Tuesday, 14 January 2020 04:22

Đức Tin Trong Thần Học Featured

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.

 

“Đức tin trong thần học” có thể được hiểu theo nhiều nghĩa. Thần học vốn được quan niệm như là “sự suy tư về đức tin” (cogitatio fidei). Đức tin theo sát tiến trình làm việc của thần học (auditus fidei, intellectus fidei, praxis fidei). Điều này hàm ngụ rằng đức tin là linh hồn của thần học: nếu không có đức tin thì thần học mất ý nghĩa. Mặt khác, nếu đối tượng nghiên cứu của thần học là các chân lý đức tin thì đức tin bao trùm hết mọi lãnh vực của thần học. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể đặt câu hỏi dưới một góc cạnh khác: thần học nói gì về đức tin? Đức tin đã đặt ra những vấn đề gì cho thần học? Đây là đối tượng khảo sát của bài này. Đức tin được thần học nghiên cứu trong nhiều lãnh vực chuyên ngành, và mỗi ngành thường chỉ quan tâm đến vài vấn đề đặc thù; vì thế nên có một cái nhìn tổng hợp.

Trước hết, chúng ta hãy lần lượt duyệt qua những vấn đề liên quan đến đức tin trong Kinh thánh và lịch sử Giáo hội; kế đó, chúng ta điểm qua những khía cạnh của đức tin được bàn trong thần học nền tảng, thần học tín lý, thần học luân lý, thần học tâm linh.

Trước khi vào đề, thiết tưởng nên lưu ý đến việc dịch thuật: fides (fides tiếng Latinh, foi tiếng Pháp; faith tiếng Anh) không nhất thiết có nghĩa là “đức tin”. Đôi khi chỉ là “niềm tin, lòng tin, tín ngưỡng”, hoặc đơn thuần là: “tin tưởng, tín thác”, nghĩa là những thái độ được áp dụng trong cuộc sống hằng ngày[1]. Đây mới chỉ là một nhận xét sơ khởi, bởi vì sau này, thần học sẽ còn phân biệt nhiều hình thức và cấp độ của tin: tự nhiên / siêu nhiên; hành vi / nhân đức;  chủ thể / khách thể, v.v...
 
I. KINH THÁNH

Ta cũng có thể khẳng định rằng thế giới Kinh thánh cũng có một nét giống với thế giới Việt Nam về phương diện từ ngữ. Thật vậy những từ ngữ nói đến “tin” được áp dụng trong đời sống thường nhật trước khi nói đến những thực tại cao siêu.

A. Cựu ước
     
1/ Từ ngữ

Hai từ ngữ Do thái thường dùng hơn cả là aman và batak.
     
a) Động từ Aman, xét theo nguyên ngữ, có nghĩa là: đeo, mang (thí dụ mang đứa con trên tay: Ds 11,12; R 4,16; 2Sm 4,4); theo nghĩa bóng, aman là dựa vào ai, nương tựa, tin tưởng. Do động từ aman mà có thán từ (hay trạng từ) amen, có nghĩa là: đúng thế, chắc rồi, chính xác!
     
b) Batak nói lên ý tưởng: trông cậy, tín thác. Như vậy, tin có nghĩa là: trông mong, hy vọng, tin tưởng.  Những từ ngữ này được dùng trong đời sống hằng ngày, cách riêng trong bối cảnh của mối tương quan xã hội, nhưng ở đây chúng ta giới hạn vào tương quan giữa con người với Thiên Chúa.

2/ Ý niệm

Những ý tưởng vừa gợi lên (nương tựa, tín thác) của việc tin được kiện toàn dần dần trải qua tiến trình mạc khải của Thiên Chúa cho Israel: thời tổ phụ Abraham, thời xuất hành của Môsê, thời các ngôn sứ, thời các nhà hiền triết[2].

a) Lịch sử bắt đầu với ông Abraham. Hồi ấy ông tin thờ các thần khác. Thế rồi, Thiên Chúa hiện ra với ông, hứa ban cho ông một vùng đất màu mỡ và con cháu đông đúc (St 12,1). Lời hứa ấy xem ra xa vời, nhưng ông vẫn tin vào Thiên Chúa (St 15,6), tin vào lời hứa của Ngài. Ông tin rằng Thiên Chúa trung tín với lời hứa và có khả năng thực hiện. Ông tín thác vào Ngài, và thậm chí sẵn sàng hy sinh đứa con của mình khi Ngài đòi hỏi. Ông trở thành khuôn mẫu của một kẻ có lòng tin (Hc 44,20) và tổ phụ của những kẻ có lòng tin (Rm 4,9-11).

b) Lịch sử mạc khải Cựu ước bước sang một chặng quyết liệt khi Thiên Chúa can thiệp vào cuộc giải thoát dân Israel ra khỏi cảnh nô lệ Ai cập. Thiên Chúa của các tổ phụ đã thăm viếng đoàn dân đang bị áp bức. Thiên Chúa gọi ông Môsê, và hứa sẽ ở với ông trong công cuộc dẫn dắt Israel vào đất hứa (Xh 3,11-15). Ông Môsê đã đáp lại bằng niềm tin (Dt 11,23-29). Ông được đặt làm kẻ môi giới giữa Thiên Chúa với dân: ông thông đạt chương trình của Chúa cho dân, và kêu gọi họ hãy tin vào Chúa, hết lòng tín thác vào Ngài (Ds 14,11; Xh 19,9). Tin có nghĩa là vâng nghe (Đnl 9,23), đáp lại amen (Đnl 27,9-6) với lời Chúa, được biểu thị qua giao ước. Như vậy, tin không chỉ là một lời thưa chấp thuận nhưng còn là thái độ trung thành kéo dài qua năm tháng. Niềm tin thường được lặp lại qua những cuộc tuyên xưng (Đnl 6,4-9; 26,5-9; Tv 78; 105): dựa trên việc kỳ diệu của Thiên Chúa đã làm cũng như thâm tín quyền năng và lòng trung tín của Ngài (Tv 136), dân Israel khẳng định quyết chí dành tất cả tâm trí để yêu mến một mình Thiên Chúa mà thôi.

c) Tin có nghĩa là tín thác vào lời hứa; tin có nghĩa là chấp nhận giao ước, và biểu lộ qua việc tuyên xưng. Các ngôn sứ còn vạch ra những yêu sách khác của đức tin, khi đụng đến những hoàn cảnh khác nhau của lịch sử.

      - Hệ luận quan trọng của niềm tin vào Thiên Chúa là từ bỏ các ngẫu tượng. Israel luôn bị cám dỗ chạy theo các vị thần của các tôn giáo của dân láng giềng, nhất là khi niềm tin được gắn liền với những phúc lộc trước mắt: tiền của, hoa màu ruộng đất, thắng lợi quân sự. Khi thấy các dân lân bang được những thành quả ấy, Israel bị cám dỗ muốn chạy theo các thần của họ (chẳng hạn thần Baal) vì nghĩ rằng các thần ấy “thiêng” hơn là Giavê, Thiên Chúa của các tổ phụ. Các ngôn sứ không những tố cáo tội thờ ngẫu tượng (Hs 2,7-15; Gr 2,5-13) bởi vì đó là đồ hư ảo (Gr 2,25), mà cả việc cứu viện các cường quốc bởi vì làm như vậy là cậy dựa vào binh mã nhân loại thay vì tin tưởng vào sự che chở của Thiên Chúa (Hs 1,7; Is 31,1). Các ngôn sứ nhắc nhở dân Israel hãy bình tĩnh tín thác vào Thiên Chúa. Thiên Chúa là đá tảng của dân (Is 44,8; 50,10), Đấng trung tín với lời hứa, mạnh mẽ hơn các thần của Babylonia (Is 44,6; 43,8-12; Tv 115,7-11).

