KHẢO LUẬN TRƯỜNG THIÊN VỀ ĐỨC KITÔ
Tác giả: Lm. F.Gómez Ngô Minh, SJ.
***
***
CHƯƠNG IX
CÔNG TRÌNH CỦA ĐỨC KITÔ
VII. ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG CỨU TINH
Tước hiệu “Cứu tinh” (Sôtêr) không xuất hiện trong các văn bản cổ xưa thời đầu; và nói chung, so với các tước hiệu khác, Tân Ước ít khi dùng đến tước hiệu này: tất cả vỏn vẹn chỉ có 4 lần trong các thư mục vụ, 5 lần trong 2Pr và 2 lần trong Ga (x. Ga 4:42; 1Ga 4:14). Lý do là vì trong văn hóa Hylạp, “cứu tinh” là tước hiệu của các thần linh, của các vị anh hùng và các vua chúa. Kitô giáo muốn tránh sự hiểu lầm và không chịu đặt Ðức Kitô trong cùng một bình diện với thần Apôllô hay hoàng đế Caligula! Ðức Kitô đâu phải là vị “cứu tinh” theo kiểu ấy. [147]
Tuy nhiên, khi đã có được những hiểu biết rõ ràng và vững chắc đủ về Ðức Kitô, Giáo hội mới vững tâm áp dụng tước hiệu ấy cho Ðức Kitô. Có lẽ vì đang trong thời bút chiến chống quan niệm của lương dân lúc bấy giờ, Tt 2:13 đã gọi “Ðức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Ðấng Cứu độ chúng ta.” Ba thư mục vụ dùng danh tước “ Ðấng cứu tinh” khi nói về Thiên Chúa (x. 1Tim 1:1; 2:3; 4:10; Tt 1:3; 2:10) cũng như về Ðức Kitô (x. 2Tm 1:10; Tt 1:4; 2:13; 3:6; x. 2Pr 1:11; 2:20; 3:2.18).
Thời Cựu Ước, không có nguy hiểm ngộ nhận nói trên; vì thế “cứu tinh” là tước hiệu của Giavê (x. 1Sm 10:19; Is 45:1,v.v.), và đôi khi, cũng của cả các đại diện Người chọn, như các Quan án (x. Lt 3:9.15). Nhưng tước hiệu này không bao giờ được quy áp cho Ðấng Thiên sai. [148]
Luca giới thiệu hài nhi Giêsu trong cương vị “Ðấng Cứu độ” và giải thích qua hai tước hiệu khác là “Ðấng Kitô và Ðức Chúa” (Lc 2:11). Theo thần học của sách Công vụ, “cứu độ” là tước hiệu của Ðấng Phục sinh (x. Cv 5:31), như Kinh Thánh đã tiên báo: “Từ dòng dõi Ðavít, theo lời hứa, Thiên Chúa đã đưa đến cho Ítraen một Ðấng Cứu độ là Ðức Giêsu” (Cv 13:23). Ðức Kitô đã được nâng lên, nhưng Giáo hội còn trông chờ Ngài trở lại với tư cách là Ðấng Cứu độ trong ngày quang lâm (x. Pl 3:20). Vì là Ðầu của Hội thánh và là Ðấng Cứu độ của hết thảy các chi thể, nên Ðức Kitô là Vị Cứu tinh của toàn bộ thân thể (x. Ep 5:23). Theo thần học chung của Tân Ước, Ngài đã chịu khổ hình vì chúng ta, và như thế, đã “trở nên nguồn ơn cứu độ cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Dt 5:9).
Sau thời các tông đồ, bởi văn hóa Hy lạp vẫn còn mơ hồ về tước hiệu “cứu tinh,” nên các Giáo phụ ít khi gọi Ðức Kitô là “Ðấng Cứu độ.” Inhaxiô Antiôkia chỉ dùng đến tước hiệu này có 4 lần; chẳng hạn như khi tố giác các “thầy giáo giả” vì họ “không tuyên xưng Thánh thể là thịt, máu của Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu độ chúng ta” (Smirna 7. 1). Dù sao, tước hiệu Sôtêr, “Cứu độ” đã không được phổ biến rộng rãi cho bằng các tước hiệu “Chúa” hoặc “Lời” v.v., lý do là vì còn mang ý nghĩa nước đôi, tựa như từ ngữ “Giải phóng” hiện nay.
Tuy nhiên, Giáo hội hằng tin vững rằng Ngài là Ðấng Cứu độ. Các Giáo phụ nêu rõ giáo lý này khi bàn về “ơn cứu độ,” coi đó là ân huệ của Ðức Kitô, cũng như khi lưu ý về nghĩa của Tên gọi “Giêsu” là “Giavê giải cứu”: “bởi Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1:21). Gioan mở rộng chân trời: Ngài không những xóa tội của Ítraen mà còn của cả trần gian nữa (x. Ga 1:29); Ngài quả là “Ðấng Cứu độ trần gian” (Ga 4:42). Vì niềm tin này, thánh Luca đã dứt khoát khẳng quyết rằng ngoài thánh Danh Ngài ra, chẳng có ơn cứu độ ở một ai, một nơi nào khác (x. Cv 4:12).
Là sự sống (x. Ga 14:6), là ánh sáng (x. Ga 1:9; 8:12, v.v.), và là sự sống lại (x. Ga 11:25), Ðức Kitô là ơn cứu độ, là nguồn cứu độ cho muôn dân. Cùng với Chúa Cha, Ngài “nhiệm xuy” Thần Khí, [149] là Ðấng thánh hóa, là tác động cứu độ nơi các tâm hồn; nếu Ðức Kitô không phải là “nguồn xuất phát” của Thần Khí, thì cũng chẳng phải là Ðấng Cứu độ. Ðã hẳn là nguồn cội tuyệt đối của mọi ơn cứu độ là Chúa Cha, vì thế 1Tm 4:10 gọi Người là “Ðấng Cứu độ mọi người,” nhưng Người cứu độ qua Ðức Kitô và trong Thần Khí. Tuy nhiên, trong kế hoạch cứu độ, Ðức Kitô là “anpha và ômêga,” là nguyên thủy và chung cục, vì thế, không thể ‘qua mặt’ Ðức Kitô để trực tiếp đi đến với Chúa Cha (x. Ga 14:6) hoặc nhận lãnh Thần Khí: không qua Ðức Kitô thì không thể đến được với ơn cứu độ.
VIII. CÔNG TRÌNH CỦA ÐẤNG TRUNG GIAN
Như đã thấy, đời sống và công cuộc rao giảng của Ðức Kitô được trình thuật trong nhiều cách, với nhiều từ ngữ, ẩn dụ khác nhau. Muốn hiểu về công trình này, thì cần phải xếp các ẩn dụ theo hệ thống và nghiên cứu ý nghĩa của từng từ ngữ. Mọi sự đều phát sinh từ lòng nhân hậu của Chúa Cha; vì thế, suy tư thần học nên bắt đầu tiến hành từ trên xuống, rồi sau đó mới dồn chú tâm vào Ðức Giêsu để, làm như đi từ dưới lên, mà tìm hiểu về cách thức đại diện loài người đáp ứng lòng thương của Thiên Chúa. [150]
1. Ðức Kitô, Ðấng Trung Gian Mạc Khải
So sánh Môsê, trung gian của Cựu Ước, với Ðức Kitô, trung gian của Tân Ước, Gioan viết rằng Thiên Chúa đã ban Lề Luật qua Môsê, còn ân sủng và sự thật thì ban qua Ðức Giêsu Kitô (x. Ga 1:17). Ơn cứu độ và sự thật mật thiết liên quan với nhau (x. 1Tm 2:4). Ngài vốn là Lời, là ánh sáng, xuống thế gian để mạc khải Thiên Chúa cho chúng ta (x. Ga 1:18); mà biết Thiên Chúa (và biết Ðức Giêsu Kitô) chính là sự sống đời đời (x. Ga 17:3). Sở dĩ Ðức Kitô đã đến là để “soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối và trong bóng tối tử thần” (Lc 1:79). [151]
Cần phải biết như thế nào về Thiên Chúa để được cứu độ? Nếu biết như thầy giáo biết về môn học mình dạy, thì không đủ; nếu biết như người đi du lịch biết các nơi, các miền mình đã tới, hoặc biết các người trong hình chụp, thì cũng vẫn chưa đủ; nếu biết như sĩ quan biết lính, như chủ nhân và cộng nhân biết nhau, như thầy trò biết nhau, cũng vẫn chưa đủ. Hành động “biết” có sức cứu độ thì tựa như vợ chồng biết nhau, cha mẹ con cái biết nhau; đó là cách Ðức Giêsu mạc khải về Chúa Cha (x. Mt 11: 27). Ðức Giêsu làm cho chúng ta biết Cha để dẫn chúng ta tới với Người như con cái.
Ðức Kitô mạc khải Thiên Chúa không chỉ qua lời nói và việc làm, mà nhất là qua chính bản thân Ngài: Ngài là Lời, là hình ảnh của Thiên Chúa, nên thấy Ngài là thấy Cha, gặp Ngài là gặp Thiên Chúa, là gặp chính ơn cứu độ. Vì thế đường cứu độ là đường của môn đồ: không những học bài Thầy dạy, mà nhất là rập khuôn lối sống của Ngài, đúng như những gì Phaolô (x. Pl 2:5) và Phêrô (x. 1Pr 2:21) khuyên nhủ. Ý của Chúa Cha là môn đồ chuyên chú vâng nghe lời Thầy (x. Lc 9:35), và tất cả những ai giữ lời ấy đều sẽ được thánh hiến trong sự thật (x. Ga 17:14-18), sẽ biết Chúa Cha như con biết cha, và sẽ được yêu thương như Cha yêu Con (x. Ga 17:26): đó là được cứu độ đến một mức tuyệt diệu.
Kế hoạch cứu độ được trình bày như là cuộc giao chiến giữa ánh sáng và bóng tối. Lời tựa của Ga đã nói rõ: Ngôi Lời là ánh sáng chiếu soi mọi người; nhưng tối tăm không chịu đón nhận ánh sáng, tức “người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng” (Ga 3:19): đó là biểu tượng của tội lỗi trần gian; còn theo gót Ðức Giêsu là bước đi trong ánh sáng (x. Ga 8:12); chính nhờ ánh sáng ấy mà con người được ơn trở nên con Thiên Chúa (x. Ga 1:12).
Nếu Ðức Kitô là ánh sáng, thì kẻ thù là “quyền lực tối tăm” (x. Lc 22:53). Vì thế, Phaolô miêu tả việc cứu độ như sau: “Anh em, hãy vui mừng... vì Chúa Cha đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái... trong cõi đầy ánh sáng” (x. Cl 1:12-3; 1Pr 2:9). Cuộc đời cứu độ ở dưới đất này chính là “ăn ở như con cái ánh sáng” (Ep 5:8-9), sống như Chúa đã sống, trong một cộng đoàn khuynh đệ tương ái (x. 1Ga 1:7).
Ơn cứu độ là được biết Chúa như Chúa biết ta (x. 1Cr 13:12). Việc nhận biết này khởi sự với đức tin. Thánh Phaolô ghi ra một số danh sách những nhân đức tiêu biểu của lối sống kitô giáo; nhân đức đầu tiên là đức tin, và cuối cùng là bác ái (x. 1Cr 13: 13; 2Cr 8:7) hoặc sự hiểu biết (x. Rm 15:13-4). Sự hiểu biết này không phải là trí thức, nhưng là kinh nghiệm cùng sống trong tình yêu: “mối lợi tuyệt vời là được biết Ðức Kitô Giêsu, Chúa của tôi” (Pl 3:8); đó là lý tưởng của vị tông đồ. “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Ðức Kitô” (Rm 10:17), vì thế Phaolô coi việc giảng Tin mừng là như ánh sáng bừng lên (x. 2Cr 4:4-6). Cuối cùng, trong bí tích Thánh tẩy, đức tin được cụ thể hiện thực hóa: thư Do thái gọi là “được chiếu sáng” (Dt 6:4; 10:32).
Truyền thống của Giáo hội đã từng nêu bật cho thấy sự hiểu biết kia là một yếu tố cấu thành của ơn cứu độ. Trung gian của sự hiểu biết này là Ðức Kitô. Khoảng năm 98, Clêmentê Rômanô đã viết: “Qua Ngài chúng ta nhìn lên trời cao; qua Ngài chúng ta ngắm nhìn như trong một tấm gương sáng, tôn nhan tinh tuyền vô song của Thiên Chúa; qua Ngài con mắt của tâm địa chúng ta mở ra; qua Ngài trí tuệ ngu dại và mờ đục của chúng ta bừng sáng lên; qua Ngài Thiên Chúa muốn chúng ta nếm thử sự hiểu biết bất diệt...” [152] Hồi thế kỷ thứ hai, Giuxtinô tử đạo so sánh việc mình trở lại theo Ðức Kitô như là việc đón nhận ánh sáng, và coi Kitô giáo như một “nền triết lý” hoặc một lối sống khôn ngoan (philosophia) độc đáo; ngài gọi phép Rửa là phôtismós tức thiên khải sáng soi, một tên gọi đã được các Giáo phụ xử dụng: “Chúng tôi gọi Phép Rửa là sự soi sáng, vì những ai đón nhận giáo lý này thì được (Thần Khí) chiếu soi tâm hồn.” [153] Còn Irênêô, tác giả cuốn sách Chống các lạc giáo, coi các lạc giáo là những tri thức giả, còn Kitô giáo là “tri thức thật.” Ngài xác tín ơn cứu độ phát sinh từ Ðức Kitô, Ðấng mạc khải: “Cuộc thương khó của Chúa làm cho chúng ta hiểu biết Chúa Cha, và vì thế là nguồn ơn cứu độ.” [154] Yếu tố tri thức của ơn cứu độ được nêu bật nhiều nhất trong trường phái Alêxănđria, từ Clêmentê, Ôrigênê cho đến Xyrillô; bên phía Tây phương, yếu tố này cũng hiện diện, nhưng không nổi bật bằng.
