáo: mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Vượt Qua. Việc lặp đi lặp lại những câu kinh tạo ra sự thanh thản nội tâm để có thể nhìn ngắm những cảnh tượng của cuộc đời Đức Giêsu cứu thế.

- Kinh nguyện huấn giáo: Chính vì chú trọng vào những mầu nhiệm căn bản của Kitô giáo, nên việc xướng lên các mầu nhiệm hoặc giải thích chúng là cơ hội để học hỏi và đào sâu thêm những chân lý căn bản của đức tin, và đáp lại cũng với tâm tình thuận nhận tin yêu.

- Kinh nguyện đi sát với cuộc đời: Khi cùng với Đức Maria rảo qua cuộc sống của Đức Giêsu và của Đức Mẹ qua những chặng đường từ Nazareth đến Bethlehem, Jerusalem, qua những biến cố vui thương buồn, người tín hữu gặp thấy những bài học cho cuộc sống thường nhật của chính mình, trộn lẫn vui buồn, âu lo hy vọng.

- Kinh nguyện thanh luyện tu đức: Nhờ việc chiêm ngắm cuộc đời của Đức Kitô và Đức Maria, người tín hữu học hỏi được những nhân đức của các Ngài, cố gắng họa cuộc đời của mình theo gương của các Ngài.

- Kinh nguyện dẫn vào Phụng Vụ: Những mầu nhiệm kinh Mân Côi dựa vào Phúc Âm, đặc biệt là về mầu nhiệm Nhập Thể và Vượt Qua, chuẩn bị tâm hồn cho người tín hữu cử hành cách sốt sáng các bí tích, đặc biệt là Thánh Thể, tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô.

Nối tiếp Tông huấn “Marialis cultus”, Đức Giáo Hoàng Ioannes Paulus II đã triển khai sâu thêm những giá trị và ý nghĩa của kinh Mân Côi qua Tông thư “Rosarium Virginis Mariae”:

- Kinh Mân Côi kính Đức Trinh Nữ Maria là kinh được các vị thánh yêu quý và được quyền giáo huấn của Giáo hội khuyến khích.

- Kinh Mân Côi  đơn sơ nhưng sâu sắc, là lời kinh có ý nghĩa lớn lao vào buổi Rạng đông của Ngàn năm thứ ba này, và mang lại hoa quả thánh thiện.

- Kinh Mân Côi  dễ hoà nhập vào cuộc hành trình thiêng liêng của đời sống kitô hữu, đời sống này sau hai ngàn năm vẫn không đánh mất sự tươi trẻ của buổi ban đầu và thấy được Chúa Thánh Thần dẫn  “ra khơi” để hô to lên trước thế giới rằng Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa và Đấng Cứu độ, là đường đi, sự thật và sự sống (Ga 14,6), là mục tiêu của lịch sử nhân loại, là đích điểm mà các khát vọng của lịch sử và văn minh hướng về.

- Kinh Mân Côi, gắn liền với Đức Mẹ Maria, là một lời kinh lấy Chúa Kitô làm trung tâm. Qua vẻ giản dị, lời kinh có chiều sâu của toàn Tin mừng cứu độ.

- Kinh Mân Côi là bản tóm lược Tin mừng cứu rỗi.

- Kinh Mân Côi vọng lại lời kinh Ngợi khen của Đức Mẹ, về  việc Ngôi Lời Nhập thể cứu chuộc đã khởi sự trong lòng trinh khiết của ngài.

- Kinh Mân Côi, đưa người Công Giáo đến chiêm ngưỡng vẻ đẹp trên dung nhan của Chúa Kitô và cảm nghiệm chiều sâu thẳm tình yêu của Người.

- Nhờ Kinh Mân Côi, các tín hữu lãnh nhận vô vàn ơn thiêng, qua chính đôi tay của Mẹ Đấng Cứu Thế.