      - Đức tin của dân Israel đã trải qua một cuộc thử thách nặng nề khi họ chứng kiến cảnh tàn phá đền thờ và cảnh lưu đày sang Babylonia. Các ngôn sứ giải thích rằng đây là một hình phạt về tội bất trung với giao ước, đã được cảnh cáo nhiều lần. Không phải là Thiên Chúa bỏ rơi Israel, nhưng là Israel đã bỏ Chúa, khi họ tìm sự nương tựa nơi các thế lực nhân loại và ngay cả khi việc thờ phượng của họ rỗng tuếch. Dù nói gì đi nữa, nếu có ai nghi ngờ quyền năng Thiên Chúa trước thảm họa này thì cũng là điều dễ hiểu. Thế nhưng trong hoàn cảnh hầu như tuyệt vọng ấy, các ngôn sứ thời lưu đày đã đào sâu hơn khía cạnh bền bỉ của niềm tin vào Thiên Chúa: tin không chỉ có nghĩa là giữ vững lòng tin tưởng kể cả lúc gặp thử thách, nhưng tin còn có nghĩa là hy vọng bất chấp mọi hoàn cảnh trái ngược. Thật vậy, giữa cảnh nước mất nhà tan, các ngôn sứ loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đưa dân trở về quê hương, sẽ tái thiết xứ sở. Để củng cố niềm tin tưởng ấy, các ngôn sứ nại đến chân lý về sự tạo dựng: Thiên Chúa có quyền năng tạo dựng vạn vật từ hư vô, thì Ngài cũng có dư sức để tái lập dân Israel hiện đang tản mát nơi đất khách quê người.

d) Các sách Khôn ngoan mở rộng đối tượng của niềm hy vọng: người tín hữu tin tưởng rằng Thiên Chúa không chỉ hứa ban thưởng những phúc lộc ở đời này (tài sản phong phú, con cháu đầy đàn), nhưng nhất là những điều thiện ở đời sau. Vào giai đoạn cuối của Cựu ước, chúng ta thấy thêm một chiều kích mới của đức tin: tin vào Thiên Chúa kể cả vào những lúc bị thử thách, tựa như ông Giób, và thậm chí ngay cả khi người tín hữu bị bách hại (2Mcb 7; Đn 12,2; Kn 2,3; 3,1-9).

Như vậy, quan niệm về niềm tin được tiến triển dần dần: từ chỗ tín thác vào lời hứa, đến chỗ chấp nhận giao ước; từ việc chấp nhận giao ước đến việc trung thành với giao ước; từ việc trung thành với giao ước đến chỗ mở tầm nhìn đến những thực tại không thuộc thế giới này. Song song với sự kiện toàn ý niệm là sự kiện toàn những tâm tình về phía con người: từ chỗ tin tưởng vào một thần linh quyền năng, đến chỗ lắng nghe Lời Chúa, tuyên xưng những kỳ công của Chúa, trung thành với Luật Chúa kể cả khi phải hy sinh mạng sống.

B. Trong Tân ước

Xét về từ ngữ, Tân ước đỡ phức tạp hơn, bởi vì thường chú trọng vào danh từ pistis[3]. Tuy nhiên, xét về nội dung thì phong phú hơn Cựu ước. Trong Cựu ước, tin là tín thác vào Thiên Chúa hoạt động trong lịch sử của dân tộc. Trong Tân ước, sự can thiệp của Thiên Chúa dồn vào thân thế và công trình của đức Kitô. Tin bao gồm nhiều khía cạnh:

      - Tin có nghĩa là chấp nhận sứ điệp mà đức Kitô mang lại, đó là ơn cứu độ được Thiên Chúa ban cho nhân loại qua cái chết và phục sinh của đức Giêsu. Tuy đó là một biến cố lịch sử nhưng nó được diễn tả thành sứ điệp, vì thế nó bao hàm khía cạnh đạo lý. Tin là một hành vi có chiều kích tri thức: chấp nhận sứ điệp được rao giảng qua ngôn ngữ và nếp sống.

      - Tuy nhiên, tin không chỉ giới hạn vào lãnh vực hiểu biết. Tin đòi hỏi sự tuân phục, tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi việc trao ban Con của Ngài. Tin cũng kèm theo một cuộc thay đổi não trạng và nếp sống.

Đó mới chỉ là những nét khái quát. Mỗi tác giả Tân ước khai triển một vài khía cạnh đặc thù tùy theo nhu cầu của mỗi giáo đoàn cụ thể.

1/ Tin mừng Nhất Lãm

Trong Tin mừng nhất lãm, tin có ba nghĩa: tin tưởng vào quyền năng của đức Giêsu (x. Mc 2,5; 5,34); chấp nhận Tin mừng mà đức Giêsu rao giảng (Mc 1,15; 16,16.17); chấp nhận chính đức Giêsu.

a) Tin có nghĩa là tín thác vào lòng tốt và quyền năng của đức Giêsu. Điều này được nêu bật nơi thánh Marcô. Tin là điều kiện tiên quyết để Chúa làm phép lạ: họ phải tin tưởng Người. Người không thể làm phép lạ nào ở Nazareth bởi vì dân thiếu lòng tin (Mc 6,5-6). Ngược lại, Người nói với ông Giairô đã mất người con gái: “Đừng sợ; chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36).

b) Tin có nghĩa là chấp nhận Tin mừng do đức Giêsu rao giảng. Điều này được thấy ngay từ đầu Tin mừng Marcô: “Thời gian đã viên mãn, và triều đại Thiên Chúa đã gần kề; hãy thống hối và tin vào Tin mừng” (Mc 1,15); cũng như vào lúc kết thúc cuốn sách: “Hãy ra đi khắp thế giới, rao giảng Tin mừng cho mọi thụ tạo. Ai tin và lãnh phép rửa thì sẽ được cứu rỗi” (Mc 16,15-16). Tin vào Tin mừng có nghĩa là chấp nhận rằng Thiên Chúa đã can thiệp vào thế giới nơi bản thân, lời nói và lời giảng của đức Giêsu. Vì thế, ai muốn vào vương quốc Thiên Chúa thì phải chấp nhận những điều kiện mà đức Giêsu đặt ra. Điều này đòi hỏi một cuộc hoán cải, thay đổi não trạng.

c) Tin có nghĩa là chấp nhận bản thân đức Giêsu. Đây là bước thứ ba: từ chỗ chấp nhận lời giảng về đức Giêsu đến chỗ chấp nhận bản thân Người: Người là Chủ tể (Kyrios). Điều này xảy ra sau cuộc Phục sinh, và được nhấn mạnh trong sách Tông đồ công vụ (x.các kerygma). Dù sao, thánh Luca diễn tả thái độ này qua những hành động cụ thể: đi theo đức Kitô, vác thập giá (Lc 9,23), làm chứng và tuyên xưng (Lc 12,8-9).

