Monday, 06 January 2020 13:44

Khảo Luận Về Kitô Học: Phục Sinh - Khởi Điểm Của Kitô Học (3/2) Featured

KHẢO LUẬN TRƯỜNG THIÊN VỀ ĐỨC KITÔ

Tác giả: Lm. F.Gómez Ngô Minh, SJ.

***

***

CHƯƠNG III

PHỤC SINH: KHỞI ĐIỂM CỦA KITÔ HỌC

 

8. TÌM HIỂU ĐỨC TIN VÀO ĐỨC KITÔ PHỤC SINH

Biến cố Ðức Giêsu sống lại không phải là một trong những trường hợp tương tự cùng thuộc một “loại,” tựa như cái chết của bác Năm nằm trong “loại” định luật phải chết của hết mọi người, nhưng là một sự kiện thuộc một “loại” khác hẳn. Biến cố Ðức Giêsu sống lại là sự kiện duy nhất, không phải là một phép lạ tựa như việc Ladarô hồi sinh, nhưng là một biến cố hoàn toàn mới trong lịch sử nhân loại và trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa: là một cuộc sáng tạo mới.[xliii] [43] Tự bản chất, sự sống lại là đối tượng phải được tuyên xưng của đức tin. Phêrô loan báo Ðức Kitô sống lại trước toàn dân Ítraen (x. Cv 3:14tt) cũng như trước Thượng Hội Ðồng Do thái (x. Cv 4:10). Phaolô cũng đã tuyên xưng cùng một niềm tin cho dân Do thái (x. Cv 13:33; 17:3) và trước Thượng Hội Ðồng Do thái (x. Cv 23:6). Philiphê truyền bá Tin Mừng này cho viên thái giám Êtiôpia (x. Cv 8:35), còn Phaolô thì cho dân ngoại (x. Cv 17:31). Bất cứ ở đâu và vào thời nào, Giáo hội cũng như mọi kitô hữu đều có bổn phận phải tuyên xưng niềm tin ấy, phải truyền bá Tin Mừng ấy.

Thần học nêu bật một số khía cạnh liên quan đến chân lý trên đây:

a) Chân lý chủ yếu là trước khi chết và sau khi sống lại, Ðức Giêsu vẫn là một, hoặc nói cách khác, Ðức Giêsu và Ðức Kitô là một. Như 1Ga 1:1 viết: “Ðiều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống,” Ðức Giêsu Kitô. Cụ thể hơn, thánh Phêrô đã nói như sau với cộng đồng Do thái: “Vậy, toàn thể nhà Ítraen phải biết chắc điều này là: Ðức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Ðức Chúa và làm Ðấng Kitô” (Cv 2:36), vì “chính Ðức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này tất cả chúng tôi xin làm chứng” (Cv 2:32). Cốt tủy của sứ điệp Phục sinh là tính cách liên tục giữa ba giai đoạn: sống, chết và sống lại của Ðức Giêsu (x. Cv 1:21-22). Nói cách khác, chính “con người Giêsu Nadarét” hiện đang “đứng bên hữu Thiên Chúa” (Cv 7:55), chứ không phải là một nhân vật nào khác. Chính “người bạn” đã cùng ăn uống với các môn đồ mình ngày trước sẽ ngự đến trong vinh quang vào hồi cánh chung (x. Cv 1:11), chứ không phải là một người nào khác.

Giữa đức tin và lịch sử không có một “vực thẳm” cách ngăn, bởi đã có một nhịp “cầu” nối kết là Ðức Giêsu Kitô. Ý nghĩa sâu sắc của điểm này là lịch sử cụ thể và hèn mạt của chúng ta đã được cứu rỗi do một con người đã sống, đã chịu khổ và đãø chết đi như bất cứ ai, nhưng đã sống lại một cách huyền diệu. Nếu Ðức Giêsu ấy và Vị Cứu tinh này không phải là một, thì lịch sử loài người sẽ trở thành vô nghĩa, phi lý. Vinh quang của Con Một đã được nâng lên, minh giải cho sự hạ xuống của Tôi Trung đã bị đóng đinh. Ðó là lý do tại sao định thức đức tin của 1Cr 15:3 đã nhấn mạnh đến mối dây nối liền sự chết và sự sống lại, thời gian trước và thời gian sau của Ðức Giêsu Kitô.

b) Sự sống lại là công trình của Thiên-Chúa-làm-người, của nguồn mạch sự sống: Thiên Chúa hằng sống làm cho sống. Các tông đồ đã cảm nghiệm được và làm chứng rằng chính bàn tay Thiên Chúa đã can thiệp. Họ dùng công thức: “Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại.” “Thiên Chúa” ở đây là Chúa Cha. Quả vậy, sự sống lại là mẫu gốc của những hành động can thiệp cứu độ của Thiên Chúa vào trong lịch sử. Tân Ước quy áp công trình phục sinh trước hết cho Thiên Chúa Cha, hay đúng hơn cho “Cha của Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.”

— Trước tiên, sự sống lại là hành động giao lưu giữa Cha và Con, phát sinh từ nguồn cội sâu thẳm nhất là lòng tương ái: vì Cha yêu Con nên làm cho Con sống lại (x. Ga 10:17-18), và như vậy, chính thức công nhận Ngài là Con đích thật của Cha. Làm như thế là Chúa Cha ứng đáp lòng vâng phục cho đến chết và niềm tin tưởng tuyệt đối phó thác của Ðức Giêsu (x. Mc 15:34): một bên là thập giá, làm như Thiên Chúa bỏ rơi; bên kia lại là lối ngõ dẫn vào vinh quang, là khôn ngoan thần linh, là mẫu mực cách thức hành động của Thiên Chúa, v.v... Nhờ vâng phục tuyệt đối, Ðức Giêsu đã lập nên công đức khiến Ngài đáng được thức dậy từ cõi chết: “Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến chết, thậm chí chết trên thập giá. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài” (Pl 2:8-9). Thế mới hiểu tại sao sau này thánh Gioan coi cuộc tử nạn như là một cuộc giương cao, một cuộc tôn vinh (x. Ga 13:31-32; 17:5, v.v...). ánh sáng phục sinh rực rỡ đến nỗi đã làm cho những vực thẳm tăm tối nhất (của thống khổ) cũng bừng chói lên trong quang vinh.

— Trong cuộc phục sinh, Chúa Cha cũng được vinh quang. Xưa nay Ítraen vẫn tin vững rằng duy chỉ Ðức Giavê mới có sức  năng làm cho kẻ chết sống lại: “Giavê là Ðấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” (1Sm 2:6), và vì thế, một lần nữa, Người có thể biểu dương những kỳ công của Người; đó là niềm hy vọng của Ítraen (x. 2Mcb 7:14; Cv 26:7-8). Nếu Thiên Chúa mạc khải vinh quang Người trong những kỳ tích của lịch sử thánh hầu cứu rỗi Dân Ítraen, thì Người còn tỏ rõ vinh quang ấy hơn nữa, khi làm cho Con Một là Ðức Giêsu sống lại. Qua cuộc tạo dựng mới, Thiên Chúa tỏ lộ quyền năng của Người nhiều hơn rõ hơn là qua công trình tạo dựng cũ (x. Ep 1:19-20). Việc Ðức Giêsu phục sinh và việc biểu dương quyền năng của Chúa Cha đi đôi với nhau: “Nay Ngài đang sống nhờ quyền năng của Thiên Chúa” (2Cr 13:4; x. 1Cr 6:14; Mt 22:29). Mặt khác, Kinh Thánh nhận rằng sự sống lại là cuộc thắng lợi tiêu biểu nhất của khôn ngoan Thiên Chúa. Khôn ngoan xuất hiện trong những đường lối của Người, và đường lối ấy thì cao hơn đường lối loài người như trời cao hơn đất (x. Is 55:8-9), bởi: “Quyết định của Người ai dò cho thấu, đường lối của Người ai theo cho cùng!” (Rm 11:33). ấy mà đường lối đặc thù bậc nhất của Thiên Chúa – theo thánh Phaolô – là thập giá và cuộc phục sinh của Ðức Giêsu (x. 1Cr 1). Không một tạo vật nào có thể tưởng tượng được rằng Thiên Chúa đã biến điên rồ của thập giá thành khôn ngoan của Người, biến thất bại tuyệt đối ra thành công tuyệt đỉnh của kế hoạch Người; chính ở điểm này, vinh quang của Chúa Cha tỏ rạng rực rỡ cao độ nhất, hơn trong bất cứ gì khác.

