Tuesday, 14 January 2020 04:18

Quan Niệm Sự Chết Theo Kitô Giáo Featured

Sinh viên Học Viện Đaminh
 
 
DẪN NHẬP

Các vấn nạn về sự chết, sau sự chết, có sự sống vĩnh hằng không? sự sống đó như thế nào?... vẫn là những thắc mắc khôn nguôi của con người. Đã là con người ai cũng thấy lo âu khi đối diện với cái chết, và cũng không ít lần suy nghĩ về sự chết.

Với đà tiến bộ của khoa học ngày nay, nhiều người đã tốn bạc tỉ đồng để chết thử, để cảm nghiệm lâm tử. Nhưng cho đến bây giờ chẳng ai biết chết thật là gì, cũng chẳng có vong linh nào hiện về để nói về sự chết cho ta ; cũng đã có không biết bao nhiêu giả thuyết về sự chết từ phía các tôn giáo, triết học. Chúng ta không thể xác quyết cách giải quyết của trường phái này đúng hơn trường phái kia vì đây thuộc về những cảm thức tâm linh, mỗi cách có những cảm nghiệm khác nhau, nhưng có điểm tích cực là các tôn giáo đều nhắm đến việc giải đáp cho con người về những khắc khoải đời sau.

Trong chiều hướng ấy, chúng ta – là những người Kitô hữu – cũng mạnh dạn trình bày quan niệm về sự chết của mình. Các vấn đề của Kitô giáo đều đặt nền tảng trên Đức Kitô : Đức Kitô là trung tâm. Vì thế, trong khuôn khổ của bài viết này, trước khi trình bày cái chết của Đức Kitô và của Kitô hữu như là hai phần chính yếu, chúng ta sẽ mở đầu với một vài cách giải quyết của triết học và tôn giáo về sự chết. Phần kế tiếp được mở ra với chiều kích mục vụ : trước vấn đề của người hấp hối, làm thế nào để chăm sóc cho họ được chu đáo.


1. Cái chết : một vấn đề của con người

Con người chinh phục và làm chủ được nhiều lĩnh vực nhưng hoàn toàn bất lực trước sự chết. Bao nhiêu con người được tạo thành mà đã phải chết để chẳng bao giờ sinh ra? Đã có bao bạn trẻ sau nhiều nỗ lực, một tương lai tươi đẹp vừa mở ra cũng là lúc cái chết đến đóng lại tất cả ước mơ, hy vọng, hoài bão? Với người lớn tuổi, điều hiển nhiên nhất là họ đang tiến gần đến sự chết. Sự chết vẫn cần mẫn làm công việc của nó bất chấp bao nỗ lực để kéo dài sự sống của con người. Sự chết đến cất đi chính sự sống của con người và xóa sạch mọi điểm tựa của họ.

Bao lâu còn sống, chưa ai nghiệm biết cái chết là gì, nhưng ai nấy đều biết mình sẽ chết. Đó là số phận của mọi người, bất luận họ là ai. Cái chết rất phổ biến, phổ biến hơn cả sự sống, vì có nhiều người đã được tạo thành mà không được sinh ra, trong khi mọi người đều phải chết. Tuy phổ biến là thế, nhưng trước cái chết, con người vẫn không dễ dàng chấp nhận như một việc vẫn thường xảy ra hay đương nhiên sẽ xảy ra. Dù cuộc sống hiện tại có gian nan vất vả, chẳng được như ý, thì con người vẫn cố bám víu vào đó không nỡ rời xa. Dù có mang bệnh nan y, cơ hội chữa khỏi thật mong manh, lại thêm tốn kém và đau đớn, thái độ của con người hầu hết vẫn là “còn nước còn tát”. Trước cái chết, một vấn nạn nan giải đeo đẳng, ám ảnh tân trí con người : cái gì sẽ tiếp theo sau cuộc sống trần gian này? Đó là vực thẳm hay hư vô; là nơi cực lạc hay đau khổ trầm luân hoặc là cái gì khác nữa? Cái chết vẫn luôn bí ẩn mà con người thì chẳng thể lẩn tránh nó. Con người muốn được sống, sống mãi nhưng cuối cùng cái chết đến chấm dứt mọi ước vọng của con người. Triết học và tôn giáo trong chừng mực mình cũng cố gắng giải thích vấn nạn này.


2. Cách giải quyết

a. Triết học

Mỗi trường phái triết học nhìn cái chết một cách khác nhau do đó có những lý giải khác nhau. Ta có thể xếp cách lý giải của triết học về sự chết thành hai nhóm : tin có sự sống sau cái chết và phủ nhận sự sống đó.

- Không tin có sự sống sau cái chết

Epicure (341-270 tcn), một triết gia duy khoái đã mở đầu cho khuynh hướng này. Để giải thoát con người khỏi mọi sợ hãi, nhất là sợ chết, cho họ có một cuộc sống thanh thản, bình an, ông đã chủ trương : “chết chẳng là gì cả”. Ông viết : Ta không phải sợ chết, “nó chẳng là gì đối với ta cả, vì bao lâu ta sống thì nó chưa có, và khi nó có mặt, ta lại không còn tồn tại nữa”. Ông còn cho viết thêm : linh hồn chỉ là vật chất tinh vi mà thôi và sẽ rã tan khi ta chết, vậy nó đâu còn để chịu nỗi đau khổ của cái chết nữa.

Phái Khắc Kỷ, đặc biệt là Senèque và Epitète, lại có một lý luận khác để chiến thắng nỗi sợ chết. Họ coi sự chết là một tất yếu của thiên nhiên. Con người là một phần của thiên nhiên. Thiên nhiên có lý tính và con người tham dự vào lý tính ấy. Với cái chết, cá nhân sẽ tan biến, nhưng thiên nhiên là cái toàn thể vẫn tồn tại. Vì thế ta hãy chấp nhận cái chết như một “tất yếu theo định luật thiên nhiên”.

Gần đây hơn, những triết gia hiện sinh khi suy tư về thân phận con người, cũng đưa ra những lý giải về sự chết.

Albert Camus (1913-1960) cho rằng cuộc đời là vô nghĩa và phi lý vì chẳng đi đến đâu. Cuộc sống con người đầy mâu thuẫn và mâu thuẫn ngay cả trong chính bản thân mình. Cuộc sống vô nghĩa như thế, thì chỉ có tự tử là điều hợp lý và đúng đắn nhất. Nhưng trong thực tế Camus lại không giải quyết theo cách đó mà chủ trương phải sống, phải chiến đấu, phải ra sức mang lại một chút ý nghĩa, một chút ánh sáng cho cái thế giới vô nghĩa này. Thái độ của ông trước cái chết tuy anh hùng nhưng vẫn là tuyệt vọng.

Heidegger và J.P Sartre lại cho rằng: con người hiện sinh phải sống trong ý thức về sự chết, chính ý thức này làm cho cuộc sống mang tính chân thực và thêm khẩn trương. Thái độ này thật sáng suốt nhưng cũng vẫn là vô vọng.

Không tin vào sự sống sau khi chết, thì cho dù sự chết có được “bình thường hóa” đến đâu thì đó vẫn là một cái gì bi đát, bế tắc. Thế còn các triết gia tin vào sự sống sau cái chết giải quyết vấn đề này thế nào ?

- Tin có sự sống sau cái chết

Mở đầu cho khuynh hướng này ta có thể nhắc tới Socrate. Khi phải uống thuốc độc kết liễu cuộc đời mình, ông vẫn bình thản; bởi ông coi việc đón nhận cái chết chỉ như một cuộc mạo hiểm đẹp. Ông cho rằng cái chết không có gì đáng sợ vì linh hồn con người là bạn của các thực tại thường hằng, bất biến, siêu việt. Với ông, chết là linh hồn con người được trở về với thế giới vĩnh cửu, chân thật, nơi nó đã phát xuất ra.

Platon, đồ đệ của Socrate, trong vấn đề này, còn đi xa hơn cả thầy mình. Với ông chỉ có một thế giới đích thực là thế giới linh tượng. Thân xác chỉ là tù ngục giam hãm linh hồn. Chết là một sự giải thoát, linh hồn con người sẽ trở về với thế giới thực của mình, thế giới linh tượng.

Với các nhà hiện sinh vô thần thì cuộc đời con người là phi lý, bế tắc; còn với các nhà hiện sinh Kitô giáo cuộc đời cũng không sáng sủa gì mấy. Cuộc sống con người là một chuỗi đau khổ và cuối cùng là cái chết. Trong cuộc hiện sinh này, con người khát khao sống, sống mãi, sống dồi dào nhưng sự chết luôn luôn thắng cuộc. Các nhà hiện sinh Kitô giáo không chối bỏ tính bi đát của cái chết. Với họ, đau khổ và sự chết vẫn là dấu chỉ về sự bất toàn tận căn. Nhưng vì tin vào sự sống đời sau nên họ có cái nhìn về sự chết tích cực hơn. Con người không tự ban cho mình sự sống và con người cũng không thể tự mình mà sống mãi nên sự chết có tác dụng thúc đẩy con người vươn lên đón nhận sung mãn từ một Hữu Thể Siêu Việt Vô Biên.

Triết học đã cố gắng chiếu rọi chút ánh sáng vào bí ẩn sự chết nhưng nó vẫn chưa thỏa mãn được tâm trí con người. Tới đây triết học dừng lại chờ đón câu trả lời của tôn giáo.


b. Tôn giáo

Từ trong thâm sâu con người khao khát được sống mãi, được giải thoát, vươn lên được với Đấng Vô Biên. Tôn giáo đã cố gắng thỏa mãn những khát vọng thâm sâu đó của con người. Để cụ thể ta tìm hiểu cách giải quyết của Ấn giáo và Phật giáo là hai tôn giáo lớn và phổ biến.

Ấn Giáo và Phật giáo : Phật giáo phát sinh trong môi trường Ấn giáo nên phần nào chịu ảnh hưởng của Ấn giáo. Hai tôn giáo lớn này có những quan niệm chung và một vài điểm tương đồng như thuyết luân hồi và niết bàn.

Thuyết luân hồi : thuyết luân hồi minh chứng phần nào cho ước mơ của con người muốn tiếp tục sống nơi thế giới bên kia.

Thuyết luân hồi quả quyết có cuộc sống mới sau khi chết, bởi sự đầu thai vào cơ thể khác của kiếp sống kế tiếp. Nhưng cái gì được đầu thai, được luân chuyển qua các kiếp thì quan niệm của Ấn giáo và Phật giáo lại khác nhau.

 Ấn giáo quan niệm về tạo dựng theo thuyết lưu xuất. Theo thuyết đó thì linh hồn cá nhân của con người gọi là Atman (tiểu ngã) đã lưu xuất từ Brahman (đại ngã), là nguyên lý của mọi sự. Khi con người chết, thân xác này sẽ dần bị tiêu tan; còn Atman, hồn cá nhân sẽ được lưu chuyển để đầu thai vào một cơ thể khác.Và quá trình cứ thế tiếp diễn từ kiếp này qua kiếp khác cho tới khi Atman đồng hóa được với Brahman là con người đã đến đích, được giải thoát, chấm dứt vòng luân hồi.

Theo Phật giáo, con người là tập hợp của ngũ uẩn (sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn và thức uẩn). Khi con người chết thì chết thân sắc uẩn mà thôi; bốn uẩn còn lại thu gọn trong thức uẩn, tạo thành nghiệp lực chuyển sinh. Nghiệp thức này khi hợp với danh sắc mới thì tạo thành thân mới. Và vòng luân hồi cứ thế tiếp diễn cho tới khi con người thực hiện được vô ngã tức là tiễu trừ được hoàn toàn ái dục, được giải thoát.

Với quan niệm luân hồi, thân xác chỉ là cái gì tạm bợ, không hơn gì một nơi tạm trú. Thân xác sau khi chết sẽ bị hủy diệt mãi mãi. Dường như không được công bằng cho lắm khi gán cho thân xác một vai trò tùy phụ như thế! Khi sống thì cả con người hoạt động còn khi nhận thành quả thì chỉ có một phần của con người. Cách giải quyết như thế cũng thiếu đi tính trọn vẹn vì chỉ có một phần của con người được sống trong khi ước vọng của con người là được sống mãi, sống dồi dào.

Ấn giáo và Phật giáo với quan niệm luân hồi đã gián tiếp phủ nhận hình phạt đời đời. Con người cứ đầu thai kiếp này sang kiếp khác rồi cũng tới lúc được giải thoát. Giải thoát như thế là một tiến trình tự nhiên, con người hữu hạn chẳng cần đến sự trợ giúp bên ngoài của một “Đấng vô biên” nào cả. Mỗi người đến một lúc nào đó sẽ tự giải thoát mình.


3. Quan niệm cái chết theo Kitô giáo

Người kitô hữu luôn sống trong ý thức : mình sẽ chết. Họ không coi sự chết là một cái gì bình thường. Với họ sự chết vẫn như một rạn vỡ, một bất toàn và trở nên như một định mệnh con người phải lãnh lấy. Bởi vì Thiên Chúa đã không tạo ra sự chết, cũng không vui mừng khi thấy sinh vật chết đi. Người đã tạo dựng để chúng tồn tại (x.St 1,13-14).

Thánh Phaolô trong thư Rôma đã minh chứng cái chết như là hậu quả của tội : “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (Rm 5,12).

Chết không phải là ý định của Thiên Chúa. Con người không thể tự cứu nổi mình. Con người vẫn phải chết. Con người dường như bất lực và bế tắc trước thân phận phải chết của mình. Chính lúc này Thiên Chúa đã can thiệp vào. Ngài đã ban chính Con Một Mình cho nhân loại để ai tin và sống đời sống mới trong Con của Ngài thì sẽ được cứu.

Thật vậy, nhờ được mạc khải, người Kitô hữu tin rằng : Đức Kitô khi xuống thế đã đảo lộn tình trạng bi đát của con người. Đức Kitô, Con Thiên Chúa, đã lãnh lấy sự chết loài người và đã chiến thắng sự chết bằng sự phục sinh. Đức Kitô đã đem lại một hy vọng mới cho con người : ngang qua sự chết, nhờ Đức Kitô, họ cũng sẽ được phục sinh để vĩnh viễn gặp gỡ Thiên Chúa.

Đối với đức tin Kitô giáo, sự chết là một thất bại nhưng cũng là một sự chiến thắng, một đổ vỡ nhưng cũng là một sự viên mãn; sự chết chấm dứt đời sống trần thế nhưng cũng là đường dẫn vào đời sống vĩnh cửu. Để hiểu sự chết theo quan niệm Kitô giáo rõ hơn, chúng ta hãy cùng tìm hiểu qua các đề mục : Cái chết trong Kinh thánh, cái chết của Đức Kitô, cái chết của Kitô hữu.

I. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CÁI CHẾT THEO KITÔ GIÁO

Thánh Kinh chúng ta có thể biết được về sự hiện diện của cái chết, đồng thời cũng hiểu thêm nguyên nhân đưa đến cái chết: đó là hậu quả của tội và điều mà mọi người quan tâm nhất đó số phận của những người sau khi đã lìa đời này sẽ ra sao? hay đi về đâu?