III. KINH MÂN CÔI VỚI DÒNG ĐAMINH

Như chúng ta nhận thấy rằng, hầu hết các ảnh tượng kính Đức Mẹ Mân Côi đều có thánh Đaminh (đôi khi còn thêm thánh Catarina) đi kèm. Tục truyền rằng, chính thánh Đaminh đã lãnh nhận cỗ tràng hạt từ Đức Mẹ, và đã đi “tuyên truyền” cho việc đọc kinh này. Truyền thuyết này đã bị xét lại vì nhiều lý do. Lý do thứ nhất là vì các tài liệu cổ nhất (bản án phong thánh, Libellus của cha Jordan of Saxony, các Legenda) không hề nói đến sự kiện này. Một lý do nữa là các bức tranh cổ của thánh Đaminh đều vẽ người cầm quyển sách chứ không cầm tràng hạt. Vì thế cần phải truy tầm nguồn gốc của kinh Mân Côi cách kỹ lưỡng hơn.

A. Nguồn gốc

Vào thời thánh Đaminh đã lưu hành bốn “bộ Thánh Vịnh” (psalterium): 150 kinh Lạy Cha (psalterium Christi), một bộ 150 kinh Kính Mừng (psalterium b. Virginis), một bộ gồm 150 điểm suy gẫm về cuộc đời Chúa Kitô; một bộ 150 lời ca ngợi Đức Mẹ.

Như đã nói trên đây, các Anh Em Giảng Thuyết đã có thói tục đọc kinh Kính Mừng nhiều lần trong ngày. Vào thế kỷ XIII, đã có vài sự kiện manh nha cho sự tiến triển của kinh Mân Côi. Có những sử liệu kể lại thói tục của vài anh em đọc 150 kinh Kính Mừng, chia làm 3 “vòng hoa”, chẳng hạn như Bartolomeo Trento (+1251), Gioan Mailly (1260), Thomas Cantipré (+1260). Đồng thời, tu sĩ Romeo de Liva (+1261) đã sử dụng một sợi dây thắt nút để đếm các kinh Kính Mừng (mỗi ngày đọc 1000 lần).

Người đã có công cổ động việc đọc kinh Mân Côi theo hình thức hiện nay là cha Alain de la Roche. Nguyên là giáo sư thần học tại Paris, Lille, Gand, Rostock, từ năm 1463 cha Alain cảm nhận ơn gọi đi truyền bá kinh Mân Côi, như là một kinh kính Đức Mẹ. Như đã nói ở trên, hình thức của “Thánh Vịnh Đức Mẹ” trước đây do đan sĩ Dominic Prussia (Dòng Chartreux, ở Cologne) đề xướng, đã được cha Alain cấu trúc lại thành: 150 kinh Kính Mừng, chia thành ba phần chính (đọc vào ba buổi trong ngày: sáng, trưa, tối) gồm: kính nhớ cuộc Nhập Thể, Tử Nạn và Vinh Quang của Chúa Kitô. Vào mỗi kinh Kính Mừng, cha Alain thêm một tư tưởng suy niệm các chân lý đức tin. Như vậy, ngoài việc lặp đi lặp lại kinh Kính Mừng, cha Alain còn thêm việc suy ngắm các mầu nhiệm về cuộc đời Chúa Kitô. Cha đã xuất bản nhiều tác phẩm để giải thích ý nghĩa của kinh Mân Côi.[3]

Truyền thuyết về việc thánh Đaminh lãnh nhận tràng chuỗi Mân Côi cũng bắt nguồn từ cha Alain de la Roche. Có người đã trách là cha Alain đã bịa đặt câu chuyện. Nhưng có người đã bênh vực như thế này: Cha Alain không hề có chủ ý dựng đứng một sự kiện. Cha chỉ thuật lại (cách thành thực) rằng, cha đã được một “thị kiến” trông thấy Đức Mẹ trao cho tràng hạt cho thánh Đaminh như khí cụ bài trừ lạc giáo. Thực khó mà kiểm chứng được cái thị kiến đó hư thực thế nào. Đặt trong bối cảnh lịch sử đương thời, người ta có thể giả thiết rằng, cha Alain nhận thấy kinh Mân Côi là một “tuyệt tác”, không thể nào giải thích được do sáng kiến loài người. Vậy thì chắc là nó được linh hứng (do Đức Mẹ).