Trong Ðức Kitô phục sinh, Chúa Cha đã đặc biệt mạc khải chính mình. Do tự bản tính, Chúa Cha không thể tỏ lộ chính mình trừ phi qua Lời. Trong Cựu ước, Lời Chúa Giavê chỉ nói bập bẹ qua các biến cố mập mờ của lịch sử Ítraen, hoặc qua các sấm ngôn với ý nghĩa tiềm ẩn mà các tiên tri chuyển lại. Trong cuộc nhập thể, Lời ấy đã đến giữa chúng ta, đã trở nên giống hệt như chúng ta đến nỗi nhiều người đã ngộ nhận về Ngài, dù trên nguyên tắc, “ai thấy Ngài là thấy Cha” (Ga 14:9). Tuy nhiên, duy chỉ Ðức Kitô phục sinh mới phản ánh hoàn hảo dung mạo Chúa Cha, Ngài là Lời rõ nhất của Cha, mà cả đến những kẻ ghét Ngài như Saolô, cũng không thể không nhìn nhận. Dung mạo ấy như thế nào? Trước hết, Thiên Chúa tỏ hiện như là Ðấng trung thành: trong Ðức Kitô, mọi lời hứa đều được ứng nghiệm. Dù trước Ðức Kitô đã có những sự việc ứng nghiệm, nhưng các sự việc ấy làm cho lời hứa ứng nghiệm chỉ một phần nào, không bao giờ hoàn toàn đầy đủ; khi Người làm cho Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại, thì lúc đó mới thấy được Thiên Chúa là Ðấng rất mực chung thủy, không bỏ sót điều gì. Tự hậu, con người có thể tin rằng Thiên Chúa hằng trung thành cho đến cùng (x. 1Cr 1:9; 10:13). Chính vì vậy, Thiên Chúa đã mạc khải chính mình như là Ðấng làm cho niềm hy vọng của chúng ta thành hiện thực. Trong Ðức Kitô phục sinh, Chúa Cha đã nói lên tiếng VÂNG đối với mọi lời Người hứa cũng như đối với mọi nhu cầu của con cái (x. 2Cr 1:18-22). Từ đây, nỗi sợ hãi trước sự chết không đánh bại nổi chúng ta, vì Thiên Chúa của ta có tên mới là “Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu, Chúa chúng ta, từ cõi chết sống lại” (x. Rm 4:24; 8:11; 2Cr 4:14; Gl 1:1; Ep 1:20; Cl 2:12). Tương lai không còn phải là một ngõ cụt, nhưng rộng mở để dẫn đưa tới hy vọng.

c) Sự sống lại, trước hết, là kinh nghiệm của bản thân Ðức Giêsu. Như vừa lưu ý trên đây, Tân Ước thường coi biến cố phục sinh như là công việc của Chúa Cha (“Thiên Chúa”): Người là tác nhân làm cho Ðức Giêsu chỗi dậy; còn Ðức Giêsu thì, tựa như người thụ động, chỉ đón nhận ơn phục sinh. Tuy nhiên, cũng có một số văn bản cho thấy Ðức Kitô chủ động lấy quyền năng mình mà đứng lên như vị chiến thắng trên sự chết (x. Lc 24:7; Ga 2:19; 5:21; 20:9; 1Tx 4:14): “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10:17-18). Sau này, công đồng Tôlêđô (năm 676) đã khẳng định rõ: “Ngày thứ ba, do bởi năng lực riêng của chính mình, Ngài đã sống lại và đứng dậy từ phần mộ” (DS 539). Ðó là kết luận của thần học về việc nhập thể.

Mầu nhiệm phục sinh tiềm ẩn ở chính trong Ðức Giêsu. Xét theo tư cách là con người, lần đầu tiên Ðức Giêsu có được ý thức về mình một cách hoàn hảo, là lúc Ngài sống lại. Từ đó, nơi Ngài, xét theo nhân tính, khả năng ý thức về mình đạt tới mức viên mãn như Ðấng tạo hóa đã dự định. Ngài thấy mình đúng y như mình hiện hữu. Bấy giờ, Ngài bắt đầu có kinh nghiệm về việc thụ tạo được hiển vinh nhờ tử hệ; ý thức nhân tính của Ngài thấy mình như Con của Cha một cách mới. Ngài thấy mình là hình ảnh hoàn hảo của Cha, dù vẫn là một tạo vật. Dĩ nhiên, ý thức đang bàn đến ở đây là ý thức thụ tạo, chứ ý thức phi tạo, thần linh của Con, của Cha và của Thánh thần chỉ là một.

Vì thế, sự sống lại đã đưa Ðức Giêsu đạt tới mức hoàn hảo của con người mình. Như bất cứ con người nào, Ðức Giêsu cũng cần phải triển phát, tiến dần lên để đạt tới mức toàn thiện, chứ không phải sinh ra là hoàn hảo ngay. Thư Do thái cho biết rằng chỉ sau khi hiến dâng chính mình trên thập giá và sống lại, “người Con mới nên thập toàn cho đến muôn đời” (Dt 7:28). Trở nên “thập toàn” là một quá trình kéo dài suốt cuộc đời và chỉ hoàn tất trong cuộc khổ nạn, rồi hoàn thành trong ơn được nâng lên (x. Dt 2:10; 5:9).

Mức hoàn hảo, tình trạng thập toàn ấy là gì? Về mặt nhân tính, Ðức Giêsu hiện đang thụ dụng toàn bộ những khả năng đã sung mãn thành tựu của mình: trong cả xác lẫn hồn; Ngài không còn có thể “trở nên” bởi đã “thực sự là.” Sau khi sống lại, Ðức Kitô hiện thực hóa chiều kích hoàn vũ, nghĩa là Ngài đang thông hiệp với toàn thể tạo vật trong tư cách là Ðầu (x. Cl 1:15-20; 2: 10; Ep 1:20-21). Trong cuộc đời dương thế, với thân xác vật chất – rất bất toàn, bị giới hạn trong không và thời gian – làm công cụ giao tiếp với tạo vật chung quang, nhân tính của Ngài chỉ có được “thiên năng siêu nghiệm (transcendental disposition) nhìn về các sự vật; còn bây giờ thì thực sự Ngài có khả năng thấu đạt mọi sự.