1. Nhận diện cái chết

Chết được coi như là đinh mệnh mà mọi người đều trải qua hay như là sự chấm dứt mọi hoạt động nơi trần thế này, đó cũng là cách thế để biết được rõ ràng về cái chết.

a. Cái chết

Cuộc đời của mỗi người chúng ta được tính bằng thời gian, trong thời gian đó, chúng ta sẽ thay đổi từ trẻ trung cho đến lúc già rồi chết, điều này bình thường giống như các sinh vật khác. Thế nhưng, chính cái bình thường ấy làm cho ta cần có một cái nhìn bức thiết hơn về đời sống của mình, nhớ đến cái chết, chúng ta phải nhớ đời mình mỏng dòn, chóng qua, có hạn lắm như sách giảng viên nói: “Giữa tuổi thanh xuân, bạn hãy nhớ đến Đấng đã dựng nên mình, đừng chờ đến ngày tai ương ập tới, đừng chờ năm tháng qua đi …., đừng chờ đến khi bụi đất về với đất khi phàm nhân trở lại cho Thiên Chúa, hơi thở người đã ban cho mình” (Gv 12,1.7)

b. Cái chết : một định mệnh

Mọi người sống trên trần gian này dù giàu hay nghèo, có danh vọng hay không có, tất cả đều phải chết, đó là định mệnh chung cho tất cả mọi người (1V 2,2; 2Sm 14, 14 ; Hc 8,7). Đứng trước tình hình tất định bất khả kháng ấy, làm sao con người lại không cảm thấy rằng đời sống mà mọi người mong ước chỉ là sản nghiệp mong manh và chóng qua. Nó như một cái bóng, một hơi thở, một điều hư vô, (Tv 39, 5tt, 89, 48, 90 ; Kn 2,2), đời sống chỉ là phù vân, vì mọi người dù là vua chúa (Hc 10,10), đều chỉ có một số phận cuối cùng như nhau (Gs 3 ; Tv 49,8).

2. Chết là hậu quả của tội

Huấn quyền của Hội thánh dạy rằng cái chết đã vào trần gian vì con người đã phạm tội. Mặc dù theo bản tính tự nhiên con người phải chết, nhưng Thiên Chúa đã muốn nó không phải chết (GLCG 108).

Sự chết đã đè nặng trên chúng ta như một án phạt, vì thế tự nhiên chúng ta nhìn thấy nơi đó là sự trừng phạt của tội. Cửu ước đã đưa ra một giáo thuyết nhằm nhấn mạnh ý nghĩa tôn giáo của một kinh nghiệm quá đắng cay : theo lẽ công bằng, kẻ có tội phải bị tiêu diệt (G 18,5 –21; Tv 37, 20.28, 36; 73,27), linh hồn phạm tội phải chết. Hơn nữa, sự chết còn là đồng hành tất yếu của tội lỗi (St 2,27; Kn 2, 23 t ; Rm 5, 12). Trong 2 Cr 4,4 : tội lỗi là điều gì ở bên trong con người, do con người đưa vào, nó ảnh hưởng trên toàn vũ trụ (Rm 8, 20). Tội lỗi làm chủ tất cả mọi người không trừ một ai và cùng đi với nó là sự xa cách muôn đời với Thiên Chúa, và để con người bị bán làm tôi cho tội lỗi (Rm 7,14). Con người là nô lệ của tội lỗi và cái cùng đích của tội là sự chết (Rm 6, 21), tội lỗi đã từ chối Thiên Chúa, Đấng thống trị thế giới.

Tội lỗi đem lại sự chết, và cái chết làm xa cách Thiên Chúa muôn đời dứt khoát. Cái chết thể xác không có hoạt động cứu chuộc của Thiên Chúa, cái chết thể xác này không được theo sau bởi sự sống lại vinh quang là dấu hiệu cho nền hy vọng của mọi người. Mặt khác, cái đích của tội chính là sự chết (Rm 6, 21) và lương bổng mà tội lỗi trả cho con người là cái chết (Rm 6,23.10.13). Đức Kitô đến giải thoát ta khỏi tội lỗi và làm cho chúng ta không còn là nô lệ của tội nữa. Bởi vì tội phân tách con người ra khỏi Thiên Chúa là nguồn sự sống, mà bị phân tách như vậy là chết : chết thiêng liêng và chết vĩnh viễn (Dt 6,1).

Hơn nữa, sự chết còn là hình phạt tội lỗi bởi chưa có lề luật (Rm, 5, 13), sự chết không còn là hình phạt thuần túy bên ngoài, nó còn là hậu qủa của bản chất tội lỗi, mà tội lỗi đã ngự trị do tội lỗi của Adam (Rm 5, 14). Sở dĩ tội lỗi thống trị loài người trước khi có lề luật thời ông Môsê vì loài người, dù biết hay không. Không biết cũng đã bị sống trong kỷ nguyên của sự chết (Rm 11, 32; Ga 3, 22) mở đầu trong ông Adam là đại diện và bao gồm toàn thể nhân loại tội lỗi, môït nhân loại phải đầu hàng quyền lực sự chết cho đến ngày chiến thắng của Đức Kitô.


3. Tưởng niệm người qúa cố

Trước cái chết của người thân yêu, sau lời vĩnh biệt (St 49) làm cho kẻ ở lại đau xót, tiếc nuối (Sm 19,1) họ muốn kéo dài thêm sự sống, họ muốn gặp mặt thường xuyên người thân của mình. Chính vì thế mà mọi người phải nghĩ đến cái chết, vì chính mình cũng thấy sự chết (Tv 89,49 ; Lc 2,26) sẽ nếm cái chết (Mt 19, 28 ; Ga 8, 2) đó là một điều cay đắng cho những ai chỉ biết vui hưởng của cải trần gian, nhưng lại là viễn tượng đáng khát vọng cho những người sống cơ cực (Hc 41,1 tt).

Thực vậy, khi người qúa cố không còn nữa (Tv 39, 14; 66, 7, 8) đó là cảm tưởng đầu tiên vô hữu, vì bên kia cõi chết, vượt ngoài tầm tay của người còn sống. Tuy nhiên, đối với người tín hữu sơ khai, chết không phải là hoàn toàn hủy diệt, tuy thân xác đặt trong lòng đất, nhưng là một cái gì đó của người qúa cố, một hình bóng vẫn tồn tại trong Shéol. Người ta quan niệm âm phủ rất ấu trĩ như một vực thẳm, một cái giếng sâu, một chốn cô quạnh (Tv 115,17), một nơi hư vong tối tăm, quên lãng (Tv 88, 12t; Gb, 17, 13). Tất cả người quá cố được tập trung lại ở nơi đó để cùng chịu một số phận đau khổ như nhau (Gb 3,13 –19). Sự hiện diện của họ chỉ là giấc ngủ (Tv 13, 4), họ không còn hy vọng, không còn biết Thiên Chúa, không còn kinh nghiệm về những phép lạ Ngài làm, họ không còn ca ngợi Thiên Chúa nữa (Tv 6, 6; 31, 10; 88, 12; 115, 7), cả Thiên Chúa cũng quên họ (Tv 88, 6).

Bên cạnh đó từ hồi xa xưa, con người cũng biết tôn kính người quá cố và cũng liên lạc với họ. Cựu ước còn giữ lại một số điểm chính yếu của truyền thống xa xưa, những cử chỉ tang chế diễn tả sự đau đớn của kẻ còn sống (2Sm 3, 31; Ge 16, 6), việc mai táng nghi thức, (1Sm 31, 12t) (Tb 2, 4 – 8), việc chăm sóc mồ mả đi liền với lòng hiếu gia tộc (St 23; 49, 29–52), những lễ giỗ (Ge 16, 7), cả những lễ vật dâng cúng trên phần mộ (Tb 4,17).


 4. Số phận của người chết

Sau khi lìa cõi thế này, mỗi người phải ra trước mặt Thiên Chúa để tường trình về những hành vi của mình trong thời gian sống tại trần thế, nhờ đó họ sẽ được tưởng thưởng hay bị luận phạt, đó là phán xét.

a. Phán xét chung

Phán xét chung sẽ được diễn ra ngay sau khi mọi người đã chết được sống lại, người công chính cũng như người có tội. Đó là giờ của kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng người con và sẽ ra khỏi đó, ai làm điều lành sẽ được sống lại để được thưởng, ai làm điều dữ sẽ sống lại để bị kết án (Ga 5, 28, 29). Khi Con Người vinh hiển quang lâm có toàn thể các thiên sứ theo hầu … các dân thiên hạ sẽ tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ như mục tử tách chiên với dê, chiên thì đặt bên phải, dê thì đặt bên trái … Thế thì những người làm điều ác phải đi vào chốn cực hình muôn đời muôn kiếp, còn những người công chính sẽ được lên Thiên đàng hưởng phúc trường sinh (GLCG 1038).

Phán xét chung sẽ được diễn ra khi Đức kitô quang lâm, chỉ có Chúa cha mới biết ngày giờ, chỉ một mình Ngài quyết định khi nào sự kiện này xảy ra. Người sẽ dùng Chúa Con là Chúa Giêsu để ra quyết định chung thẩm về toàn lịch sử (GLCG 1040).

Thời Amos tư tưởng phán xét như là ngày Thiên Chúa sẽ giáng phạt xuống trên dân, làm cho biến cố chờ đợi ngày của Giavê thành một viễn tượng kinh hoàng (Am 5,18tt). Israel người, vợ bất trung sẽ bị xử theo luật dành cho những vụ ngoại tình (Ez 16, 38; 23, 24), thánh vịnh nhiều lần kêu cầu đến Thiên Chúa thẩm phán xuất hiện như một lời kêu xin để giờ phán xét cuối cùng chóng đến (Tv 94, 2) và người ta đã ca hát trước về những phiên tòa trọng thể đó (Tv 75, 2; 96, 121), chắc rằng cuối cùng Thiên Chúa sẽ trả lại quyền lợi cho những người nghèo khổ của Ngài (Tv 140, 13t).

Trong Tin Mừng nhất lãm Đức Giêsu thường đề cập đến cuộc phán xét trong ngày cuối cùng. Lúc đó mọi người phải tính sổ sách (Mt 11, 20 – 24), những thành phố bên bờ hồ đã không nghe lời Đức Giêsu giảng dạy (Mt 11.20.23), thế hệ cứng lòng tin đã không hoán cải theo lời mời gọi của Ngài (Mt 12,39 –42), và cuối cùng là các thành không đón tiếp sứ giả của Ngài ( Mt 10,14t), tất cả sẽ bị xử án nghiêm nghặt. Những lời giảng dạy đầy đe dọa ấy làm nổi bật lý do cuộc phán xét của Thiên Chúa ; đó là thái độ của người ta đối với Tin Mừng.

Tin Mừng Gioan nhấn mạnh đến sự hiện đại hóa cuộc phán xét ngay trong dòng lịch sử bắt đầu từ Đức Giêsu, với tư cách là con người đã được Chúa Cha phong làm thẩm phán vào ngày sau hết (Ga 5,26.30). Nhưng cuộc phán xét đã thực hiện ngay từ giây phút Chúa Cha sai con mình xuống thế gian. Ngài không đến để xét xử, nhưng để cứu thế gian (Ga 3,17.8.15). Cuộc phán xét sẽ được thực hiện tức khắc tùy thái độ của mỗi người đối với Ngài. Ai tin sẽ không bị xét xử, ai không tin sẽ bị xét xử rồi vì đã chối từ ánh sáng (Ga 3,18t). Phán xét không phải là lời buộc tội của Thiên Chúa cho bằng là sự tỏ lộ điều thầm kín của mỗi người. Vậy cuộc phán xét chung mà các ngôn sứ loan báo được thực hiện ngay từ thời Đức Kitô, đó là một sự kiện đã rồi, vẫn tiếp tục trong hiện tại và người ta chỉ còn đợi chờ hoàn tất trong ngày sau cùng nữa thôi.


b. Phán xét riêng

Ngay sau khi lìa khỏi xác, linh hồn bất tử sẽ chịu phán xét riêng để được thưởng hay bị luận phạt đời đời, tùy theo đời sống của mình trong tương quan đối với Đức kitô. Linh hồn hoặc thân xác phải trải qua cuộc thanh luyện hoặc được hưởng hạnh phúc trên trời hoặc sa địa ngục vĩnh viễn (GLCG 1022).

Cái chết kết thúc đời sống con người, nghĩa là chấm dứt thời gian đón nhận hay chối bỏ ân sủng Thiên Chúa được biểu lộ trong Đức Kitô (2Tm 1,9 –10). Khi đề cập đến phán xét, Tân ước chủ yếu nói về cuộc gặp gỡ chung cuộc với Đức kitô trong ngày quang lâm, nhưng cũng nhiều lần khẳng định có sự thưởng phạt tức khắc sau khi chết, tùy theo công việc và đức tin của mỗi người (GLCG 1021).

Khi chết, linh hồn mỗi người được phân định rõ ràng hoặc bị sự công thẳng của Thiên Chúa kết án hoặc được tiếp nhận vào hàng các Thánh. Sự tiếp nhận này cũng do sự công thẳng của Thiên Chúa, Linh hồn nhận được vào sự sống vĩnh cửu là do lòng thương xót của Thiên Chúa. Phán xét muôn đời này mà mỗi người phải chịu được gọi là phán xét riêng.


c. Luyện ngục

Những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, để đạt sự thánh thiện cần thiết để được hưởng phúc Thiên Đàng, nơi đó người ta gọi là luyện ngục (GLCG 1030).

Luyện ngục là sự cần thiết để ta tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Muốn được kết hợp với Thiên Chúa, chúng ta phải có một tình yêu hoàn hảo của Ngài. Chẳng ai dám nghĩ rằng khi chết đi mình ở trong tình trạng hoàn hảo để hưởng hạnh phúc nhan thánh Chúa ngoại trừ Đức trinh nữ Maria, vì thế cần phải có thời gian để thanh luyện. Tuy nhiên sự thanh luyện này có một ý nghĩa tích cực. Chúng ta phải hiểu luyện ngục không phải là một đau khổ bị áp đặt, nhưng đó là một đau khổ tự nguyện. Đau khổ như thế không phải là nỗi buồn nhưng là một niềm vui. Thánh Catherine de Gêne đã viết : “chẳng có gì , trừ nước trời, sánh với niềm vui luyện ngục, bởi vì ta càng bị thiêu đốt bởi lửa mến tinh lọc, ta thấy được mình trở nên tinh tuyền và có khả năng gặp gỡ Thiên Chúa”.

Sự tinh luyện nơi luyện ngục đụng chạm đến cái sâu thẳm của hữu thể, không thể không có đau đớn. Điều quan trọng chính là rũ bỏ hoàn toàn chính mình để có thể dâng hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa. Sự rũ bỏ mình chính là đau khổ diễn ra trong hiện tại. Như thế, ngay tại đời này đã có luyện ngục rồi, nhưng được hoàn tất bên kia cái chết.


d. Hỏa ngục

Hỏa ngục chính là tình trạng con người dứt khoát tự loại trừ khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa và chư thánh (GLCG 1033).

Cựu ước gọi âm phủ, hỏa ngục là chỗ ở của những người chết, đó là Shéol, là chốn hẹn hò của mọi sinh linh (G 30,23), là nơi bóng tối âm u ngự trị (Tv 88,7 ; 33), nơi ánh sáng không khác gì đêm tối (G 10,2t). Đó là nơi mọi kẻ sống phải xuống (Is 38,8), và họ sẽ không bao giờ trở lên nữa, đồng thời không thể ca tụng Thiên Chúa (Tv 6,6), không còn mong đợi sự công chính hay lòng trung tín của Chúa.

Hỏa ngục dành cho người tội lỗi không thể là số phận của kẻ công chính, nhất là khi họ vì muốn trung thành với Thiên Chúa đã phải chịu người tội lỗi bách hại và đôi khi giết chết. Hỏa ngục không còn định chỗ ở tận đáy sâu của lòng đất nhưng là vũ trụ sổ lòng chống lại kẻ ngu dại (Kn 5,20). Câu chuyện người giàu có phải xa chốn hỏa ngục và Lazarô trong lòng Abraham cho thấy giữa họ có một vực thẳm lớn lao, không thể vượt qua (Lc 16, 23 – 26). Lửa và vực thẳm, cơn giận của trời và đất nứt ra, sự chút dữ của Thiên Chúa và sự đối nghịch của muôn vật đó là hỏa ngục.