2/ Thánh Gioan

Tin chiếm một địa vị nổi bật trong các tác phẩm của thánh Gioan. Động từ pisteuein (tin) được dùng 98 lần trong Tin mừng thứ bốn và 9 lần trong các thư ; còn danh từ pistis chỉ được dùng 1 lần trong 1Ga 5,4 (“Đây là điều làm cho chúng ta thắng được thế gian: lòng tin của chúng ta”). Xem ra thánh Gioan quan tâm đến lối sống hơn là đến đạo lý. Tuy vậy, ở cuối Tin mừng, tác giả viết như sau: “Những điều này đã được ghi chép ngõ hầu anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống đời đời” (20,31). Chúng ta hãy tìm hiểu ba điểm liên quan đến: đối tượng, bản chất, hiệu quả của việc tin.

a) Đối tượng: tin vào Thiên Chúa và tin vào đức Giêsu (8,31.45.46; 10,37.38; 14.11). Đức Giêsu là Đấng Kitô (11,27; 20,31), kẻ được Chúa Cha sai đến (11,42; 17,8.21), là Con Thiên Chúa (20,31), kẻ từ Chúa Cha mà đến (16,27.30). Chúa Cha với đức Giêsu là một (10,30; 17,21).

b) Bản chất: Thánh Gioan quan niệm “tin” như là một tiến trình gặp gỡ. Cùng với động từ “tin”, tác giả còn dùng những động từ đồng nghĩa tựa như: “đến với” (5,40; 6,35.44ff.65; 7,37), “tiếp đón” (1,12; 5,43), “yêu mến” (8,42; 14,15.21.23f.28; 16,27). Tin là một tiến trình năng động: nó tăng trưởng tiệm tiến, từ những bước khởi đầu đến chỗ hoàn bị, từ chỗ đón nhận đức Giêsu vì phép lạ đến chỗ chấp nhận Người mà không cần phép lạ. Vài thí dụ: 4,46-53 (sĩ quan cận vệ, động từ tin được nói đến ở câu 50 và 53, với hai cấp độ); 4,39-42 (người dân Samaria tin vì nghe lời thuật của người phụ nữ và tin vì nghe lời của Chúa); chương 9 (người mù: so sánh câu17 với câu 38).

c) Hiệu quả. Tin liên quan đến chuyện sinh tử: số phận vĩnh cửu của con người tùy thuộc vào việc tin hay không tin: “Ai tin thì sẽ không bị xét xử, ai không tin thì đã bị xét xử rồi” (3,18). Ai tin vào Con thì được sự sống hằng hữu (3,36; 6,40.47; 20,31). Tin dẫn đến sự sống vĩnh cửu; không tin dẫn tới hư vong. Tin mang tính quyết định đến số phận vĩnh hằng. Tin mở đường đến hạnh phúc đời đời; nhờ tin mà chúng ta biết Chúa, ở lại trong đức Kitô.

Ngoài ra, “tin” và “yêu” liên kết với nhau: tin dẫn đến yêu; nhưng tin cũng là kết quả của yêu, bởi vì tin là kết quả của ơn thánh Chúa. Tin là một hồng ân.

3/ Thánh Phaolô

Tin là vâng theo lời Chúa được biết nhờ việc rao giảng (Rm 10,17; 16,26; 1,5; 2 Cr 9,13; 10,5; 2 Tx 1,8). Ông Abraham là tấm gương của đức tin bởi vì ông vâng theo lời Chúa nói cho ông. Tin là một tâm tư nội tâm nhưng cũng bao hàm việc tuyên xưng bên ngoài miệng nữa (Rm 10,9).

Lời giảng và lời tuyên xưng đều có một nội dung: “Đức Giêsu là Chúa; Người đã chịu chết trên thập giá vì tội chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người chỗi dậy vào ngày thứ ba” (1Cr 15,3; xc.1Tx l,9t; Rm 10,4; Cl 2,12; Ep 1,20; Gl 1,1; Rm 4,25, vv.). Tin mừng là đức Kitô. Phàm ai tin vào Thiên Chúa thì cũng chấp nhận kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi đức Kitô. Vì thế Đức Kitô là đối tượng của đức tin.

Đức tin là khởi đầu của tiến trình cứu độ, được đặt tên là “ơn được nên công chính” (công chính hóa). Tuy nhiên sự nhấn mạnh đến chỗ “duy chỉ đức tin mới làm nên công chính chứ không vì giữ luật” (Rm 3,28) đã đưa đến những giải thích cực đoan khiến cho thánh Giacôbê phải lên tiếng (Gc 2,14-16; xem thêm Mt 7,21). Thực ra trong các lá thư, ở phần khuyến thiện, thánh Tông đồ đã nói nhiều đến việc uốn nắn cuộc đời sao cho phù hợp với Tin mừng.

Người ta nhận thấy rằng trong những thư đầu tiên, thánh Phaolô nhấn mạnh đến quyền năng và sức mạnh của Lời Chúa hay của Tin mừng, nhưng trong những thư mục tử, Người bận tâm đến “đạo lý” và khuyên răn Timôthê hãy “giữ gìn đạo lý” (1Tm 6,20; 2 Tm 1,14), “đạo lý lành mạnh” (1Tm 1,10; 2Tm 4,3; Tt 1,9; 2,1). Đây là một “gia sản” (depositum: paratheke) được ủy thác và cần phải giữ gìn cẩn thận.

Tuy ngày nay các học giả không coi thánh Phaolô là người viết Thư gửi người Hipri, nhưng tư tưởng của nó gần gũi với thánh Tông đồ. Tác giả dành trọn chương 11 để trưng bày mẫu gương của các chứng nhân đức tin, với lời mở đầu như sau: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”. Thánh Tôma Aquinô đã nhận thấy nơi đây một định nghĩa cho nhân đức tin (Summa Theologica, II-II, q.4.a.1), gồm bởi hai yếu tố:

      - đối thể: những điều tương lai mà ta trông mong;

      - chủ thể: xác tín, kiên trì[4].

Tóm lại, pistis trong Tân ước là một thực thể phong phú bao hàm nhiều khía cạnh.

      - Khía cạnh tri thức: hiểu biết về bản thân và sứ điệp của đức Giêsu.

      - Khía cạnh tin tưởng vào sự chân thành của Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta nơi đức Kitô. Sự tín thác kèm theo niềm hy vọng rằng những lời Chúa hứa sẽ được thực hiện (Dt 11,9-11; Rm 4,17-20; 1Pr 1,5-9). Hy vọng phát sinh sự kiên trì và chung thủy (2Tm 4,7; Rm 1,5; Gl 5,6).

      - Hiệu quả: đức tin mang lại đời sống mới (ơn trở nên công chính; thụ tạo mới).