Tình trạng hoàn hảo ấy được hiện thực trong đời sống mới (x. Rm 6:9-10). Ðời sống mới này không phải là cuộc tái hiện của đời sống cũ, như trong trường hợp của Ladarô chẳng hạn; cũng chẳng phải là một cuộc canh tân, làm cho đời sống ấy tốt hơn, phong phú hơn, trường thọ đến vô tận và không còn phải chịu khổ đau v.v... Người Do thái đã hình dung ra thế giới của Ðấng Thiên sai tương tự như thế, giống như một cõi địa đàng. Không: đời sống phục sinh thuộc về một “loại” khác hẳn, không quan niệm ra nổi với những phạm trù loài người hạn hẹp; đó là điều xảy ra khi sự sống thần linh tác động đến con người. Thánh Phaolô gọi đó là sự sống nhờ Thần Khí (x. 1Cr 15:35tt).

Ðối với các nhân chứng, nét tuyệt vời nhất của Ðấng Phục sinh là thân thể mới của Ngài. Các tài liệu của Tân Ước nêu rõ sự việc không những Ðức Giêsu vẫn là một, mà còn sống lại với chính thể xác của Ngài: thân thể phục sinh là thể xác đã bị đóng đinh. Các tác giả đã ghi lại chi tiết này khi đề cập đến các thương tích (x. Ga 20:27; Kh 5:6). Các nhà chú giải lưu ý đến điểm này: những trình thuật về các cuộc hiện ra càng xưa thì lại càng tỏ ra “thiêng liêng,” còn những trình thuật càng mới thì càng cho thấy khuynh hướng nêu rõ những yếu tố có tính cách “vật chất”: các văn bản về sau (Luca và Gioan) kể lại sự việc Ðấng Phục sinh ăn cá nướng (x. Lc 24:43) hoặc Tôma đặt tay vào cạnh sườn Ngài (x. Ga 20:27-28). Thế là vì có lẽ vào thời đầu, trong Giáo hội đã có người (như ở Côrinthô) không tin vào sự sống lại thật, hoặc có khuynh hướng ngộ đạo thuyết, tỏ thái độ khinh bỉ thể xác (như ở Ai cập).[xliv] [44] Dù sao, thì lý do chính cũng là vì nếu thân xác trước và sau không phải là một, thì con người cũng không phải là một; thân xác Ðức Kitô sống lại đảm bảo cho sự kiện Ðấng Phục sinh chính là Ðức Giêsu Nadarét.

Vì đã sống lại trong thể xác, nên Ðức Kitô mãi mãi hiện hữu trong thể xác, nghĩa là không bao giờ cuộc nhập thể chấm dứt. Nhiều lần, điểm giáo lý này đã bị hiểu lầm và phủ nhận, khiến Giáo hội cảm thấy cần phải xác định rõ qua nhiều văn kiện (x. DS 681, 791, 801, v.v...). Trong Tân Ước (x. 1Cr 15), thánh Phaolô đã minh nhiên trình bày giáo lý về thể xác phục sinh.[xlv] [45] Thần học nêu rõ là nếu Ðức Kitô không sống lại trong thể xác, thì con người sẽ không được cứu chuộc hoàn toàn; bởi không có thể xác thì không phải là con người.[xlvi] [46] Tuy nhiên, thể xác mới ấy khác hẳn với tình trạng của thể xác cũ, tựa như hoa so với hạt. Kể ra thì không thể biện luận suy lý quá nhiều về chủ đề này: bởi đâu có phải và tìm đâu có được một “nhân chủng học phục sinh”! Dù vậy, thần học nhận ra rằng trong cuộc hiện hữu mới ấy, không còn có tình trạng “mâu thuẫn” giữa trí tuệ và xác thể, giữa lý tưởng và thực tại, giữa vị kỷ và vị tha, v.v..., vì thể xác phục sinh không còn phải là “thân xác tội lỗi” hiện nay (x. Rm 6:6; 8:3, v.v...), thân xác thường gây trở ngại cản ngăn mối thông hiệp với Thiên Chúa và tha nhân (x. Rm 7:15-24). Trái lại, theo kế hoạch của Ðấng Tạo hóa, thể xác là phương tiện để thực hiện mối hiệp thông đó, hầu sống an hòa với chính mình và hòa thuận với mọi người, mọi sự. Bí tích Thánh Thể tiêu biểu cho khả năng mới này.

Qua biến cố sống lại, Ðức Kitô đã bước vào giai đoạn sống thân phận chung quyết vĩnh cửu của Ngài. Mục tiêu đã đạt, Ngài hiện đang làm nhiệm vụ Chúa Cha ủy thác. Giáo hội gọi nhiệm vụ này bằng nhiều danh xưng, và cố miêu trình những khía cạnh khác nhau của “vai trò” ấy. Vì Ngài là “cho chúng ta,” nên Ngài được gọi là Vị Ngôn sứ chứng từ Môsê tiên báo (x. Cv 3:22; 7:37); Ngài là Tôi Trung của Thiên Chúa như Isaia đã miêu trình (x. Cv 3:13.26; 4:25.27.30); các tông đồ gọi Ngài là Thủ lãnh, Vị Lãnh đạo dẫn đưa tới nguồn ơn cứu độ (x. Cv 5:31; Dt 2:10; 12:2), Ðấng khơi nguồn sự sống (x. Cv 3:15). Còn xét về chính bản thân Ngài, Ðức Giêsu là Ðấng Công chính (x. Cv 3:14; 7:52), Ðấng Thánh (x. Cv 3:14; Mc 1:24; Ga 6:69), là Ðấng Kitô (xức dầu) (x. 1Cr 15:3; Cv 2:36; 4:26; 10:38v.v...). Và còn không biết bao nhiêu tước hiệu khác nữa, như Con Người (Cv 7:34), Con Thiên Chúa (Cv 8:37), v.v... rốt cuộc là Chúa (x. 1Cr 16:22; Kh 22:20; Pl 2:11, v.v...): không có tước hiệu nào cao cả hơn danh tước này. Suy về thân phận ấy, Giáo hội sẽ ý thức ra là các tước hiệu dù có khác nhau, nhưng cũng chỉ là một ở trong Ngài, và vinh quang mới này thực ra Ngài đã thủ đắc từ muôn thuở, chỉ khác là bây giờ có thêm một cơ sở, một căn cứ mới là: công đức (x. Pl 2:6-11).

Có thể nhìn về thân phận Ðức Kitô phục sinh từ hai góc cạnh; từ phía thụ động: mở rộng lòng và hương về với Chúa Cha, Ðức Giêsu đón nhận ân huệ của đời sống mới như là cơ nghiệp của Người Con (tử hệ); từ phía chủ động: Ngài dùng quyền năng của mình để sống lại như là Chúa. Nhìn từ phía chủ động này, Ngài là Ðầu của Hội Thánh và của mọi quyền lực (x. Cl 1:18; 2:10); nhìn từ phía thụ động, Ngài là “trưởng tử giữa một đàn em” (x. Rm 8:29). Và dù có nhìn từ phía nào đi nữa, thì Ngài cũng vẫn là “Danh” duy nhất mang lại cứu độ (x. Cv 4:12).

d) Sự sống lại là công trình đặc biệt của Thần Khí. Như Thần Khí đã làm cho Ngôi Hai trở nên con người (x. Lc 1:35; Mt 1: 18), thì trong kế hoạch cứu độ, Thần Khí cũng đã làm cho Ðức Giêsu trở nên Con Thiên Chúa qua việc sống lại (x. Rm 1:4). Kế hoạch Thiên Chúa Ba Ngôi cứu độ (economic Trinity) dành tác động cuối cùng cho Ngôi Ba. Thần Khí là “Ðấng Hoàn Tất,” là “Ðấng Ðóng Ấn” công trình của Thiên Chúa (x. Ep 1:13), là Ðấng xức dầu cho Ðức Kitô để Ngài có thể thực hiện sứ mạng trao phó (x. Lc 4:18), và mạc khải Ngài ra cho thế gian (x. Mc 1:16tt); Phúc Âm cho thấy là Thánh Thần chi phối toàn bộ công cuộc của Ðức Giêsu (x. Mc 1:12; Mt 12:18.28; Lc 10:21). Vì thế, Thần Khí cũng phải là Ðấng làm cho mầu nhiệm nhập thể thành tựu trọn vẹn với biến cố phục sinh.