Xưa nay, các tôn giáo vẫn không quên lưu ý đến yếu tố này. Ngộ đạo và Phật giáo nêu bật giá trị tối cao của việc giác ngộ. Thần học cũng đã từng có khuynh hướng nhấn mạnh quá đáng đến giá trị và sức mạnh cứu độ của mạc khải, như thấy qua lập trường của Abêlácđô hồi thời Trung cổ, hoặc qua chủ trương của phái Tin lành Tự do gần đây: Thầy Giêsu đã chỉ đường đi, bây giờ cứ theo đó mà đi là đủ. Không; không những chỉ đường mà thôi, Ðức Giêsu còn làm nhiều điều khác nữa. Dĩ nhiên, sự hiểu biết là chiều kích cơ bản của ơn cứu độ kitô; do đó, bao giờ Giáo hội cũng nêu cao giá trị và tầm trọng yếu của sự thật, của việc ngẫm đọc, học hỏi và rao giảng Lời Chúa, của giáo lý, v.v. Vì vô tri thì bất mộ, và con người chỉ yêu theo mức hiểu biết của mình: hiểu biết Thiên Chúa thế nào qua kinh nghiệm, thì yêu mến Người thể ấy trong cuộc sống; mà đã yêu thì càng muốn hiểu biết thêm. Lịch sử cứu độ là lịch sử mạc khải, là quá trình Thiên Chúa tự trút bỏ, tự bóc lộ, tức tự trao ban chính mình cho loài người.
2. Cứu Chuộc
Phạm trù cứu chuộc – redemptio trong tiếng Latinh – đóng giữ vai trò trọng yếu bậc nhất trong Kinh Thánh cũng như trong thần học. Biến cố cơ bản là cuộc tử nạn thập giá; nhưng toàn bộ cuộc đời Ðức Giêsu đã diễn tiến theo kế hoạch “cứu chuộc,” và Ngài xuất hiện trong dung mạo của Ðấng Toàn thắng. Trong truyền thống, từ “cứu chuộc” đồng nghĩa với “cứu độ,” dù theo nghĩa hẹp, thì từ này đơn thuần mang ý nghĩa chỉ về một cách (ẩn dụ) tiến hành của công cuộc cứu độ. [155]
a. Ngôn Ngữ
Danh từ cứu chuộc có nghĩa là mua lại và trả cái giá phải trả để nhận lại. “Giá chuộc” dịch từ lýtron trong tiếng Hylạp, và đã được Ðức Giêsu dùng đến trong Phúc âm (x. Mc 10:45tt). [156] Trong ngôn ngữ thông thường thời trước, đó là giá mua một nô lệ, giá phải trả để người nô lệ được tự do; trong ngôn ngữ tôn giáo, đó là giá tín hữu trả để được giải thóat khỏi sự dữ, nhất là khỏi tội ác. Một từ khác, từ trừu tượng lýtrosis (giải thoát), cũng đã được dùng ở trong Lc 1:68; 2:38 và Dt 9:12, với ý nghĩa chung là “giải phóng” những ai thiếu tự do. Nhưng được dùng nhiều hơn cả là từ ghép apolýtrosis (giải thoát, mua chuộc, trả tự do, v.v.), có nghĩa là cứu chuộc (x. Lc 21:28; Rm 3:34; Dt 9:17, v.v.).
Cũng còn những từ tương tự khác được dùng, như từ agorázein (mua ở chợ): “Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em” (1Cr 6:20), hoặc: “Ðức Kitô đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa vì Lề Luật...” (Gl 3:13; x. 4:5). Giá phải trả là máu (x. Kh 5:9-10), như thấy trong cách Phaolô dùng động từ peripoieo (mua) để nói về: “Hội thánh Thiên Chúa đã mua bằng máu của chính mình” (Cv 20:28); vì thế, Phêrô gọi cộng đoàn kitô là “dân Thiên Chúa đã mua cho mình...” (1Pr 2:9).
b. Ý Nghĩa
Xuất xứ chủ yếu của ý nghĩa các từ nói trên đây là Cựu Ước. Ítraen luôn luôn coi Giavê là Ðấng Cứu chuộc dân Người (G 19:25; Tv 78:35, v.v.), đặc biệt là vì Người đã giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai cập (x. Ðnl 13:6). Sở dĩ Ítraen đã trở thành “Dân Thiên Chúa” thì chính là vì Giavê đã “mua” họ cho mình (x. Tv 78:42; Is 43:1; 44:22), và đã dẫn họ vào lãnh thổ của Người là thánh địa, một lãnh thổ không phải là phàm tục. [157] Thật vậy, Thiên Chúa đã tạo cho mình một dân tộc mới: “Nhưng bây giờ, đây là lời Giavê phán, lời của Ðấng tạo thành ngươi, hỡi Giacóp, lời của Ðấng nắn ra ngươi, hỡi Ítraren: Ðừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta” (Is 43:1). [158] Thiên Chúa trở nên go’el của Ítraen, tức như người huyết tộc có bổn phận chuộc lấy gia tài hoặc gia nhân đã bị mất (x. Is 41:14; 43:1.14; 44:6. v.v.), vì thế mà khi Thiên Chúa “mua” họ, Người không ở trong tư thế là chủ, mà là Cha của dân mình.
Những ý nghĩa trên đây đều đã được ứng nghiệm trọn vẹn trong Ðức Kitô: “Vì chúng ta, Ngài đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Ngài, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 3:14). Tân Ước lấy biến cố Xuất hành làm tiên trưng cho công trình cứu chuộc của Ðức Kitô. Những gì Chúa Giavê đã làm cho Ítraen, thì Ðức Kitô cũng đã thực hiện cho Giáo hội (x. 1Cr 5:7; 1Pr 1:9; Kh 5:6). Ngài đã thực hiện bằng cách nào?
Dù suốt cả cuộc đời, Ðức Giêsu “cứu chuộc” chúng ta, nhưng Tân Ước dồn cả chú ý vào trọng điểm là thập giá. Trên thập giá “Ngài đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta... đã truất phế các quyền lực thần thiêng, đã công khai bêu xấu chúng...” (Cl 2:14-15). Nhưng cuộc toàn thắng ấy đã phải trả một giá cao, là chết trên thập giá: Ðức Giêsu đã “hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28tt; x. 1Tm 2:5-6). Hoặc nói theo cách ẩn dụ “mua,” thì Ngài đã phải trả bằng giá máu Ngài. Dùng hậu cảnh phụng vụ, thư Do thái đã viết: “Ngài đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Ngài vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc (lýtrôsis) vĩnh viễn cho chúng ta” (Dt 9:12). Và rõ hơn nữa, 1Pr ghi: “Không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu chuộc... nhưng là... nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tì tích, là Ðức Kitô” (1Pr 1:18-9).
Những cách nói này muốn nêu bật tính cách trang trọng của việc cứu độ. Vì là hành động của tình yêu và tình yêu tuyệt đối thì có thể đòi hỏi tất cả, cả đến sự sống (x. Ga 15:13), nên Ðức Kitô đã ý thức rõ về sự việc mình sẽ phải chịu khổ nhiều (x. Mc 8:31; Lc 24:26): đó là nỗ lực của ngôn ngữ loài người trong việc trình bày mầu nhiệm khôn tả, làm sao để khỏi rơi vào thế giới thần thoại. Nguy hiểm là khi thần học quên đi đó chỉ là ẩn dụ để đem dùng như là ý niệm chính xác, vào trong tiến trình suy luận về việc cứu độ. Thí dụ điển hình là câu hỏi: Ðức Giêsu đã trả giá chuộc vào tay ai?
Trả lời không khéo là rơi vào thế giới thần thoại. Ôrigênê đã trả lời: cho Satan là chủ của chúng ta... [159] Một số Giáo phụ đã theo Ôrigênê, nhưng hiểu câu trả lời ấy theo những cách khác nhau. Thế kỷ bốn, Grêgôriô Nissa nhận là quỷ có quyền sở hữu trên các kẻ chết, và đòi một giá cao nhất là Ðức Kitô để trả tự do cho chúng; nhưng Chúa “khôn” hơn: trong nhân tính có tiềm ẩn thiên tính, thế nên lúc quỷ dữ “nuốt” Ðức Giêsu, như cá nuốt mồi, thì nó bị bắt giữ và chúng ta được giải phóng. [160] Sau đó Gioan Kim Khẩu, Âugutinô, v.v. nghĩ Satan đã lạm quyền khi giết Ðức Giêsu, vì Ngài vô tội; vì thế đã mất hết quyền trên chúng ta. [161] Tuy nhiên, cũng có nhiều Giáo phụ như Grêgôriô Nazianzô [162] chẳng hạn, phủ nhận điều đó, tin là quỷ chẳng có quyền gì hết. Từ thế kỷ 11 về sau, có người nghĩ giá chuộc được trả cho Chúa Cha. Thánh Tôma chấp nhận giả thuyết này, [163] được phụng vụ nhắc lại trong bài hát Exultet: “Ðức Kitô đã thay chúng ta trả nợ Ađam cho Chúa Cha vĩnh cửu.” Thật ra, ẩn dụ “giá chuộc” chẳng mang ý nghĩa “buôn bán” gì hết, cũng chẳng ám chỉ đến việc trả giá vào tay ai cả, nhưng chỉ muốn nhấn mạnh đến các điểm này:
1) kết quả là bây giờ chúng ta được tự do và “thuộc về” Chúa như con cái của Người;
2) tình yêu của Chúa Cha và Ðức Kitô, sẵn sàng trả bất cứ giá nào để cứu chúng ta, như bài Exultet hát lên trong phụng vụ Canh thức Vượt qua: “Ðể chuộc dân lầm than nô lệ, Cha đã trao Con Một quý yêu.”
c. Thần Học
“Cứu chuộc” đã từng là phạm trù cơ bản trong Cứu độ học, nhưng đà biến hóa của tư tưởng đã làm cho từ ấy một đàng, trở thành đồng nghĩa với “cứu độ,” và đàng khác, được hiểu như là “đền tội.” Thánh Tôma Aquinô đã phân biệt bốn thể cách trong phương thức cứu độ của Ðức Kitô: công đức, thục tội, hy tế và cứu chuộc. [164] Ngài nêu ra ba thể cách đầu kể “từ dưới lên”; ngoài ra, còn giải thích rằng tội nhân không chỉ là nô lệ của quỷ dữ mà còn cả của tội nữa; vì thế, Ðức Kitô đã phải trả giá chuộc loài người cho hai chủ: “Ðức Kitô đã đền bù không phải bằng tiền hoặc một bảo vật nào khác, song là bằng một điều quý giá nhất là chính mình Ngài trao hiến vì chúng ta. Do đó cuộc tử nạn của Ngài được gọi là giá chuộc chúng ta.” [165] Từ đấy phát xuất một phạm trù căn bản khác là “thục tội” (satisfactio). Thần học kinh viện đã khai triển rộng các khía cạnh của phạm trù này.
Từ giữa thế kỷ 20, thần học đã lại trở về với những phạm trù dùng trong Kinh Thánh, hăm hở đến độ đôi lúc đã bỏ quên đi những quan điểm chính xác của thần học kinh viện. Nói rằng Ðức Kitô đã thắng cuộc nhưng đã phải chịu khổ nhục cho đến chết, là điều rất hợp thời đối với thần học ngày nay. Thập giá và phục sinh là hai mặt của cùng một biến cố; Ðấng Phục sinh sẽ mãi mãi là “Ðấng bị đóng đinh” (Mt 28:5). Ðiều này có nghĩa là, trước hết, không được quên đi giá chuộc lớn lao Ngài đã phải trả để cứu thoát loài người; và thứ đến, “thập giá” vẫn còn là trở ngại cho trí khôn trong việc đón nhận đức tin, bởi vẫn tiếp tục làm đối tượng của không biết bao nhiêu vấn nạn: tại sao lại đau khổ, tại sao lại bất công, tại sao kẻ gian ác lại thành công, tại sao Thiên Chúa vẫn lặng thinh không can thiệp... Nhìn lên thập giá, tất sẽ thấy tội ác trong lòng con người đã làm gì, và đang làm gì cho anh chị em của Ngài: [166] công trình cứu chuộc vẫn còn tiếp tục ở giữa dòng lịch sử. Ðức Kitô toàn vẹn (Ðầu và Thân thể, tức Giáo hội) vẫn còn chịu khổ để chuộc lại anh chị em của mình. Tuy nhiên, không nên quên rằng trong nỗi khổ đau bao la ấy, lộ rõ tình yêu của Chúa đối với chúng ta (x. Rm 8:32). Tình yêu ấy đã biến đổi hẳn ý nghĩa của thập giá: từ một khí cụ giết chết, thập giá đã trở thành công cụ cứu độ, nguồn sự sống; trên thập giá tình yêu tự do đã thắng ác ý tự do. Bây giờ, tín hữu không còn lý do để thất vọng, bởi xác tín rằng trong mọi hoàn cảnh, nếu đã có Thiên Chúa bênh đỡ, thì ai có thể chống lại...? (x. Rm 8:31).
3. Ðức Kitô - Ðấng Giải Phóng
“Giải phóng” và “cứu chuộc” có nghĩa giống nhau; cả hai đều ám chỉ đến một quá khứ nô lệ; nhưng “cứu chuộc” hàm ý về giá khá cao phải trả, còn “giải phóng” thì gợi lên viễn cảnh của một tương lai hạnh phúc an toàn hơn, rồi đồng thời cũng để lộ rõ hơn tính chất thiên sai. Bởi đã gây được âm hưởng sâu rộng về mặt xã hội và chính trị, từ “giải phóng” hiện đang được coi là rất hợp thời. [167]
“Giải phóng” giả thiết một tình trạng tùy thuộc, thiếu tự do trong nhiều lãnh vực khác nhau. Tân Ước chỉ nói đến lãnh vực thiêng liêng, dù không phủ nhận hậu quả hay ảnh hưởng đối với cuộc sống thường nhật. Những kẻ thù, những chủ nô Ðức Kitô phải đánh bại là tội lỗi, là ác quỷ, là sự chết, không ngừng giả dạng ẩn mình dưới nhiều hình nhiều dạng thể khác nhau. [168]
Cuộc đời Ðức Giêsu là cả một chiến dịch đánh chống kẻ thù. Ngài đánh thắng ác quỷ ngoài hoang địa, diệt trừ quỷ dữ ở khắp nơi. Ngài là “người mạnh hơn... đã thắng được... tước lấy vũ khí và mọi sự của nó...” (Lc 11:22). Thế gian “nằm dưới ách thống trị của Ác thần” (1Ga 5:19), nhưng Ðức Giêsu khẳng định rõ Ngài đã thắng thế gian (x. Ga 16:32; x. 12:31; 16:11): Ngài là Ðấng Thắng trận. Chiến trận quyết liệt là thập giá; ở đó Ngài đã chiến thắng mọi quyền lực thần thiêng (x. Cl 2:14-5) và bây giờ “hằng cho chúng ta tham dự vào cuộc khải hoàn” của Ngài (x. 2Cr 2:14).