Khi đối chiếu giữa quan niệm “tin” trong Cựu ước và Tân ước, các tác giả nhận thấy sự liên tục và sự mới mẻ. Sự liên tục ở điểm là tin bao hàm thái độ tín thác, tin tưởng vào Thiên Chúa can thiệp trong lịch sử; sự mới mẻ ở chỗ đối tượng của sự can thiệp của Thiên Chúa được biểu lộ cách cụ thể nơi đức Giêsu Kitô: kể từ nay, ai tin vào Thiên Chúa thì cũng phải tin vào đức Giêsu Kitô. Như vậy trong Tân ước, tin mang thêm một chiều kích, đó là chấp nhận Đức Kitô. Điều trớ trêu là khi đọc Tin mừng, ta thấy những người không tin đức Kitô là những người Do thái; họ không phải là người vô thần, và phần lớn rất trung thành với Luật Mosê. Trong bối cảnh ấy, ta dễ hiểu vì sao Tân ước nhấn mạnh đến tầm quan trọng của đức tin, tin vào lời giảng của chính đức Giêsu và lời giảng của Hội thánh. Đức tin cần thiết để được cứu rỗi. Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ để chứng minh sứ mệnh của mình, nhưng phép lạ chưa đủ để tin. Cần thái độ cởi mở, cũng như hợp tác với ân sủng. Ngoài ra, vài vấn nạn khác cũng được nêu lên trong cộng đoàn tiên khởi: tương quan giữa tin và biết, tin và thấy, tin và làm, mà thánh Phaolô, thánh Gioan và thánh Giacobê tìm cách trả lời.
 
II. LỊCH SỬ GIÁO HỘI

Ở đây chúng tôi không có tham vọng kể ra tất cả những lạc thuyết trái nghịch với đạo lý đức tin, nhưng chỉ ghi nhận vài điểm liên quan đến bản chất của đức tin.

A. Thời các giáo phụ

Có thể chia làm hai giai đoạn, lấy thánh Augustinô làm mốc.

1/ Trước thánh Augustinô

Các giáo phụ nhấn mạnh đến sự quan trọng của đức tin để được cứu rỗi. Đức tin được ấn định qua các “quy luật đức tin” (regula fidei).

Các giáo phụ cũng phải trả lời nhiều vấn nạn của các triết gia đương thời. Vì thế vấn đề tương quan giữ đức tin và triết học được đặt ra. Vài giáo phụ không ngần ngại khẳng định rằng đức tin là cửa dẫn vào “triết học chân chính” (minh triết sophia, gnosis), còn triết học chỉ chuẩn bị cho đức tin. Theo thánh Giustinô, triết học chứa đựng những mầm của “lý” (logos) còn đức Kitô là chính Lời (Logos). Clêmentê Alexandria đặt tên cho đạo lý về Thiên Chúa là philosophia. Nói thế không có nghĩa là coi nhẹ triết học; ngược lại, cần phải dùng triết học để chuẩn bị và bảo vệ đức tin. Origene cũng theo chiều hướng đó, nghĩa là đức tin là đỉnh cao của tri thức, tuy không quên nhấn mạnh rằng tri thức đức tin còn hướng dẫn cuộc sống và các hành vi, đòi hỏi cuộc dấn thân luân lý. Cần thiết phải có những đức tính luân lý, chẳng hạn như tâm tình vâng phục, kiên nhẫn, thì mới có thể đạt đến sự hiểu biết mầu nhiệm. Khuynh hướng huyền bí được phát triển cách riêng nơi các giáo phụ Cappađôxia[5].

2/ Thánh Augustinô

Một trong những đề tài suy tư của thánh Augustinô là tương quan giữa lý trí và đức tin, được phát biểu nơi công thức “intellige ut credas, crede ut intelligas"[6]. Có một tác dụng hỗ tương giữa hai phía. Lý trí giữ vai trò chuẩn bị trí tuệ; đức tin mang đến gia tài chân lý. Cần phải chấp nhận đức tin để có thể nắm bắt được nó, mặc dù đức tin vẫn luôn cần được làm sáng tỏ: "fides quaerit, intellectus invenit". Đức tin thúc đẩy sự suy tư[7]. Đối với thánh Augustinô, sự hiểu biết cao cấp nhất (chân lý) thuộc về đức tin chứ không phải là của lý trí (triết học).

Dù sao, trên đường hiểu biết chân lý đức tin, thánh nhân đặt nặng tác động nội tại của Chúa Thánh Thần. Ngoài ra, ngài cũng nhìn nhận vai trò quan trọng của Hội thánh: “giả như không có thế giá của Hội thánh Công giáo thì tôi sẽ chẳng tin vào Tin mừng được”[8].

Đức tin mang tính năng động: con người tiến gần đến Chúa, gắn bó với Chúa, và sẵn sàng hy sinh những chuyện thế sự vì đức tin. Vì thế khi nói đến đức tin mang lại ơn cứu độ, thì đó không chỉ là chấp nhận chân lý mà thôi, nhưng còn là hoán cải và yêu mến.

Tóm lại, thánh Augustinô đã để lại cho hậu thế nhiều suy tư về hành vi đức tin, và cách riêng là sự phân biệt giữa hai khía cạnh: fides quae )khía cạnh khách thể; nội dung đức tin fides qua (khía cạnh chủ thể; việc chấp nhận đạo lý)[9]. Một thuật ngữ khác là credere Deum, credere Deo, credere in Deum. “Credere Deum” nói đến đối tượng của đức tin; “credere Deo” nói đến động lực của đức tin; “credere in Deum” thêm vào khía cạnh hiện sinh, khi con người ký thác tất cả cuộc đời cho Thiên Chúa.

B. Thời Trung cổ

Tương quan giữa đức tin và lý trí vẫn còn là trọng tâm nghiên cứu của thần học thời Trung cổ. Vào giai đoạn đầu của kinh viện, thánh Anselmô tiếp tục đường hướng của thánh Augustinô qua công thức “fides quaerens intellectum”, dùng lý trí để làm sáng tỏ nội dung đạo lý đức tin. Tuy nhiên dần dần kinh viện áp dụng triết học Aristote để phân tích cấu trúc của việc “tin” (hành vi của lý trí và hành vi của ý chí), và dần dần mất đi chiều kích cứu độ của đức tin. Điều này đã gây ra phản ứng nơi khuynh hướng “thần học đan tu” (theologia monastica) của thánh Bênađô và Bonaventura, nhấn mạng đến sự cần thiết nuôi dưỡng đức tin bằng cầu nguyện, ngõ hầu cảm nghiệm về Thiên Chúa, sống kết hiệp với Ngài bằng tâm tình.