Sau này, vào năm 1521, cha Alberto da Castello, O.P. đã đơn giản cách đọc trước đây của cha Alain bằng việc phân chia ba mầu nhiệm lớn thành 15 mầu nhiệm nhỏ.

B. Hiệp hội Mân Côi

Ngoài việc rao giảng Kinh Mân Côi, cha Alain còn lập “Hiệp Hội Thánh Vịnh Mẹ Maria” (Confrérie du psautier de Notre Dame), bắt đầu tại Douai (1470). Các hội viên cam kết đọc hết 150 kinh Kính Mừng mỗi ngày, cũng như cam kết xưng tội rước lễ vào lúc ghi danh và mỗi năm ba lần (lễ Hiện Xuống, lễ thánh Đaminh, lễ Giáng Sinh). Như vậy qua việc đọc kinh Mân Côi, các hội viên được thúc giục đào sâu các mầu nhiệm đức tin và tham gia các bí tích nữa.

Phong trào của cha Alain bành trướng mau lẹ, một phần cũng nhờ sự hợp tác của anh em đồng Dòng. Năm 1474, một bàn thờ dành cho Hội Mân Côi đã được thành lập tại tu viện Frankfurt. Năm 1475 (năm mà cha qua đời), cha báo cáo cho biết rằng số hội viên lên tới hơn 50 ngàn.

Cũng vào năm 1475, Hiệp Hội Mân Côi (Fraternitas Rosarii) được thành lập tại Koln (do bề trên Jame Sprenger). Tuy gặp vài chống đối đây đó nhưng cả hai hiệp hội tại Lille và Koln đã được giáo quyền địa phương châu phê. Sang năm 1479, chính Đức Giáo Hoàng Sixtus IV đã châu phê hiệp hội, với bulla ký ngày 12-05, mở màn cho các văn kiện Tòa Thánh về kinh Mân Côi.

Từ Koln, hiệp hội tràn sang các thành phố bên Đức, Bỉ, Hòa Lan, Pháp, Italia, cho đến mãi tận Portugal. Phong trào Mân Côi (phát sinh từ các tu viện Đaminh) cũng đã được truyền bá nhờ lòng nhiệt thành của các tu sĩ Đaminh. Tòa Thánh đã xác nhận điều này khi ủy thác cho các tu sĩ Đaminh việc rao giảng kinh Mân Côi và dành cho Bề trên tổng quyền đặc quyền thiết lập Hội Mân Côi.

Văn kiện quan trọng nhất của Tòa Thánh về kinh Mân Côi là “bulla Consueverunt Romani Pontifices” (17-09-1569) của Đức Giáo Hoàng Pius V thuộc Dòng Đaminh, trong đó ngài kể lại nguồn gốc, mô tả bản chất, và những mục tiêu của việc đọc kinh Mân Côi. Việc đọc kinh Mân Côi đã được phổ biến rộng rãi trong toàn thể Hội Thánh, nhất là từ khi Đức Giáo Hoàng Pius V nhìn nhận sự chiến thắng của đạo quân Công Giáo chống lại sự tấn công của quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Lépante (05-10-1571) là do lời chuyển cầu của Đức Mẹ Maria.

Trong công hội (consistorium) ngày 17-03-1572, ngài quyết định thiết lập lễ Mân Côi để kính nhớ biến cố này. Tiếc rằng ngài đã qua đời (01-05-1572) trước khi thực hiện ý định. Theo lời thỉnh nguyện của cha Serafino Cavalli (tổng quyền Dòng Đaminh), Đức Giáo Hoàng Gregorius XIII đã thiết lập lễ Mân Côi (bulla Monet Apostolus, 01-04-1573), và cho phép cử hành vào Chúa Nhật đầu tháng 10 tại bất cứ thánh đường nào có bàn thờ kính Đức Mẹ Mân Côi. Ngày 03-10-1716, Đức Giáo Hoàng Clement XI nới rộng lễ này ra toàn thể Hội Thánh.