Khi Ðức Giêsu chữa lành bệnh tật, cho người cùi được sạch, cho kẻ chết sống lại, là Ngài chiến đấu chống thần chết, thần chết mà sau này sẽ thảm bại, sẽ bị tận diệt trong cuộc phục sinh. Sách Khải huyền giới thiệu Ðức Kitô đang nắm giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ (x. Kh 1:18; 20:13-4). Cuộc toàn thắng cuối cùng đã bắt đầu, và sẽ chung tất hồi quang lâm, “khi Ngài đã tiêu diệt mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần... Thù địch cuối cùng sẽ bị tiêu diệt là sự chết” (1Cr 15:24-26). Nhưng ngay từ bây giờ, tín hữu đã có thể nói như Phaolô: “Sống là Ðức Kitô và chết là một mối lợi” (Pl 1:21). [169]
Tội là chủ nô gian trá nhất, khó nhận ra nhất, đến nỗi chẳng những người ta không sợ, không ghét mà còn ưa thích, cảm thấy thoải mái với nó. Thế mà tội lại là kẻ thù số một của ơn cứu độ. Không tội nhân nào sẽ được vào thiên đàng (x. Kh 21:8.27; 22: 15). Ðức Kitô vô tội (x. Ga 8:46), đến trần gian để xóa bỏ tội lỗi (x. Ga 1:29). Vì thế, Ngài đã tha tội (x. Mc 2:5tt) và quả quyết là tội nào cũng đều có thể được tha (x. Mc 3:28). Rồi, Ngài còn chia sẻ quyền tha tội cho các tông đồ (x. Ga 20:23). Từ nay, bất cứ ai theo Ngài, đều sẽ “được giải thoát khỏi ách tội lỗi,” khỏi vòng nô lệ của nó (x. Rm 8:12-23). Và dù kinh nghiệm vẫn cho thấy rõ ảnh hưởng kinh hồn và khốc liệt của tội, thì luôn luôn cũng sẵn có ơn toàn thắng của Ðức Kitô để phản công hữu hiệu (x. Rm 7:24-25).
Vì vậy, Ðức Kitô xuất hiện như Ðấng Toàn thắng (x. Kh 5: 5; 6:2; 19:11tt), và chia sẻ vinh quang ấy cho chúng ta (x. 1Ga 2:13-4) nhờ lòng tin (x. Ga 5:4). Ðiều đó, thánh Irênêô đã hiểu rõ: “Như chúng tôi đã nói, Ngài đã gắn liền con người với Thiên Chúa. Bởi vì nếu một con người đã không thắng kẻ thù của con người, thì theo lẽ công bằng, kẻ thù sẽ không chịu thua... Vì vậy, Ðấng sẽ tiêu diệt tội lỗi và chuộc lại con người đáng chết, phải trở nên như con người bị tội lỗi biến thành nô lệ và bị giam giữ dưới quyền tử thần, ngõ hầu một con người giết chết tội lỗi để con người được giải thoát khỏi sự chết.” [170] Phụng vụ canh thức Vượt qua hát qua bài Exultet rằng: “Chính đêm nay, Ðức Kitô toàn thắng hiển vinh, diệt tử thần, từ âm phủ chỗi dậy,” và Ca tiếp liên ngày Lễ Phục sinh cho biết: “Sống và chết hai bên song đấu cách diệu kỳ, tướng lãnh sự sống đã chết đi, nhưng vẫn sống mà cai trị.” Công trình cứu chuộc là một cuộc chiến đấu và chiến thắng.
Ðức Giêsu là con người tự do [171] và vì thế, Ngài có thể chia sẻ tự do cho người khác. Ngài có cung cách xử thế hoàn toàn đôïc lập đối với bất cứ hạng quyền thế nào ở trong xã hội (x. Mc 12: 14), giữ lập trường hoàn toàn tự do để làm theo ý Cha Ngài cho đến chết (x. Ga 9: 18). Tự do như người Con (x. Mt 17:26), Ðức Giêsu có thể giải phóng người khác, thực sự và trọn vẹn (x. Ga 8:36). Sứ điệp của Ngài là Tin mừng về sụ việc kẻ bị giam cầm sẽ được tha, người bị áp bức sẽ được trả lại tự do... (x. Lc 4:18). Hoạt động của Ngài là giải phóng: bệnh nhân khỏi xiềng xích tật nguyền và xã hội; kẻ bị quỷ ám khỏi ách ác thần; “người tội lỗi” khỏi cảnh bị loại ra khỏi cộng đoàn; kẻ chết khỏi tình trạng hư nát trong mồ; các môn đồ khỏi những thành kiến cổ truyền, v.v. Nhưng để được tự do như thế, thì cần phải sống trọn giáo huấn của Ngài và sống kết liên bền chặt với Ngài: “Nếu các bạn ở lại trong lời của tôi, thì các bạn thật là môn đồ tôi; các bạn và sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các bạn” (Ga 8:31-32).
Người tự do – vì là công dân Rôma – Phaolô đã xử thế theo cung cách tự do đối với mọi người (x. 1Cr 9:1.19,v.v.), và giảng Tin mừng tự do, là ơn cao quý của Ðức Kitô: “Chính để chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta... Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau” (Gl 5:1.13). Khác với tự do dân sự, tự do này là tự do siêu nghiệm (x. 1Cr 7:22; 12:13; Gl 3:28; Cl 3:11), đâm rễ sâu vào trong lãnh vực tâm lý và siêu nhiên. Vốn là tạo vật, con người không có khả năng tự do tuyệt đối (đó là đặc tính của Thiên Chúa); vì thế, chỉ hưởng được tự do tương đối, ở dưới quyền bảo trợ của một “chủ.” Vấn đề chủ yếu của tự do loài người là vấn đề chọn “chủ”: hoặc là tội lỗi (tham vọng, tiền của, khoái lạc, chủ nghĩa... x. Mt 6:24) hay là Thiên Chúa, như Phaolô lưu ý: “Anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ sự công chính. Ấy là tôi nói theo kiểu người phàm, hợp với tầm hiểu biết yếu kém của anh em...” (Rm 6:18-19). Cũng tương tự, con người cần phải vâng phục một lề luật; Phaolô chia sẻ kinh nghiệm: “Luật của Thần Khí ban sự sống trong Ðức Kitô, đã giảùi thoát tôi khỏi luật của tội và sự chết” (Rm 8:2). Vì thế, Giacôbê gọi luật của Chúa là “luật hoàn hảo mang lại tự do và hạnh phúc” (x. Gc 1:25). Sự tự do của con cái Thiên Chúa sẽ làm cho các cơ cấu của xã hội được giải phóng thật sự (x. Rm 8:21).
Các Giáo phụ, các công đồng và các nhà tư tưởng đã suy tư về thể cách Ðức Kitô giải phóng cho tự do của người tội lỗi. Qua nhập thể, Ngôi Lời đã mặc lấy nhân tính của tình trạng “sa đọa” với những hậu quả kèm theo, nhưng không vướng mắc tội lỗi; và vì đã trả giá chuộc trên thập giá, Ngài giải phóng nhân loại khỏi ách của tội lỗi.
Hiện nay, có một vấn đề được đặt ra: nếu người kitô đã được giải phóng như thế, thì dấu hiệu nào sẽ giúp nhận ra điều đó? Một người đã được rửa tội, một xã hội kitô, sẽ có những gì tốt hơn, và tốt hơn như thế nào? Xem ra ảnh hưởng của đức tin kitô tác dụng quá chậm: dù Tân Ước có dạy rõ là mọi người đều như nhau, dù trong Giáo hội (nhà thờ) tôi tớ hay chủ nhân, nam hay nữ... đều nhận những bí tích như nhau, dù họ chia sẻ cùng một Lời Chúa, cùng một bàn thánh, dù nhiều Giáo phụ (như Gioan Kim Khẩu, Âugutinô, v.v.)ï kết án chế độ nô lệ, thì cũng vẫn còn kỳ thị, nô lệ, giai cấp... trong các xã hội kitô. Về mặt công bằng xã hội, Tân Ước nêu bật bổn phận tương thân tương ái, các Giáo phụ (đặc biệt là Badiliô và Âugutinô) đã giảng dạy và dấn thân giúp đỡ người nghèo, Giáo hội đã thiết lập bệnh viện, cô nhị viện, và các tổ chức từ thiện, v.v., luật lệ đã có phần nhân đạo hơn, phong tục cũng đã thuần hậu hơn. Và hơn nữa, người ta còn lấy Phúc Âm làm cảm hứng, làm lý tưởng, làm tiêu chuẩn và khí giới để đối cọi với sự ác nhằm đổi mới xã hội... Dù vậy, xã hội vẫn còn đầy dẫy bất công, áp chế, bóc lột, v.v. Tội của chúng ta vẫn còn nhan nhản, nặng nề.
Hiện giờ, thần học ý thức rõ hơn về những chiều kích quảng trương của ơn cứu độ: không chỉ đơn thuần có tính cách cá nhân, ơn cứu độ còn mang cả tính cách xã hội và vũ trụ nữa; vì nếu Ðức Kitô đã giải phóng ta khỏi tội lỗi, thì cùng lúc, cũng giải phóng ta khỏi mọi trung gian và hậu quả của tội lỗi, là tình trạng khốn khổ, là những cơ cấu bất công, những hệ thống áp bức bóc lột trong các quốc gia, trong các tổ chức quốc tế và trong thế giới. Có thể nói đó là chủ đề đặc thù trong nỗ lực nghiên cứu của “Thần học Giải Phóng.” [172] Dù khởi đầu từ Châu Mỹ Latinh, thì hiện nay dạng thần học này cũng đã được phổ cập hầu như khắp nơi trong thế giới, với những suy tư cá biệt khởi sinh từ nhiều vùng – như Châu Á, Châu Phi, Hoa kỳ – nhiều giới – như giới dân da màu, tiện dân, nữ giới – và nhiều lãnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, v.v. khác nhau. [173] Và đây là điểm đáng lưu ý: một khi đã có những vấn đề quan trọng đến như thế làm cho xã hội phải nghiêm chỉnh lưu tâm, ắt đức tin kitô cũng phải nhận ra được nơi Ðấng Cứu tinh phổ quát, một sức giải thoát tương ứng, có khả năng động viên hàng triệu con người thiện chí dấn thân hoạt động làm sao để tha nhân có được một đời sống tự do và công bằng hơn. Dĩ nhiên là phải biết phối hòa cho tốt đẹp giữa “chính thống” và “chính hành”; có thế thì Cứu độ học mới thực sự kiện toàn cho Ðạo đức học; quả thế, như Phaolô nhận định: “Chính để chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5:1). Chân lý ấy phải được sống thực, một cách cụ thể, trong hết mọi lãnh vực: thiêng liêng, tâm lý, chính trị, kinh tế, văn hóa, v.v...
4. Ðức Kitô - Ðấng Thần Hóa
Ơn cứu độ có hai mặt: tiêu cực là xóa tội, tích cực là làm cho nên “tạo vật mới” hay là “thần hóa” theo cách nói của các Giáo phụ. Nếu Ðức Kitô đã ban cho ơn trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa, tất phải cố gắng trở nên giống – bao nhiêu có thể – như Người, tức là đặt toàn bộ con người mình vào trong sức năng thần hóa. Ðó là ước mong lộ rõ trong dòng lịch sử các tôn giáo, vì tự bản chất, con người hướng quy về với Hữu thể Tuyệt đối. Trong Kitô giáo, thiên hướng này đã được các Giáo phụ Ðông phương khai triển sâu rộng. [174]
Kinh Thánh
Thiên Chúa tạo thành con người “giống hình ảnh Người” (St 1:26), nghĩa là muốn chia sẻ sự sống thần thiêng cho con người. Tội đã xảy đến vì Ađam cố tự sức mình chiếm lấy điều Thiên Chúa muốn ban nhưng không. Nhưng khả năng đón nhận ân huệ ấy thì bản tính loài người vẫn còn được giữ nguyên.
Ðức Giêsu đã dạy cho các môn đệ biết đối xử với Thiên Chúa như con cái với Cha ở trên trời (Mt 6:1; 7:11,v.v.); cách xưng hô căn bản trong các lời cầu là “Lạy Cha” (Mt 6:9; Lc 11:2). Ðức Kitô phục sinh là “trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8: 29), vì trong Ðức Giêsu Kitô, các tín hữu đều là con cái của Thiên Chúa (x. Gl 3:26): “Ðể chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ‘Abba!’ Cha ơi” (Gl 4:6; x. Rm 8:14-7). Thế là kitô hữu đã trở nên đền thờ của Thiên Chúa (x. 1Cr 3:16-7; 2Cr 6: 16) hoặc của Thánh Thần (x. 1Cr 6:19). Mà đã sống nhờ Thần Khí, tất được thần hóa. Dĩ nhiên, việc này xảy ra theo khả năng hữu hạn của con người, do vậy, chúng ta chỉ là nghĩa tử. Ðó chính là mục đích kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa nhắm tới: “Theo ý định, Thiên Chúa đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Ðức Giêsu Kitô.” (Ep 1:5). Gioan cũng xác định như vậy: Thiên Chúa ban cho những ai tin, khả năng trở nên con cái Người (x. Ga 1:12); ngay từ bây giờ chúng ta là con cái Thiên Chúa! (x. 1Ga 3:1-2.10). [175] Ðó là ân huệ của tình thương bao la Chúa Cha dành cho con người.
Thật vậy, ân huệ ấy là hậu quả cao siêu nhất của cuộc “trao đổi kỳ diệu” thư Do thái đã nói đến: “Ðấng thánh hóa – Ðức Giêsu – và những ai được thánh hóa đều do một nguồn gốc... vì con cái đều chung một huyết nhục” (Dt 2:11-14), tức đều cùng có chung một bản tính, một thân phận: Ngài nhận lấy nhân tính để chia sẻ cho chúng ta thiên tính.
Tân Ước dùng một ẩn dụ táo bạo để biểu đạt mầu nhiệm này. Ðức Giêsu nói với Nicôđêmô: Ông phải sinh ra một lần nữa... Dĩ nhiên là ông hết sức ngạc nghiên, vì thế Ðức Giêsu nói tiếp: không ai có thể được cứu rỗi “nếu không sinh bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:5). Thế nên, Phép Rửa được hiểu như là cuộc tái sinh (x. 1Pr 1:3; 2:2; Tt 3:5), cũng như Lời Chúa là “mầm mồng bất diệt” (1Pr 1:23; Gc 1:18) hoặc hạt giống (x. Mt 13:3tt), nghĩa là nguyên nhân của hữu thể mới. Bởi “tạo vật mới” (Gl 6:15) này là hoa quả của mầu nhiệm phục sinh, nên Phaolô so sánh Phép Rửa với việc dìm vào trong cái chết của Ðức Giêsu để được cùng sống với Ngài trong đời sống mới (x. Rm 6:4-8).