Thánh Tôma Aquinô cố gắng trình bày một cái nhìn toàn diện về đức tin. Tin là một nhân đức hướng Chúa: đức tin nằm trong tiến trình hướng đến ơn cứu độ. Đức tin là khởi điểm của sự sống vĩnh cửu (II-II, q.4,1). Để tin cần có những dấu chỉ khả tín (lời giảng, dấu lạ, lý luận), nhưng chừng ấy chưa đủ. Tin là do chính Thiên Chúa là Chân lý thông ban mình ở bên trong con người[10]. Yếu tố quyết định của đức tin là tác động của ân sủng, được ví như là ánh sáng và bản năng. Sự xác tín đức tin dựa trên ánh sáng ấy chứ không phải do sự hiển minh nội tại. Tuy nhiên, mặc dù ánh sáng đức tin vượt quá khả năng lý trí nhưng không hủy diệt lý trí; trái lại, nó nâng cao lý trí và đưa lý trí đến mục tiêu mà nó nhắm. Cũng nên thêm rằng người tín hữu vào thời Trung cổ nhận được một sự hỗ trợ cho đức tin ở nơi cơ cấu văn hóa xã hội của họ.

C. Cuộc Cải cách Tin Lành

Phong trào Cải cách hồi thế kỷ XVI đã gây ra một sự xung khắc trong Giáo hội về quan điểm đức tin.

Đối với Lutêrô, tin là tin tưởng vào lời hứa của Chúa, và phó thác cho lòng Chúa khoan nhân. Đối với ông, con đường dẫn đến Thiên Chúa không phải là sự suy tư của con người, nhưng là sự tin tưởng vô điều kiện. Ông coi nhẹ giá trị của chân lý; nhưng rồi chủ đề chân lý lại được Melanthon và Calvin quan tâm.

Phản ứng lại quan điểm về niềm tin như là tin tưởng phó thác, Công đồng Trentô nhấn mạnh đến việc lý trí chấp nhận đạo lý mạc khải. Việc chấp nhận này  chứng tỏ con người muốn quy hướng về Thiên Chúa, và được triển nở nhờ đức cậy và đức mến, là những thành tố của việc được trở nên công chính. Như vậy, bên Tin Lành nhấn mạnh khía cạnh tin tưởng và phó thác vào Chúa; bên Công giáo nhấn mạnh đến sự chấp nhận đạo lý mạc khải, và như vậy nêu bật khía cạnh tri thức cũng như vai trò của huấn quyền Giáo hội. Thật ra đó là hai khía cạnh của đức tin bổ túc lẫn nhau chứ không trái nghịch nhau. Tiếc rằng bầu khí tranh luận sôi nổi của thời ấy không cho thấy điều đó. Bên Tin lành có lý khi nhấn mạnh đến chiều kích tương quan tín thác; nhưng nếu chỉ dừng lại ở chỗ này thì sẽ đưa đến thái độ chủ quan, như thực sự đã xảy ra. Phía Công giáo có lý khi nêu bật chiều kích khách thể của đạo lý mạc khải, cũng như hoạt động của lý trí và ý chí; nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây thì có nguy cơ thu hẹp đức tin vào vào một mớ kiến thức, như thực sự đã xảy ra. Phải chờ những cuộc đối thoại đại kết mới đạt được cái nhìn đa diện như sẽ thấy ở Công đồng Vaticanô II.

D. Thời Cận đại

Lịch sử cận đại bên châu Âu được đánh dấu với nhiều cuộc cách mạng chính trị, xã hội, tôn giáo. Sau cuộc ly khai giữa Công giáo và Tin lành là những cuộc cách mạng chính trị xã hội muốn khai trừ tôn giáo ra khỏi xã hội. Về mặt văn hóa, người ta đề cao vai trò của lý trí và khoa học thực nghiệm, và đồng hóa tín ngưỡng với mê tín. Trong bối cảnh này, thần học bị dồn vào thế phòng thủ, tìm cách kháng cự những công kích của đối phương; đó là lý do của sự phát triển của ngành hộ giáo (apologetica).

Công đồng Vaticanô I tìm cách chứng tỏ rằng đức tin không mâu thuẫn với lý trí. Tuy rằng chân lý đức tin vượt quá sự hiểu biết của lý trí nhưng không phải là phi lý. Có những dấu chỉ bên ngoài giúp cho lý trí xác nhận tính hữu lý của đức tin. Tuy nhiên, động lực tất yếu của đức tin là thế giá của Thiên Chúa là Đấng không thể nào sai lầm và Ngài không lường gạt ai[11].

Trong thế kỷ XX, cách riêng từ sau thế chiến thứ hai, những luồng triết học hiện sinh có khi muốn nhấn mạnh đến tương quan liên bản vị, có khi lại muốn đi tìm ý nghĩa cuộc đời. Công đồng Vaticano II đã nắm bắt khía cạnh tích cực ấy khi phân tích đức tin dưới nhãn giới của đối thoại gặp gỡ cũng như hy vọng, như ta thấy trong các hiến chế Dei verbum[12] và Gaudium et spes. Công đồng cũng đề cập đến phần rỗi của những người không biết Tin mừng, bao gồm các tín đồ thuộc các tôn giáo khác cũng như những người vô tín ngưỡng.

Trải qua lịch sử của Dân Chúa trong Cựu ước và Tân ước, ta thấy TIN đặt ra khá nhiều vấn đề. Không lạ gì mà đề tài ấy được phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau trong những chuyên ngành thần học.

Trong phần còn lại của bài này, chúng tôi chỉ mô tả vắn tắt những đề tài được thảo luận chứ không đi sâu vào chi tiết.
 
III. ĐỨC TIN TRONG CÁC CHUYÊN NGÀNH THẦN HỌC

Chúng tôi xin phân ra làm bốn chuyên ngành: căn bản, tín lý, luân lý, tu đức. Dĩ nhiên, sự phân phối này không mang tính chặt chẽ: một đề tài có thể được bàn trong nhiều ngành khác nhau.

A. Thần học cơ bản

Trước đây, môn này mang tên là “hộ giáo” (Apologetica), nhằm đến ba mục tiêu chính: 1) cho thấy rằng ngoài những chân lý mà lý trí có thể khám phá được còn có những chân lý chỉ có thể biết được do mạc khải và chấp nhận bằng đức tin; đức tin vượt quá lý trí nhưng không phi lý, bởi vì có những chứng cớ hợp lý để tin; 2) cho thấy rằng Thiên Chúa đã mạc khải trong lịch sử Israel và đặc biệt nơi đức Giêsu; điều này được xác nhận nhờ các ngôn sứ và phép lạ; 3) cho thấy rằng mạc khải của Chúa Kitô được truyền thụ trong Hội thánh do Người thiết lập, và Hội thánh chân chính là Hội thánh Công giáo được cai quản bởi đức Giáo hoàng kế vị thánh Phêrô, vì hội đủ nhờ bốn dấu chỉ (duy nhất, thánh thiện, công giáo, tông truyền).

Ngày nay, người ta muốn giảm đi tính cách tranh biện, và cố gắng trình bày đức tin trong tiến trình con người đi tìm ý nghĩa cuộc sống. Thần học cơ bản trình bày những bước dẫn vào đức tin (praeambula fidei), những lý chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa, những dấu khả tín của mạc khải[13]; nói tắt là “giải thích những lý do của niềm hy vọng” (1Pr 3,15).