Nhờ những ân xá do Tòa Thánh tiếp tục ban cấp, Hội Mân Côi được thiết lập tại nhiều Giáo phận và Giáo xứ. Nhiều bàn thờ và nguyện đường được dâng kính Đức Mẹ Mân Côi.

Xin miễn dài giòng trưng dẫn lại các văn kiện Tòa Thánh ca ngợi kinh Mân Côi và các tác phẩm mà anh em Đaminh viết về kinh Mân Côi. Chỉ xin ghi lại một chi tiết để “giải trí”, đó là anh em Đaminh đã phải kiện lên Tòa Thánh khi thấy các Dòng khác “sản xuất đồ giả”. Ngày 28-05-1664, Đức Giáo Hoàng Alexandros VII đã lên án Dòng Phanxicô vì đã ngụy tạo “Rosarium seraphicum” (suy gẫm 9 mầu nhiệm, và mỗi lần đọc 9 kinh Kính Mừng). Tòa Thánh cấm không được truyền bá kinh này và những bức hình vẽ Đức Maria trao tràng chuỗi cho thánh Phanxicô! Năm 1673, Tòa Thánh trong “bộ Index”, cũng cấm lưu hành kinh Mân Côi của thánh Anna. Năm 1683, Đức Giáo Hoàng Innocentius XI cấm Dòng Tên tuyên truyền những bức tranh vẽ Đức Mẹ trao tràng hạt cho hai tu sĩ của con cái thánh Ignatius. Đức Giáo Hoàng Clement XI cấm Dòng Trinitari không được ngụy tạo kinh Mân Côi kính Chúa Ba Ngôi (bulla 08-03-1712).

Kinh Mân Côi cũng đi theo các thừa sai Đaminh sang Mỹ châu và Á châu. Đặc biệt Tỉnh Dòng truyền giáo tại Viễn Đông mang tước hiệu Provincia Ssmi. Rosarii Philippinarum. Riêng tại Việt Nam, chúng ta còn phải nghiên cứu ảnh hưởng của Kinh Mân Côi đối với việc truyền giáo. Bao nhiêu vị tử đạo đã tiến ra pháp trường với cỗ tràng hạt trên tay.

C. Những hình thức khác của phong trào Mân Côi

Ngoài việc cổ động kinh Mân Côi và việc thiết lập các Hiệp Hội Mân Côi, còn có nhiều hình thức truyền bá khác trong các thế kỷ gần đây đáng được ghi nhận.

1- Hội Mân Côi sống

Do chị Pauline Jaricot sáng lập. Jaricot cũng là người lập ra các hội truyền bá đức tin (Oeuvre de la propagation de la foi).

Nguyên là một phần tử của Hội Mân Côi từ năm 1817, chị thấy hội này òi ọp, cho nên muốn tổ chức lại để cho việc đọc kinh Mân Côi được linh động hơn, và tiêm nhiễm tinh thần truyền giáo. Năm 1826, chị đưa ra ý định lập Hiệp Hội Mân Côi sống (Association du Rosaire vivant). Hiệp Hội này bành trước mau lẹ: Tới năm 1832, số hội viên đã tới 1 triệu ở Pháp, và lan sang Italia, Thụy Sĩ, Bỉ, Anh,… Đức Thánh Cha Gregorius XVI châu phê với đoản dụ “Benedicentes Domino” ngày 27-01-1832. Năm 1836, bề trên Tổng Quyền Thomas Cipolletti nhận bảo trợ Hiệp Hội và cho thông dự vào những đặc ân của Dòng Đaminh. Ngày 17-08-1877, Đức Giáo Hoàng Pius IX chấp nhận việc liên kết ấy (Đoản dụ “Quod jure haereditario”).