Nếu sống nhờ Thần Khí, thì kitô hữu thông phần sự sống của chính Thiên Chúa; vì thế, thánh Phaolô gọi đó là “sự sống đời đời trong Ðức Kitô” (Rm 8:23). Còn đang “ẩn giấu trong Thiên Chúa” (Cl 1:3), sự sống này sẽ xuất hiện trong ngày sống lại với một “thân thể thiêng liêng bất hoại” (x. 1Cr 15:42-55). Theo cung cách riêng của ngài, thánh Gioan cũng trình bày cùng một giáo lý như thế. Chính Ðức Kitô là sự sống và là sự sống lại (x. Ga 11:25; 14:6); Ngài chia sẻ cho chúng ta chính mình – “bánh hằng sống” (Ga 6:35.48) – và máu Ngài (x. Ga 6:55). Ðó là cách diễn tả mầu nhiệm về thực trạng tương tại giữa Ðức Kitô và các kitô hữu (x. Ga 15:4tt). Một cách khác, Phêrô đã dám quả quyết: “Anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2Pr 1: 4); thực tại này các Giáo phụ gọi là cuộc sống “thần hóa.”
Truyền thống giữ lại nhiều dữ liệu rất phong phú về chủ đề này. [176] Các Giáo phụ đi từ những tín quy Giáo hội dùng trong phụng vụ Thánh Tẩy: trong bí tích đức tin, kitô hữu nhạân được Thần Khí và trở nên con Thiên Chúa. Nguyên tắc chung đã được thánh Irênêô trình bày như sau: “Ngôi Lời Thiên Chúa, Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, đã trở thành như chúng ta, để làm cho chúng ta trở nên như Ngài.” [177] “Như Ngài” thường được giải thích là “con cái Thiên Chúa,” “Ngài là gì, thì chúng ta cũng trở thành như vậy”: “bất hủ” (nhất là các tác giả Hylạp), “thông phần thần tính,” “bất tử,” v.v. Các ngài quan niệm việc “trao đổi kỳ diệu” theo nghĩa hữu thể. Việc thần hóa là chân lý vững chắc đến độ các ngài đã dựa vào thực tại này mà chứng minh Thánh Thần là Thiên Chúa: “Nếu Thần Khí là một tạo vật, thì không làm sao chúng ta có thể thông phần bản tính Thiên Chúa được.” [178]
Các Giáo phụ đã đặc biệt nhấn mạnh đến ảnh hưởng của mầu nhiệm nhập thể, đến độ có thể gây ngộ nhận, coi như các ngài cho rằng Ngôi Lời đã mặc lấy nhân tính toàn thể và, vì thế, đã thần hóa hết mọi cá nhân trong loài người; nhưng không, các ngài đã không chủ trương như thế, và cũng không tách biệt nhập thể khỏi phục sinh, hữu thể khỏi hoạt động, v.v. “Nhập thể” chỉ đơn thuần liên hệ đến “toàn bộ cuộc đời và sứ mệnh” của một mình bản thân Ðức Kitô. [179]
Nhờ ngôi hiệp, các hành động trong cuộc đời của Ðức Kitô, như: sinh ra, sống, rao giảng, chết và sống lại, mới có được giá trị cứu độ: Inhaxiô Antiôkia nói rằng máu ấy là “máu của Thiên Chúa”; các Giáo phụ nhấn mạnh nhiều lần đến sự việc “Thiên Chúa chết vì chúng ta,” Thiên Chúa chia sẻ cho chúng ta chính mình Người. Khi nhập thể, Ngôi Lời đã một phần nào mặc lấy nhân tính toàn thể, và vì thế toàn thể nhân loại được thông phần “sinh khí” của Ngài; nhưng không phải một cách máy móc hay phù phép, mà cần phải trở lại, đón nhạân đức tin và chịu Phép Rửa, tức tự do lãnh nhận Thần Khí, thì mới được “tái sinh,” mới được “ghép” vào thân thể Ðức Kitô, trở thành chi thể của Ngài. Ðã từng tác động để Ðức Kitô sinh ra, bây giờ Thần Khí cũng không ngừng hoạt động để làm cho chúng ta được tái sinh: sự sung mãn của Ðức Kitô (thần tính) được tuôn đổ vào lòng chúng ta (x. Ga 1:16).
Nói thế có vẻ như là quá đáng, có vẻ như chúng ta không còn là con người... Không. Trước hết, cần lưu ý đó là cách nói theo ngôn ngữ loại suy; thứ đến, không thể nào con người triệt tiêu đi được những giới hạn của thân phận tạo vật. Uỷ ban thần học quốc tế giải thích rõ rằng: “Hiểu cho đúng, ‘thần hóa’ là làm cho con người thành con người toàn vẹn: ‘thần hóa’ là ‘nhân hóa’ chính thực và đến mức độ tuyệt vời.” [180] Thần học hiện đại trình bày học thuyết này bằng một dạng ngôn ngữ mới. Thay vì “thần hóa,” thì P. Tillich, một thần học gia tin lành, đã dùng cách nói “thông phần Hữu thể Mới,” [181] mà “hữu-thể-mới” chính là con người được cứu độ giống như Ðức Kitô. K. Rahner thường dùng cách nói về “Thiên Chúa tự trao ban chính mình” cho chúng ta, coi đó như là cùng đích của kế hoạch cứu độ; tác giả hiểu việc “tự trao ban” của Thiên Chúa “một cách hữu thể theo nghĩa hẹp,” “nói cách khác, cái được chuyển thông là chính hữu thể của Thiên Chúa”; nhờ Thần Khí hiện diện và tác động trong chúng ta, “hữu thể của con người được thần hóa thật sự.” [182] Bất lực với khả năng tự nhiên của mình, nhưng nhờ vào ơn cứu độ của Ðức Kitô, con người, hình ảnh của Thiên Chúa, “hoàn tất” được kế hoạch Ðấng Tạo hóa đã đề ra cho mình.
“Thần hóa” là chuyển thông “bản tính Thiên Chúa” cho con người, với kết quả là “con cái Thiên Chúa” được sinh ra, con cái mà Phaolô gọi là nghĩa tử: con cái thụ tạo của Thiên Chúa chỉ có thể là “con nuôi.” Ðược cứu độ là được sống trong tương quan mới lạ với Thiên Chúa, như chủ thể với chủ thể: đối với Cha là con, đối với Con là em, đối với Thánh Thần là... “người yêu.” Như thế, ơn cứu độ không chỉ ảnh hưởng đến bản tính, mà nhất là đến cả bản ngã nữa. Nghiên cứu về những chi tiết của mầu nhiệm này là phận vụ của thần học về ân sủng (Ân sủng học). [183]
5. Ðức Kitô - Ðấng Công Chính Hóa
“Công chính hóa” là phạm trù cơ bản của Tân Ước, đặc biệt là của Phaolô. Trong lịch sử, khái niệm này được khai triển rộng ở Tây phương, do ảnh hưởng phổ bác của Âugutinô; rồi về sau đã trở thành trọng điểm trong cuộc tranh luận tin lành-công giáo hồi thế kỷ 16; để cuối cùng đưa tới việc công đồng Trentô công bố văn kiện bàn về chủ đề (n. 1547, x. DS 1520tt). [184]
Kinh Thánh gọi Thiên Chúa là “công chính” vì Người trung thành với lời hứa, với kế hoạch của Người đối với dân Ítraen; sự công chính của Thiên Chúa luôn luôn có tính cách cứu độ. [185] Lúc bắt đầu sứ vụ công khai, Ðức Giêsu nói là mình “phải giữ trọn đức công chính” (Mt 3:15), tức là phải sống và hành động theo ý Thiên Chúa để các lời hứa được ứng nghiệm. Chẳng thế mà khi Ngài chết trên thập giá, viên sĩ quan Rôma đã lớn tiếng nhìn nhận: “Người này đích thực là người công chính” (Lc 23:47). Chính vì đã chịu chết như người công chính (x. Cv 3:14), Ðức Kitô nhận được năng quyền công chính hóa người khác.
Là một phạm trù pháp lý, “công chính hóa” có nghĩa là thẩm phán tuyên bố bị cáo trắng án, vô tội. Phaolô cho biết mọi người sẽ phải ra trước tòa của Thiên Chúa hoặc của Ðức Kitô (x. Rm 14:10; 2Cr 5:10); đó là cuộc phán xét cuối cùng (x. Mt 25:31tt). Mà ngay ở đời này, “mọi người... đều bị tội lỗi thống trị, như có lời chép rằng: ‘Không ai là người công chính’” (Rm 3:9-10); bởi thế, Thiên Chúa tỏ lộ “cơn thịnh nộ của Người chống lại mọi thứ vô luân và bất chính” (x. Rm 1:18; 2:5.8; 3:5,v.v.). Giữa trạng huống ấy, Ðấng Công chính sẽ can thiệp để mọi người “được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban nhưng không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Ðức Kitô Giêsu. [186] Thiên Chúa đã định cho Ðức Kitô Giêsu phải đổ máu mình ra, làm hy lễ đem lại ơn tha tội cho những ai tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Người là Ðấng Công Chính” (Rm 3:24-25). Ấy là tóm gọn giáo lý của Phaolô về việc công chính hóa.
Theo Phaolô, Thiên Chúa công chính hóa tội nhân chỉ vì có lòng tin. Tông đồ đặt thí dụ: “Ông Abraham đã tin Thiên Chúa và, vì thế, được kể là người công chính” (Rm 4:4); cũng vậy, “chúng ta sẽ được kể là công chính, vì tin vào Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu, Chúa chúng ta, sống lại từ cõi chết, [bởi vì] Ngài đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính” (Rm 4:24-25). Phaolô quả quyết “không người phàm nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy” (Rm 3:20); ý nói là tự mình, con người bất lực, dù có làm gì đi nữa thì cũng không thể nên công chính được. Ðó là ơn nhưng không Thiên Chúa ban, nhưng lại nhờ và qua Ðức Kitô.
Tóm lại, “công chính hóa” nói lên ba điều:
1) Thiên Chúa tuyên bố trắng án cho tội nhân;
2) Thiên Chúa biến tội nhân thành công chính, ‘xứng đáng’ đứng trước nhan Người;
3) Như thế là nhờ Ðức Kitô đã vâng phục Chúa Cha để chấp nhận: sống, chết và sống lại vì tội nhân.
Dù con người không có công đức gì, nhưng Thiên Chúa đã chấp nhận công nghiệp của Ðức Kitô mà tách “tội” khỏi “nhân” (chứ không tách tội nhân khỏi người công chính). Cuộc trao đổi kỳ diệu cốt ở việc Ðức Kitô nhận lấy tội lỗi của nhân loại và ban cho nhân loại sự công chính của Ngài.
Giáo lý này trở nên trọng tâm trong cuộc tranh luận thời cải cách tin lành. Luther đã đả kích nhiều hoạt động sai lệch trong Giáo hội, đồng thời đã đưa ra lập tường quá khích cho rằng con người được công chính hóa chỉ nhờ bởi ân sủng, chỉ nhờ bởi đức tin, chỉ nhờ bởi Ðức Kitô mà thôi, chứ không cần đến sự hợp tác từ phía con người, và còn cho rằng chỉ nhờ Kinh Thánh mà biết được chân lý ấy. Vì vậy, ông và phong trào tin lành phủ nhận mọi thứ “trung gian” khác, như thiên nhiên hay Giáo hội, quyết định của tự do hay các bí tích, các Thánh, v.v. Giáo hội đã triệu tập công đồng Trentô (n. 1545- 1563) và, ngoài một số sắc lệnh cải cách, các nghị phụ đã soạn nhiều văn kiện giáo lý, đặc biệt là sắc lệnh về việc công chính hóa. Giáo lý công giáo gồm có những điểm sau đây:
1) Tất cả những gì Thiên Chúa làm cho tội nhân là nhờ công đức của Ðức Kitô;
2) Khi được công chính hóa, tội nhân trở nên công chính thật sự, tức trong họ không còn có gì “đáng ghét” trước mặt Thiên Chúa;
3) Nhờ đức tin, con người được Thiên Chúa đón nhận;
4) Đức tin phải đi đôi với đức cậy và đức mến thì mới hữu hiệu;
5) Khi lớn lên có trí khôn, con người phải “hợp tác” với ân sủng của phép Thánh tẩy;
6) Đời sống vĩnh cửu ở trên trời không chỉ là ơn Thiên Chúa mà còn là phần thưởng của công việc tốt lành con người đã làm nhờ ơn Chúa.
Việc công chính hóa là do ân sủng thực hiện kể từ lúc con người bắt đầu mở lòng chuẩn bị, đang khi được tha tội, và sau đó khi làm các việc tốt lành; tự do được ân sủng giải phóng để có thể hợp tác với ân sủng trong bất cứ công việc tốt lành nào. Phải tẩy trừ mọi ảnh hưởng của lạc giáo Pêlagiô, cho rằng con người có thể tự cứu độ lấy mình, tự mình có thể làm việc thiện, ít là có thể hoàn toàn tự mình, tiếp nhận hay từ chối ân sủng. Không! Chúng ta cần ơn trợ giúp của Thiên Chúa.
Hiện nay, cuộc đối thoại đại kết đã cho thấy sự khác biệt giữa Luther và Giáo hội công giáo không phải là to lớn cho lắm. [187] “Công chính hóa” là một tên gọi khác của “thần hóa.” [188] Vấn đề bây giờ là làm sao cho sự công chính của từng tín hữu có được tác dụng xây dựng công bằng xã hội qua những ai đã được Thiên Chúa công chính hóa.
***
Trên đây đã bàn về những thể thức của hoạt động trung gian “từ trên xuống”; vậy, xin được tiếp tục với việc trình bày về cách tiến hành của hoạt động trung gian “từ dưới lên.” Cách thứ nhất nhấn mạnh đến tác dụng của Thiên Chúa; cách thứ hai nói về phần đóng góp của loài người, mà Ðức Kitô là đại diện.