Trong Tân ước Đức Giêsu quan tâm nhiều đến việc sự sống phải hư mất, đến việc bị phân cách với Người hơn là mô tả hỏa ngục theo môi trường Người. Các dụ ngôn người giàu xấu tính là một quả quyết minh bạch về hỏa ngục, tuy nhiên Đức Giêsu cũng nói đến hỏa ngục với những hình ảnh dữ dội nhất, khắc nghiệt nhất: khóc lóc nghiến răng trong lò lửa rực nóng (Mt 13,42), Gêhenna, nơi dò bọ không hề chết và lửa không hề tắt (Mc 9,43,48 ; Mt 5,22), nơi Thiên Chúa có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác (Mt 10, 28).

Đức Giêsu không chỉ nói về hỏa ngục như là một thực tại để đe dọa; Người còn tuyên bố rằng chính Người sẽ sai các Thiên Thần ném vào lò lửa rực nóng những kẻ làm điều ác (Mt 13,41t), và tuyên bố lời chúc dữ : “Hỡi kẻ bị nguyền rủa, hãy xa khuất mặt Ta mà vào lửa đời đời” (Mt 25,41). Chính Người đã phán: Ta không biết các ngươi (25,12), hãy ném nó ra ngoài, nơi chốn tối tăm (25,30).


e. Thiên đàng

Những kẻ chết trong ơn nghĩa Chúa và đã được thanh luyện trọn vẹn, sẽ sống mãi với Đức kitô, muôn đời họ sẽ nên giống Thiên Chúa, vì Người thế nào họ sẽ được nhìn thấy Người như vậy. Thiên đàng là cuộc sống viên mãn vì được kết hợp trong sự sống và tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Đức trinh nữ Maria, với các thiên thần và các Thánh. Thiên đàng là mục đích tối hậu, là sự hiện thực các nguyện vọng sâu sa nhất của con người, là tình trạng hạnh phúc tuyệt hảo và chung cuộc.

Thánh kinh cho biết không thể bỏ rơi người công chính dầu phải đem người ấy đi trong chốc lát ra khỏi âm phủ để thưởng công (G 19,25). Thiên Chúa cũng không thể im lặng trước tiếng kêu xin của người mong ước được kết hợp vĩnh viễn với Ngài (Tv 16,9tt), thì tại sao người công chính lại không được đem đến gần Ngài ? (Tv 49,16.73.24).

Cuộc bách hại tử đạo của Vua Antiochus Epiphane khiến nhiều người chịu tử đạo đã làm cho các tín hữu xác tín có một phần thưởng phục sinh sau khi chết (2 Mac 7 ; Đnl 12,1t). Niềm tin vào sự phục sinh bao hàm trong sách Khôn ngoan xuyên qua niềm tin vào sự bất tử (Kn 3,1 ; 4,1). Khi Thiên Chúa thăm viếng vào ngày sau hết, người công chính sẽ mãi mãi sống trong tình thân với Thiên Chúa, và đó là phần công của họ. (Kn 2,22 ; 5,15).

Trong Tân ước ta thấy người tín hữu biết rằng mình sẽ nhận được phần thưởng lương bổng cho công trình của mình (Mt 16,27 ; Mc 9, 41 ; 2 Tm 4,14) và vào ngày phán xét Đức vua sẽ ban sự sống cho mỗi người hoặc trừng phạt họ (Mt 25,46), cho họ được lên Thiên Đàng hoặc xuống hỏa ngục tùy theo việc họ làm. Chính vì vậy mà họ phải chiến đấu để đạt được phần thưởng (1h 9,24 ; Gal 5,7 ; 2 Tm 4,7). Ngoài ra kinh thánh thường dùng những hình ảnh như sự sống, ánh sáng, bình an, tiệc cưới, rượu mới trong Nước Trời, Nhà Cha, Thành Giêrusalem Thiên Quốc, điều mắt chẳng thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ đến, đó là điều Thiên Chúa dọn sẵn cho những ai yêu mến Người (1 Cr 2, 9).

II. CÁI CHẾT CỦA ĐỨC KITÔ

Khi con người người nguyên tổ phạm tội, họ tự do chối bỏ sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa ban tặng. Nhưng Thiên Chúa vẫn tỏ lòng yêu thương con người, muốn cho họ được hưởng lại sự sống vĩnh cửu từ ban đầu Ngài ban tặng, nên Ngài đã có ý định cứu chuộc họ. Tin mừng khởi nguyên (St 3,15) như là tia hy vọng cho con người khi họ đang sống trong cảnh tuyệt vọng. Tin mừng ấy được ghi dấu rõ ràng nơi cái chết và phục sinh của Đức Ki-tô. Như thế, mầu nhiệm tử nạn phục sinh của Đức Kitô là nguyên lý nền tảng cho đời sống đức tin của người Kitô hữu.

Trong những vấn đề liên quan đến cái chết của Đức Kitô, trước tiên chúng ta xác quyết chính Chúa Giêsu đã đón nhận cái chết của một con người như chúng ta, nhưng là một Thiên Chúa làm người, cái chết của Ngài có một ý nghĩa đặc biệt. Kế đến chúng ta thấy cái chết của Đức Kitô nằm trong ý định ngàn đời của Thiên Chúa để cứu độ nhân loại. Và cuối cùng, chính Đức Kitô phục sinh là dấu hiệu Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết và cho ta tham dự vào sự sống của Thiên Chúa.


1. Cái chết của con Thiên Chúa làm người

a. Thiên Chúa muốn sự chết ?

Một trong những điều người Kitô hữu thấy khó giải thích là họ tin vào Thiên Chúa quyền năng, nhân từ, yêu thương..., nhưng họ vẫn thấy những thực tại xấu xa xuất hiện trên cõi đời này. Phải chăng không có Thiên Chúa ? nếu có tại sao Ngài lại để sự chết và những điều xấu xảy đến cho con người ?... Biết bao câu hỏi được đặt ra liên quan đến vấn đề này.

Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tìm được lời giải đáp trong sách Khôn ngoan : “Chính do sự ghen tương của ma quỉ mà sự chết đã lọt vào thế gian” (Kn 2, 24). Lời giải đáp này ám chỉ đến lời kết án của Thiên Chúa đối với Adam khi ông chiều theo cám dỗ : “Ngươi sẽ phải chết” (St 2,17), và “Ngươi là tro bụi, ngươi sẽ trở về bụi tro”  (St 3,19).

Nhưng sách Khôn ngoan cũng cho ta thấy cái chết của người công chính không phải là kết quả của án phạt. Án phạt bị giáng xuống những kẻ tự mình theo ma quỉ (Kn 2,24) ; còn cái chết của người công chính, trái lại, được tràn đầy sự bất tử (Kn 3,4). Như thế, giả như con người không phạm tội, thì sự chết đã không len lỏi vào thế gian (Mv 18).

Trong chiều hướng tích cực, Kinh Thánh đã cho thấy sự chết phù hợp với tất cả ý muốn tốt lành của Đấng Tối Cao (Hc 41, 4) và nằm trong chương trình của Thiên Chúa tạo thành.

Từ đó, chúng ta hướng đến cái chết của Đức Kitô, cái chết của con Thiên Chúa làm người. Hẳn là, cái chết không do tội của Ngài, nhưng là để đền tội, để hướng mở cho con người đến một cuộc sống mới, cuộc sống của Thiên Chúa.


b. Mọi người gây ra cái chết của Đức Kitô

- Người Do Thái không phải chịu trách nhiệm tập thể về cái chết của Đức Giê-su

Trong chiều hướng của ơn cứu độ phổ quát Thiên Chúa ban cho cả nhân loại, chúng ta không thể mặc nhiên kết luận người Do thái gây ra cái chết của Đức Kitô. Chúa Giêsu và Giáo hội luôn có thái độ bao dung với những người Dothái. Mặc dù trong những bài giảng kêu gọi hoán cải sau lễ Hiện Xuống (x.Cv 2,23.36; 3,13-14), các tông đồ có trách móc cả tập thể người Do Thái đi nữa, chính Đức Giê-su trên thập giá đã tha thứ cho họ rồi (x. Lc 23,34), sau đó thánh Phê-rô cũng coi những người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem và cả các thủ lãnh của họ đã hành động vì “không biết” (Cv 3,17). Chúng ta lại càng không thể dựa trên tiếng hò hét của dân chúng : “Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi” (Mt 27,25 ; x. Cv 5,28; 18,6) mà nới rộng trách nhiệm cho những người Do thái khác mọi thời và mọi nơi (GLCG 597).

Hơn nữa, Hội Thánh tuyên bố tại Công đồng Va-ti-ca-nô II : “Không thể qui trách nhiệm một cách hàm hồ những tội ác đã phạm trong khi Đức Giê-su bị khổ nạn cho hết mọi người Do Thái thời đó, cũng như cho người Do Thái thời nay” (x. NA 4).

- Mọi kẻ tội lỗi là thủ phạm gây ra cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô

Qua huấn quyền của mình và chứng từ của các thánh, Hội Thánh không bao giờ quên rằng chính những “kẻ phạm tội là thủ phạm và như là dụng cụ thực hiện những cực hình mà Chúa Cứu Thế phải chịu” (Rm 1,5.11; x. Dt 12,3). Vì tội lỗi chúng ta xúc phạm đến chính Đức Ki-tô (x.Mt 25,45; Cv 9,4-5), nên Hội Thánh không ngần ngại qui cho các Ki-tô hữu trách nhiệm nặng nhất về cực hình Đức Giê-su phải chịu, trách nhiệm mà họ thường trút đổ trên người Do Thái mà thôi.

Chúng ta phải coi những kẻ sa đi ngã lại trong tội lỗi là những người đã phạm lỗi tầy trời ấy. Bởi lẽ, chính tội ác của chúng ta đã làm Đức Giê-su Ki-tô phải chịu khổ hình thập giá, thì chắc chắn rằng những ai chìm đắm trong gian tà cũng “tự tay đóng đinh Con Thiên Chúa vào thập giá một lần nữa, và đã công khai sỉ nhục Người” (Dt 6,6). Và phải nhìn nhận rằng, tội ác của chúng ta trong trường hợp này nặng hơn tội của người Do Thái. Vì theo thánh Phao-lô, “nếu họ đã được biết Vua vinh hiển, họ đã chẳng đóng đinh Người vào thập giá” (1Cr 2,8). Trái lại, chúng ta tuyên xưng rằng chúng ta biết Người, nên khi chúng ta chối bỏ Người bằng những hành động, có thể nói được rằng chúng ta đã tra tay giết Người (Rm 1,5,11).

Không phải quỉ dữ đã đóng đinh Người trên thập giá; chính bạn cùng với chúng đã đóng đinh Người vào thập giá; và còn đang đóng đinh Người nữa, khi bạn thích thú trong thói xấu và tội lỗi (Thánh Phan-xi-cô Át-xi-di, khuyến dụ 5,3)” (GLCG 598).


c. Đức Kitô nhận lấy cái chết của con người

Đức Kitô đến trần gian, mặc lấy thân xác con người, trở nên giống như con người mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Vì thế, Ngài cũng đón nhận cái chết, cái chết của con người. Ngài đã cảm nhận nỗi đau khổ của của một con người, và trước cái chết Ngài cũng đã run sợ thốt lên với các môn đệ : “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến, Thầy biết nói gì đây ?” (Ga 12,27). Chúa Giêsu cũng đã xin với Chúa Cha cho Ngài khỏi phải chết : “Cha ơi, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này” (Lc 22,42). Đức Kitô đã đón nhận cái chết với lòng vâng phục tuyệt đối : “Đức Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ mọi vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).

Đức Ki-tô đã đón nhận cái chết để giải thoát chúng ta khỏi thần chết. Cái chết của Đức Kitô không phải do tội. Thánh kinh cho biết quan Phi-la-tô đã không tìm ra một lý do nào xứng đáng để kết án tử Người (Lc 23,52). Cái chết của Chúa Ki-tô không phải ngẫu nhiên, nhưng Ngài đã biết trước, vì thế, Ngài đã nhiều lần tiên báo cho các Tông đồ để họ khỏi bị ngỡ ngàng. Nỗi bật là ba lần loan báo cuộc thương khó và phục sinh của Ngài (Mc 8,31). Chính vì chết để chuộc tội cho loài người, chết để cho con người được lãnh nhận ơn cứu độ, nên Ngài đã ao ước được chết, ao ước để lãnh phép Rửa : “Thầy còn một phép Rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12,50).

Đức Kitô nhận cái chết của chúng ta như một sửa phạt do luật định (Mt 26,66 tt). Vì được sinh ra dưới lề luật và đã mặc lấy “thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta” (Roma 8,3), Người đã liên đới với dân Người và với tất cả nhân loại để đền tội cho họ. Đức Kitô, Đấng chẳng biết tội là gì, thì Thiên Chúa biến Ngài thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, làm cho chúng ta nên công chính trong người (2Cr 5,21). Dầu vô tội, Người đã nhận lấy số phận của tội nhân cho đến cùng nên đã chết như tất cả các tội nhân. Nhưng Người đã chiến thắng sự chết, chiến thắng tội lỗi, tước đoạt quyền lực của tội lỗi, của sự chết, để mang lại cho con người sự sống đời đời.


2. Cái chết của Đức Kitô được thực hiện trong ý định của Thiên Chúa để cứu rỗi con người

a. Cái chết của Đức Ki-tô trong ý định cứu độ của Thiên Chúa

- Đức Giê-su đã bị nộp theo ý định của Thiên Chúa

Cái chết đau thương của Đức Giê-su không phải là hậu quả của ngẫu nhiên do các hoàn cảnh bất ngờ hợp lại. Điều này thuộc về mầu nhiệm của ý định Thiên Chúa, như thánh Phê-rô giải thích cho người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem ngay từ bài giảng đầu tiên trong ngày lễ Hiện Xuống : “Người đã bị nộp theo ý Thiên Chúa đã định và biết trước” (Cv 2,23). Kinh Thánh nói như vậy không có nghĩa là những kẻ đã “nộp Đức Giê-su” (Cv 3,13) chỉ thụ động nhập vai trong một kịch bản do Thiên Chúa đã viết trước (GLCG 599). Những người nộp Chúa cũng đã thực hiện với ý thức và tự do, với quyền năng và sự khôn ngoan đã được định trước (Cv 4,27-28).

- Cái chết cứu chuộc của Đức Kitô đã được Thánh Kinh tiên báo

Trước tiên, trong Cựu ước tiên tri Isaia II đã nói cái chết của “Người Tôi Tớ, Đấng Công Chính” (Is 53,11) để giải thoát con người khỏi nô lệ tội lỗi. Ý định này đã được báo trước trong Kinh Thánh như là mầu nhiệm cứu chuộc phổ quát (x.Is 53,11-12). Trong Tân ước, Thánh Phao-lô tuyên xưng đức tin mà Người đã lãnh nhận (1Cr 15,3): “Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Thánh Kinh” (x. Cv 3,18; 7,52; 13,29). Chính Đức Giê-su đã trình bày ý nghĩa cuộc sống và cái chết của Người dưới ánh sáng của những lời nói về Người Tôi Tớ đau khổ (x. Mt 20, 28). Sau phục sinh, Người cũng giải thích Thánh Kinh như thế cho các môn đệ đi Em-mau (x. Lc 24,25-27), rồi cho chính các tông đồ (x. Lc 24,44-45).

- Vì yêu thương, Thiên Chúa đi bước trước để cứu chuộc mọi người

Khi trao nộp Con của Người vì tội lỗi chúng ta, Thiên Chúa cho thấy ý định yêu thương của Người đi trước mọi công trạng của chúng ta : “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, và đã cử Con của Người đến hy sinh làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10; 4,19). “Bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta là Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân” (Rm 5,8) (GLCG 604).