Người ta cũng phân tích động lực (hoặc yếu tố tâm lý) của việc tin: tin là tác động của lý trí và ý chí, nhưng không được phép bỏ qua tác động của ơn thánh. Đây là cả một câu chuyện hóc búa: làm thế nào dung hòa giữa tác động của con người với tác động của ơn thánh? Phải chăng con người phải khởi động, rồi ơn thánh sẽ trợ lực? Hay là phải nói rằng cần ơn thánh kích động từ bước đầu tiên đến chỗ hoàn tất? Dù sao thì không thể tính toán cách máy móc kiểu như tỉ số đóng góp trong một công ty! Có người phát biểu sự hợp tác giữa ơn thánh và tự do với công thức: “tất cả đều là ơn thánh và tất cả đều là của con người”.

Đôi khi thần học cơ bản cũng tiếp tục bàn thêm những vấn đề khác, chẳng hạn như tương quan giữa lý trí và đức tin[14], hoặc vai trò của lý trí đối với đức tin (nghĩa là chính chức năng của khoa thần học). Vấn đề này được bàn trong “Nhập môn thần học”[15].

B. Thần học tín lý

Xét về đề tài Tin, thần học cơ bản và thần học tín lý có nhiều điểm trùng hợp với nhau. Dưới một phương diện nào đó, dựa theo tựa đề của tự sắc của tông huấn Porta fidei, ta có thể tạm phân biệt như thế này: thần học cơ bản tìm hiểu những cửa dẫn vào đức tin; thần học tín lý tìm hiểu cánh cửa mà đức tin dẫn tới (tức là mầu nhiệm Thiên Chúa).

Trong thần học tín lý, Tin được phân tích dưới nhiều khía cạnh: tin như hành vi (actus) hay như tập quán (habitus); tin xét về phía chủ thể (fides subjectiva) và tin xét về phía đối thể (fides objectiva); tin và tín điều (dogma); tín điều và kho tàng đức tin (depositum fidei).

1/ Tin như là hành vi (actus)

Theo thánh Tôma, “tin là một hành vi của trí tuệ chấp nhận chân lý thần linh, do ý chí thúc giục và nhờ ơn thánh lay động”[16]

a) Tin là một hành vi tự do của con người, tin tưởng phó thác cũng như chấp nhận chân lý. Tin bao hàm toàn thể con người, như một cuộc gặp gỡ cũng như suy phục.

b) Tin cũng là một tác động của ơn Chúa, thúc giục, soi sáng và lôi cuốn con người đến với ngài.

Tin vừa là một hành vi của con người vừa là một hành vi của Thiên Chúa. Con người có thể khước từ việc tin, bởi vì lý trí không hiểu được nội dung của chân lý mạc khải. Do đó, lý trí chấp nhận tin nhờ ý chí thúc đẩy (khi cho thấy điều tốt của việc tin) cũng như nhờ tác động của ơn Chúa. Vì thế tin là một hành vi tự do và có công phúc.

Thánh Tôma giải thích tính cách tự do của việc tin xét vì đối tượng của nó không hiển minh. Công đồng Vaticanô II mở rộng thêm nhãn giới của tự do nhìn dưới khía cạnh tâm lý. Không ai có thể bị cưỡng bách chấp nhận đức tin: con người chỉ bị thu hút bởi sức mạnh của chân lý, chứ không thể bằng bạo lực (x.GLCG số 160).

2/ Tin như một tập quán (habitus): Nhân đức tin

Như đã nói ở đầu, trong các ngôn ngữ Âu châu, fides (faith, foi) chỉ có nghĩa là tin (lòng tin, niềm tin), chứ không hẳn là đức tin. Thực vậy, việc áp dụng danh từ “nhân đức” (arete tiếng Hy-lạp, virtus tiếng La-tinh) cho bộ ba “tin cậy mến” là do các giáo phụ, và cụ thể là thánh Gregôriô Cả (k.540-604)[17]. Tin là một nhân đức, “nhờ đó chúng ta tin tưởng vào Chúa và chấp nhận tất cả những gì Ngài phán dạy và mạc khải ... bởi vì Ngài là chân lý” (GLCG số 1814).

      - Tin là một nhân đức siêu nhiên, do Thiên Chúa ban chứ không do thủ đắc. Do đó, đức tin khác với “tín ngưỡng” là một cảm thức tự nhiên của con người. Là một nhân đức, tin có tính cách bền vững, chứ không chỉ là một cảm giác thoảng qua. Hơn thế nữa, đức tin còn ví như ánh sáng, được thông dự vào sự hiểu biết của Thiên Chúa, nhờ đó con người nhìn thấy và phán đoán vạn vật theo nhãn giới của Thiên Chúa.

      - Bản chất của đức tin: chấp nhận điều Thiên Chúa mạc khải là chân thật.

      - Động lực của đức tin: dựa trên uy quyền của Thiên Chúa (chứ không dựa trên sự hiển minh của chân lý), là Đấng chân thật.

Thường đức tin được nhìn trong tương quan với chân lý, và do đó thuộc về lãnh vực trí tuệ. Thật ra đức tin chi phối toàn thể con người, bao hàm cả khía cạnh tâm tình nữa. Ngôn ngữ thời nay thích quan niệm tin như là một cuộc gặp gỡ, một tương quan tâm giao. Trên thực tế, tiếp theo thánh Augustinô[18], thánh Tôma đã nhận xét rằng các bản văn cổ điển của kinh Tin kính đã diễn tả ba chiều kích đức tin qua công thức: credere Deum, credere Deo, credere in Deum[19].

      - Credere Deum: Tin Thiên Chúa (hiện hữu)

      - Credere Deo: Tin tưởng Thiên Chúa (vì Ngài chân thật)

      - Credere in Deum: Tín thác vào Thiên Chúa (với lòng yêu mến)

Cũng đừng quên rằng Thiên Chúa chúng ta tin thờ là Tình yêu[20], Thiên Chúa Tam vị: Chúa  Cha đã cử đức Giêsu đến để mạc khải cho nhân loại và lôi kéo họ về với mình; Đức Kitô đã biểu lộ tình yêu Thiên Chúa bằng lời nói việc làm, đặc biệt là nhờ thập giá; Thánh Linh mở lòng con người để gắn bó với chân lý.

3/ Tin xét như chủ thể và xét như đối thể

a) Đức tin xét về phía chủ thể tức là về phía người tín hữu (fides qua creditur): tin có nghĩa là tin tưởng, phó thác, gắn bó.

b) Đức tin xét về phía khách thể (hay đối thể: fides quae creditur) là những “đạo lý đức tin” (doctrina fidei). Những đạo lý này do Thiên Chúa mạc khải và do Hội thánh xác nhận (definire: tuyên bố tín điều). Như vậy, tin có nghĩa là chấp nhận các đạo lý.

Như đã nói trên đây, trong các thế kỷ gần đây, phía Tin lành nhấn mạnh khía cạnh chủ thể, còn phía Công giáo nhấn mạnh đến khía cạnh đối thể. Công đồng Vaticanô II kết hợp cả hai chiều kích[21].

Tuy rằng đức tin nhắm đến chính Thiên Chúa, và đức tin cũng là hồng ân mà Chúa tác động trên mỗi người, nhưng trên thực tế, nhờ Hội thánh mà chúng ta biết được mạc khải của Chúa, và chúng ta sống đức tin giữa lòng cộng đồng Hội thánh. Điều này dẫn ta đến chiều kích Hội thánh của đức tin.