Ðối chiếu cuộc đời hay chết của Ðức Giêsu với cuộc hiện hữu bất tử hậu phục sinh, Tân Ước gọi Ngài trong giai đoạn đầu là Ðức Giêsu theo xác thể, còn trong giai đoạn sau là Ðức Kitô theo Thần Khí (x. Rm 1:3-4); hoặc như thư thứ nhất của thánh Phêrô viết: “Ngài bị giết trong thân xác, nhưng nhờ Thần Khí, Ngài đã được phục sinh” (1Pr 3:18). Với biến cố sống lại, Ngôi Cha đã nhận thêm một danh hiệu mới, thì cũng thế, Thánh Thần được gọi là “Thần Khí tác sinh” (x. Ga 6:63; 1Cr 15:45; 2Cr 3:6). Nhờ Thần Khí, Chúa Cha biến những kẻ đã chết vì tội lỗi, thành người sống: “Nếu Thần Khí của Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu sống lại từ cõi chết, ngự trong anh em, thì Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác anh em được sự sống mới” (Rm 8:11). Thấm nhập tràn ngập Ðức Kitô phục sinh, Thần Khí đã biến thân xác Ngài nên “thân thể có thần khí,” “thần khí ban sự sống” (1Cr 15:44-45), nghĩa là Thánh Thần đồng hóa mình với Ðức Kitô phục sinh mật thiết đến nỗi cả hai xem ra như là một; chính vì thế mà thánh Phaolô đã dám nói: “Chúa là Thần Khí” (2Cr 3:17). Như vậy, qua nhân tính Ðức Kitô phục sinh, Thần Khí đã thâm nhập vào trong vũ trụ, khai mở thời đại mới, và khởi động cuộc “thần hóa” toàn bộ tạo vật.

9. CHIỀU KÍCH CỨU ĐỘ

Nếu hết mọi sự trong Ðức Kitô đều là “vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta,” thì trong tất cả mọi sự ấy mầu nhiệm Phục sinh đứng ở chỗ trọng yếu số một.[xlvii] [47] Thần học và phụng vụ thường nêu cao công đức của Ðức Giêsu trên thập giá; tuy nhiên, tự nó, sự chết và hơn nữa, cuộc tử nạn chẳng làm cho ai sống hoặc sống lại được cả. Ðể làm sáng tỏ điểm này, thánh Phaolô viết: “Ðức Giêsu chính là Ðấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính” (Rm 4:8). Nguyên tắc căn bản đã được trình bày ở trong Thư gửi tín hữu Do thái: “Khi chính bản thân đã tới mức thập toàn – qua biến cố sống lại – Người đã trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5:9). Vì vậy, thần học gọi sự sống lại là nguyên nhân của việc công chính hóa, tức là của việc ban ơn cứu rỗi; nhưng nguyên nhân gì thì mỗi tác giả quan niệm một cách khác nhau. Sau đây, xin nêu lên một số khía cạnh của ơn cứu độ, với những chiều kích khác nhau: cá nhân, xã hội, vũ trụ.

a) Với biến cố Ðức Kitô sống lại, thời đại cuối cùng bắt đầu: Ðấng Phục sinh khởi đầu thời kỳ cánh chung, khai trương những thực tại chung quyết của lịch sử loài người (x. ASMD 48). Những biến cố mà các ngôn sứ tiên báo cho “những ngày cuối cùng,” đã thực sự ứng nghiệm khi Thần Khí của Ðức Kitô được tuôn đổ xuống (x. Cv 2:16tt). Những chờ mong của các thánh (x. Tv 51: 9t chẳng hạn) đã lộ hiện ở nơi Ðấng Phục sinh và các tín hữu của Ngài. Biến cố sống lại khai mở thời kỳ mới, tức là “thời đại của giáo hội,” thời đại sẽ kéo dài “cho tới khi Chúa lại đến.”

Khi Ðức Giêsu trút linh hồn, bức màn Ðền thờ bị xé ra (x. Mt 27:50-51), tượng trưng cho điểm kết thúc của một thời đại. Tiếp đến, thi hài Ðức Giêsu được mai táng trong một ngôi mộ mới (x. Mt 27:60; Ga 19:41), bởi vì “thời phục hồi vạn vật” (x. Cv 3:21; ASMD 48) đã bắt đầu.

Xưa kia, các ngôn sứ đã tiên báo về sự việc “mới lạ” Thiên Chúa sẽ thực hiện (x. Is 43:19), đáng được tán tụng với một bài ca mới (x. Tv 96:1). Thì đây, công cuộc cứu độ của Ðấng Thiên sai có thể ví như sự việc mới lạ, một cuộc tạo dựng mới (x. Is 41:20; 45:8; 48:6t), đã từng làm cho ngôn sứ Êdêkien mường tượng nhìn thấy đất Paléttin biến thành một địa đàng mới (x. Ed 47:7-12). Sẽ có một giao ước mới (x. Gr 31:35) cho một dân có trái tim và thần khí mới (x. Ed 11:19; 18:31; 36:26t), với cả một trời mới, đất mới mà Chúa Giavê sẽ tạo thành (x. Is 65:17; 66: 22).

Ðức Giêsu đã thực hiện lời hứa ấy. Chính Ngài đã rao giảng: “Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1: 15). Ðược thụ thai và sinh ra cách “mới lạ,” Ðức Giêsu rao giảng một sứ điệp, một “giáo lý” mà ngay cả đến dân chúng cũng nhận ra là “mới mẻ” (Mc 1:27), mới đến độ sẽ làm cho những cơ cấu xã hội và tôn giáo cũ phải nổ tung như bầu da cũ căng đầy rượu mới (x. Mt 9:17). Ðức Giêsu tuyên bố một lề luật mới (x. Ga 13: 34) và sáng lập một Giao ước mới bằng máu Ngài (x. Lc 22:20; 1Cr 11:25), Giao ước được phê chuẩn chung quyết khi Ngài sống lại và tiến vào cung thánh trên trời (x. Dt 8:1-13).

Biến cố đặc thù của “thời cuối cùng” là sự việc kẻ chết sống lại; và biến cố ấy đã bắt đầu nơi Ðức Kitô. Vì thế, Ðức Kitô sống lại được ví như là “của đầu mùa,” tức như là trường hợp đầu tiên của số phận chung, “mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1Cr 15:20; x. Rm 8:29) – dù Ngài hẳn là trường hợp đặc biệt duy nhất. Do đó, không nên quan niệm Ðức Kitô phục sinh như là một trường hợp cô lập, song như là một biến cố có quan hệ liên đới và hiệp thông chặt chẽ với toàn thể nhân loại.