Tình thương này không loại trừ một ai, Đức Giê-su nhắc lại điều này để kết luận dụ ngôn về con chiên lạc: “Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,14). Người khẳng định “sẽ hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Thuật ngữ này không có ý thu hẹp số người được cứu độ, nhưng chỉ muốn đối chiếu toàn thể nhân loại đông đảo với một mình Đấng Cứu Độ, tự hiến để cứu chuộc muôn người (x. Rm 5, 18-19). Hội Thánh nối gót các Tông đồ dạy rằng : (x.2 Cr 5,15; 1Ga 2,2) Đức Ki-tô đã chết cho hết thảy mọi người không trừ một ai. “Trước kia, hiện nay cũng như sau này, không có một ai mà Đức Giê-su không chịu chết cho họ” (x. Cđ.Quierey năm 853: DS 624). (GLCG 605)


b. Cái chết của Đức Kitô là một hy tế hiến dâng cho Thiên Chúa Cha

- Hiến tế trong Cựu ước

Để giao hoà với Thiên Chúa, con người chẳng những cầu khẩn Ngài mà còn dâng hiến lễ lên Ngài nữa, gồm có việc dâng lễ vật kèm theo cử chỉ để bộc lộ lòng tôn trọng và phục tùng.

Dân Do-thái cũng dâng hiến lễ lên Thiên Chúa. Ban đầu, thời các tổ phụ, chính gia trưởng dâng hiến lễ. Khi đã tổ chức thành dân thì chi tộc Lê-vi lo việc tế tự. Cách tế tự dần dần mất ý nghĩa vì lễ vật và cử chỉ bên ngoài tách hẳn khỏi tâm tình bên trong. Đây là điều các ngôn sứ kịch liệt lên án.

- Đức Giêsu hoàn tất các hiến lễ của Cựu ước

Đức Giêsu tôn thờ Chúa Cha không phải bằng những hình thức bên ngoài, nhưng trong “tinh thần và chân lý” (Ga 4,23-24). Ngài không dâng lên Cha chiên bò nhưng hiến tế chính thân xác và sự sống của mình trên thập giá.

Nhờ hiến lễ ngài dâng, Đức Giêsu đền tội thay ta. Tội bị huỷ diệt hoàn toàn. Hơn nữa, Ngài đổi mới tâm hồn ta từ bên trong. Ta được thanh tẩy và thánh hoá.

- Tất cả cuộc sống của Đức Ki-tô là của hiến lễ dâng hiến Chúa Cha

Con Thiên Chúa, Đấng “từ trời xuống, không phải để làm theo ý Người, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Người” (Ga 6,38). Ngay từ phút đầu tiên khi nhập thể, Chúa Con sống chết với ý định cứu độ của Thiên Chúa trong sứ vụ cứu thế của mình : “Lương thực nuôi sống Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất tốt đẹp công trình của Người” (Ga 4,34). Khi vào trần gian, Người nói : Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Chính theo ý đó của Thiên Chúa, mà chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế. Mầu nhiệm tử nạn diễn tả tính cách dâng hiến tuyệt đối của của Đức Giêsu, Ngài đã vâng phục cho đến chết (GLCG 606).

- Thánh lễ nối dài hiến lễ của Đức Giêsu

Hiến lễ của Đức Giêsu có một giá trị tuyệt đối. Ngài chỉ hiến dâng mình có một lần trên thập giá cũng đủ để cứu chuộc và thánh hoá ta. Không cần một hiến lễ thứ hai (Dt 10,10).

Thánh lễ mà Giáo hội dâng mỗi ngày không phải là một hiến lễ mới, biệt lập với hiến lễ trên thập giá. Thánh lễ nối dài hiến lễ thập giá và chỉ có hiệu quả nhờ hiến lễ thập giá.


c. Đức Giêsu chịu chết vì loài người chúng tôi

- Đức Giêsu chịu chết để đền bù tội lỗi cho toàn nhân loại

Cái chết của Đức Kitô được ví như hạt lúa mì được gieo vào lòng đất, chịu mục nát đi để sinh ra nhiều bông hạt khác (Ga 12,24-32). Cái chết của Ngài bị áp đặt như một hình phạt của tội, nhưng cũng là một hy tế để xá tội (Dt 11,50t). Con người đã phạm tội nên phải gánh lấy án phạt của sự chết. Đức Kitô đã chuộc tội cho loài người bằng cái chết của Ngài. “Cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người bị liệt vào hàng tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ được kể là công chính” (Rm 5,19). Nhờ vâng phục cho đến chết, Đức Giê-su đảm nhận hoàn toàn vai trò Người Tôi Tớ đau khổ, “hiến mạng sống mình làm của lễ đền tội muôn dân”, “khi làm cho họ nên công chính bằng cách chính Người gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53,10-12). Đức Giê-su đã đền bù và đền tạ thỏa đáng cho Chúa Cha vì tội lỗi của chúng ta (Cđ Tren-tô:DS 1529).

Đức Giêsu chịu chết không phải chỉ cho dân Người, mà còn cho tất cả mọi người (2Cr 5,14tt). Mọi người chúng ta đều sinh ra trong tội vì thế cần được ơn cứu rỗi của Đức Kitô. Ngài đã chết vì chúng ta đang khi chúng ta còn là tội nhân (Rm 5,6tt). Vì chết cho chúng ta nên Ngài đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa (Rm 5,11).

- Cái chết của Đức Kitô là hy lễ duy nhất và chung cuộc

Đức Ki-tô chịu chết vừa là hy tế Vượt Qua hoàn tất việc cứu độ chung cuộc loài người (x.1Cr 5,7; Ga 8,34-36), vừa là hy tế của Giao Ước Mới (x.1Cr 11,25) cho con người hiệp thông lại với Thiên Chúa (x.Xh 24,8), bằng cách giao hòa con người với Thiên Chúa nhờ “máu được đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28) (x.Lv 16,15-16) (GLCG 613).

Hy tế của Đức Ki-tô là duy nhất, hoàn tất và vượt trên mọi hy tế (x.Dt 10,10). Trước hết hy tế này là một hồng ân của chính Chúa Cha : Chúa Cha phó nộp Con Mình để giao hòa chúng ta với Người (x.1 Ga 4,10). Kế đến, đây cũng là việc Chúa Con làm người, với ý chí tự do và vì mến yêu (x.Ga 15,13), hiến dâng mạng sống mình (x.Ga 10,17-18) cho Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần (x.Dt 9,14), để đền bù sự bất tuân của chúng ta. (GLCG 614)


d. Cái chết của Đức Kitô làm khai sinh Giáo Hội

Chính Đức Kitô đã thiết lập nên Giáo Hội để tiếp tục sứ vụ của Ngài. Việc khai sinh Giáo Hội được hiểu từ những góc độ khác nhau. Trước tiên, Chúa Giêsu khai sinh Giáo Hội bằng việc rao giảng Nước Thiên Chúa đã gần đến như đã hứa trong Thánh Kinh (Mc 1,15). Nước này chiếu sáng trước mặt mọi người qua lời nói, hành động và sự hiện diện của Ngài. Nước ấy là Giáo Hội của Chúa Kitô.

Nhưng dưới một góc độ khác, chính máu và nước từ cạnh sườn Chúa Kitô chịu chết trên thập giá là dấu chỉ thiết lập Giáo Hội của Chúa Kitô (PV 5). Sự khai sinh này đã được tiên báo qua lời Chúa nói về cái chết của Ngài trên thập giá : “Khi bị treo lên khỏi mặt đất, ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta” (Ga 13,52).

3. Đức Kitô chiến thắng sự chết bằng sự Phục sinh của Ngài

a. Bằng chứng việc Chúa Phục sinh

- Sự kiện mồ trống

Vào ngày thức nhất trong tuần, một số bà đã ra mộ sừ sáng sớm nhưng họ không thấy Thi hài Chúa Giê-su đâu, “Người đã sống lại rồi” (Lc 24,6). Trong biến cố phục sinh, yếu tố đầu tiên mà ta gặp là ngôi mộ trống, Tự nó, sự kiện này không phải là một bằng chứng trực tiếp. Việc thân xác Đức Ki-tô không còn trong mồ có thể được giải thích cách khác (x.Ga 20,13; Mt 28,11-l5). Dầu vậy, mọi người đều coi ngôi mộ trống là dấu chỉ chủ yếu. Việc phát hiện mồ trống là bước đầu dẫn các môn đệ đến việc nhìn nhận chính sự kiện Chúa sống lại. Đó là trường hợp các phụ nữ đạo đức (x.Lc 24,3,22-23), tiếp đến là Phê-rô (x.Lc 24,l2). Khi vào trong mồ trống và thấy “những băng vải để ở đó” (Ga 20,6)”, người môn đệ Đức Giê-su yêu quý” (Ga 20,2) khẳng định rằng : “Ông đã thấy và ông đã tin” (Ga 20,8). Điều này giả thiết rằng : khi thấy mộ trống (x.Ga 20,5-7), ông nhận ra việc mất xác Chúa không phải là do loài người, và Đức Giê-su đã không đơn giản trở lại cuộc sống trần thế như trường hợp La-da-rô vậy (x.Ga 11,44) (GLCG 640).

- Những lần Chúa hiện ra

Những người đầu tiên được gặp Đấng Phục Sinh (x.Mc 16,1; Lc 24,1; Mt 28,9-10; Ga 20,11-18) là bà Ma-ri-a Mác-đa-la và các phụ nữ đạo đức đến để hoàn tất việc ướp xác Đức Giê-su (x. Ga 19,31.42). Như vậy, các phụ nữ là những sứ giả đầu tiên loan báo Đức Ki-tô sống lại cho chính các Tông đồ (Lc 24,9-10). Về phần các Tông đồ, Đức Ki-tô hiện ra trước hết với Phê-rô, sau đó với nhóm Mười Hai (x.1Cr 15,5).Vì được mời gọi củng cố niềm tin của anh em mình (x.Lc 22,31-32), nên Phê-rô được thấy Đấng Phục Sinh trước họ. Chính dựa trên chứng từ của ông, mà cộng đoàn kêu lên : “Chúa đã sống lại thật rồi, và đã hiện ra với ông Xi-mon” (Lc 24, 34.36) (GLCG 641).

Tất cả những gì đã xảy ra trong những ngày lễ Vượt Qua đó thôi thúc các Tông đồ, đặc biệt là Phê-rô, ra sức xây dựng một kỷ nguyên mới đã bắt đầu từ sáng ngày Phục Sinh. Với tư cách chứng nhân của Đấng Phục Sinh, họ là những viên đá nền móng của Hội Thánh Người. Đức tin của cộng đoàn tín hữu tiên khởi được xây dựng trên lời chứng của những con người cụ thể mà các Ki-tô hữu quen biết và phần đông còn sống giữa họ. Các “chứng nhân về cuộc Phục Sinh của Đức Ki-tô” (x.Cv 1,22) trước tiên là Phê-rô và Nhóm Mười Hai, nhưng không chỉ mình họ : thánh Phao-lô nói rõ ràng Đức Giê-su “đã hiện ra với hơn năm trăm người một lượt; Người cũng hiện ra với ông Gia-cô-bê rồi với tất cả các Tông đồ” (1Cr 15,4-8) (GLCG 642).

Với những chứng từ này, chúng ta có thể khẳng định Đức Ki-tô đã phục sinh trên bình diện thể lý và phải nhận đó là một sự kiện lịch sử. Từ các sự kiện, chúng ta rút ra kết luận : đức tin của các môn đệ đã bị thử thách triệt để do việc Đức Giê-su chịu nạn chịu chết trên cây thập giá, sự kiện đã được Người báo trước (x. Lc 22,31-32). Cuộc khổ nạn đã làm cho các môn đệ bị chấn động mạnh đến nỗi họ (ít ra là một số) không tin ngay việc Chúa sống lại. Các sách Tin Mừng không hề nói đến một cộng đoàn cuồng nhiệt trong hứng khởi thần bí, nhưng cho thấy “các môn đệ ủ rũ” (Lc 24,17) và sợ hãi (x. Ga 20,19). Họ không tin lời các phụ nữ đạo đức viếng mộ trở về, nhưng “cho là chuyện nhảm nhí” (Lc 24,11 ; x.Mc 16,11-13). Khi tỏ mình cho Nhóm Mười Một, chiều ngày Phục Sinh, Đức Giê-su “khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người sống lại” (Mc 16,14) (GLCG 644).

Dù đối diện với thực tế là Đức Giê-su phục sinh, các môn đệ vẫn còn nghi ngờ (x. Lc 24,38) vì không tin rằng điều này có thể xảy ra được, nên họ tưởng trông thấy ma (x.Lc 24,39). “Các ông vẫn chưa dám tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng” (Lc 24,41). Ông Tô-ma cũng đã từng nghi ngờ như vậy (x.Ga 20,24-27). Và khi Đức Giê-su hiện ra lần cuối cùng tại Ga-li-lê, theo thánh Mat-thêu tường thuật “có mấy người vẫn còn hoài nghi” (Mt 28,17). Do đó, giả thuyết cho rằng Phục Sinh là “sản phẩm” của đức tin (hoặc do nhẹ dạ) của các Tông đồ không đứng vững. Trái lại, dưới tác động của ơn thánh, các ông tin vào cuộc Phục Sinh vì có kinh nghiệm trực tiếp về việc Đức Giê-su đã thực sự sống lại.


b. Biến cố phục sinh của Đức Kitô là công trình của Ba Ngôi

- Với tư cách là con người, Đức Giêsu cần được Chúa Cha làm cho sống lại. Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu sống lại. Đó là sáng kiến của Chúa Cha.

- Chúa Cha phục sinh Chúa Giêsu bởi Chúa Thánh Thần. Thánh Thần là sức mạnh của Thiên Chúa. Chính Thánh Thần cũng sẽ làm cho thân xác ta sống lại (Rm 8,11).

- Với tư cách là con Thiên Chúa, Đức Giêsu cũng có đầy quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Với tư cách đó, Ngài có quyền cho đi và lấy lại sự sống của Ngài (Ga 10,18).


c. Ý nghĩa của việc Đức Giêsu phục sinh

- Đức Giêsu đã chiến thắng sự chết

Đức Giêsu dùng chính sự chết để thắng sự chết. Sự chết không thống trị được Ngài (Cv 2,24). Sự chết không còn quyền lực nào đối với Ngài (Rm 6,9). Ngài huỷ diệt sự chết để làm sáng tỏ sự sống (2Tm 1,10). Phụng vụ đêm Vọng Phục sinh (Exultet) ca tụng : nơi Đức Giêsu sự sống mạnh hơn sự chết.

- Đức Giêsu được tôn vinh

Đối với Đức Giêu, chết không phải chỉ là hồn lìa khỏi xác, nhưng còn là tự hạ, bị miệt thị … (Dt 13,13). Sống lại không phải chỉ là thôi chết, nhưng còn là được Thiên Chúa tôn vinh. Thiên Chúa đáp lại thái độ tự hạ và vâng phục của Đức Giêsu bằng cách suy tôn Ngài. Vinh quang của Con Ngài bị sự chết che lấp phần nào, nay Chúa Cha lại làm cho vinh quang đó được sáng tỏ (Cv 13,13-15 ; 2,36).

- Loài người được cứu chuộc

Đức Giêsu là Đầu của nhân loại mới. Một khi đã bước vào đời sống mới, Ngài phân phát đời sống đó cho hết mọi chi thể. “Ngài bị nộp để đền tội ta, Ngài sống lại để ta nên công chính” (Rm 4,25). “Ngài chết để huỷ diệt sự chết. Ngài sống lại để tái lập sự sống” (kinh tiền tụng lễ Phục sinh).