Hình thái đặc biệt của Hiệp Hội này là quy tụ 15 người thành một tổ: mỗi người lãnh trách vụ mỗi ngày đọc một chục kinh và suy gẫm 1 mầu nhiệm. Mỗi tổ có 1 tổ trưởng (gọi là: zélateur, zélatrice), theo dõi và phân phối luân phiên các mầu nhiệm cho các thành viên trong tổ.

Trong những năm gần đây, hình thức này được biến cải thành “Equipes du Rosaire”, những nhóm học hỏi Lời Chúa và cầu nguyện dựa theo các mầu nhiệm Mân Côi.

2- Hội Mân Côi liên lỉ (Associatio Rosarii perpetui)

Do cha Marie-Augustin Chardon OP (1830-62) sáng lập năm 1858 tại Lyon, cảm hứng từ hội Mân Côi sống của chị Jaricot. Đức Giáo Hoàng Pius IX châu phê với một đoản dụ ngày 12-04-1867.

Các hội viên chọn lấy một giờ “gác” (trong tuần hay tháng) để đọc hết tràng chuỗi Mân Côi (ở bất cứ nơi nào cũng được: ở tư gia hay nhà nguyện, lúc đi đường hay khi nghỉ ngơi,...). Nhờ sự điều phối của ban điều hành (chia phiên cho hội viên trong vòng một tháng hay một năm), suốt ngày đêm năm tháng luôn luôn có người đọc kinh Mân Côi. Dĩ nhiên, đây là một việc tự nguyện; do đó, lỡ ai không giữ được giờ đã hứa thì cũng chẳng mắc tội gì!

Ngoài ra, có thể hằng năm tổ chức một hai ngày cho tất cả hội viên một “Giờ” liên tục tại nhà thờ, tựa như tục “chầu lượt”.

3- Sang thế kỷ XX

Việc rao giảng kinh Mân Côi mang thêm những hình thức mới: báo chí, truyền thanh, truyền hình, hệ thống Internet,... Từ năm 1908 (kỷ niệm 50 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lourdes), các cha Đaminh bên Pháp hằng năm tổ chức cuộc hành hương Mân Côi (pèlegrinage du Rosaire) vào đầu tháng 10 (Lần đầu tiên chỉ có 1200 người tham dự; 50 năm sau số tín hữu lên đến 100 ngàn). Nhân dịp hành hương, các tín hữu tham dự các buổi tĩnh tâm, các giờ chầu Thánh Thể, các cuộc suy niệm Lời Chúa, các công tác bác ái giúp đỡ các bệnh nhân, và dĩ nhiên không thể bỏ qua việc tham dự bí tích Thống Hối và Thánh Thể.

Ngoài ra, còn có các Hội Nghị (Congressus) về kinh Mân Côi được tổ chức vào những năm 1954 (Fatima, Bồ Đào Nha), 1959 (Toulouse, Pháp), 1963 (Roma, Italia), 1967 (Roma), 1976 (Roma).

 

 

 

 


[1] Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Tông huấn Marialis Cultus (Sùng Kính Đức Maria), ngày 02-02-1974, số 42-55: http://catechesis.net/index.php/van-kien-giao-hoi/duc-giao-hoang/tong-huan/625-tong-huan-marialis-cultus-sung-kinh-duc-maria-cua-dgh-phaolo-vi-ngay-02-02-1974

[2] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư “Rosarium Virginis Mariae” (Hoa hồng trinh nữ Maria), ngày 16-10-2002: http://catechesis.net/index.php/van-kien-giao-hoi/duc-giao-hoang/tong-thu/1770-tong-thu-rosarium-virginis-mariae-kinh-man-coi-cua-dgh-gioan-phaolo-ii-ngay-16-10-2002

[3] Alain de la Roche, Tractatus de Rosario B. Mariae Virginis, Koln, 1472; Quodlibet de veritate fraternitatis Rosarii seu Psalterii beatae Mariae Virginis, Koln, 1476.