Vương quốc hoặc vương quyền của Thiên Chúa là cục diện của thời kỳ cuối cùng; chính Ðức Giêsu đã rao giảng như vậy. Sau Phục sinh, các môn đồ ý thức ra rằng cục diện ấy đã thể hiện nơi Ðức Kitô: chính bản thân Ngài là vương quyền ấy. Do đó, có một sự đổi mới lạ lùng này là: trước kia, Ðức Giêsu rao giảng về Nước Thiên Chúa; còn bây giờ, các tông đồ rao giảng về Ðức Kitô.[xlviii] [48] Bây giờ “vương quyền” là quyền toàn năng của Ðức Kitô (x. Mt 28); với quyền năng ấy Ðức Kitô đã phái gửi các tông đồ đi khắp thế giới để làm cho muôn dân trở thành môn đồ của Ngài. Nơi Ngài, Thần Khí Thiên Chúa cư ngụ, Ngài được thần hóa, v.v..., và trong Ngài, Thiên Chúa đưa chúng ta “vào vương quốc của Thánh Tử chí ái” (x. Cl 1:13).

b) Sự Sống lại đổi mới mọi sự.[xlix] [49] Phục sinh quả là một cuộc đổi mới toàn diện, đổi mới không những Ðức Kitô mà còn tất cả các tạo vật. Cách chung, khi nói đến cái “cũ” là Tân Ước có ý hiểu theo nghĩa không mấy tốt đẹp; còn khi nói đến cái “mới” là muốn hiểu đó là kết quả của tác động Thiên Chúa, đăïc biệt là hậu quả của ảnh hưởng do mầu nhiệm Ðức Kitô trong lịch sử mang lại. Hết thảy những gì mới mẻ do cuộc phục sinh đưa đến rốt cuộc đều quy tụ về một điểm duy nhất là bản thân Ðức Giêsu. Ngài là con người mới, là Ađam mới, là trưởng tử của nhân loại mới, của tạo vật mới, v.v... (x. 1Cr 15:22t.44-49; Cl 1:15t). Ađam mới, Ðức Kitô là “người Cha muôn thuở” (Is 9:5), tổ tiên của một “chủng tộc” mới là Dân kitô. Ngài làm cho những kẻ bị chia rẽ trở nên một nhờ sự sống mới (x. Ep 2:14t), khuyến khích mọi người lột bỏ hành vi cũ (tội lỗi) để mặc lấy “nhân tính mới” ngõ hầu sống một đời sống mới trong “công chính và thánh thiện của sự thật” (Ep 4:22-24). Ðời sống đạo đức bây giờ căn cứ vào niềm vững tin này là “phàm ai ở trong Ðức Kitô đều là thọ tạo mới; cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2Cr 5:17; Gl 6:15). Con người mới này sinh ra “bởi nước và Thần Khí” (x. Ga 3:5; Tt 3:5), và dấn thân vào một tiến trình liên tục để nhờ đó “con người bên trong ngày càng đổi mới” (2Cr 4:16); bởi vì, khi làm thế là người kitô tiến dần lên, chuẩn bị cho “Trời mới và Ðất mới, nơi công lý ngự trị” (2Pt 3:13). Ðể đưa dẫn tới đích, thân xác phục sinh của Ðức Kitô đã trở nên “con đường mới và sống động” (Dt 10:19t), trực chỉ về Giêrusalem mới (x. Kh 3:12; 21:2); khi ấy, sứ mệnh của Ðức Kitô hoàn tất và Chúa Cha sẽ có thể phán: “Này đây Ta đổi mới mọi sự” (Kh 21:5).

c) Ðấng Phục sinh là con người phổ quát, là một người cho tất cả. Ngài là Trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người (x. 1Tm 2:5). Vai trò của Ngài đối với mọi người như thế chỉ hiểu được sau biến cố phục sinh, khi Ngài không còn bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Vì hằng sống, Ngài nắm giữ trong tay chìa khóa của vận mạng loài người (x. Kh 1:18), nắm giữ mọi quyền năng (x. Mt 28:18), và hằng đứng bên hữu Thiên Chúa (x. Cv 7:55) “hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta” (Dt 7:25).  Chức năng này là tác vụ tư tế; nhưng vì không còn chết nữa, nên Ngài là thượng tế duy nhất và đời đời (x. Dt 5:6; 7:17), và với lễ tế duy nhất, Ngài “xóa bỏ tội muôn người” (Dt 9:28).

Nhiệm vụ trung gian này bao gồm hết mọi người, dù họ có biết hay không biết. Vì tất cả đều do Ngài và cho Ngài mà được dựng nên, và đều tồn tại trong Ngài (x. Cl 1:15-17), cho nên tất cả đều mang nơi mình một “hiện sinh thể Kitô-tính” (Christic existential), nghĩa là mang ấn dấu của ơn cứu độ, hướng chiều về với Chúa Kitô, và nếu biết mở lòng ra đón nhận ơn Chúa – dù chỉ là một cách hàm ẩn hay mặc nhiên – thì đều được Ngài cứu rỗi.

d) Cái mới tột bậc trong chế độ mới là Thánh Thể. Sự việc Thiên Chúa hiện diện ở giữa dân Người như đã hứa qua lời ngôn sứ (Ed 38:26-28), bây giờ đã thành hiện thực cụ thể trong “bí tích đức tin.” Có được hoàn tất với biến cố Phục sinh, thì mầu nhiệm Nhập thể mới thực sự thể hiện được sự hiện diện cụ thể ấy. Bữa tiệc Thánh Thể chuẩn bị cho bữa tiệc cánh chung (x. Mt 26:29), không chỉ bằng cách bổ sức sự sống siêu nhiên, là mầm giống của đời sống vĩnh cửu, mà còn qua việc nuôi dưỡng niềm hy vọng của dân kitô “cho tới khi Chúa lại đến.” Thân thể phục sinh làm cho Ðức Kitô có khả năng đạt tới mọi nơi, phục vụ mọi anh em. Rước Thánh Thể là hiệp thông với con người phổ quát ấy, khiến chúng ta vượt ra ngoài giới hạn của thân phận cá nhân riêng lẻ để trở thành một thân mình phổ quát, là Hội thánh.

Cử hành Thánh Lễ là thể hiện một biến cố cánh chung: Thần linh hiệp nhất với tạo vật, vật chất (bánh, rượu) được đổi thành thân mình Ðấng Phục sinh, trong mầu nhiệm biến đổi bản thể kỳ diệu (transubstantiation). Qua nghi thức Thánh Thể, mầu nhiệm Phục sinh lại tái hiện giữa cộng đoàn, trong khi chờ ngày hoàn tất hồi Quang lâm. Trong Thánh Lễ, Dân Chúa tuyên xưng lòng cậy trông, cậy trông không chỉ cho các tín hữu mà còn cho cả muôn vật (x. Rm 8:19tt). Trên bàn thánh, Ðức Kitô chia sẻ bánh ăn và chính thân mình mình, mời anh chị em cùng chia sẻ với nhau, khiến cộng đoàn Thánh Thể trở thành một cộng đồng thật sự huynh đệ (x. 1Cr 11:17tt). Cộng đoàn mới này tượng trưng cho xã hội mới theo dự án của Thiên Chúa.

e) Sự sống lại cho thấy rõ thân xác loài người quả đã được cứu chuộc. Bây giờ, hy vọng mới bừng lên cho thể xác: nó không đơn thuần là một thứ ấu trùng có thể bị bỏ xó sau khi sinh nở sự sống mới, nhưng là một thành phần của bản vị được cứu rỗi. Bởi nơi Ðức Kitô, thể xác đã được thần hóa; trong Ngài, mọi thể xác đều được kêu gọi để trở nên giống như thế. Hơn nữa, “thể xác thần thiêng” của Ðức Kitô (x. 1Cr 15:44) hiện đang đổi mới thân xác của các chi thể Ngài, đặc biệt là qua Thánh Thể (1Cr 6:15-20). Chính vì thế, thánh Inhaxiô Antiôkia gọi Thánh Thể là “thuốc trường sinh.”[l] [50]