***
6. Hy Lễ Của Ðức Kitô
Như vẫn thường làm, Tân Ước cũng đã dùng những phạm trù phụng tự mà giải thích về công trình của Ðức Kitô. Thư Do thái gọi Ðức Giêsu là Thượng tế, còn các văn kiện khác thì ám chỉ nhiều lần đến lễ tế Ðức Kitô đã dâng hiến để cứu độ chúng ta. [189]
Phần lớn các tôn giáo đều cử hành những nghi thức tế hiến. [190] Quan niệm thế nào về Thiên Chúa, thì con người gán cho hành động hy tế hay lễ vật, ý nghĩa tương ứng thể ấy. Nếu thần linh dữ tợn, hay ghen tị, và nếu tín đồ nghĩ là phải dâng điều quý nhất mình có, v.v. thì có thể dâng mạng sống của mình hoặc của con cái làm lễ vật; như các tín đồ thờ thần Môléc đã làm (x. Lv 18:21; 20:2) hoặc như tôn giáo Azteca (Mêhicô) đem hàng ngàn tù binh làm lễ vật hy tế. [191] Trong Cựu Ước, lễ tế hàm ngụ bốn ý nghĩa:
1) Thông hiệp với Giavê và với nhau;
2) Cống hiến lên Giavê hoặc theo tư thế là vua, hoặc theo tư thế là ân nhân;
3) Nguồn sống và sức mạnh, vì máu tượng trưng cho sự sống;
4) Kỷ niệm, không chỉ là hồi niệm mà còn hiện tại hóa biến cố (đặc biệt là biến cố xuất hành: Xh 12:14).
Các khía cạnh này đều có mặt trong lễ tế của Ðức Kitô.
Thần học hậu Trentô đã hiểu lễ tế theo quan niệm chung của các tôn giáo, và nêu bật một số yếu tố là sát tế (đổ máu), tiêu hủy lễ vật (toàn thiêu), hy sinh của lễ dâng lên Thiên Chúa, v.v. tất cả được tiến hành theo nghi thức tôn giáo. Dần dần các tác giả đã rơi vào lối quan niệm: Thiên Chúa nổi giận cần phải làm nguôi, Cha giết Con vì chúng ta, phải đổ máu để tội được tha, Thiên Chúa có quyền đòi hỏi dùng con người làm lễ vật, v.v. và như thế làm cho nhiều người ngộ nhận, không còn chịu nổi một Thiên Chúa khắt khe đến mức đó. [192] Nếu lễ tế là như vậy, hoặc đơn thuần mang ý nghĩa của lễ tế dâng qua nghi thức cử hành trong Ðền thờ Giêrusalem, thì thập giá (và Lễ Misa) hẳn không phải lễ tế. Thần học hiện giờ coi lễ tế là một thực tại phức tạp và có tính cách loại suy, nhưng thực tại loại suy chủ yếu (analogatum princeps) chính là lễ tế của Ðức Kitô.
Trong Cựu Ước, Chúa Giavê nhân từ chấp nhận nhiều thứ hy lễ với những ý nghĩa khác nhau. [193] Ở đây, chỉ xin tập trung chú tâm vào những trường hợp liên quan đến kitô học.
Lễ Vượt qua mang một ý nghĩa đặc biệt. Sách Xuất hành (Xh 2) miêu tả rất rõ về nghi thức: hy sinh một con chiên hoặc một con dê để kỷ niệm biến cố Thiên Chúa giải phóng Ítraen khỏi Ai cập. Ðó là hy lễ quan trọng nhất trong Cựu Ước. Tân Ước gọi Ðức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” (Ga 1:29) và Gioan lưu ý là trên thập giá, Ðức Giêsu đã không bị gãy một xương nào, hệt như con chiên vượt qua (x. Ga 19:36); thực vậy, như Phaolô viết, Ðức Kitô là Con Chiên vượt qua của chúng ta (x. 1Cr 5:7-8); nói cách khác, Ngài được hiến tế làm lễ vật để giải thoát chúng ta.
Ítraen còn có nhiều loại tế lễ khác, như lễ toàn thiêu, lễ thục tội, lễ hiệp thông, v.v. (x. Lv 1–7), cử hành bằng cách sát tế một con vật hoặc dâng thực phẩm, đốt hương, v.v. với mục đích làm đẹp lòng Chúa, đền tội, hòa giải, tạ ơn, v.v.; thật vậy, dâng lễ là một cách cầu nguyện và hiệp thông với Thiên Chúa cũng như với nhau, là công khai nhìn nhận Thiên Chúa là Chủ tể càn khôn và mình là tôi tớ của Người. Các tiên tri đã công nhận những nghi thức này là chính thực, nhưng phê bình thái độ lạm dụng, bỏ quên tinh thần tôn giáo chân thật (x. 1Sm 15:22; Is 1:10tt; Hs 6:6).
Chắc hẳn Ðức Giêsu đã tham dự phụng vụ của Ðền thờ Giêrusalem; tuy nhiên, Phúc âm đã không lưu ý đến việc này, bởi trọng tâm nằm ở nơi khác. Ðức Giêsu “hy sinh” trọn cả cuộc đời và toàn thân mình vì người khác, nhưng theo thể cách hiện sinh chứ không phải là trong phạm vi phụng vụ. Tuy nhiên, khi sắp “vượt qua” từ trần gian đi về với Chúa Cha (x. Ga 13:1), Ðức Giêsu đã cử hành bữa tiệc ly trong bối cảnh tôn giáo của Lễ Vượt qua (x. Mt 26:2), trong thời gian chiên vượt qua được sát tế, và lấy lại lời Môsê nói lúc dâng lễ tế (x. Xh 24:8), Ngài gọi máu mình đổ ra trong cuộc tử nạn (chịu chết) là “máu Giao ước” (Mc 14:24tt). [194]
Các tác giả Tân Ước đã minh nhiên dùng ngôn ngữ phụng vụ để giải thích về cái chết của Ðức Giêsu. [195] Ep 5:2 khuyên: “Hãy sống trong tình bác ái như Ðức Kitô đã yêu thương chúng ta và, vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ (prosphorá), và hy lễ (thysía) dâng lên Thiên Chúa, tựa hương thơm ngào ngạt.” Như thế, thập giá được coi như là bàn thờ. Do vậy, Phaolô đối chiếu bữa tiệc Tạ ơn với những bữa tế lễ của dân ngoại (x. 1Cr 10–11), bởi vì Ðức Kitô là “lễ Vượt qua” (1Cr 5:7), tức “Con Chiên vẹn toàn, vô tì tích” (1Pr 1:19), đã “bị giết” (Kh 5:6). Mục đích của hy lễ này là chuộc lại đàn chiên (x. Cv 20:28), đem lại ơn tha tội (x. Rm 3:25) và hòa giải loài người với Thiên Chúa (x. 2Cr 5:19tt; Cl 2:14). Ðó là “chức năng” của máu trong phụng vụ Cựu Ước (x. Xh 24:3tt; Lv 4:6tt; 17:11, v.v.), chức năng được Tân Ước thừa nhận (x. Rm 5:9; Cl 1:20; Ep 1:7; 2:13; 1Pr 1:2.18t; 1Ga 1:7; 5:6t; Kh 1:5; 5:9).
Thư Do thái giới thiệu Ðức Kitô trong tư cách là Thượng tế, và còn hơn nữa, là Thượng tế chung quyết, Ðấng đã dâng một lễ tế duy nhất và quyết định. [196] “Ðức Kitô đã đến làm Thượng tế đem phúc lộc của thế giới tương lai... Ngài đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình. Ngài vào chỉ một lần mà thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn cho chúng ta” (Dt 9:11-12). Nguyên nhân của sự hữu hiệu là Thần Khí: “Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Ðức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Ngài thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống” (Dt 9:14). Ðức Kitô và các tư tế Do thái đều dâng lễ đẫm máu, nhưng Ðức Kitô không theo nghi thức của phụng vụ Ðền thờ, nhưng là dâng hy lễ theo cách hiện sinh. Sở dĩ có được tác dụng hữu hiệu tuyệt vời như vậy, là vì hy lễ này không dâng máu của các con vật, nhưng là máu của chính mình Ngài (x. Dt 9:12) một cách tự do (x. Dt 10:5t); không phải dâng để trước hết, cho chính mình được nên tinh sạch khỏi tội, vì vị tư tế này không có tội (x. Dt 7:27), và nhất là vì Vị Thượng tế này là Người Con (x. Dt 5:5; 6:6,v.v.). Hy lễ của Ðức Kitô là hy lễ thục tội và là hy lễ hiệp thông, thiết lập giao ước mới (x. Dt 8:6tt; 9:15) và trường tồn bất tận (x. Dt 10:12; 13:20). Tóm lại, Ðức Kitô đã dâng lễ hy sinh theo nghĩa đen; còn các hy lễ khác (trong Cựu Ước hoặc trong các tôn giáo khác) thì đều phải được hiểu theo nghĩa bóng hoặc theo cách loại suy. Trong Kitô giáo duy chỉ có một tư tế là Ðức Kitô, một lễ vật cũng chính là Ngài, và chỉ có một hy lễ do chính Ngài dâng tiến.
Cuối cùng, nhờ Ðức Kitô và vì sáp nhập vào Ngài, chúng ta có thể dâng cuộc đời mình làm lễ hy sinh cho Thiên Chúa (x. Rm 12:1; Dt 13:15-6), bởi chúng ta cũng là “hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa”(1Pr 2:5).
Thần Học Về Lễ Tế
Những văn kiện xưa nhất nêu rõ Thiên Chúa không cần gì hết, không đòi hỏi một lễ vật nào và, nếu muốn Giáo hội dâng Lễ, thì chỉ là để mưu cầu lợi ích cho con người; [197] quả vậy, chính Thiên Chúa đã trao hiến Con Chí ái làm lễ vật để cứu chuộc loài người. [198] Thánh Âugutinô, thần học gia về hy lễ, đã định nghĩa như sau về hy lễ: “Mọi hành vi con người thực hiện để được kết hiệp với Thiên Chúa và được vinh phúc đều đích thực là lễ tế.” [199] Nếu sống và hoạt động vì mến Chúa yêu người, thì toàn bộ cuộc đời hữu hình cũng như vô hình, tức là cả phần xác lẫn phần hồn, tất cả đều là hy lễ. Như vậy, toàn thể cọâng đồng thánh, “được Thượng tế dâng lên Thiên Chúa như là lễ tế phổ quát; trong thân phận tôi đòi, Ngài đã tự hiến vì chúng ta qua cuộc tử nạn, để biến tất cả thành thân thể của Ðầu vĩ đại ấy. Quả thế, Ngài đã dâng hiến thân phận [người phàm] ấy, và qua thân phận này Ngài tự hiến mình, bởi vì trong chính thân phận này Ngài là trung gian, và là tư tế cùng là lễ vật... Hội thánh không ngừng cử hành hy lễ này qua bí tích bàn thánh, bí tích mà các tín hữu thường xuyên tham dự, và rõ ràng là qua đó, Hội thánh cũng tự hiến mình trong lễ vật chính mình hiến dâng.” [200]
Thánh Âugutinô tổng hợp giáo lý của Tân Ước: tư tế (linh mục) chỉ có một, là Ðức Kitô; lễ tế và lễ vật chỉ có một là Ðức Kitô; Ngài là tư tế nhờ mầu nhiệm nhập thể: vì là Con Thiên Chúa làm người. Ngài dâng lễ suốt cả cuộc đời, nhưng đăïc biệt là trên thập giá, và tiếp tục dâng lễ ở trên trời trong tư thế là Ðầu của Giáo hội. Vì thế, Giáo hội cũng dâng lễ và được dâng hiến như lễ vật trong mọi việc lành làm vì Thiên Chúa, nhưng đặc biệt là trong Lễ Tạ Ơn, bí tích của lễ tế duy nhất.
Về sau, thần học đã quảng triển ý niệm ấy và đã để ý đến một chiều kích khác là đền tội. [201] Thánh Tôma Aquinô giải thích: “Tế lễ, theo nghĩa đen, là việc chúng ta thực hiện để làm chứng cho vinh dự độc hữu của Thiên Chúa, hầu làm Người nguôi giận.” Rồi thánh tiến sĩ diễn nghĩa là Thiên Chúa hài lòng với việc Ðức Kitô đã tự hiến mình với tất cả tự do và yêu mến; “vì vậy, hiển nhiên, cuộc tử nạn của Ðức Kitô quả là lễ tế đích thực.” [202] Sau đó, thánh Tôma lý giải cho thấy cuộc tử nạn của Ðức Kitô hữu hiệu trong hai cách: “Thứ nhất, vì có sức năng tẩy xóa tội lỗi đã từng làm cho con người trở thành kẻ thù của Thiên Chúa. Thứ hai, vì là lễ tế hết sức đẹp lòng Thiên Chúa... Khổ đau của Ðức Kitô quý giá đến nỗi làm cho Thiên Chúa, mỗi khi gặp thấy một điều quý giá như thế nơi nhân tính, thì phải hạ cơn giận trước những hành động xúc phạm của loài người, miễn là con người biết kết hiệp với Ðức Kitô chịu khổ nạn.” [203]
Công đồng Trentô đã nêu rõ giáo lý này trong khóa 22 (n. 1562), nhân dịp bàn về Thánh Lễ (x. DS 1738-1759). So với các lễ tế trong Cựu Ước, lễ tế Ðức Kitô dâng trổi vượt tất cả, là lễ tế hoàn hảo, cử hành trên “bàn thờ (theo nghĩa loại suy) thập giá. Ðó là tế lễ “đẫm máu” mà Thánh Lễ hằng hiện tại hóa theo cách “không đổ máu.” Như vậy, vai trò trung gian của tư tế duy nhất là Ðức Kitô, vẫn tiếp tục cách hữu hình, cách bí tích, giữa dòng lịch sử nhân loại. Dĩ nhiên, không thực hiện hẳn lại, Thánh Lễ chỉ tái diễn lễ tế duy nhất của Ðức Kitô (x. ASMD 28). [204]
Vì đã hiểu việc tế lễ theo quan niệm của các tôn giáo khác (giết lễ vật), thần học thời các thế kỷ 17 và 20 đã nhấn mạnh quá đáng đến khía cạnh “sát tế” (immolatio) của Lễ Misa, làm như thể Ðức Kitô bị “giết chết” trên bàn thờ, cho dù thực ra chỉ là “sát tế huyền nhiệm.” [205] Mặt khác, thần học đã dùng lối biểu đạt quá loài người để nói về những lợi ích tế lễ này mang lại “cho người sống và kẻ chết,” làm như thần học đọc được sổ ‘kế toán’ của đời sau (!); kể ra cũng hơi lố bịch. [206]
Trong Kitô giáo, lễ tế của Ðức Kitô trên thập giá và trong Lễ Taï Ơn, và lễ tế của Giáo hội cũng như của mỗi kitô hữu thì không thể tách biệt khỏi nhau. Nhưng cần hiểu rõ Thiên Chúa là Cha, một người Cha hằng yêu mến loài người vô điều kiện, không muốn con cái mình phải chịu khổ, và coi thái độ nội tâm trọng hơn những nghi thức bên ngoài. Vậy, khi vì một lý do nào đó mà phải chịu khổ đau, thì, nếu biết kết hiệp với Ðức Kitô, sự đau khổ ấy sẽ trở nên lễ tế mưu ích cho việc cứu độ chính mình và đồng loại (x. Cl 1:24)
* * *
Ý Nghĩa Của “Máu” Trong Cứu độ Học
Thánh thi Pange lingua hát: “Dâng máu đào làm lễ tế hy sinh làm giá chuộc muôn người trên thế giới...”