- Thân xác loài người được sống lại

Ngay từ nay hồn ta được sống lại trong ân sủng. Sau này, thân xác ta được sống lại bất tử trong vinh quang của Đức Giêsu phục sinh. Ngài là Đấng phục sinh. Ai tin vào Ngài, dầu có chết đi, cũng sẽ sống lại (Ga 11,25).

Chẳng những sau này Đức Giêsu sẽ biến đổi thân xác loài người, nhưng Ngài còn biến đổi toàn thể vũ trụ vật chất này. Tất cả thụ tạo đã sa ngã với con người, nhưng sau đó lại được cứu chuộc với con người, vì thế chung cục cũng sẽ được tham dự vào vinh quang bất diệt của Thiên Chúa cùng với con người.

Như vậy, Đức Giêsu vừa là trưởng tử của nhân loại vừa là thủ lãnh của toàn thể thụ tạo (Cl 1,15-20). Vì thế vương quyền của Ngài bao trùm toàn thể nhân loại và toàn thể thụ tạo


d. Đức Kitô sống lại là sức mạnh của Giáo Hội trên đường lữ hành

Hiến chế về Giáo Hội số 8d xác định : “Lữ hành giữa cơn bách hại của trần gian và trong niền an ủi của Thiên Chúa, Giáo Hội rao truyền cái chết và thập giá của Chúa cho đến khi Chúa trở lại (x. 1Cr 11,26). Giáo Hội vững mạnh nhờ thần lực của Chúa phục sinh, để toàn thắng các khó khăn và sầu muộn từ bên trong cũng như bên ngoài bằng yêu thương và kiên trì, và trung thành mạc khải cho trần gian mầu nhiệm Thiên Chúa còn ẩn dấu trong bóng tối cho đến khi được phô bày dưới ánh sáng vẹn toàn trong ngày sau hết”.

III. CÁI CHẾT CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU

Cách chú giải về cái chết - như là mộït hình phạt, một giá biểu cho chính tội lỗi của con người – chiếm ưu thế và phát triển theo chiều hướng ngày một gia tăng và hầu như thống trị trên thế giới Kitô giáo suốt thời trung cổ. Đặc biệt, qua lăng kính của Augustin - với cái nhìn bi quan về thân phận mỏng giòn của con người, rồi để đề cao ân huệ của Thiên Chúa, người ta dùng biện chứng tương phản bằng cách nhấn mạnh đến sự tàn phá khủng khiếp của tội lỗi.. Thựïc ra, đối với Kitô giáo, cái chết không phải chỉ là giá biểu cho tội lỗi con người, mà còn vì chính nhờ Đức Kitô, Đấng đã chiến thắng và thống trị trên sự chết, cái chết giờ đây được mặc một cái nhìn mới mẻ. Đó chính là cuộc gặp gỡ giữa con người với Đùc Kitô. Cuộc gặp gỡ này chính Thiên Chúa đã chuẩn bị khi gieo vào lòng con người khát vọng về một sự sống vĩnh cửu, cũng chính ngài chuảån bị và gặp gỡ con người nơi cái chết. Vì thế, người tín hữu được hiệp thông trong cái chết của Đức Kitô.

1. Cái chết, một sự gặp gỡ giữa con người với thiên chúa

a. Con người sống trong một hành trình hẹn hò

Mởû đầu cho phần nói về ý nghĩa sự chết theo Kitô giáo, sách GLCG số 1010 khẳng định : “Nhờ Đức Kitô, chết mang một ý nghĩa tích cực "Đối với tôi sống là Đức Kitô, chết là một mối lợi” (Pl 1,21). Mối lợi đây chính là sự hoàn tất nơi mỗi người trong cuộc hành trình gặp gỡ thực sự với Đức Kitô, Đấng mà Phaolô hằng mong ước.

Thánh Kinh vẫn trình bày mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người như một cuộc gặp gỡ. Sự sung mãn của cuộc gặp gỡ này đượïc tìm thấy trong Sáng Thế ký : như thể chiều chiều Thiên Chúa tản bộ trong vườn để gặp gỡ hàn huyên với con người (St 3, 8). Chính tội lỗi con người đã gây nên cảnh chia lìa khỏi sự gặp gỡ Thiên Chúa và câu hỏi của Thiên Chúa “ngươi đang ở đâu ?” (St 3, 9) vẫn sẽ luôn mãi là câu hỏi buộc con người phải ý thức về nguồn cội của mình, ý thức “định vị” mình trong cuộc đời : ngươi đang ở đâu cho cuộc gặp gỡ của Ta.

Thiên Chúa yêu thương vẫn muốn nối lại cuộc gặp gỡ với con người và Ngài đã khởi sự đi bước trước. Tất cả quá trình yêu thương ấy được Ngài thực hiện trong lịch sử cứu độ. Các lời tiên tri loan báo cuộc viếng thăm của Thiên Chúa đối với dân Người luôn được vang lên (St 50,24). Cuộc thăm viếng được tiên báo này có 2 khuôn mặt : Ngài chúc phúc cho kẻ trung thành (Xop 2,2) và sửa phạt khi họ sai đường (Am 3,2 ; Hs 4,9 ; Is 10,3). Cả dãy dài lịch sử ấy chuẩn bị cho cuộc viếng thăm thực sự của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người (Lc 1, 68 ; 7,16) (MV 18).

Đức Kitô, Ngài đến gặp gỡ chúng ta ở mọi giai đoạn sống. Ngài đến qua ân huệ đứùc tin và phép Rửûa chúng ta lãnh nhận trong Ngài (Rm 6,3) ; Ngài đến cách riêng trong Bí tích Thánh Thể vì Thánh Thể là Bí tích quang lâmcũng là lời tiên báo và hoa quả đầu mùa của cuộc gặp gỡ tối hậu, khiến chúng ta thông dựï vào cái chết và phục sinh. Ngài còn đến từng ngày, để giúp người Kitô hữu thực hiện cuộc Vượt qua thường nhật từ xác thịt sang Thần Khí (x Durrwell, Đức Kitô, con người và cái chết, trg 14-16).

Trong các cuộc gặp gỡ ấy, cuộc vượt qua cuối cùng - giờ chết, giờ lằn ranh giữa cõi vĩnh hằng - là cao điểm của cuộc gặp gỡ ấy. Đó không thể là giờ cô đơn của người tín hữu vì Chúa Kitô đang đến, đợi chờ cho cuộc gặp gỡ “Ngài đứng ngoài và gõ cửa” (Kh 3,10). Tác giả Durrwell nhìn trong viễn cảnh này ý nghĩa của đoạn phúc âm (Ga 21, 1-14). Đức Kitô, Đấng phục sinh của ngày chung thẩm, đứng trên bên bờ của lằn ranh cõi vĩnh hằng để đón chờ, cho họ ăn và để nhận họ trước mặt Thiên Chúa (x.MV 15). Chính điều này các thánh luôn ý thức và khát khao cho cuộc gặp gỡ với Đấng mà các ngài tôn thờ.


b. Thiên Chúa chuẩn bị con người cho cuộc gặp gỡ

Bắt đầu đời sống là con người bắt đầu một cuộc hành trình và niềm tin Kitô giáo chỉ ra cho chúng ta biết cuộc sống trần gian chỉ là căn nhà trọ :"nếu căn nhà ở trần gian này bị phá huỷ đi, thì chúng ta có một nơi cư ngụ vĩnh viễn trên trời" vì : “Quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta sẽ gặp Đấng Cứu chuộc chúng ta là Đức Giêsu Kitô” (Phil 3, 20). Đời sống con người được diễn tả như một cuộc hành hương cánh chung đích thực (2Cr  5,6; Dt 13,14) . Đó chính là một cuộc đi về của chính nơi hội họp của con cái Thiên Chúa (Dt 2,22). Chính Thiên Chúa, Ngài đã chọn cho con người hành trình này khi đặt vào trong họ khát vọng của sự an nghỉ vĩnh cửu : “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con, và hồn con mải khắc khoải cho tới ngày nghỉ yên trong Chúa” (Augustin).

Đức Kitô là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người (1 Tim 2,5), Ngài chính là Đường, là Sự Thật và là sự Sống (Ga 14,6). Ngài là ngưỡng cửa của ràn chiên (Ga 10,7) mà không ai có thể đến được với Cha mà không qua Ngài. Đức Kitô trở thành “địa chỉ”, là “nơi chốn” để con người đến gặp gỡ Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa, Đấng đã đặt vào tâm trí con người ý thức về sự tương đối của cuộc sống trần gian này, thì cũng chính Ngài gieo vào lòng họ khát vọng của một đời sống vĩnh cửu và ban cho họ chính Con Một Ngài làm đối tượng để “Những ai tin vào Ngài thì được sống đời đời” (Ga 3,16). Chính tại nơi giây phút cuối cùng của đời người, Đứa Kitô đứng đó để đón nhận họ vào sự sống mới, sự sống mà Ngài dành cho loài người qua cuộc Vượt Qua của Ngài “Nếu chúng ta tin Đức Kitô ..... Thiên Chúa đưa về cùng Đức Kitô” (1Tx 4,14).

Giáo lý Kitô giáo không trình bày một lý thuyết “Không tưởng” về sự chết. Nếu các lý thuyết hiện sinh chỉ nhìn thấy nơi cái chết như là một kết cục phi lý của một cuộc đời vô nghĩa đến “buồn nôn”, để kết thúc một sự “hiện hữu để chết”, thì Kitô giáo, qua lăng kính đức tin của mầøu nhiệm Vượt Qua nơi Đức Kitô, thấy nơi cái chết một sự hoàn tất cuộc hành trình mà Thiên Chúa đã khởi sự nơi mỗi người khi bắt đầu cuộc sống nơi trần gian. Thánh Phaolô nhìn thấy cuộc sống này như là “một cuộc lưu lạc xa Chúa” (2Cr 5, 6) và chỉ có qua cái chết, Thiên Chúa gọi chúng ta về với Người. Vì thế, đối với cái chết, Kitô hữu có thể mong ước như thánh Phaolô : “Ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Kitô” (Plâ 1,23)” (GLCG 1011). Như vậy, đối với người tín hữu, cái chết không còn là một sự kết thúc vô nghĩa, nhưng từ nơi đức Kitô, chúng ta có quyền kêu lớn tiếng lời thách thức : “Hỡi Thần chết, chiến thắng của người ở đâu ? Hỡi Tử thần, nọc độc của người ở đâu” (1 Cr 14, 55) ; cái chết không còn mang dáng dấp gớm ghiếc của Tử thần với lưỡi hái cắt dây sự sống và kéo lê những oan hồn, nhưng đó là cuộc hội ngộ của Chúa Kitô với những kẻ yêu mến Ngài.


c. Nơi cái chết, con người gặp gỡ Thiên Chúa

Nếu Thiên Chúa đã đặt vào tâm hồn con người khát vọng về một quê hương vĩnh cửu thiên quốc, nơi ấy chúng ta “gặp Đâng Cứu chuộc là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta” (Phil 3, 20), và đã chuẩn bị con người cho cuộc hội ngộ ấy, thì cái chết chính là giây phút vượt qua ngưỡng cửa thời gian đời này để gặp Đấng là “Anpha và Oâmêga, là Khởi nguyên và Tận cùng” (Kh 22, 13). Vấn đề đặt ra là nếu cái chết là một cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, thì những người đã an giấc trước Ngài có thể gặp gỡ ngài hay chăng ?

Khi tuyên xưng chúa Kitô đã xuống ngục tổ tông, Hội Thánh ghi nhận sự kiện “Chúa Giêsu đến gặp gỡ những con người từ trần trước đây” để rao giảng cho các vong linh bị giam cầm (1P 3, 18 ; Ttâ 4, 6). Cha Durrwell lý giải điều này : “Đức Kitô được tôn vinh ngay sau cái chết, đã trở nên Chúa tể của mọi thời đại và tương lai của con người, Ngài đến gặp gỡ họ ngay trong cái chết của họ, những kẻ đã đi trước Ngài” (Durrwell, Đức Kitô, con người và cái chết, trg 20).

Còn đối với chúng ta ?

Thánh Phaolô trong khi trả lời cho các tín hữu Corintho về vấn nạn ngày quang lâm đã nhắc nhở họ ý thức về cuộc gặp gỡ cuối cùng mà họ được kêu gọi : “Anh em đã được kêu gọi đến sự hiệp thông với con của Người trong cuộc hội ngộ cuối cùng” (1 Cr 1,9). Đó là một cuộc “đi đón Chúa Kitô trên không trung” ( 1Tx 4, 17). Chính sự khát khao của con người (x. TV 62) đã được phú bẩm trong họ, giờ đây, qua sự chết, được lấp đầy. Đó chính là lý do tại sao Phaolô quan niệm : “chết là một mối lợi” ( Phil 1, 21). Cuộc hội ngộ này, chính Chúa Kitô, khi bước vào mầu nhiệm Vượt Qua, Ngài “đã đi trước để dọn chỗ cho các ông, để Ngài ở đâu, thì kẻ thuộc về Ngài cũng sẽ ở đấy” (x. Ga 14, 3-4). Như thế, các tín hữu sẽ đón nhận cái chết cách bình thản, họ sẽ cảm nghiệm được chính điều mà ông già Simêon đã cảm nghiệm để đón nhận “sự ra đi bình an vì chính mắt họ đã nhìn thấy Đức Kitô , ơn cứu độ của họ” (x. Lc 2, 29-30). Tác giả Henry Denis trong bài Guérir de la Mort, Profae Lyon 1968, đã viết : “Chính đức Kitô đến với con người trong lúc gian nan này. Chúa không mang đến một lá bùa, một linh đơn. Chúa mang đến cho bệnh nhân sự hiện diện của Ngài” (Họp nhau củ hành Phụng vụ, II. Trg 675). Và như Đức Kitô, họ đón nhận sự chết dưới ánh sáng thánh ý của Chúa Cha (x. Mc 14,32).

Ý tưởng về cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô trong giờ chết này có một giá trị nâng đỡ lớn lao cho người tín hữu. Chúng ta nhìn thấy nơi niềm tin này chìa khóa lý giải cho sự trung kiên của các Kitô hữu trước những cuộc bách hại. Họ can đảm đón nhận cái chết để bảo vệ niềm tin, để gặp lại chính Chúa Kitô, Đấng đã hứa đón nhận và tuyên xưng họ trước mặt Chúa Cha : “Ai tuyên xưng ta trước mặt người đời, Ta sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Ta” (Mt 10, 32)


2. Cái chết của người tín hữu với chúa kitô

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Kitô với mỗi gười trong cái chết là một cuộc gặp gỡ mầu nhiệm. Đó không phải là một cuộc gặp gỡ thông thường diễn ra trong một thời khắc không gian và thời gian vật lý, mà là một cuộc gặp gỡ hiệp thông. Trong cuộc gặp gỡ này, chúng ta được tháp nhập vào hành trình vượt qua của chính Đức Kitô, được Ngài mang vào chính Ngài.

“Đức Kitô, khi mặc lấy bản tính của chúng ta, Ngài không chỉ nhận lấy cái chết của chúng ta để cùng liên đới với số phận tội lỗi của chúng ta. Là thủ lãnh của nhân loại mới, Ađam mới (1 Cr 15,25; Rm 5,14), Ngài mang tất cả chúng ta trong Ngài khi chết trên thập giá ; do đó, trong cái chết của Ngài, "tất cả đều chết" một cách nào đó (2Cr 5,14)” (Điển ngữ Thần học Thánh Kinh, Q.I trang 239). Nhờ Đức Kitô, chết mang một ý nghĩa tích cực…Nếu ta cùng chết với Người, chúng ta sẽ cùng sống với Người (2Tm 2,11) (GLCG 1010). Như thế, chết, đối với người tín hữu là chết với Chúa Kitô, chết trong Chúa Kitô, và chết cho Chúa Kitô.


a. Chết với Chúa Kitô

Trong thư gửi cho người con tinh thần yêu quí Timôthê, Thánh Phaolô đã khuyến khích ông hãy noi gương người chấp nhận những đau khổ của cuộc sống. Ngài khẳng định : “Nếu chúng ta cùng chết với Chúa Kitô, chúng ta sẽ cùng được sống lại với Người” (2 Tm 2,11).