Nhiều nền văn hóa đã tỏ ra thái độ khinh bỉ đối với xác thể; nhờ Ðức Giêsu phục sinh, chúng ta mới nhận ra rõ giá trị quý báu của thân xác.[li] [51] Trong truyền thống kitô, xác thể được quý trọng không những vì niềm hy vọng sống lại đối với xác thể, mà nhất là vì nó được kết liên với Ðấng Phục sinh, như là chi thể của Nhiệm thể. Ngoài ra, Thần Khí của Chúa cũng đang linh hoạt hóa các tín hữu đến độ thể xác trở thành đền Chúa Thánh Thần (x. 1Cr 3:16.17; 6:9, v.v...). Do đó, tội lỗi phạm đến thể xác là phạm đến Ðấng Phục sinh và Thần Khí Ngài (x. 1Cr 6:15-19; Rm 8:5-13). Tự nó, xác thể vẫn hướng chiều theo đàng xấu (x. Rm 7:21-25), nhưng nhờ ơn của Ðấng Phục sinh, xác thể không còn gây trở ngại, song đã trở thành khí cụ phục vụ vinh quang Thiên Chúa (x. Rm 6:12-14; 1Cr 6:20; Pl 1:20), cả về phương diện sinh lý, bởi xác thể là mầm giống của một tương lai phục sinh: như  phẩm chất của hạt giống tiên định phẩm chất của cây và trái, thì cũng thế, mức độ “kitô hóa” của sinh hoạt thể xác sẽ ảnh huởng sâu đậm đến mức vinh quang cánh chung.

f) Chiều kích vũ trụ của sự sống lại.– Thực vậy, sự việc Ðức Kitô sống lại có quan hệ chặt chẽ với muôn loài muôn vật trong vũ trụ. Mt 28:2 làm chứng cho điều đó khi trình thuật về cuộc động đất và các ngôi mộ mở ra lúc Ðức Giêsu trút hơi thở cuối cùng trên thập giá: thiên nhiên làm như “cảm thấy” có một nhân tố mới đã thâm nhập vào phạm vi của mình. Nhân tố này chi phối hướng đi của cuộc biến hóa, mà bây giờ mới được “biết” là có mục tiêu và được hoàn tất trong Ðức Kitô. Bây giờ mọi sự đều mong ngóng ngày Quang lâm, như thể đã tìm thấy được một cứu cánh tính mới. Vũ trụ sẽ chắc chắn đạt tới mục đích ấy; hiện nay giai đoạn chuẩn bị đã bắt đầu với nhiệm vụ của chúng ta là cải thiện mọi sự (làm cho cơ cấu xã hội ra công bằng, các cá nhân nên công chính, hoàn cảnh thành tốt đẹp hơn, v.v... (x. ASMD 48). Nơi Ðức Kitô phục sinh, những yếu tố của vũ trụ đã được vinh hóa: vật chất, tinh thần, mạng sống và lịch sử loài người. Khi nhập thể, Ngôi Hai đã chấp nhận sống liên đới với mọi tạo vật; khi sống lại, Ngài đã đón nhận quyền toàn năng trên vũ trụ đúng như Kinh Thánh muốn nói lên qua tước hiệu “Chúa” (x. Pl 2:10-11). Ðể cho thấy Ngài làm Chúa của vũ trụ, Kinh Thánh đã giới thiệu Ðức Kitô như là Ðầu (Thủ lĩnh) của mọi sự trên trời dưới đất (x. Ep 1:10), như là nguyên lý và cùng đích của muôn loài muôn vật (x. Cl 1:15-17), và như là trung gian sáng tạo (x. Ga 1:1t, Dt 1:2). Ngài là uyên nguyên của mọi năng lượng hoạt động trong vũ trụ (x. Ep 1:20-22), làm cho mọi sự tràn đầy với sức năng hiện diện cứu độ của Thiên Chúa (x. Ep 4:10; Cl 1:19). Thế nên, bao lâu mục đích ấy chưa đạt được, thì muôn vật vẫn làm như còn “bất toàn,” còn đang “rên siết và quằn quại như sắp sinh nở, những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái Người” (Rm 8:19-22).

***

Phụ Lục II: Thăng Thiên

Mầu nhiệm “lên trời” được tuyên xưng cùng với mầu nhiệm “ngự bên hữu Ðức Chúa Cha” ở trong Kinh Tin kính; thật ra, cả hai chỉ là một. Hình ảnh “lên trời” là một ẩn dụ được dùng để nói lên một số những kết quả của biến cố phục sinh.[lii] [52] Tân Ước dùng nhiều thành ngữ để diễn đạt sự kiện này: “được nâng lên” (Ga 12:13.34; Cv 2:33; Pl 2:9), “được vinh quang hóa” (Ga 7:39; 17:1), “đi vào trong vinh quang của Ngài” (Lc 24:26), “đi lên với Cha” (Ga 20:17), “được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 19:19), “băng qua các tầng trời” (Dt 4:14), v.v... Khi nói về “40 ngày” (Cv 1:3) là Luca có ý ám chỉ đến khoảng thời gian dài đủ để hoàn tất nhiệm vụ, như trong trường hợp của Môsê và Êlia: các cuộc hiện ra đã kết thúc, thời đại của Giáo hội bắt đầu. Như Môsê phải từ trần để Giôsuê nhận được thần khí (x. Ðnl 34:9), như Êlia phải lên trời để Êlisha được thông phần vào thần khí thầy mình, nếu nhìn thấy thầy lên trời (x. 2V 2:9-13), thì cũng thế, Ðức Giêsu phải ra đi (x. Ga 16:7) và các môn đồ ‘phải’ nhìn thấy Ngài tiến vào trong đám mây (x. Cv 1:9-10) – làm biểu trưng – để nhận được Thần Khí của Ngài. Hơn nữa, trong trình thuật về sự việc “lên trời,” tựa như trên núi Tabo (x. Lc 9:30) và bên cạnh ngôi mộ trống (x. Lc 24:4), Luca đã kể về sự có mặt của “hai người” (Cv 1:10), chắc hẳn là để làm chứng cho lời hứa: Ðức Kitô đã ra đi khuất vắng, nhưng lời Ngài vẫn mãi kiên trung tồn tại.

Giáo hội không ngừng tuyên xưng đức tin vào mầu nhiệm này trong Kinh tin kính (x. DS 11, 30, 72, 150, v.v...), và từ thế kỷ 4, phụng vụ kitô đã dành một ngày lễ để mừng kính. Các Giáo phụ giải thích về Thăng thiên theo nhiều cách khác nhau: hoặc như là buổi hoàn tất của mầu nhiệm nhập thể,[liii] [53] hoặc như là sự việc phẩm giá loài người đã đạt đến tột đỉnh,[liv] [54] hoặc để chống lại ngộ giáo: xác thể loài người được hưởng vinh quang bên cạnh Thiên Chúa![lv] [55]

Còn thần học cận đại thì nêu bật những khía cạnh sau đây: 1) “Lên trời” không mang ý nghĩa không gian, như thể “trời” phải ở trên cao, song là ý nghĩa thần học. 2) “Lên trời” chỉ về sự thay đổi của thân phận Ðức Kitô, trải qua từ tình trạng hèn mọn – “theo xác thịt”: katà sárka – “ở dưới đây,” bước sang tình trạng hiển vinh – “theo Thần Khí”: katà pneũma – “ở trên kia.” Nói cách khác, Ðức Kitô tham dự vào đời sống của Thiên Chúa. 3) “Lên trời” không có nghĩa Ðức Kitô tách xa khỏi Giáo hội và lịch sử loài người, nhưng bây giờ Ngài chỉ có mặt cách vô hình qua Thần Khí Ngài ban, và không còn bị cầm cố tại một chỗ. 4) Ðối với các tín hữu, tín điều soi sáng cho thấy rõ giá trị của thân xác và càng làm cho kiên vững niềm hy vọng sẽ được cứu rỗi toàn diện; đối với chỗ đứng của vũ trụ trong kế hoạch của Thiên Chúa, tín điều giúp cho xác tín thêm rằng “các tầng trời” là ngai của Ðức Kitô, và thiên nhiên có vai trò chỉ cho con người đường lên cùng Chúa; đối với Giáo hội, tín điều mang lại một đảm bảo mới cho lời cầu “nhờ Ðức Giêsu Kitô,” bởi cho biết rõ rằng Ðầu của Hội Thánh đang ngự bên hữu Thiên Chúa và đang cầu bầu cho thân mình của mình.