Trong Kinh Thánh, “máu” giữ một chỗ đứng quan trọng. Như thế không chỉ vì được quan niệm như là “nhựa sống,” mà nhất là vì đóng giữ vai trò chủ chốt trong các lễ tế. [207] Tóm tắt tư tưởng của Kinh Thánh, thư Do thái viết: “Chiếu theo Lề Luật, hầu hết mọi sự đều được thanh tẩy bằng máu. Không có máu đổ ra, thì không có ơn tha thứ” (Dt 9:22). Tác giả so sánh vai trò của Ðức Kitô tư tế với phụng vụ Do thái về Yom kippur, “ngày thục tội,” (x. Lv 16), và cho thấy máu Ðức Kitô vô ngần quý giá hơn máu của các lễ vật thời xưa. [208] Trước hết, cầàn phải hiểu ý nghĩa đa diện của máu về mặt phụng tự. Trong cứu độ học, nguồn gốc của cách hiểu này là chính hành động của Ðức Giêsu trong bữa tiệc ly (x. Lc 22:20) mà Giáo hội hằng lặp lại để tái diễn lễ tế của Ngài. Từ đó, máu được quan niệm như là phương tiện cứu chuộc (x. Ep 1:7; Dt 9:12), hoặc xá tội (x. Rm 3:25): máu thanh tẩy lương tâm (x. Dt 9:14), rửa sạch hết mọi tội lỗi (x. 1Ga 1:7); như xưa thượng tế tưới rảy máu của các lễ vật để “thánh hóa” (làm cho trở thành của dành riêng cho Thiên Chúa), thì cũng thế, bây giờ tín hữu được máu Ðức Kitô tưới rảy (x. 1Pr 1:2) để trở thành dân thánh (x. Dt 13:12); nói cách khác, “bửu huyết của Con Chiên” là giá chuộc họ “khỏi lối sống phù phiếm” (Dt 1:18-9; x. Cv 20: 18; Kh 5:4) để sống hòa giải với Thiên Chúa (x. Ep 2:13) và với đồng loại: “Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (x. Cl 1:19). Hình như toàn bộ công trình cứu độ của Ðức Kitô được tập trung ở nơi máu: “bây giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Ðức Kitô đổ ra...” (Rm 5:9). [209]
Mặt khác, máu cũng được hiểu theo ý nghĩa thiết lập giao ước: như xưa Môsê lấy máu mà tưới rảy dân để ký kết giao ước (x. Xh 24:8), thì máu Ðức Kitô cũng đã đổ ra để ký kết Tân Ước (x. 1Pr 1:2). Ý nghĩa này cũng hiện rõ qua lời nói và việc làm của Ðức Giêsu trong bữa tiệc ly: “Ðây là máu Thầy, máu giao ước, đổ ra vì muôn người” (Mc 14:24; Mt 26:28), và được Dt 9: 14tt minh xác: máu Ðức Kitô thiết lập giao ước mới, tốt hơn, với những trách nhiệm to lớn hơn (x. Dt 10:29).
Cần phải đăït ngôn ngữ này vào trong bối cảnh văn hóa và tôn giáo Do thái thời xưa. Nếu hiểu lầm thì có thể nghĩ là Thiên Chúa khát máu! Cách nói kia được dùng để giải thích một biến cố lịch sử, biến cố Ðức Giêsu đã thật sự đổ máu để cứu chuộc loài người, tức đã thí mạng sống mình vì yêu mến Chúa Cha và chúng ta. Ðó là phép đề dụ: dùng “máu” để chỉ về “mạng sống,” nói “đổ máu” để cho hiểu là “thí mạng,” v.v. Trong lịch sử, Kitô giáo luôn nhắc đến ‘máu’ để linh động hóa lòng biết ơn đối với Ðấng Cứu tinh, để cho hiểu rằng ơn cứu độ không phải là thứ “rẻ” giá. Hơn nữa, máu này là nguồn sống hằng mãi tuôn trào xuống cho chúng ta từ Lễ Tạ Ơn (x. Ga 6:53tt) và từ các phương pháp tu đức trong Giáo hội. [210]
***
7. Ðền Tội Và Xá Tội
Ý niệm này gợi lên một ấn tượng tiêu cực, bởi vì muốn nói là phải hy sinh chịu khổ để đền bù, để xóa tội, xóa vạ v.v. qua một hình phạt tương xứng với tội mình đã phạm. Có kẻ còn ngộ nhận coi đó là một thứ tố tụng hình sự từ phía Thiên Chúa để chống lại Ðức Kitô, buộc phải chịu một hình phạt cân xứng. Vì vậy, cần phải đặt việc xá tội, đền tội vào trong khuôn khổ của Kinh Thánh để mà tìm hiểu.
Ðể biểu đạt ý niệm nói trên, Cựu Ước dùng động từ kipper, mà bản LXX dịch ra là hilaskesthai, nghĩa là “che phủ,” “thanh tẩy,” vốn có ý chỉ về việc cử hành một nghi thức để được Thiên Chúa thứ tha, xá tội, nguôi giận (x. Lv 9:7; 16:16; Tv 65:4, v.v.). Nếu cần, thì phải nộp tiền phạt (kôper) để được an toàn (x. Xh 21:30). Những nghi thức ấy có thể là việc rửa giặt (x. Ds 19:1-10), nhưng nhất là tưới rẩy máu như Lv 16 trình tả. Cuối cùng, còn có các lễ tạ tội (x. Lv 4:1tt) và đền tội (x. Lv 5:14-26). Máu đóng giữ một vai trò hết sức quyết định, vì được quan niệm như là chất lưu chứa đựng sự sống (x. Lv 17:11); máu của con vâït thay thế cho máu con người, và có khả năng đem lại sức khoẻ, sự sống, cũng như xóa sạch vết nhơ của tội, v.v. Cách thiêng liêng hơn, Thiên Chúa xóa tội của dân vì đấng trung gian (Môsê) can thiệp cầu khẩn (Xh 32:30tt), hoặc (Aaron) dâng “hương trầm xá tội” thay cho (Kh 18:21). [211] Lẽ dĩ nhiên, tín hữu phải có lòng sám hối và cam kết giữ giao ước.
Trong văn mạch này, Sách thánh đề cập đến cơn giận của Thiên Chúa mà những lễ xá tội sẽ làm nguôi... (x. Is 30:27-33; Ed 20:33; Gr 25:15-38), làm như Thiên Chúa nhất định sẽ trả thù, đặc biệt là trong “ngày báo oán trị tội” (Gr 46:10)... Cách nói này có nghĩa, trước hết, Thiên Chúa không nhắm mắt làm ngơ trước hành động tội lỗi, trái lại coi đó quan trọng, vì gây hại cho con cái của Người; thứ đến là để cảnh cáo cho con người biết sợ mà xa tránh tội lỗi; và cuối cùng, phải “làm nguôi lòng Người,” tức tạ tội.
Một hình bóng nhiệm mầu xuất hiện trong phần hai của sách tiên tri Isaia, hình bóng của Tôi tớ Giavê. Tiên tri trình tả nhân vật này qua bốn bài ca (Is 42:1-9; 49:1-6; 50:4-9; 52:13–53:12). Tôi tớ phải chịu khổ nhục nhiều “vì đã mang lấy tội muôn người” (Is 53:12), thậm chí “Ðức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ; nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi... và sẽ làm cho muôn người nên công chính” (Is 53:10-11). Ðiều nghịch lý là một người công chính đã “bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an” (Is 53:5). Làm sao sự đau khổ xem ra bất công ấy lại có thể công chính hóa người khác? Vì tình liên đới, Tôi trung tự hiến mình, và Thiên Chúa đã chấp nhận thái độ hy sinh vì yêu mến ấy như là lễ xá tội cử hành một cách hiện sinh.
Tân Ước quy áp hình bóng “Tôi trung” cho Ðức Kitô. Khi viên thái giám Êthióp hỏi: “Vị ngôn sứ nói thế về ai?” Philiphê đã “loan báo Ðức Giêsu cho ông” (Cv 8:26tt). Nơi Ðức Giêsu, lời tiên tri ấy và ý nghĩa của các lễ xá tội được ứng nghiệm. Thánh Phaolô viết: “Thiên Chúa đã đặt Ngài làm nơi xá tội (hilasterion) nhờ máu của Ngài cho những ai có lòng tin” (Rm 3:25). Tông đồ ám chỉ tới nghi thức thượng tế rảy máu trên nắp hòm bia giao ước để xá tội toàn dân (x. Lv 16).Ý nghĩa là Ðức Kitô đã đổ máu ra vì ta và đã trở nên “khí cụ” xá tội: nhìn đến Ðức Kitô trên thập giá, Thiên Chúa dủ lòng xót thương các tội nhân. Ðức Kitô vừa là lễ vật mà cũng vừa là bàn thờ, hoặc nơi Thiên Chúa cư nguï với dân Người: Thiên Chúa đề xuất sáng kiến, Ðức Kitô làm trung gian, và con người đáp ứng bằng đức tin.
Thư thứ nhất của Gioan gọi Ðức Giêsu Kitô là “của lễ xá tội (hylasmós) chúng ta, chẳng những tội lỗi chúng ta không thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (1Ga 2:2; x. 4:10), và hiện là “Ðấng Bảo trợ trước mặt Chúa Cha” (1Ga 2:1) cho chúng ta, vì Ngài làm cho Chúa Cha hài lòng hầu dủ lòng thương chúng ta. Thế mới rõ lễ xá tội Ðức Kitô dâng tiến vẫn còn tiếp diễn ở trên trời (x. Kh 5:6).
Thư Do thái khai triển rộng chủ đề: Ðức Kitô con người, “đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu xá tội (hilaskesthai) cho dân” (Dt 2:17), qua việc “dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội” (Dt 5:1). Tác giả lưu ý rằng những gì thượng tế phải làm hằng năm, ở trong Ðền thờ Giêrusalem, vào ngày xá tội, thì Ðức Kitô đã làm một lần trong Ðền thờ vĩnh viễn trên trời (x. Dt 9). Chỉ khác là Ðức Kitô lấy máu mình, chứ không lấy máu loài vật. [212] Ðức Kitô vô tội đã cử hành phụng vụ “bên kia bức màn” (Dt 10:20), tức sau khi phục sinh, trong cảnh vực vĩnh cửu, “do đó, Ngài có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Ngài mà tiến lại gần Thiên Chúa, vì Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7:25): lễ xá tội và việc chuyển cầu đi đôi với nhau. Tác giả nhấn mạnh nói rằng đó là một lễ tế đẫm máu, không phải vì Ðức Giêsu đã tự giết mình, nhưng vì đã yêu cho đến cùng và đã chịu “những kẻ tội lỗi chống đối mình như thế” (Dt 12:3). Tắt một lời, biến cố Canvê mang ý nghĩa phụng tự: đó là lễ tế xá tội và tạ ơn, mà hoa quả tồn tại cho đến muôn muôn đời.
Truyền Thống
Bao giờ Kitô giáo cũng coi sự chết của Ðức Kitô là tâm điểm, là cốt tủy của biến cố cứu độ; nhưng thường khi lại lẫn lộn về các ý niệm “xá tội,” “đền tội,” “cứu chuộc,” “chết vì hoặc chết để...” v.v. Nói về việc mình chịu chết vì đạo (martyr có nghĩa là “chứng nhân”) Inhaxiô Antiôkia viết như sau: “Tôi là tế vật xá tội của anh em và tự hiến mình làm lễ tế vì Giáo hội của anh em.” [213] Chú giải Rm 3:25, Ôrigênê nói rằng: “Vì tự hiến thân mình, Ðức Kitô làm cho Thiên Chúa đối xử khoan hồng với loài người, và điều đó tỏ cho thấy Ngài công chính... Là công chính, Thiên Chúa không thể lấy công bằng mà công chính hóa kẻ bất lương; vì thế Người đã muốn nhờ đến Ðấng Xá tội để qua Ngài, những kẻ không thể được công chính hóa do việc làm của chính họ, thì nhờ lòng tin vào Ngài mà được công chính hóa.” [214] Các Giáo phụ thường khai triển tư tưởng trong cách thức tương tự như vậy, và chưa nghĩ gì đến giả thuyết xuất hiện về sau, gọi là “thay thế hình sự” (penal substitution), giả thuyết nhấn mạnh đến khía cạnh “đau đớn” như là phương tiện để làm “nguôi giận” Thiên Chúa. Và như thế, phải hiểu việc chịu khổ như là một thứ “chuyển cầu hiện sinh” (existential intercession) nằm trong hậu cảnh phụng vụ của lễ tế xá tội. Ở điểm này, thần học và tu đức gặp nhau: đau khổ tự nó là xấu, nhưng nhờ Ðức Kitô mà đã trở nên “giá cứu chuộc.” Không ai ưa gì đau khổ, nhưng nếu phải chịu khổ (vì không tránh được) và biết kết hiệp với Ðức Kitô trên thập giá mà đón nhận đau khổ và dâng lên Thiên Chúa, thì khổ đau ấy của người kitô sẽ nên lễ tế xá tội. Nếu phải xá tội hoặc đền tội thì không phải là vì Thiên Chúa cần, song là vì tội nhân cần; đền tội không phải là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ, song là hậu quả: bởi nó làm cho tội nhân biết mở lòng để đón nhận ơn Chúa, và tỏ lòng biết ơn cùng quyết chí tự hậu không phạm tội nữa. Vì tình yêu của Ðấng Cứu chuộc, hết những ai đền tội thì đều được “góp phần” với Ðức Kitô vào việc xá tội trần gian. Nếu ơn Ðức Kitô ban đã đòi Ngài phải “trả giá cao,” thì tội nhân há từ chối “góp phần” vào ơn mình nhận lãnh?