4/ Tin - tín điều (dogma) - gia sản đức tin (depositum fidei)

Dưới khía cạnh khách thể, đạo lý đức tin được liên kết với tín điều và gia sản đức tin

a) Tin và tín điều

Xét về phương diện từ ngữ thì trong tiếng Việt “tin” và “tín điều” rất gần gũi nhau, nhưng trong tiếng Latinh thì không thế: dogma là một từ gốc Hy-lạp. Vào thời cổ, dogma có nghĩa là nghị quyết, sắc lệnh (nghĩa pháp luật), hoặc là học thuyết, quan điểm (nghĩa triết học). Mãi đến sau Công đồng Vaticanô I, dogma mới được sử dụng theo nghĩa hiện nay, đó là: “một đạo lý được Huấn quyền tuyên bố như là chân lý mạc khải (veritas revelata) được chứa trong gia sản đức tin (depositum fidei)”.

Vào thời các giáo phụ và kinh viện, các “tín điều” được gọi bằng những danh xưng khác, chẳng hạn: quy luật đức tin (regula fidei, regula veritatis, canon veritatis), tín biểu (symbolum fidei), tín cơ (articulus fidei: đoạn, khúc trong cơ thể). Dù dưới nhiều danh xưng khác biệt, nhưng thời nào Giáo hội cũng gặp phải những hoàn cảnh tương tự buộc phải xác định đạo lý của niềm tin, đó là: tuyên xưng và rao giảng.

      - Tuyên xưng đức tin, đặc biệt trước khi gia nhập đạo. Đó là nguồn gốc của các “tín biểu rửa tội”. Việc tuyên xưng cũng còn diễn ra trong các buổi cử hành phụng vụ, và đó là nguồn gốc của các “vinh tụng ca”.

      - Rao giảng. Việc công bố sứ điệp đòi hỏi một nội dung, như ta đã thấy nơi các kerygma trong Tân ước. Việc xác định nội dung đạo lý lại trở nên cần thiết hơn nữa khi có những dị giáo, lạc giáo. Đây là nguồn gốc của các “tín biểu công đồng” (thí dụ: Constantinopolis I; Trento), và của những lần tuyên bố tín điều (definitio dogmatica).

Trong khái niệm về tín điều, cần phân biệt hai yếu tố: chất thể và mô thể

      - Chất thể: phải là một chân lý do Thiên Chúa mạc khải.

      - Mô thể: chân lý ấy đã được Huấn quyền tuyên bố.

Chúng ta buộc phải tin vào những chân lý do Chúa mạc khải (fides divina); nhưng chúng ta biết được chân lý mạc khải là nhờ Huấn quyền xác nhận (fides catholica). Huấn quyền không “tạo ra” tín điều, nhưng chỉ xác nhận, định nghĩa chính xác tín điều vì nó nằm trong gia sản đức tin.

b) Gia sản đức tin

Thuật ngữ “gia sản đức tin” (depositum fidei, cũng được dịch là “kho tàng đức tin”) lấy từ Tân ước (paratheke: 1Tm 6,20; 2 Tm 1,13 tt), và được sử dụng nhiều trong các văn kiện huấn quyền trong thế kỷ XIX-XX (thí dụ: Vatican I, Dei Filius; Vatican II, Lumen gentium 25; Dei verbum 10). Ta không nên hiểu theo nghĩa vật chất là một ngân hàng hoặc văn khố lưu trữ các đạo lý đức tin, nhưng theo nghĩa thiêng liêng, nhằm nói đến vai trò của Hội thánh là trung thành bảo vệ những chân lý cũng như những hồng ân cứu độ của Chúa Giêsu. Hội thánh không phải là chủ nhân các chân lý ấy, nhưng Hội thánh đã lãnh nhận gia sản từ các thánh tông đồ và có sứ mạng truyền thông những hồng ân ấy cho mọi thời đại. (Xc. GLCG số 84; 857; 891; 2035).

Hội thánh giữ gìn gia sản không như một món đồ cổ, nhưng như một thực thể sinh động. Hội thánh phải tìm cách đào sâu sự hiểu biết các đạo lý mạc khải, và tìm những ngôn ngữ thích đáng để diễn tả đạo lý cho con người ở những nơi và những thời khác nhau.

Công đồng Vaticano II nhìn nhận sự tiến triển (progressus) trong việc hiểu biết chân lý mạc khải (Dei Verbum, số 8), nhờ những nhân tố sau: - nghiền ngẫm suy niệm Lời Chúa; - học hỏi; - cảm nghiệm tâm linh; - Huấn quyền. (Xc. GLCG số 94).

Nói cho cùng, “chân lý” ở đây không phải là cái gì trừu tượng, nhưng chính là Đức Kitô (Ga 1,14; 14,6). Thánh Linh đến giúp Hội thánh hiểu biết chân lý hơn, có nghĩa là hiểu biết Đức Kitô hơn, yêu mến Người hơn, cũng như để cho Người chiếm ngự Hội thánh hơn.

C. Thần học luân lý

Thần học luân lý bàn về những gì phải làm hoặc phải tránh, điều gì là tốt điều gì là tội. Ta có thể kể ra vài điểm chính.

1/ Đức tin cần thiết để được cứu rỗi (GLCG số 161; 1253-1255)

Mệnh đề này có thể hiểu theo hai nghĩa:

a) Theo các tác giả Tin mừng, tin là điều kiện để được cứu rỗi (xc. Mc 16,16; Ga 3,16-18; 5,24). Tuy nhiên, một câu hỏi đã sớm nảy lên: những người không có đức tin thì sao? Tình trạng này không do lỗi tại họ, nhưng chỉ vì họ chưa được nghe giảng Tin mừng. Các nhà thần học kinh viện đã tìm cách trả lời bằng cách phân biệt tình trạng đức tin ám tàng (implicita: tin rằng Thiên Chúa hiện hữu và là Đấng thưởng phạt, dựa theo Dt 11,6), và tin minh nhiên (explicita). Đối với những người chưa được nghe loan báo Tin mừng, thì đức tin ám tàng cũng đủ. Sang thế kỷ XX, các cuộc tranh luận trở nên sôi nổi hơn, liên quan đến sự cứu rỗi của những người ngoài Kitô giáo.

b) Từ thời Cải cách Tin lành, một đề tài trở thành sôi nổi, liên quan đến tiến trình trở nên công chính (iustificatio), được công đồng Trentô bàn trong Sắc lệnh về việc công chính hóa (Decretum de iustificatione, khóa VI, ngày 13/1/1547). Tiến trình này bao gồm nhiều hành vi: hoán cải, thay đổi tâm tư não trạng, chế ngự các bản năng dục vọng. Tiến trình thanh luyện này cũng cần sự can thiệp của ơn Chúa.