Ðức Kitô là Chúa tể càn khôn (x. Ep 1:20-23): Ngài đã rộng mở biên giới quê hương Ngài cho chúng ta; và bây giờ chúng ta biết rõ mục đích phải nhắm tới trong cuộc đời là “cố gắng tiến vào chốn yên nghỉ ấy” (Dt 4:10-11; x. Pl 3:20). Thời đại của Giáo hội là thời gian chu toàn sứ mạng đối với lệnh truyền trọng đại của Thầy mình cho tới khi Ngài trở lại, vì “Ðấng vừa lìa bỏ [cõi thế này] và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như quý vị đã thấy Người lên trời” (Cv 1:11).

Phụ Lục III: Quang Lâm

Như vừa thấy trên đây, liên hệ với các mầu nhiệm Phục sinh và Thăng thiên là mầu nhiệm Quang lâm. Danh từ Hy lạp parousía có nghĩa là “có mặt,” hay “việc đến,” như được dùng đến chẳng hạn trong 1Cr 16:17, Pl 1:26, v.v... Nhưng đặc biệt từ này ngầm chỉ tới cuộc ngự đến của Ðức Kitô vào hồi thế mạt.[lvi] [56] Tuy đó là chủ đề thuộc Cánh chung học, nhưng, cũng xin được nêu lên đây một vài điểm xét thấy hữu ích.

Chủ đề này được Cựu Ước miêu tả qua hình ảnh “ngày của Ðức Chúa,” tức của Giavê (thí dụ: Am 4:18; Xp 1:14; Is 2:12-22); và một cách tương tự, cũng được Tân Ước giới thiệu như là “ngày của Chúa,” tức của Ðức Kitô (x. 1Tx 5:2), hoặc đơn thuần như là “Ngày” (1Cr 3:13). Biến cố ấy được gọi là Quang lâm (parousía)  như đọc thấy trong 1Tx 2:19; 1Cr 15:23, v.v..., hoặc là Xuất hiện (epipháneia) như đọc thấy trong 1Tm 6:14, Tt 2:13, v.v... Ý nghĩa là: niềm tin, hay đúng hơn, niềm trông chờ của dân kitô ước mong “Chúa lại đến.” Thế hệ kitô đầu tiên hy vọng là Chúa sẽ sớm trở lại (x. 1Tx 4:14; Kh 22:20), dù Ðức Giêsu không nói rõ về ngày tháng (x. Mt 24:36).[lvii] [57] Và bởi “ngày” chờ mong xem ra ngày càng xa, nên nhiều người đã không còn nuôi hy vọng như thế. Do vậy, Thư thứ hai của thánh Phêrô đã phải lên tiếng giải thích: qua thời gian kéo dài, Chúa ban cho mọi người cơ hội để cải thiện (x. 2Pr 3:8).

Giáo hội tuyên tín: “Ngài sẽ trở lại trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết,” và cử hành Thánh Lễ “cho tới khi Chúa lại đến.” Niềm tin là “Tin Mừng” khiến dân Chúa ngong ngóng trông chờ ngày ấy và cầu xin: Maranatha! “Xin Chúa hãy đến!” “Xin cho Nước Cha trị đến,” v.v... Trong Kinh Thánh cũng như trong truyền thống của Giáo hội, có một số dấu hiệu báo trước, thường được coi như để cho thấy ngày ấy đã gần kề; thí dụ: trước khi Chúa trở lại, Phúc âm phải được rao giảng trong khắp thế giới (x. Mt 24:14; Mc 13:10), dân Do thái sẽ trở lại (x. Rm 11:25tt), nhiều tín hữu sẽ chối bỏ đức tin và tên Phản Kitô sẽ xuất hiện (x. 2Tx 2:8-11), nhiều thiên tai và nhiều cuộc bách hại sẽ xảy ra (x. Mt 24:29). Bởi được miêu tả theo văn thể khải huyền, những dấu hiệu này không ngầm chỉ về một thời gian cụ thể, nhưng chỉ nhắc đến những biến cố thường xảy ra trong lịch sử, khiến Giáo hội cảm thấy cần phải thường xuyên chuẩn bị để đón Chúa, và nêu cao chân lý này là giữa những khó khăn của cuộc đời trần ai, hy vọng vẫn bừng sáng. Thiên Chúa đã toàn thắng, nhưng trong gian đoạn chờ mong Ðức Kitô lại đến, tội lỗi vẫn còn tràn lan, hoành hành trong lòng con người, giữa cuộc sống xã hội: có đức tin, nhưng cũng có vô tín, vô thần; thiện ác đang quyết liệt tranh chấp lương tâm con người cho tới cùng. Quang lâm sẽ kết thúc lịch sử, hoàn tất sứ mạng của Ðức Kitô, “và đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Ðức Kitô” (Ep 1:10). “Lúc muôn loài đã quy phục Ðức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Ðấng bắt muôn loài phải quy phục Người, và như vậy Thiên Chúa sẽ là tất cả trong tất cả” (1Cr 15:28). Vậy, Quang lâm là chiều kích còn ẩn giấu của mầu nhiệm Phục sinh, là đối tượng hy vọng của Kitô giáo.

***

10. SUY TƯ KẾT LUẬN

Như đã nói, sự sống lại của Ðức Kitô là tín điều sống còn của Kitô giáo, bởi Kitô giáo có đứng vững hay không là do tại chân lý ấy. Là mầu nhiệm của Thiên Chúa chủ động và thụ động. Là thành quả cuối cùng của công cuộc Nhập thể.