Với quyền năng của Đấng Cứu độ, Đức Kitô đã thâu tóm mọi sự trong Ngài (Mt 28, 18 ; Ep 1, 10). Chính lúc bước vào mầu nhiệm vượt qua, khi bị treo trên thập giá, Ngài đã kéo mọi sự đến cùng Ngài (x. Ga 12,32). Nơi cái chết của mình, Đức Kitô ôm ấp tất cả sự chết của con người : “Ngài ban cho họ được cùng chết vào Chúa Cha với Ngài” (Durrwell, Đức Kitô, con người và cái chết. trang 20). Chính vì cho chúng ta mà Ngài đã chết và phục sinh (x. 2Cr 5,15).

Giáo lý về các Bí tích, đặc biệt Bí tích Thánh Tẩy và Thánh Thể, thường được diễn tả cách trtọn đầy cuộc hội nhập này. Qua Bí tích Thánh Tẩy, Bí tích của sự hiệp thông, chúng ta được dìm vào trong cái chết của Đức Kitô, để với Đức Kitô, chúng ta bước qua ngưỡng cửa của sự chết để tháp nhập vào thân thể phục sinh vinh quang của Ngài : “Anh em không biết rằng khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Giêsu Kitô, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao ?” (Rm 6,3 ; 1Cr 11). Như vậy, trên cuộc hành trình đi từ miền thâm u của sự chết vào trong sự sống, chúng ta được nhập cuộc với cái chết của Đức Kitô.Người tín hữu tìm được căn tính sự chết của mình trong khi đồng hành với Đức Kitô.

Qua Bí tích Thánh tẩy, chúng ta dìm mình vào sự chết của Đức Kitô, cũng là lúc chúng ta đón nhận món quà sự sống mà Đức Kitô đã chuộc về cho nhân loại bằng cái chết của Ngài (Cl 3,3). Cái chết đó của Đức Kitô trở thành một hiến lễ tinh tuyền đẹp lòng Chúa Cha. Từ đó, đối với chúng ta, nơi cái chết của mỗi người, là lúc hoàn thành của lễ là chính mình, hiệp với của lễ của Đức Kitô dâng lên Thiên Chúa Cha. Nhờ được tháp nhập vào cái chết của Đức Kitô, từ nay, cái chết còn mang tính chất cứu độ ở trong Đức Kitô. Vì thế, đối với người tín hữu, điều quan trọng là có ở trong Đức Kitô hay không ?(x. Nguyễn Văn Trinh, Cánh Chung học , trang 117).

Chết với Đức Kitô là đón nhận và hoàn thiện nơi thân xác mình sự sống Thiên Chúa đã ban cho chúng ta qua mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của đức Giêsu Kitô: “Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô” (Rm 6,11). Đó là cái chết cho dục vọng, tội lỗi, cho con người cũ (Rm 6,6), cho những gì thuộc về thế gian (Gal 2,20). Chính vì lẽ đó, Thánh Phaolô nhìn mọi đau khổ mà Ngài gánh chịu đều là một tác động chết với Đức Kitô (1Cr 15,31 ; 2Cr 4,14), và hoàn tất nơi mình cuộc tử nạn của Đức Kitô.

Bí tích Thánh Tẩy cho chúng ta khả năng ở trong Đức Kitô, vì khiến ta chết với ngài (Rm 6,3).Nhờ đó, chúng ta cũng được chia sẻ cùng một thân phận : “Chúng tôi không ngừng mang trong mình chúng tôi sự chết của Đức Kitô, ngõ hầu sự sống của Đức Kitô cũng được tỏ hiện ra trong thân mình chúng tôi” (2Cr 4,10). Chết với Chúa Kitô, chính là đón nhận và tháp nhập vào cái chết của Ngài nhờ đó cũng được đón nhận và hiệp thông với sự sống của Ngài. Quá trình này lên đến đỉnh điểm của nó trong cái chết của mỗi người, cái chết đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa khi chúng ta hội nhập vào Đức Kitô. Như vậy, chết với Đức Kitô là hoàn tất nơi cuộc đời mình ơn cứu độ của Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta qua Đức Kitô.


b. Chết trong Đức Kitô

“Đức Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất thiết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Khi mặc lấy bản tính con người trong cuộc nhập thể, Đức Kitô đã chia sẻ hoàn toàn với thân phận con người “giống như người trần thế”. Ngài cũng đã “mang lấy sự chết của chúng ta mà đưa lên thập giá”. Để nhờ đó, chúng ta được sôáng với Ngài (x. 2 Tim 2, 17).

Thánh Igntiô Antiokia khao khát được chết bằng cái chết hòa nhập ngài vào trong Đức Kitô : “Được chết trong Đức Kitô là điều tốt cho tôi” (trích Cources Chret 10,131). Trong câu này, liên từ hy lạp EIS (trong) diễn tả một chuyển động : “sự chết hòa nhập mọi con người vào trong Đức Kitô” (Durrwell, Đức Kitô, con người và cái chết. trang 32). Nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được dìm vào trong sự chết của Đức Kitô (x. Rm 6,3). Nơi cái chết của mình, Đức Kitô giang tay ôm hết mọi kiếp nhân sinh vào cung lòng rộng mở của ngài để dâng lên Thiên Chúa Cha và “nhờ lòng thành ý, ngài đã được nhậm lời”. Cái chết của Đức Kitô tư ønay trở thành dạng thức, thành khuôn mẫu cho mọi con cái Ađam : Cái chết trong sự vâng pphục thánh ý Thiên Chúa (Pl 2, 8).Và như thế, nơi cái chết của mình, người tín hữu đi vào trong Đức Kitô như chiên đi qua cửa dẫn vào đồng cỏ xanh tười nơi có Thiên Chúa ban ơn lành xuống dồi dào (Ga 10, 9).

Chết trong Đức Kitô cũng còn là hoàn toàn tin tưởng và phó thác vào Đấng đã chứng tỏ Người là Đấng ban sự sống và sự phục sinh như Người đã làm đối với Đức Kitô. Đức Kitô chấp nhận chấm dứt đời sống trấn thế vì Người tin tưởng và Thiên Chúa hằng sống. Cũng vậy, người tín hữu chấp nhận cái chết với niềm tin tưởng vào các lời hứa mà Thiên Chúa đã dùng Đức Kitô mà mặc khải cho chúng ta (x.Mt 16, 24-25). Phó tế Stêphanô đã chứng tỏ niềm tin ấy khi can đảm làm chứng cho niềm tin và đã chết cho niềm tin. Cái chết của ông biểu lộ rõ ràng bản chất sự chết của người Kitô hữu ; chết là tuyên xưng Đức Kitô, như Đức Kitô và cho Đức Kitô trong chân lý và tình yêu. Ông đã an nghỉ trong Chúa (Cv 8,26).

Như vậy, chết trong Đức Kitô là hiệp thông với cái chết của ngài, để cùng ngài làm nên của lễ tinh tuyền dâng lên Thiên Chúa Cha trong một niềm tin tưởng phó thác hoàn toàn.


c. Chết là chết cho Đức Kitô

“Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng không ai chết cho chình mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết là chết cho Chúa” (Rm 14,7-8). Đối vơí Phaolô, tất cả định mệnh đời sống mình tùy thuộc và có tính cách tự hiến hoàn toàn cho Đức Kitô. Ở đây, biện chứng Phaolô sử dụng là diễn tả một mối tương quan đầy thân tình giữa mỗi người với Chúa Giêsu.Vì Đức Kitô đã yêu thương tự hiến, chấp nhận cái chết để cứu chuộc mỗi người chúng ta trong lúc chúng ta còn là tội nhân (Rm 5,8 ; Ga 1.24), đó là tình yêu cao cả nhất (Ga 15,13) mà Đức Kitô thể hiện vì yêu chúng ta (Gal 2,20 ; Ep 5,2.25), và vì vậy, đời sống người tín hữu không còn sống cho chính mình, mà là sống đời sống mới của Đức Kitô (Rm 14,8) trong chính đời sống mình. Do đó, “sống là sống cho Chúa và chết là chết cho Chúa” (Rm 14,8).

Chết cho Chúa là biểu lộ mối liên hệ của mỗi người với Đấng đã yêu thương và tự hiến cho chúng ta (Rm 5,8). Đức Kitô trơ ûnên mục tiêu và đối tượng cho mọi hành động, mọi hành vi của chúng ta (x. Col 3,1-11) “Từ đây không còn là tôi sống mà là chính Chúa kitô sống trong tôi” ( Gal 2, 20) . Khi lấy Đức Kitô làm đối tượng để quy kết cho đời sống mình, người tín hữu tìm ra ý nghĩa đời mình. Do đó, mọi hành vi, “tất cả mọi việc, anh em hãy làm vì danh Đức Kitô” (Col 3, 17). Thánh Phaolô cũng kêu gọi các Kitô hữu hãy bắt chước ngài như ngài đã bắt chước Đức Kitô (1Tx 1,6  1Cr 11,1). Trong tất cả các hành vi tự hiến ấy cho Đức Kitô, trao hiến sự sống vào tay Ngài là một hành vi cao cả. Thánh Phaolô luôn hãnh diện và lấy làm vui mừng khi phải chịu những đau khổ vì danh Đức Kitô (Rm 5,3 ; 1Cr 4,17 ; 2Cr 11,30 ; 12,9 ). Có thể nói, nơi đời sống của Phaolô và cũng là đời sống của các Kitô hữu, chết là cho Đức Kitô.

Chết cho Đức Kitô còn là việc diễn tả sự tùy thuộc của mình nơi Thiên Chúa, là tuyên nhận chiến thắng và chủ quyền của Ngài nơi mọi xác phàm.

Qua mầu nhiệm Tử nạn và phục sinh, Đức Kitô đã chiến thắng sự chết, được “tôn phong làm Chúa và làm Kitô” (Cv 2,26), “được thiết đặt như Con Thiên Chúa” (Rm 1,4 ; Cv 13,3), ngự bên hữu Thiên Chúa (Cv 7, 56 ; Rm 8, 24), thông phần sự toàn năng của Thiên Chúa ( Mt 28,18) và được mọi loài thọ tạo phải gối quỳ tôn thờ (Kh 19,19 ; 17,14). Chết cho Đức Kitô là để cho vương quyền của Ngài thống trị trên chúng ta. Cái chết này được diễn ra mỗi ngày trong đời sống người tín hữu, kể từ lúc bắt đầu giấy phút họ được dìm vào trong cái chết của Ngài nơi Bí tích Thánh Tẩy (Rm 8). Khi chúng ta làm chết đi trong mình con người yếu đuối, cho những dục vọng và lo lắng thế gian (Col 3,5), những đam mê bất chính - là những cái thể hiện uy quyền sự chết trên chúng ta - là lúc chúng ta để cho vương quyền Đức Kitô thống trị trên đời sống chúng ta (Gal 3,17), là để cho cuộc tạo thành mới của Đức Kitô được thể hiện nơi đời sống từng người (2Cr 5,17). Như thế, vương quyền của Đức Kitô ngự trị trên chúng ta trong đờisống mới và cái chết của mỗi người là một suy tôn thẳm sâu quyền bính này (Pr 3,10). Quả thế, thøường xuyên thông phần sự chết và sống lại của Chúa Cứu thế là đầu mối cho đời sống Kitô giáo. Phép Thánh Tẩy đưa người tín hữu vào mầu nhiệm cứu chuộc. Họ lưu lại ở đó mãi và không ngừng cử hành cuộc phối hiệp với Đức Kitô trong sự chết và tôn vinh cho đến ngày cuộc phối hiệp ấy kiện toàn, lúc họ nhắm mắt an nghỉ với Đức Kitô trong sự chết (2Tm 2,11) và sẽ sống lại với ngài ngày sau hết (Rm 6,8) (Durrwell, Đức Kitô phục sinh mầu nhiệm cứu độ trang 451).

Chính Đức Kitô đã nói về ý nghĩa của sự chết trong đời sống người tín hữu : “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sẽ sinh nhiều bông hạt” (Ga 12, 24.25) và : “Ai yêu mến sự sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ giữ được nó trong cuộc sống vĩnh cửu” (Mc 8, 35). Không chết đi như hạt lúa mì, thì sẽ chẳng bao giờ nảy sinh sự sống. Sertillanges nói : “Nếu chết là mất đi sự sống, thì ta đang làm mất sự sống từng giây từng phút. Sự chết hoạt động trong mọi khoảnh khắc đời ta. Sự sống xây đến đâu, thì sự chết phá đến đó. Nhưng nó vẫn không phải là hơi thở cuối cùng. Nếu người ta cảm nghiệm được sự chết thường xuyên ấy trong cuộc sống, họ sẽ có một cái nhìn khác về sự chết”.

Nếu chúng ta biết yêu mến sự sống cách sáng suốt, thì chắc chắn chúng ta cũng biết yêu mến sự chết của chúng ta. Vì từ khi Đức Kitô chết trên thập giá, sự chết vẫn luôn luôn là khởi đầu cho sự sống vĩnh cửu.


3. Cái chết là ngưỡng cửa đi vào đời sống vĩnh cửu

Thánh Phaolô diễn tả đời sống trong thân xác này như một cuộc lưu lạc xa Chúa (1 Cr 5, 6). Vì thế, ngài ước ao được gặp gỡ Thiên Chúa, được “ra đi” để tham dự  “cuộc hội ngộ của con caí Thiên Chúa” (Do Thái 12, 22-23). Đối với Ngài, cái chết là ngưỡng cửa đi vào sự sống vĩnh cửa nhờ vào cuộc Vượt qua của Đức Kitô in đậm nơi cuộc sống chúng ta. Với Đức Kitô, chúng ta vượt qua ngưỡng cửa sự sống với cây trường sinh đã được cắm trên đồi Can-vê. Do đó, với người tín hữu, “chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Phanxicô Khó Khăn).

Các tác giả Tin Mừng đã nhìn thấy nơi cái chết của Đức Kitô là cuộc hiến tế của Chiên Vượt qua. Đặc biệt trong phúc âm theo thánh Gioan, nhấn mạnh Đức Kitô là Chiên Thiên Chúa (Ga 1, 29.30) và đặt việc sát tế con chiên (Ga 18,28 ; 19,14.31.42) và cái chết trên thập giá của Đức Kitô - con chiên Vượt qua thực sự - vào chiều ngày 14 tháng Nissan cho trùng hợp với nhau.

Đức Kitô là Chiên Vượt qua (1 Pet 1,19 ; Kh 5,6) đã chuộc tội cho nhân loại bằng chính giá máu của Ngài (1P 1,18 ; Kh 5,9 ; Dt 9, 12-15). Ngài đã giải phóng con người và chuộc họ về với Thiên Chúa : “Ngài đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước mọi dân” (Kh 5,9).