Suốt dòng lịch sử, Giáo hội hằng tiếp tục cử hành lễ tế của Ðức Kitô như ý Ngài muốn, qua Thánh Lễ hầu mưu ích “cho người sống và kẻ chết.” [215]
8. Thục Tội
Từ satisfactio, “thục tội” không gặp thấy ở trong Kinh Thánh, nhưng đã được truyền thống dùng để giải thích việc cứu chuộc. Ở Tây phương, từ thời Trung cổ cho đến gần đây, khái niệm này đã trở thành nền tảng của Cứu độ học. [216] Nó có nghĩa tương tự như “xá tội,” nhưng phát xuất từ môi trường pháp luật. Những nhầm lẫn học thuyết về thục tội gặp phải đều phát xuất từ việc lấy những phạm trù của “công bằng giao hoán” mà áp dụng vào việc đền tội.
Trong luật Rôma, satisfacere có nghĩa là “làm đủ” để đền bù cho chủ nợ. Luật gia Téctullianô đã đem ý niệm ấy áp dụng cho tội nhân: đương sự có bổn phận phải “đền” bao nhiêu có thể, lỗi tội đã phạm. Sau đó, thánh Ambrôsiô đã nêu ý kiến nói rằng dù vô tội, nhưng Ðức Kitô đã chịu khổ như “hối nhân” để đền tội cho người khác. [217]
Thánh Anxenmô Canterbury († 1109), “ông tổ của thần học kinh viện,” tác giả cuốn Cur Deus homo, “Tại sao Thiên Chúa làm người?” là người đã có công khai triển sâu rộng học thuyết về thục tội. Cho đến thế kỷ 20, đó vẫn là học thuyết chung về Cứu độ học ở Tây phương, cho cả công giáo lẫn tin lành; hiện giờ, vụ tranh luận về cuốn sách nói trên vẫn còn tiếp diễn. [218] Câu hỏi căn bản là: Nếu Thiên Chúa có thể cứu rỗi loài người cách dễ dàng (chỉ muốn là được), thì tại sao lại đòi hỏi Ðức Kitô phải chịu khổ đến như thế? Làm sao Thiên Chúa công bình lại đi kết án người vô tội thay vì các tội nhân? — Anxenmô trả lời: Thiên Chúa không kết án, không giết Ðức Giêsu, nhưng các kẻ thù đã làm; Thiên Chúa không ưa thích, nhưng chịu đựng sự đau khổ; và khi thấy Ðức Kitô tự do thí mạng sống vì các tội nhân thì Người đánh giá việc hy sinh ấy cao đến nỗi tha thứ cho tất cả. Ngài quan niệm tội lỗi như là hành động lạm cướp vinh dự của Thiên Chúa; vì thế, tội nhân phải trả lại điều đã ăn cắp, cọng thêm một điều gì đó để đền bù việc đã xúc phạm đến Người. Nhưng vinh dự ấy lại vô cùng, con người không thể nào trả lại đầy đủ được. Ðàng khác, Thiên Chúa cũng không thể nào tha thứ nhưng không, vì làm vậy là trái với trật tự công bằng chính Người đã lập. Vậy thì phải làm như thế nào? Duy chỉ Thiên Chúa mới có khả năng trả món nợ vô cùng; nhưng nếu con người đã cướp thì con người phải đích thân trả lại; thế nên, cần phải có một đấng thần-nhân hội đủ điều kiện để có khả năng đại diện loài người trả món nợ cho cân xứng đúng với trật tự công bằng. Thế nên, vì yêu thương, Thiên Chúa chọn giải pháp làm người. Vô tội, Ðức Kitô không mắc nợ phải chết; nhưng nếu tự nguyện thí mạng sống vì các tội nhân, thì Ngài đã dâng hiến một điều ngoại trạch (supererogatory: bổn phận không buộc) quý nhất mình có: là con người, Ngài thay mặt cho loài người để trả nợ; là Thiên Chúa, của Ngài cống hiến có giá trị vô cùng đủ để trả món nợ vô cùng; thế nên, sự chết của Ðức Kitô là việc đền bù có khả năng đền tội thích đáng, khiến Thiên Chúa vui lòng tha thứ.
Nhưng phải nói là học thuyết xem ra quá duy lý, giới trình – qua cách luận giải – Thiên Chúa như là một quan tòa loài người. Dù sao thì Anxenmô cũng thừa biết là các ý niệm ấy đều cần phải hiểu theo kiểu loại suy; thêm nữa, ngài cũng đã cố điều hợp sao cho hài hòa giữa lòng thương xót và sự công bằng của Thiên Chúa; nhưng rốt cuộc lòng thương xót đã thắng cuôïc và Thiên Chúa đã ban cho con người vinh dự được góp phần vào việc cứu độ chính mình và người khác.
Khuyết điểm lớn của tác phẩm trên đây là đã “hội nhập văn hóa” một cách quá đáng qua việc lấy phạm trù “vinh dự” của chế độ phong kiến và ý niêïm công bằng giao hoán – cả về mặt số lượng – mà áp dụng cho Thiên Chúa; bởi nếu quả là thế thì hình như ân sủng không còn chỗ đứng. Hơn nữa, cuốn sách tập trung toàn bộ công trình đa dạng của Ðức Kitô vào trong một chiều kích duy nhất là thục tội; do vậy, nhiều kết luận đã bị thiên lệch; sự chết xem ra quý hơn sự sống, còn sự sống lại thì không đóng giữ được một vai trò nào trong Cứu độ học của Anxenmô.
Tư tưởng của Anxenmô đã dần dần ảnh hưởng sâu rộng trên thần học Trung cổ. [219] Phủ nhận ý niệm đền tội, Abêlađô († 1142) chỉ chấp nhận gương mẫu tình yêu biểu hiện qua cuộc khổ nạn của Ðức Kitô; thánh Bênađô († 1153) phán kháng. Không có học thuyết riêng về Cứu độ học, thánh Tôma Aquinô chấp nhận ý kiến của Abêlađô mà cũng vừa lấy lại ý niệm thục tội của Anxenmô, nhưng vẫn giữ nguyên các phạm trù truyền thống. [220] Tôma coi việc nhập thể không phải là cần thiết – chỉ rất thích đáng mà thôi – để cứu độ loài người. Dực theo tư tưởng của Anxenmô, Tôma nhận định rằng việc đền tội cân xứng phải là việc làm của một thần-nhân; [221] bởi hành động của một Thần-nhân thì mới có giá trị vô cùng: “Chỉ một giọt máu cũng đủ sức tẩy sạch trọn cả thế gian” (Adoro te devote). Khi bàn về cuộc tử nạn, Tôma nêu bật lý do tại sao những khổ nhục và cái chết Ðức Kitô chịu đã nên ơn cứu độ cho loài người; trước hết là vì công đức, rồi vì giá trị thục tội, xá tội, cứu chuộc loài người, v.v.; nhưng yếu tố quyết định và lý do chủ yếu là tình yêu:
“Khi chịu khổ vì yêu mến và vâng phục, Ðức Kitô đã hiến dâng lên Thiên Chúa giá chuộc cao hơn những gì cần phải trả để đền bù hết mọi tội lỗi của nhân loại. Trước hết, vì tình yêu bao la đã thôi thúc Ngài chịu khổ như thế; thứ hai, vì phẩm cách mạng sống Ngài, mạng sống của một Ðấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người, mà chính Ngài đã dâng hiến làm giá đền bù; thứ ba, vì cuộc khổ nạn kéo dai dẳng và rất đau khổ. Vậy, cuộc khổ nạn của Ðức Kitô đền bù hết mọi tội của loài người không những cân xứng, mà còn dư thừa nữa.” [222]
Tư tưởng của thánh tiến sĩ khúc chiết và quân bình; nhưng vì đã dành ưu tiên quá cao cho khía cạnh thục tội và đã nói nhiều về giá (pretium) phải trả cho Thiên Chúa, [223] nên thần học sau này sẽ thẳng tay mổ xẻ hai điểm này, với kết quả phải nói là bi đát. Công đồng Trentô thừa nhận từ satisfactio (thục tội), coi đó là thuật ngữ nói lên “nguyên nhân công đức” trong việc công chính hóa, nhưng lại không giải thích gì thêm. [224] Sau đó, Giáo Lý công đồng Trentô định nghĩa “đền bù” là “trả nợ đầy đủ”: Ðức Kitô đã trả nợ đầy đủ cho chúng ta. [225]
Cho đến thế kỷ 20, thần học vẫn nhấn mạnh quá đáng đến ý niệm đền tội theo kiểu đòi hỏi của đức công bằng giao hoán, từ một Thiên Chúa “tức giận.” Tin lành và Công giáo đua nhau đưa ra những công thức quá khích. Sau đây là một vài thí dụ: Bossuet hùng biện nói: “Trong lễ tế này, mọi sự đều phải là thần linh cả: phải trả giá đền bù xứng đáng lên Thiên Chúa, và chính Thiên Chúa phải thực hiện điều đó; phải trả thù xứng đáng cho Thiên Chúa, và chính Thiên Chúa phải thực hiện điều đó... Ðích thân, Chúa Cha đã phải lấy hết mọi thứ sấm sét mà đánh xuống trên Con, và vì chính Người đã đổ vào nơi Con mọi tội lỗi của chúng ta, thì cũng chính Người phải trả thù cho thoả đáng công bằng...” [226] Thế là vô tình biến Chúa Cha thành đao phủ. Thuyết giảng tại nhà thờ Notre- Dame (Paris), M. L. Monsabré trình tả: “Thiên Chúa nhìn thấy Ðức Kitô là hiện thân của tội lỗi... Ðồ bị nguyền rủa... Vì thế, quên đi đoàn thể đông đảo những người phàm khác, Người chỉ đưa mắt công bằng nhìn chòng chọc vào cái hiện tượng ghê tởm ấy cho thỏa lòng giận ghét. Chúa ơi, xin tha thứ, đấy là Con Chúa! — Không! Nó là tội, phải bị phạt.” [227] Cách nói như thế đã một thời trở thành bình thường, đến nỗi cả các sách giáo khoa, cả các luận án thần học cũng suy luận và biểu đạt theo đà ấy. [228] Thế thì làm sao tránh được ngộ nhận cho rằng việc hành quyết bất công hoặc tội sát hại Ðức Giêsu chính là nguồn ơn cứu độ! [229]
Thần học ngày nay cảm thấy có bổn phận phải thanh lọc ngôn ngữ. Không một tài liệu chính thức nào của Giáo hội dạy rằng sự công chính của Thiên Chúa đòi hỏi phải đền bù tội lỗi như thế. Nhưng, phạm trù “đền tội, thục tội” thường gợi ý cho nghĩ ngay là vì liên đới với anh em nhân loại tội lỗi, Ðức Kitô sống thân phận hối nhân [230] và phải tạ tội qua việc làm; bởi việc hy sinh cần thiết để phục hồi sức mạnh thiêng liêng cho ý chí loài người tội lỗi, và đồng thời phục hồi (đền bù) vinh dự Thiên Chúa giữa loài người, vinh dự đã bị tội lỗi làm cho sứt mẻ đi. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã hạ mình xuống đến nỗi chấp nhận chịu ảnh hưởng do hoạt động loài người. Ðó là ý nghĩa của lề lối “nhân cách hóa” Thiên Chúa ở trong Kinh Thánh, khi nói là Người vui, buồn, giận... Thay mặt để đền tội cho nhân loại là Ðức Kitô đã làm Thiên Chúa hài lòng để hòa giải loài người với Người.
***
Vấn Đề Thay Mặt
Thần học đã khai triển rộng học thuyết “đền bù thay” (satisfactio vicaria), và hiện nay đang dùng đến một vài từ ngữ tương tự, như “đại diện,” “xá tội thay,” “liên đới,” v.v. để biểu đạt ý niệm ấy. Trong Kinh Thánh, ý niệm này xuất hiện nơi một số văn bản, chăûng hạn như: Is 53 (Tôi tớ), Gl 3:13, 2Cr 5:21, và được rút ra từ những thành ngữ đi kèm với giới từ hyper (nghĩa là “thay vì”). [231] Ðã có người quy áp cho Ðức Giêsu hình bóng “oan dương,” tức con dê mang tội của dân và dành cho quỷ [Adêden]! (x. Lv 16:8tt). [232]
Trong nhiều thế kỷ, thần học nêu bật sự kiện Ðức Kitô đã chịu những hình phạt mà đáng ra chúng ta phải chịu. Tin lành cũng như công giáo đều nhấn mạnh đến sự việc Ðức Kitô “trở thành tội” và bị phạt thay cho chúng ta là những tội nhân. [233] Calvin nghĩ là có một cuộc tố tụng hình sự chống chúng ta, nhưng Ðức Kitô đã thay mặt gánh lấy tội lỗi loài người và đã bị kết án. [234] Ðó là cuộc trao đổi kỳ diệu: Ðức Kitô bị kết án, loài người được trắng án. Giả thuyết này được gọi là “thay mặt hình sự” (substitutio poenalis), tức bị phạt thay. Gần đây, thần học gia tin lành W. Pannenberg đã lại đề xuất luận đề ấy, nhưng là dưới ánh sáng phục sinh. [235]
Nếu đã thay mặt tội nhân như là “kẻ bị kết án,” thì Ðức Kitô cũng phải chịu “hình phạt thay.” Luther cho rằng trên thập giá, Ðức Kitô đã phải chịu đọa hình (poena damni) của hỏa ngục. Trong đà hướng ấy, Calvin đã giải thích việc “xuống ngục” như là “xuống hoả ngục.” H.U.von Balthasar nhận định rằng Ðức Kitô đã hạ mình xuống đến nỗi Ngài chịu nếm nỗi cay đắng bị Thiên Chúa bỏ rơi, tựa như phải chịu “cái chết thứ hai.” [236] Ý của các tác giả là giải thích mầu nhiệm thập giá, và việc “trao đổi kỳ diệu” giữa Ðấng Vô tội phải gánh chịu án chết và những tội nhân được công chính hóa. Nhưng nói như thế thì quá đáng. Uỷ ban Thần học Quốc tế đã lên tiếng cảnh cáo: “Nếu hiểu theo nghĩa đen và xét về mặt thuần túy lý tính, thì khó mà gọi là “xá tội thay” hoặc “đền tội thay,” hành động Thiên Chúa đã thực hiện để dứt khoát mang lại ơn cứu độ qua cuộc sống và cái chết của Ðức Chúa cánh chung, cũng như qua sự sống lại của Ngài... Không thể nghĩ rằng Thiên Chúa đã trừng phạt hoặc kết án Ðức Kitô thay vì chúng ta.” [237]
Hồi thế kỷ 19, giả thuyết “đền bù thay,” “làm đủ thay” (satisfactio vicaria) được trình bày dưới một dạng khác với quan niệm “chịu hình phạt thay.” Ðức Kitô không bị phạt, nhưng, vì yêu mến Cha và mến thương anh em, Ngài đã làm cho Thiên Chúa hài lòng thay cho chúng ta. [238] Chỉ phải tránh hai điều: một là nghĩ rằng Thiên Chúa đòi hỏi phải “đền bù” một điều gì đó; hai là cho rằng Ðức Kitô đã làm tất cả rồi, cho nên chúng ta không cần làm gì hết. Tại sao Ðức Kitô có thể thay mặt loài người? Có kẻ nói: vì Thiên Chúa quyết định như vậy, Người muốn Ðức Kitô làm Ađam mới, tức cội gốc của nhân loại mới; người thì bảo: vì nhập thể, Ngôi Lời đã nhận lấy trọn vẹn nhân tính và, vì là nhân vật quý nhất, là “trưởng tử,” nên dĩ nhiên Ngài là đại diện của đàn em; hoặc cách khác: Ngài là Ðầu của nhân loại, thì cũng là đại diện của toàn thân. Không thể hoàn toàn bỏ rơi ý niệm “thay mặt” hoặc “thay vì,” bởi nó phát nguyên từ trong Kinh Thánh và truyền thống, và nhất là bởi một khía cạnh của mầu nhiệm thật sự là như vậy. [239]
Hiện giờ, thần học dùng đến tính liên đới – vừa tự nhiên mà cũng vừa do quyết định tự do của Ðức Giêsu – với loài người. Một khi đã liên đới với một người một nhóm, thì cũng gánh nhận số phận của họ (x. 1Cr 9:20-21). Ðức Kitô đã chia sẻ thân phận với loài người: Ngài được ‘nhân hóa’ để ‘thần hóa’ nhân loại. Ngài là trung gian giữa Thiên Chúa và loài người; vì liên đới với hai bên, Ngài là đại diện của Thiên Chúa ở giữa loài người, và là đại diện của nhân loại trước nhan Chúa Cha. Như thế, Ðức Kitô mới có thể tự do thay mặt loài người trong trách nhiệm về tội lỗi, gánh nhận hậu quả là sự chết, và kéo loài người lên cùng Thiên Chúa.