Xét từ phía Thiên Chúa, sự việc Ðức Kitô sống lại là điều tất thiết, do tự bản chất của tình trạng ngôi hiệp: vì hằng sống, Thiên Chúa tất phải bất tử trong mọi cảnh huống hoặc thể trạng của Người. Tuyệt đối không thể có chuyện Ngôi Lời nhập thể phải “hư đi” một phần nào đó trong bản chất của mình. Xét từ phía Ðức Giêsu, sự việc sống lại là điều tất đáng do bởi công đức Ngài lập qua thái độ tùng phục và hành động thực thi thánh ý Chúa Cha cho đến chết trên thập giá (x. Pl 2:9). Quả, biến cố phục sinh là một sự kiện lịch sử – ít ra là có quan hệ với lịch sử – do đó, ơn cứu độ của Thiên Chúa không phải là chuyện ảo tưởng, nhưng là một thực tại cụ thể. Bởi nếu Ðức Giêsu Nadarét đã không sống lại thì biến cố Ðức Kitô chỉ là thần thoại, và Kitô giáo chỉ là một trò lừa bịp. Xét từ phía loài người, sự sống lại là khả năng tột bực của nhân tính, mà duy chỉ Thiên Chúa mới có thể trao ban cho được; trong ý nghĩa đó, thần học gọi khả năng ấy là “thiên phục siêu năng” (potentia obedientialis). Qua phân tích tiên nghiệm (K. Rahner), trí lực loài người có thể phần nào suy đoán ra được khả thể tính của khả năng ấy; chẳng hạn như là qua việc phân tích một số nhân tố có tính cách ‘siêu thăng’ trong bản chất con người, như: ước vọng được trường tồn bất diệt, khát mong được thỏa mãn trong mọi sự, sức năng tinh thần khả dĩ đạt tới ý niệm vô biên, hoặc ý niệm ‘phi vật chất vô tận,’ v.v... Thiên Chúa đã ban chính mình cho con người qua việc nhập thể vào trong lịch sử, và hằng tiếp tục chia sẻ chính thân mình mình cho con người, nên con người có cơ sở để hy vọng là sẽ còn có một sự chia sẻ đến tột đỉnh nữa, dù trí óc loài người không thể mường tượng ra được đó sẽ là gì và sẽ như thế nào.

Sự sống lại của Ðức Kitô là nguyên nhân sự sống lại của loài người. Ðã đành là nguyên nhân mô phạm; tuy nhiên, nhiều nhà thần học còn cho rằng đó cũng là nguyên nhân dụng cụ, và để minh họa thì họ đã dùng thí dụ loại suy về tác dụng của chất xúc tác. Ðời sống ơn thánh sủng là hệ quả đầu tiên của nguyên nhân tính ấy.

Lúc Ðức Giêsu sống lại là lúc thiên đàng được tạo dựng. Dĩ nhiên đó là nói theo kiểu loài người. “Trước” kia chỉ có “lòng Abraham,” chưa hẳn là ơn cứu độ kitô. Ðức Kitô phục sinh là “nơi ở” cho toàn bộ Nhiệm thể. Ðược cứu rỗi là được gia nhập vào “Ðức Kitô trọn vẹn” (Christus totus, theo cách diễn đạt của thánh Âugutinô); vì thế, thần học mới dám quyết đoán Ðức Kitô là con người đầu tiên – thậm chí là con người duy nhất – được cứu rỗi; bởi tất cả những ai khác được cứu rỗi thì đều là chi thể của Ngài. Ân sủng là sự việc Thiên Chúa thông ban chính mình cho một tạo vật, và ân sủng cao siêu nhất là Ngôi hiệp: ân sủng này đã đạt tới tột đỉnh trong sự sống lại. Thần học còn nghĩ thêm rằng mọi ân sủng khác đều là những khía cạnh của Ngôi hiệp hoặc là việc được tham dự vào ơn ấy. Bởi vậy, những ai được cứu rỗi là được cứu rỗi như là “phần tử” trong Thân thể duy nhất của Ðức Kitô phục sinh.

Cuối cùng, là đối tượng của đức tin, sự sống lại còn là và hơn nữa là đối tượng của niềm hy vọng. Thánh Phêrô khuyên các kitô hữu hăng hái loan truyền và minh giải về niềm hy vọng này (x. 1Pr 1:3t; 3:15). Ðừng nên để những nghi hoặc làm cho hoang mang bối rối trước sự việc Ðức Kitô sống lại đến độ – như nhiều kitô hữu ngày trước (x. 2Tm 2:18) – quên mất đi chúng ta cũng sẽ được sống lại trong tương lai. Thật vậy, cuộc Ðức Kitô sống lại là một thách đố lớn đối với mọi người, cách riêng là đối với người kitô: bạn dám hy vọng cái gì? [lviii][58]


 
[ci][43] Xin xem đặc biệt Jansen, J. F., The Resurrection of Jesus Christ in New Testament Theology, Philadelphia: Westminster  1980; O’Collins, G., Jesus Risen, N.Y.: Paulist 1987.
[cii][44]   Có giả thuyết, cho rằng một nhóm chủ trương dựa vào giáo lý của tông đồ Tôma để không tin thể xác sống lại, và Gioan thử thuyết phục họ; xem Rileu, G. J., Resurrection reconsidered: Thomas and John in Controversy, Minneapolis: Fortress 1995.
[ciii][45] Xin xem Kaiser, H., Die Bedeutung des leiblichen Daseins in der paulinischen Eschatologie, Heidelberg 1974.
[civ][46] Xin xem Robinson, J. A. T., The Body, SCM Press 1952; Bruaire, C., Philosophie du corps, Paris 1968; về quan niệm liên quan đến thể xác trong các tôn giáo, xin xem mục “Body” trong Hastings, J., Encyclopaedia of Religion and Ethics, 1926 (in lại năm 1999), vol. II, tt. 755-774.
[cv][47] Lorenzen, T., Resurrection and Discipleship, N.Y.: Orbis Books 1995.
[cvi][48]   Ed. Schillebeecks viết: “Chính bản thân Ðức Giêsu Kitô là vương quyền [của Thiên Chúa]. Vì thế, dù, không ý thức, Ðức Giêsu đã không giảng về chính mình, song về vương quyền và lãnh quyền của Thiên Chúa, thì thật ra, Ngài cũng đã tuyên báo về‘chính mình’: Vị đã được tiên báo là chính Ðấng được tuyên báo bây giờ” trong Jesus, N.Y. Crossroad Book 1979, tr. 543.
[cvii][49] Xin xem mục “New” trong Brown, C., The New Intern. Dict. of N.T. Theology, tt. 669-676.
[cviii][50] Epist. Ad Ephesios 20.2; PG 5.661.
[cix][51] Xin xem Gioan Phaolô II, Teologia del corpo, Roma 1982.
[cx][52] Benoỵt, P., “L’Ascension,” trong Rev. Bibl. 56 (1949) 161-203; Davies, J. G., He Ascended into Heaven. A Study in the History of Doctrine, New York 1958; Dupont, J., Études sur les Actes des Apôtres, 1967; Wilson, S. G., “The Ascension. A Critique and an Interpretation,” Zeitsch. neutest. Wisch. 59 (1968) 269-281; Fitzmeyer, J. A:, “The Ascension of Christ and Pentecost,” Theol. Stud. 45 (1984) 409-440. Xin xem Sách Giáo Lý Công Giáo, số 659-664.
[cxi][53] Hilariô thành Poitiers, De Trinitate, 11.
[cxii][54] Lêô Cả, Sermones de Ascensione, 73tt.
[cxiii][55] Irênêô, Adversus Haereses I.10.1.
[cxiv][56] Xin xem Cullmann, O., Le retour du Christ, espérance de l’Église selon le N.T., Neuchâtel 1948; Moore, A. L., The Parousia in the New Testament, Leiden 1966; Perrot, C., La Venue du Seigneur. Le Retour du Christ, Bruxelles 1983; Bordoni. M.,- Ciola, N., Gesù nostra speranza. Saggio di escatologia, Bologna 1988. Kasper, W., “Hope in the final coming of Jesus Christ in glory”, Communio 12 (1985) 368-384; Holleman, J.,  Resurrection and Parousia, Brill 1996.
[cxv][57] Xin xem Plevnik, J., Paul and the Parousia...
[cxvi][58] Xin xem Libânio, J. B., “Hope, Utopia, Resurrection,” trong Ellacuría I. và Sobrino, J., Mysterium Liberationis, N.Y. Orbis Books 1993, tt. 716-727.