Nhờø cái chết cứu độ của Đức Kitô, nhân loại được đón nhận một cuộc sáng tạo mới : cuộc sáng tạo trong ân sủng và sự sống của Đức Kitô tử nạn và phục sinh. Chính Đức Kitô đã để lại dấu ấn chiến thắng của Ngài trên mọi tạo vật. Khi cộng đoàn Kitô họp nhau vào ngày thứ nhất trong tuần, họ mừng mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô trong một sự liên kết đời sống họ với Ngài và hướng lòng trông đợi ngày Đức Kitô quang lâm (1 Cr 11, 26). Cùng với Đức Kitô, chiên Vượt qua của Giao ước mới, người tín hữu cũng sống mầu nhiệm Vượt qua bằng cái chết chotội lỗi và phục sinh để sống đời sống mới (Rm 6, 3-11). Như thế, mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô in đậm nét trong đời sống người tín hữu và hoàn tất nơi cái chết của họ : lúc họ “vượt qua” ngưỡng cửa đời này để bước vào đời sống hoàn toàn viên mãn, vĩnh cửu nơi Thiên Chúa. Cái chết trở nên điều kiện cần để người tín hữu bước vào cuộc vượt qua này mà đi vào bàn tiệc cánh chung nước trời (Mt 26,29). Đây là điều mà niềm tin Kitô giáo luôn tuyên xưng (x. nghi thức an táng). “chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Sách Giáo lý Công giáo số 1681 khẳng định : “Đốùi với Kitô hữu, ý nghĩa sự chết được mạc khải trong ánh sáng của mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm Tử nạn và phục sinh của Đức Kitô, Đấng đem lại cho chúng ta niềm hy vọng duy nhất” .

Như vậy, Kitô giáo không coi cái chết như là một dấu chấm hết, nhưng là một bước đệm cần thiết để thụ tạo tương đối được bước vào vĩnh cửu tuyệt đối của Đấng Tạo hóa. Cái kết thúc của cuộc sống đời này không phải là một sự triệt tiêu vĩnh viễn, nhưng là cửa ngõ mở vào đời sống chung cuộc của con cái Thiên Chúa. Cái quyết liệt mang tính chung cuộc của cái chết ở đây không phải chỉ vì là giới hạn mà con người phải mang lấy như một “định mệnh”, mà còn vì tính cách phân định rõ ràng của nó về một đời người : cái chết là chấm dứt cuộc sống trần thế, chấm dứt thời gian quyết định thưởng phạt của mỗi người trong cuộc sống đời sau. Cái chết như một cánh cửa chỉ mở một chiều mà khi đã bước vào, con người không thể trở lui mà chỉ còn việc đi vào các ngã rẽ của những “tình trạng” mà đời sống trần gian họ đã chọn lựa : cho Thiên Chúa hay từ chối ngài. Chính cái nhìn này giúp cho người tín hữu chuẩn bị cho câu trả lời mà Thiên Chúa luôn gọi họ “ngươi đang ở đâu ?” (St 3, 9), họ “đã sống vì biết chết”.

Giáo lý Công giáo vẫn luôn luôn xác định tính cách chung cuộc của đời người được khởi sự và quyết định nơi giờ chết : “Chết là kết thúc cuộc lữ hành trần thế, kết thúc thời gian Thiên Chúa gia ân và thương xót để con người sống cuộc đời trần thế theo ý Chúa và quyết định số phận tối hậu của mình. Khi chấm dứt cuộc đời trần thế duy nhất này, chúng ta sẽ không trở lại với những cuộc sống trần thế khác. Con người chỉ chết một lần” (Dt 9,29) (GLCG 1013). Thánh Têrêsa Giêsu đã phát biểu niềm tin ấy như sau : “Tôi muốn gặp Thiên Chúa, và để gặp Người tôi phải chết”.(x.GLCG 1011). Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng nhìn về cái chết cách tương tự : “Tôi không chết, nhưng bước vào cõi sống” (x.GLCG1011). Đối với người tín hữu, “qua cái chết, Thiên Chúa gọi chúng ta về với Người” (GLCG 1011).

Như vậy, cái chết trở nên một điều kiện bất khả phân ly đối với con người trên đường đi vào sự sống vĩnh cửu nơi Thiên Chúa. Con người chỉ có thể bước vào đời sống mới sau khi đã kinh qua cái chết, một cái chết không chỉ là định mệnh, nhưng còn là một sự hoàn tất bí tích cứu độ nơi mỗi người.


4. Cái chết là sự hoàn tất bí tích cứu độ nơi người tín hữu

Đối với những người sống đời sống như một mầu nhiệm sự chết và sự sống với Đức Kitô, thì sự chết là thông phần ơn cứu độ được khởi sự với đức tin và các bí tích, :"Được kết hợp mật thiết với Đức Kitô nhờ Bí tích Thánh tẩy, các tín hữu thật sự tham dự vào đời sống trên trờøi của Đức Kitô Phục Sinh, nhưng sự sống này còn “ẩn tàng với Đức Kitô trong Thiên Chúa” (Cl 3,3 ; Ep 2,6) (GLCG 1003), và "vì kết hợp cái chết của mình với cái chết của Đức Kitô, nên đối với người Kitô hữu, “chết là về với Chúa và bước vào cuộc sống muôn đời” (GLCG 1020). Đức Kitô đã mặc lấy bản tính nhân loại, tiêu diệt sự chết và biến caí chết của con người thành điểm bùng dậy của sự phục sinh. Thánh Giáo phụ Cyrynô đã nói về cuộc biến đổi ấy : “Cũng như sắt khi tiếp xúc với lửa liền mang màu sắc của lửa, thì cũng vậy, bản tính xác thịt sau khi tiếp nhận Ngôi Lời thần linh bất khả hủy và tác sinh, cũng trở nên miễn nhiễm đối với sự hư nát”. Đời sống siêu nhiên của mỗi người được phủ đầy Đức Kitô qua các Bí tích, là những phương thế hữu hiệu để ban ân sủng. Chính các Bí tích này nuôi dưỡng và quy hướng đời sống con người vào mầu nhiệm của Chúa Kitô và hiện thực hóa tính cách mầu nhiệm đó nơi con người.

Sự chết hoàn tất đời sống của người Kitô hữu đồng thời cũng đồng hóa sự chết của ta với sự chết của Đức Kitô. Sự đồng hóa này được thực hiện nhờ các Bí tích. Trong đời sống người Kitô hữu, các Bí tích là những biểu hiện cụ thể của những hành động nhờ đó ta “chiếm hữu” ơn cứu độ. Chiếm hữu cái chết của Đức Kitô để biến đổi cái chết của ta là một trong các hành độngnày. Nhờ các Bí tích, ta nhận lãnh các ân huệ của Thần Khí, Đấng mời gọi ta chịu đau khổ và chịu chết trong sự hiệp thông với Đức Kitô, nghĩa là chấp nhận chết như Người và với Người bằng cách tuân theo Thánh ý Thiên Chúa và hoàn toàn tin tưởng vào lời hứa của Người.

Nhờ Bí tích Thánh Tẩy, “ta được dìm vào trong cái chết của Đức Kitô” (Rm 6,3), chịu đóng đinh với Người, được mai táng và sống lại với Người. Khi ta bước ra khỏi giếng rửa tội cũng là khi ta sinh ra từ trong mồ chôn : một con người mới được sinh ra - con người được thanh tẩy, tái sinh, sống nhờ ân sủng và ân huệ của Thần Khí (x. GLCG 1214). Sống đời sống Kitô hữu chủ yếu là đem áp dụng và làm tăng trưởng hai hậu quả mà Bí tích Thánh Tẩy đã thực hiện trong ta : chết đối với tội lỗi và sống cho Thiên Chúa (x. GLCG 1239). Và nơi cái chết, ta hoàn tất sự tăng trưởng này và được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô : chết với Đức Kitô để được sống lại với Người. Như vậy, dấu chỉ trùng hợp với thực tại : ta chết thực sự và ta cũng sống thực sự trong Đức Kitô.

Thánh tẩy là chấp nhận cái chết đối với xác thịt để sống nhờ Thần Khí, nên Đức Kitô và Hội Thánh đã cho chúng ta Bí tích Thêm sức để tuôn đổ đầy Chúa Thánh Thần trên chúng ta, “để hoàn tất ân sủng của Bí tích Thánh Tẩy” (GLCG 1285). Việc ban Thánh Thần gắn liền với cái chết của Đức Kitô nên ta chỉ sống nhờ Thánh Thần khi chấp nhận cùng chết với Đức Kitô. Như vậy có một sựï liên hệ đặc biệt giữa Thánh Tẩy và việc đón nhận Bí Tích Thêm sức : Người tín hữu được đón nhận sung mãn Thần Khí của Đức Kitô, nhờ đó họ có khả năng sống chính niềm tin mà họ đã tuyên xưng khi lãnh nhận hai Bí tích này : Từ bỏ tội lỗi, chết cho con người cũ để sống sự sống thần linh của Thiên Chúa (x.GLCG 1321).

Nhờ Bí tích Thánh Thể, ta loan truyền cái chết của Đức Kitô là sự chết với sự sống của ta. Nếu ta loan truyền Đức Kitô là “Đấng bị trao nộp vì ta” thì Bí tích Thánh Thể phải thực hiện nơi ta cái chết của Người (x. GLCG 1404). Vì thế, điều cần thiết là con người đã được thông phần vào mầu nhiệm này thì phải loan truyền sự chết bằng cách chính mình trải qua sự chết. Nếu nhờ Bí tích Thánh Thể mà Đức Kitô ngày càng được “hình thành” trong ta, thì Đức Kitô này chỉ có thể là Đấng chịu đóng đinh, và mỗi khi ta cử hành cuộc tưởng niệm cái chết của Người, ta thông phần vào cái chết của Người.

Tuy đã cùng được mai táng với Đức Kitô", nhưng con người cũ của ta vẫn còn đó, khiến điều tốt ta muốn thì lại không làm, còn điều dữ không muốn thì lại cứ làm (x. Rm 7,15). Như vậy, có một sự giao tranh giữa sống theo Đức Kitô và chết cho tội lỗi không ngừng diễn ra nơi mỗi người. Chính Bí tích Giao hòa làm cho người Kitô hữu sống liên tục trong biện chứng ân sủng này (x.GLCG 1425) và “thực hiện một cuộc phục sinh thiêng liêng đích thực, hoàn lại phẩm giá và những đặc quyền của đời sống con Thiên Chúa” (GLCG 1468). Nơi Bí tích Giao Hòa, người tín hữu nhận trước sự phân xử của mình trước Thiên Chúa khi họ kinh qua sự chết (x. GLCG 1470).

Người Kitô hữu còn tập chết mỗi ngày khi bước vào đời sống gia đình do Bí tích Hôn Phối đem lại (Gal 12,25). Thánh Phaolô khuyên bảo các tín hữu Eâphêsô : “Hỡi người làm chồng hãy yêu thương vợ mình như Đức Kitô đã yêu thương và phó nộp mình cho Hội Thánh” (Ep 5, 25). Như vậy, trong đời sống Hôn nhân, khuôn mẫu sự hy sinh và hiến dâng mạng sống, chấp nhận “chết” cho tình yêu của Đức Kitô được lặp lại nơi chính đôi bạn, vì mọi tình yêu đều là chết đi đối với chính mình và hiến mạng sống cho người mình yêu từng giờ, từng phút.

Nhờ Bí tích Xức Dầu, trong giờ lâm tử, ta có đủ sức mạnh để đối phó với thử thách cuối cùng của cuộc đời, và, như thế, ta có thể hành động nơi mình cách hoàn toàn tự do : chết trong sự hiệp thông với Thiên Chúa. Bí tích Xức Dầu còn “hoàn tất điều Bí tích Thánh Tẩy đã khởi sự là người tín hữu được đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô chịu chết và sống lại” (GLCG 1523).

Đặc biệt đối với một số người, khi lãnh nhận Bí tích Truyền Chức, họ mặc nơi chính con người mình Đức Kitô Linh mục thượng phẩm (x. GLCG 1581) và như Đức Kitô, họ tập chết đi mỗi ngày trong con người mình để hoàn tất nơi mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô (LM 13), và như Đức kitô, họ trao hiến sự sống của mình hoàn toàn cho đoàn chiên (P.D.V 23).

Như vậy, đời sống Kitô hữu từ khi sinh ra cho đến khi chết là một sự cố gắng liên lỉ để chiếm hữu, để nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Ở mỗi giai đoạn của cuộc sống, cuộc chiếm hữu này không ngớt được thực hiện qua hiệu năng của các Bí tích. Hay nói cách khác “Tất cả các Bí tích, nhất là Bí tích khai tâm Kitô giáo, đều hướng tới mục tiêu là cuộc Vượt Qua cuối cùng dẫn đưa người con Thiên Chúa vượt qua sự chết, vào Đời Sống trong Nước Trời. Những điều người tín hữu tuyên xưng trong đức tin và hy vọng ‘tôi đợi trông ngày kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau’, lúc đó được hoàn tất trọn vẹn” (GLCG 1680). Như thế, “đối với Kitô hữu, chết là kết thúc đời sống Bí tích, là khởi đầu sự viên mãn của cuộc tái sinh đã bắt đầu nơi Bí tích Thánh Tẩy, là nên ‘giống’ hoàn toàn với ‘hình ảnh Con Thiên Chúa’ nhờ Thánh Thần xức dầu và nhờ tham dự Bàn Tiệc Nước Trời đã được tiền dự trong Bí tích Thánh Thể” (GLCG 1682).

KẾT LUẬN: HƯỚNG ĐẾN CHIỀU KÍCH MỤC VỤ

Cái chết của người Kitô hữu là một cuộc gặp gỡ, hiệp thông với Thiên Chúa - cuộc gặp gỡ chung cuộc, mang tính quyết định cho sự chọn lựa tự do của con người với Đấng kêu gọi mình. Khi cất lời kêu gọi họ, Thiên Chúa cũng tôn trọng sự tự do của mỗi người : đón nhận hay từ chối. Thánh Phaolô khuyến cáo các tín hữu rằng không ai sống  và chết cho mình mà là sống và chết cho Thiên Chúa. Nói cách khác chết là một hành vi tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Vấn đề ở đây là có những người chọn lựa cái chết cách tiêu cực, chẳng hạn tự sát và chết êm dịu. Giáo hội không thể không bày tỏ quan điểm của mình trước những hiện trạng tiêu cực đó. Đồng thời với tất cả sự yêu thương lo lắng như người mẹ hiền đối với con cái, Giáo hội luôn chăm sóc và hiện diện với tất cả lòng từ tâm bên những người hấp hối trong những giây phút cuối cùng của đời người.

1. Thái độ của Giáo hội trước những phản kháng tiêu cực của cái chết

a. Chết êm dịu

Giáo lý Công giáo khẳng định : “Với bất cứ lý do nào và bất cứ phương tiện nào, việc trực tiếp giết chết để tránh đau vẫn là nhằm chấm dứt sự sống của những người tật nguyền, đau yếu hoặc hấp hối. Về phương diện luân lý, việc này không thể chấp nhận được” (GLCG 2277).

Do đó, có ý làm hoặc bỏ không làm một việc tự nó đưa đến cái chết, để chấm dứt sự đau đớn của một người, là một tội cố ý giết người, tội nghiêm trọng nghịch với phẩm giá con người và với lòng tôn kính Thiên Chúa hằng sống, Đấng tạo thành con người. Một phán đoán sai lầm cách ngay tình không thay đổi bản chất của hành vi sát nhân, một hành vi cần phải loại trừ và cấm chỉ về mặt luân lý.

Xét trên quan điểm luân lý. Mọi hình thức làm cho chết êm dịu vì thương xót bệnh nhân đều phi pháp và đều là tội sát nhân, bất kể người bệnh có hay không ưng thuận. Các hình thức ấy đều kéo theo tự sát hay chỉ đơn giản là giết người vô tội. Chẳng phải một mình huấn quyền lên án việc giết người êm ái (Đức Piô XII & MV 27), mà rất nhiều nhà chuyên môn trong lĩnh vực luân lý và pháp luật cũng bác bỏ việc ấy hay ít ra phản đối những người đã thực hiện hành vi ấy, tức là thầy thuốc.

Sự sống là quà tặng Thiên Chúa ban, ta phải trân trọng, nâng niu, nuôi nấng và gìn giữ. Chối bỏ sự sống là chối bỏ chính Thiên Chúa.


b.Tự sát

Tự sát là hành vi giết người, là một lỗi nặng, được xếp vào điều răn thứ năm trong thập giới.