Khoa chú giải hiện đại đọc thấy trong nhiều bản văn Kinh Thánh, tính liên đới giữa Ðức Kitô và loài người: bắt đầu là Is 53, rồi đến Ph 2:6-7; 2Cr 5:14.21; 8:9; Gl 3:13, v.v., và đặc biệt là Rm 5:12-21; 1Cr 15:21-22 nói đến trường hợp liên đới giữa Ađam và Ðức Kitô, cũng như Ep 1:23; 5:23-30; Cl 1:18; 2:19; 3: 15 cho thấy cùng với Ngài chúng ta đã trở nên một thân thể; thư Do thái cũng đã nêu bật dây liên đới đặc thù ấy của Ðức Kitô (x. Dt 2:17; 4:15; 5:2...). Chính Ðức Giêsu đã cảm thấy liên đới với mọi người trong số phận đời đời (x. Mt 25:40.45). Tình trạng liên đới này là hậu quả của kế hoạch cứu độ Thiên Chúa đã an bài, bởi Người “đã chọn ta trong Ðức Kitô, trước khi tạo thành vũ trụ để... ta trở nên tinh tuyền thánh thiện nhờ tình thương của Người” (Ep 1:4); bao quát hơn nữa, Ðấng tạo hóa đã dựng nên muôn vật liên đới với nhau (x. Rm 8:19-22).
Vấn nạn vẫn là: tại sao một người có thể thay mặt để cứu độ mọi người? Dựa vào tính liên đới ấy thì dễ trả lời hơn: Vì ‘người ấy’ là Thiên Chúa, nên tính liên đới ấy mang chiều kích phổ quát, vượt quá giới hạn không và thời gian. Chủ thể của biến cố chết và sống lại là Ngôi Lời, vì thế có sức năng ảnh hưởng trên tất cả; là Ngôi Lời mà cũng là “Con Người” đã tự do nhận lấy phận mệnh của anh em và liên kết họ vào trong phận mệnh của mình. Dù biết hay không biết, mỗi người đều có Ðức Giêsu làm anh mình, làm Ðầu của mình: phận mệnh của Ngài quyết định phận mệnh của tất cả: “Khi nhập thể, Con Thiên Chúa đã, một cách nào đó, kết hợp với tất cả mọi người” (VMHV 22b). Thể cách cứu độ này đã được dự kiến từ lúc tạo dựng, trong cấu trúc liên đới giữa loài người (người đại diện của gia đình, của bộ lạc, của quốc gia, v.v.); nhưng vẫn còn có nhân tố cá nhân, là tự do đón nhận hay từ chối dây liên đới ấy. Nói cho cùng, đây là phạm vi mầu nhiệm: không một từ ngữ hay ý niệm nào có thể biểu đạt cho đầy đủ được. Gần đây, H. U. von Balthasar lấy ý niệm “phổ niệm cụ thể” (universal concrete) của triết gia Hegel mà áp dụng cho trường hợp Ðức Kitô: Ngài là cá nhân phổ quát, bởi vì, do thần tính, Ngài vô cùng vô tận. [240] Suốt dòng lịch sử, vai trò cứu độ của Ðức Kitô vẫn mãi tiếp tục cách hữu hình qua Giáo hội, là khí cụ (bí tích) cứu độ phổ quát (x. ASMD 1).
***
9. Tổng Hợp: Hòa Giải
Hòa giải (katallagê) là phục hồi tình thân, tình bạn, bằng cách khắc phục tình trạng mâu thuẫn, bội nghịch, thù hằn, v.v. Trong công cuộc cứu độ, đó là việc làm của Thiên Chúa, là sứ vụ của Giáo hội. Trước hết là sáng kiến của Thiên Chúa, nhưng cũng là thái độ đáp ứng của con người; là mục đích của cuộc tạo dựng mới, tức là nhiệm vụ của Ðức Kitô: hòa giải là tái lập mối hiệp thông giữa Thiên Chúa và loài người, như thánh Phaolô viết: “Thiên Chúa đã nhờ Ðức Kitô mà cho chúng ta được hòa giải với Người, và trao cho chúng ta chức vụ hòa giải” (2Cr 5:18-19). Lòng quảng đại và tình thương vô biên của Thiên Chúa đã hòa giải chúng ta là tội nhân, cách nhưng không, nhờ Ðức Kitô chịu chết vì chúng ta (x. Rm 5:8-11). Việc hòa giải này không chỉ giới hạn ở trong phạm vi siêu nhiên vô hình, mà còn trải rộng hiệu năng ra giữa xã hội loài người (x. Ep 2:4tt). Con người cần phải đáp ứng với tất cả tự do; vì thế, Phaolô khẩn khoản nài xin: “Hãy làm hòa với Thiên Chúa!” (2Cr 5:20). [241]
Kế hoạch hòa giải cũng tương tự như việc tái lập giao ước. Các ngôn sứ đã loan báo Chúa Giavê sẽ lập một giao ước mới (x. Gr 31:33tt; 33:20tt; Ed 16:60, v.v.), nghĩa là sẽø tái lập quan hệ hòa giải với dân. Ðức Kitô đã làm việc ấy trong bữa tiệc ly (cách bí tích) như Phúc âm và Phaolô trình thuật (x. Mt 26: 28tt; 1Cr 11:25), và trên thập giá (cách đổ máu) như thư Do thái nói rõ (x. Dt 7:22; 8:6.8).
Nơi hòa giải là thập giá (x. Ep 2:14tt): bởi nơi đó hội tụ tất cả hận thù, căm hờn (là mặt trái của tình thường, tức là tội lỗi) Ðức Kitô đã phải mang trên mình. Ngài bị giết, thì tội lỗi, là căm thù, cũng bị giết chết. Không còn căm thù, hờn ghét, thì hết chia rẽ: “Thiên Chúa muốn nhờ Ngài mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình; nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1:20). Tất cả đều đồng tâm nhất trí, vì cùng có chung một Ðầu là Ðức Kitô (x. Ep 1:10).
Nhưng, những gì Ðức Kitô đã hoàn thành “chỉ một lần là đủ” (Dt 10:10), đều cần phải được từng bước thực hiện ở giữa lịch sử loài người; Ðức Kitô đã hoàn tất công việc, con người cần phải thông hiệp bằng cách đáp ứng thích đáng. Nếu Thiên Chúa tha thứ ‘như’ chúng ta tha thứ cho nhau (x. Mt 6:12) thì việc hòa giải với Thiên Chúa cũng đi qua lối ngả hòa giải với anh chị em đồng loại (x. Mt 5:23-24). Có hối cải (x. 2Cr 5:20) thì lòng người mới rộng mở để đón nhận ân huệ của Ðức Kitô (x. 2Cr 5:21).
Thực ra, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa là kế hoạch hòa giải. Những khái niệm khác, như chuộc lại, xá tội, đền tội, công chính hóa v.v., chỉ là những hình thức biểu đạt những phương cách hay khía cạnh của công trình duy nhất ấy. Vấn đề là đôi lúc thần học chú tâm quá nhiều đến chi tiết mà bỏ quên toàn bộ: cho đến gần đây, trong các bộ từ điển và sách giáo khoa thần học vẩn không đọc thấy mục “Hòa Giải.” Hiện giờ, thần học và huấn quyền đang ra sức nêu bật ý nghĩa đặc thù của chủ đề này: hòa giải là “mầu nhiệm trung tâm của kế hoạch cứu độ.” [242] Văn hóa thời nay không muốn nghe nói tới những phạm trù kể trên; vì vậy, Giáo hội đã lấy lại từ ngữ “hòa giải,” rất thích hợp với thời đại này, đúng như Sách Giáo lý của các Giám mục Pháp nhận định: “Thật ra, ít có một từ nào thích hợp hơn [từ này] để nói lên những gì Ðức Kitô đã làm cho con người tội phạm và cho loài người sống xa cách Thiên Chúa, lại còn bị phân hóa vì chia rẽ cùng hận thù gây chết chóc, và nhiều lúc còn đi đến chỗ phá vỡ quan hệ cả với thiên nhiên.” [243]
Ðức Giêsu, Ðấng Cứu tinh, trước hết, là con người được hoà giải với Thiên Chúa, với vũ trụ, với chính mình. Ngài sinh vào một thế giới chia rẽ vì hận thù. Sứ mệnh của Ngài là hòa giải cha ông với con cháu (x. Lc 1:17), và phá hủy những bức tường phân cách giữa các thành phần trong xã hội. Khi trừ quỷ là Ngài xua đuổi nguyên nhân chia rẽ (x. Gc 3:15tt); trình thuật về người bị quỷ ám ở Ghêrasa (Mc 5:1tt) là một dụ ngôn về việc hòa giải một người với chính bản thân người ấy, với xã hội và với thiên nhiên. Khi tha tội là Ngài đưa tội nhân về với Cha trong niềm hân hoan, an hòa (x. Lc 15). Trường hợp Dakêu (x. Lc 19:1tt), chẳng hạn, cho thấy cần phải làm thế nào để một “tội nhân” hòa giải với tôn giáo và xã hội; trình thuật về người phụ nữ Samari (x. Ga 4) cũng nêu rõ bầu khí hòa giải ấy. Thí dụ cụ thể và sống động nhất là nhóm tông đồ Ðức Giêsu quy tụ quanh mình và muốn biến thành một công đoàn tiêu biểu của xã hội được hòa giải, dù có gồm nhiều thành phần rất khác biệt nhau: có kẻ xuất thân từ phái Nhiệt thành (Zêlót), có người thuộc giới thu thuế, có người chăm lo tuân giữ Lề Luật như Nathanaen, cũng có cả dân chài ăn không rửa tay, v.v.; còn nhóm các môn đồ đông hơn, thì gồm người Nam và người Bắc, giới quý phái (Nicôđêmô, Arimathêa, bà Gioanna: Lc 8:2-3) và lớp thường dân, nam và nữ, v.v. Sứ điệp của Ngài nhấn mạnh đến việc hòa giải với nhau, coi đó có khi quan trọng hơn cả phụng vụ (x. Mt 5:23tt), và trong “vương quốc” của Ngài, việc tha thứ cho nhau là điều kiện thiết yếu, không thể thiếu được (x. Mt 6:14-5; 18:15tt, v.v.).
Cuộc sống và sứ điệp của Ðức Giêsu thì ngược hẳn với lối suy tư và hành động của một xã hội bất hòa; vì thế, Ngài đã trở thành nạn nhân của quyền bính tôn giáo (Caipha) và nhà nước (Philatô). Họ giết Ngài vì những lý do riêng của họ; nhưng Ngài chết “để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11:52). Thần học thập giá của thánh Phaolô đã giải nghĩa sự kiện này.
Mục đích của kế hoạch cứu độ không chỉ là tái lập giao ước, giải phóng dân Chúa, thực hiện cuộc sáng tạo mới v.v., nhưng còn là quy tụ con cái Thiên Chúa thành một gia đình có Người làm Cha, tức là một xã hội huynh đệ, không những về mặt hữu thể siêu nghiệm (x. Ga 1:12), mà còn về cả mặt lịch sử, xã hội và tâm lý nữa: đó là kinh nghiệm của Giáo hội sơ khai, bởi “tất cả đều là anh chị em của nhau” (Mt 23:8). Trong gia đình ấy không có xung đột xã hội (x. Cv 4:32-5); nếu có và chắc hẳn sẽ có vấn đề bất đồng thì biết giải hòa trong tình huynh đệ (x. Cv 15:23), như giữa anh em một nhà (x. 1Cr 1:10; 3:1; 5:11; 2Cr 2: 5tt), theo lời dạy của Ðức Giêsu (Lc 17:4). Ở đây, Cứu độ học bắt gặp Giáo hội học.
Tóm lại, chức năng hòa giải của Ðức Kitô vẫn mãi tiếp tục trong sứ mệnh của Giáo hội; Ðức Kitô là hiện thân của hòa giải: phải làm thế nào để Ngài có thể tỏ hiện ở trong Giáo hội như là ở giữa một xã hội hòa giải, v.v. Hòa giải nêu rõ những chiều kích của ơn cứu độ: cá nhân cũng như xã hội, tôn giáo cũng như dân sự, nhân loại cũng như vũ trụ. Ðức Kitô là Trung gian duy nhất của công trình này.