Giáo lý số 2280 nói rõ : Mỗi người chịu trách nhiệm về sự sống của mình trước mặt Thiên Chúa là Đấng ban sự sống. Chúng ta có bổn phận với lòng biết ơn và gìn giữ sự sống để tôn vinh Thiên Chúa và được cứu độ. Chúng ta là người quản lý chứ không phải là chủ sự sống mà Chúa đã trao ban, chúng ta không có quyền định đoạt về mạng sống mình.

Tự sát là nghịch lại với khuynh hướng tự nhiên muốn bảo tồn và kéo dài sự sống của con người. Tự sát không những là lỗi phạm nặng nề đến chính bản thân mà còn xúc phạm đến tình yêu của tha nhân vì cắt đứt mối dây liên hệ đến những người thân yêu (GLCG 2281).

Luật của Giáo hội trước đây đã quy định : Những ai tự sát sẽ không được an táng theo nghi thức của Giáo hội. Nhưng ngày nay, Giáo hội có hướng nhìn tích cực hơn, Giáo Hội tin vào tình thương của Thiên Chúa chiếu dọi trên họ trong những giây phút cuối cùng.


2. Thái độ của Giáo hội đối với người hấp hối

Đứng trước cái chết, người ta dễ cảm thấy hụt hẫng và bất lực hoàn toàn; mọi hy vọng, mọi ước muốn và ngay cả những gì có trong thực tại đều là vô nghĩa, trong thâm tâm chỉ còn là những gì nuối tiếc và có thể nói là bất mãn tất cả. Trong những giờ phút đó, làm sao cho họ có được sự bình an, thanh thản, và thấy được ý nghĩa tích cực của cái chết thay vì nảy sinh những ý nghĩ tiêu cực trong giờ hấp hối. Nhờ có những giây phút chuẩn bị khi phải đối diện với cái chết, họ sẽ có được niềm tin mạnh mẽ, đức cậy vững vàng, lòng mến thiết tha vào Thiên Chúa để sẵn sàng ra đi về nhà Cha.

Sau đây chúng ta thử nêu lên một vài vấn đề liên quan đến những người sắplìa trần, từ đó cùng đưa ra một vài phương hướng chăm sóc cho những người hấp hối cho có hiệu quả.

Vấn đề của người chết gây ra nhiều phức tạp cho Giáo hội mà người mục tử phải đối diện. Chính vì thế, việc chăm sóc cho người hấp hối là một việc hết sức cần thiết và quan trọng. Bằng những lời khuyên, những lời động viên, khích lệ, các mục tử có thể giúp người hấp hối được vững tin, an ủi, bình an khi phải lìa khỏi cõi đời. Cách giúp đỡ hữu hiệu, hợp với hướng dẫn của Giáo hội mà người mục tử có thể làm là cho họ được hưởng tất cả các việc đạo đức của Kitô giáo như : lắng nghe Lời Chúa để chuẩn bị lãnh nhận của ăn đàng, đồng hành trên bước đường thiêng liêng, cử hành nghi thức an táng.


a. Của Ăn Đàng

Của ăn đàng giúp người bệnh cảm nhận sâu xa sự hiện diện của Thiên Chúa đang đồng hành với họ, để họ :

- Sống mầu nhiệm Chúa Kitô đau khổ, và nhận ra Chúa Kitô là “đường dẫn tới Chúa Cha”.

- Khám phá ra mối hiệp thông với Giáo hội sở tại của mình, và với Giáo Hội Chúa Kitô trên hoàn vũ.

Đồng thời việc cho người bệnh nhân lãnh nhận của ăn đàng cũng duy trì mối liên lạc giữa cộng đoàn với các vị chủ chăn, các vị này phải theo dõi và thăm hỏi các bệnh nhân, hay qua thừa tác viên mang mình Chúa nếu Linh mục không đến thăm được.

Tầm quan trọng của việc đưa của ăn đàng đến cho người hấp hối là hết sức cần thiết, không thể thiếu trong đời sống mục vụ của người mục tử. Giáo hội cũng luôn khuyên nhủ các linh mục lưu ý đến những bệnh nhân khi gần chết, cho họ được rước Mình Máu Chúa Kitô, lãnh nhận các Bí tích sau cùng như Xức dầu bệnh nhân và Giải tội để họ được tham dự trực tiếp vào sự chết và sống lại của Chúa Kitô.


b. Đồng Hành Với Người Hấp Hối

Không chỉ có mục tử mà cả giáo dân cũng có thể chia sẽ với những người hấp hối. Khi một người sắp qua đời, tình huynh đệ bắt các Kitô hữu phải bày tỏ tình liên đới bằng sự hiện diện của mình. Họ cùng bệnh nhân cầu nguyện, xin Chúa đoái thương để niềm tin của bệnh nhân được vững mạnh (Nghi thức bệnh nhân, 209).

Việc đồng hành với người hấp hối mang lại một chiều kích hiệp thông với Giáo hội. Trong nhiệm thể Chúa Kitô là Hội thánh, một chi thể đau thì mọi chi thể cùng đau (1 Cr 12,26). Bởi đó, lòng thương xót đối với bệnh nhân cũng như công việc được mệnh danh là bác ái và tương trợ để nâng đỡ tất cả mọi nhu cầu của nhân loại, thường được tôn trọng nhất (TĐ 8) và bằng mọi cách nhằm kéo dài sự sống thể xác (MV 13). Mọi việc săn sóc tận tình đối với bệnh nhân phải được thực hiện, có thể được coi như việc chuẩn bị cho Tin Mừng và phần nào tham gia vào tác vụ thương người của Chúa Kitô (HT 28). Phải dùng lời nói đức tin và lời cầu nguyện chung mà khích lệ bệnh nhân, dâng bệnh nhân cho Chúa Kitô đau khổ và vinh hiển, hơn nữa khuyên bảo bệnh nhân vui lòng kết hiệp với cuộc khổ nạn và sự chết với Chúa Kitô để mưu ích cho dân Thiên Chúa (HT 21). Bên cạnh đó không thể thiếu hình bóng của vị linh mục, các Ngài có nhiệm vụ săn sóc các linh hồn, có bổn phận đích thân thăm viếng bệnh nhân và lấy tình bác ái dồi dào mà giúp đỡ họ. Nhưng nhất là khi ban các Bí Tích, các Ngài phải khích lệ lòng trông cậy của những người tham dự và nâng đỡ lòng tin của họ vào Đức Kitô đau khổ và vinh hiển, hầu mang niềm tin của Hội thánh mẹ hiền và sự yên ủi của đức tin mà nâng đỡ những người có tín ngưỡng, đồng thời hướng những kẻ khác về thế giới siêu nhiên.


c. Cử Hành Nghi thức An Táng

Giáo lý Công giáo nói đến cái chết như cuộc vượt qua cuối cùng của người Kitô hữu : “đối với Kitô hữu, ý nghĩa sự chết được mạc khải trong ánh sáng vượt qua, Mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Đức Kitô, Đấng đem lại hy vọng duy nhất. Người Kitô hữu được cùng chết với Đức Kitô, lìa bỏ thân xác này để được ở bên Chúa”(2Cr 5,8) (GLCG 1681).

Cái chết của người Kitô hữu như một kết thúc đời sống bí tích để khởi đầu một cuộc mới trong Đức Kitô. Vì mang một ý nghĩa quan trọng như thế, nên Giáo Hội có một nghi lễ an táng cho người đã qua đời, để vừa diễn tả sự hiệp thông với người quá cố, vừa giúp cộng đoàn ý thức về sự sống đời sau của mình.

Trong Giáo hội, để diển tả đặc tính vượt qua nơi cái chết của Kitô hữu, có những nghi lễ an táng khác nhau, tùy theo những hoàn cảnh và truyền thống từng miền, ngay cả về màu sắc phụng vụ (GLCG 1685), nên theo đó cử hành nghi lễ an táng sao cho trang trọng và phù hợp để làm nổi bật sự cung kính đối với người đã khuất.

Lời kết : Lối mở còn bỏ ngỏ của cái chết

Trên đây chỉ là những nét khái quát hóa một vài vấn đề của cái chết theo Kitô giáo, những vấn đề này đã được trình bày dưới khía cạnh giáo lý khi chúng ta tham dự những lớp giáo lý khai tâm, nhưng giờ đây được trình bày dưới khía cạnh thần học để tạo thêm sự xác tín cho đức tin của người Kitô hữu. Bài viết này ngoài việc trình bày sơ lược cái chết theo Kitô giáo, chỉ là sơ lược thôi vì chẳng ai biết chết là gì và chẳng ai có kinh nghiệm về sự chết dù chỉ một lần; nó cũng mở ra khía cạnh mục vụ để mục tử, cộng đồng dân chúa đồng hành, quan tâm đến người hấp hối nhiều hơn. Vấn đề này cũng còn khá mới mẻ đối với đời sống đạo của Kitô hữu, hay nói đúng hơn đã có vài nơi nơi thực hiện nhưng còn khá lẻ tẻ, chưa đồng bộ. Hiện nay chúng ta có khá nhiều tài liệu để cung cấp để làm việc này, tài liệu chính thức của Giáo Hội cũng như của những nhóm thiện chí biên soạn ra. Mong sao có nhiều mục tử quan tâm hơn để gia đình người hấp hối cũng như đương sự tìm được niềm ủi an, khích lệ. Thiết tưởng đây không chỉ là những hành động thuộc đời sống thiêng liêng, nhưng còn là nghĩa cử hết sức nhân bản, đậm nét nhân ái.

Một khía cạnh khác cũng xin lưu ý khi cử hành những nghi thức cho người đã qua đời, đó là khía cạnh truyền giáo của việc cử hành các nghi lễ an táng.
Một thựïc tế không thể phủ nhận, đó là trong những mối quan hệ xã hội, việc chia sẻ với nhau trong những dịp hiếu hỷ, đặc biệt trong việc tang chế, là một phần con người, đặc biệt trong khung cảnh văn hóa Á Đông của chúng ta rất thường gặp. Việc chia sẻ này có nhiều hình thức, song hình thức thông thường nhất là hiện diện để an ủi chia buồn với tang gia. Việc chia sẻ này nhiều khi bao gồm cả việc "tham gia" vào những nghi lễ tại nhà hiếu, tại nhà thờ và nơi phần mộ của người quá cố. Trong số những "tham dự viên" đó, rất thường và là dịp để những người lương dân tiếp xúc với những nghi thức tôn giáo của người Công giáo. Hay nói cách tích cực hơn, đó là những cơ hội cho chúng ta bày tỏ niềm tin và giới thiệu giáo lý Kitô giáo cho họ.

Dĩ nhiên, không thể ngày một ngày hai để mọi người có thể chấp nhận và chia sẻ niềm tin với chúng ta. Nhưng những dịp như thế sẽ để lại những "vấn nạn niềm tin" cho những ngưòi khác. Và có thể, vào một lúc thuận tiện nào đó, nó có thể "chỗi dậy".

 Như vậy, vấn đề đặt ra cho chúng ta là liệu những cách cử hành của chúng ta có thể qua đó giới thiệu niềm tin Kitô giáo ? Liệu những người ngoài Kitô giáo có thể hiểu phần nào về những nghi thức và cử chỉ chúng ta cử hành, hay họ chỉ thấy đó là những cách diễn tả thuần kiểu duy lý Tây phương mà rất xa lạ với tâm thức cảm nghiệm đầy hình tượng của tư duy Đông phương ? Và liệu trong số những cử hành tang chế trong văn hóa dân tộc, cách cử hành nào chúng ta có thể chọn lựa để "hội nhập", để diễn đạt niềm tin Kitô, vì điều này đã là một thực hành thông thường trong thời Giáo Hội Sơ Khai, rất nhiều cử hành của dân ngoại đã được Giáo Hội "rửa tội" để nhận vào kho tàng cử hành rất phong phú của mình khi mặc cho nó một ý nghĩa, một giá trị mới. Như vậy, vấn đề hội nhập và sử dụng các nền văn hóa như phương tiện truyền tải chân lý Kitô giáo vẫn còn là một chân trời cần nhiều bàn tay và khối óc chân thành khám phá.

Một khía cạnh khác nữa của việc cử hành an táng, đó là khía cạnh hiệp thông, hòa giải có thể được khai thông qua những biến cố này.

Thường những dịp tang chế là cơ hội để những người trong gia đình, gia tộc, bà con láng giềng qui tụ lại tưởng niệm người quá cố. Những khi đó, mọi người cũng dễ bỏ qua những bâùt đồng, những xích mích đã qua để vừa tỏ sự tôn trọng với người quá cố, vừa để an ủi gia đình trước sự ra đi của người thân. Thực tế cho thấy đã có những gia đình, trong quá khứ đã có những rạn nứùt, thậm chí tan vỡ, chia ly trong một thời gian khá dài - và thời gian có thể làm cho những thương tổn ngày nào được nguôi ngoai, lắng dịu, thậm chí có những ý hướng tích cực cho việc hòa giải - thì giờ đây, việc một người nằm xuống lại trở thành một cơ hội để mọi người có thể đến với nhau. Người mục tử, trong sự yêu thương và quan tâm chăm sóc cho đàn chiên, nên lưu tâm đến những trường hợp khá phổ biến này, để với tình yêu, uy tín và sự chân thành cộng tác với ơn Chúa, có thể lo lắng và tận dụng cơ hội này để hòa giải những mối bất hòa.

Như vậy, cái chết, xét theo một nghĩa nào đó, dù rất nhân bản, cũng không thể là một sự chấm dứt. Nó luôn còn đó với biết bao lối mở không chỉ cho người đã ra đi, nhưng còn cho cả những người còn ở lại ; không chỉ cho cá nhân người nằm xuống, nhưng còn là nỗi băn khoăn, trăn trở cho cả cộng đoàn đặc biệt cho người mục tử trong sứ vụ đồng hành và phục vụ cho đàn chiên mình.

------------------------------------------------------
SÁCH THAM KHẢO
 
Kinh Thánh Cựu, Tân ước, Uûy ban phụng vụ giờ kinh, 1997.
Giáo lý Hội thánh Công giáo, 1997.
Giáo lý cho người trưởng thành, Hội đồng giám mục Pháp, 1996
Công đồng Vaticanô II, bản dịch của Giáo hoàng học viện, 1972.
Điển ngữ thần học, Giáo hoàng học viện, 1975.
Fx. Durrwell, Đức Kitô con người và cái chết, 1991.
Fx. Durrwell, Đức Kitô phục sinh - mầu nhiệm cứu độ, 1993.
J. Gélineau, Họp nhau cử hành phụng vụ, 1992.
Bernard Pro OP., Niềm trông cậy bất khuất, 1975.
Fx. Vallilon, Vui sống vui tin yêu.
Sogyal Rinpoche, Tạng thư sống chết, 1992.
Karl H. Peche, Thần học luân lý chuyên biệt, 1986
Aug. Nguyễn văn Trinh, Cánh chung học, 2000.
Jos. Nguyễn văn Tuyên, Tin mừng nước Thiên Chúa, 1996.
Pet. Phan đình Cho, 101 câu hỏi về cái chết và sự sống vĩnh hằng, 1999.
Guy Nguyễn hồng Giáo, Triết nhập môn, 1996.
Nguyễn thế thoại, Tôn giáo học và các tôn giáo lớn ở Việt nam,
Nguyễn văn Đình và Nguyễn hữu Triết, Chăm sóc bệnh nhân theo đường hướng mục vụ mới, 1997.
Khuyết danh, Sống đức tin trong các Bí tích.
Khuyết danh, Con người và những vấn đề của con người trong ánh sáng Đức Kitô
 

More in this category: Suy Tư Về Ý Nghĩa Sự Chết »