2/ Đức tin linh hoạt (fides operativa)

Xem ra trong cộng đồng các Kitô hữu tiên khởi đã có người giải thích tư tưởng thánh Phaolô, và cho rằng chỉ cần tin là đủ nên công chính. Họ quên lời căn dặn của ngài là đức tin cần được linh hoạt nhờ đức ái (Gl 5,6). Vì thế thánh Giacôbê có lý để nói rằng đức tin mà không có việc làm là đức tin chết (Gc 2,17).

Dựa theo các đoạn văn vừa kể, thần học nói đến đức tin  “sống” (hoàn hảo, fides formata) khi được kết hiệp với đức ái; đối lại là đức tin “chết” (bất toàn, fides informis), là tình trạng của người mất ân nghĩa với Chúa (phạm tội trọng). Đức tin vẫn tồn tại chứ không mất (dựa theo công đồng Trento : Denz.Sch.1578). Đức tin chỉ bị mất khi phạm tội “vô tín” (infidelitas). Nên lưu ý là danh từ này khó dịch, như sẽ nói dưới đây.

3/ Việc tuyên xưng đức tin

Con người là một hữu thể gồm cả hồn cả xác, một sinh linh sống trong cộng đồng xã hội. Do đó, niềm tin trong tâm hồn bộc phát ra bên ngoài qua những dấu hiệu của lời nói và việc làm, mà ta gọi là “chứng tá”. Cách riêng, việc chứng tá bằng lời nói được gọi là “tuyên xưng”. Có khi Tân ước nói đến sự tuyên xưng như cái gì tự phát từ con tim (xc. Rm 10,10), nhưng đôi khi sự tuyên xưng trở thành một nghĩa vụ, vì bày tỏ trước mặt xã hội lòng gắn bó với Chúa Giêsu (xc. Mt10,32), kể cả đến mức độ hy sinh mạng sống, như trường hợp của các vị tuẫn giáo.

Việc tuyên xưng đức tin được giáo luật quy định cho vài trường hợp, đặc biệt khi đảm nhận vài chức vụ (Bộ Giáo luật điều 833).

4/ Những tội trái nghịch đức tin (GLCG 2087-2089)

Có nhiều thứ tội và cấp độ, được các tác giả phân loại dựa theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau:

a) Xếp theo sự trái nghịch với bổn phận

      - Tội trái nghịch với bổn phận phải tin: vô tín, phản đạo.

      - Tội trái nghich với bổn phận tuyên xưng đức tin: giấu diếm, chối bỏ đức tin.

      - Tội trái nghịch với bổn phận phải bồi dưỡng đức tin: không học hỏi giáo lý.

      - Tội trái nghịch với bổn phận phải tránh những cơ hội nguy hiểm cho đức tin.

b) Xếp theo mặt tiêu cực hoặc tích cực

      - Tiêu cực là bỏ không làm (omissio): không chu toàn bổn phận phải học hỏi, tuyên xưng, v.v...

      - Tích cực là phạm tội chống lại đức tin (commissio). Người ta thường kê ra bốn tội: vô tín, lạc giáo, bội giáo, ly giáo.

      (i) Vô tín (infidelitas). Theo nguyên ngữ, in-fidelitas có nghĩa là “không trung thành” (bất trung, bất tín). Tiếc rằng trong quá khứ, từ ngữ infideles cũng được gán cho những người “ngoại đạo” cũng như “vô đạo”[22], từ đó đưa đến sự đồng hóa giữa người “vô đạo” với người “phản đạo”. Thánh Tôma phân biệt hai hoàn cảnh infidelitas: tiêu cực (negativa, materialis) và tích cực (positiva, formalis). Hoàn cảnh thứ nhất (những người ngoại đạo) không phải là tội luân lý; hoàn cảnh thứ hai mới là tội, khi từ chối không tin chân lý mạc khải.

      (ii) Lạc giáo (haeresis) là ngoan cố chối bỏ một chân lý phải tin với đức tin hướng Chúa và công giáo, hoặc ngoan cố hồ nghi về chân lý ấy sau khi đã lãnh nhận bí tích rửa tội.

      (iii) Bội giáo (apostasia) là chối bỏ toàn bộ đức tin Kitô giáo.

      (iv) Ly giáo (schisma) là từ chối vâng phục Đức Giáo hoàng hoặc từ chối hiệp thông với các chi thể của Hội thánh dưới quyền ngài.

Mặt khác, mê tín (superstitio) và cuồng tín (fanatismus) cũng có thể coi như trái nghịch với đức tin. Những thái độ này có khi bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về đức tin, nhưng cũng có khi do sự lạm dụng đức tin (hoặc tín ngưỡng) vào những mục tiêu chính trị thương mại.

5/ Những khung cảnh bất lợi cho đức tin

Trên đây, chúng ta đã nói đến “đức tin chết” khi không được liên kết với đức ái. Thiết tưởng ngày nay, dưới phương diện mục vụ, chúng ta cũng nên lưu ý đến môi trường bất lợi khiến cho việc chấp nhận và thực hành đức tin trở nên khó khăn, tựa như: thái độ lãnh đạm tôn giáo, não trạng duy lý hay duy vật, chủ thuyết hoài nghi (không chấp nhận có chân lý tuyệt đối), môi trường thế tục hóa, v.v...

D. Thần học tu đức

Có thể nói được rằng những ngành thần học trên đây nghiên cứu đức tin ở thế “tĩnh”; còn thần học tu đức thì theo dõi đức tin ở thế “động”

1/ Sống đức tin

Đức tin cần được nuôi dưỡng để được sinh động. Dựa theo ba thành tố của đức tin, ta có thể nói như sau:

      - Xét dưới khía cạnh tri thức, đức tin cần được bồi dưỡng nhờ học hỏi, lắng nghe;

      - Xét dưới khía cạnh ý chí, đức tin cần được bồi dưỡng nhờ tình yêu và các nhân đức khác;

      - Xét như là ân huệ, đức tin cần được bồi dưỡng nhờ cầu nguyện, bí tích.

2/ Sự tăng trưởng đức tin

Chúng ta thường nghe những người than phiền vì đã “mất đức tin”, nhưng đức tin đâu phải là một viên ngọc cất trong túi và có thể rớt mất! Đức tin là một cái gì sống động, và vấn đề quan trọng được đặt ra là: đức tin èo ọt, đức tin yếu ớt, đức tin vững mạnh. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu nhiều lần trách các môn đệ là “kém tin” (Mt 8,20; 16,8-9), “yếu tin” (Mt 14,30-31); và họ cũng thú nhận: “Lạy Chúa, chúng con tin, nhưng tăng thêm đức tin cho chúng con” (Mc 9,24).

Trên đây chúng tôi đã nói đến sự tiến triển của Hội thánh trong việc đào sâu hiểu biết gia sản đức tin. Ở đây chúng tôi chú ý đến sự tăng trưởng nơi cá nhân của mỗi cá nhân. Đức tin của chúng ta có thể tăng về phía đối thể, khi chúng ta hiểu biết sâu rộng hơn các đạo lý; đồng thời đức tin có thể tăng về phía chủ thể khi chúng ta tin tưởng phó thác vào Chúa hơn.

Sự tăng trưởng này có thể được nghiên cứu bằng nhiều lối tiếp cận: tâm lý,  thần học, huyền bí.

a) Tiếp cận tâm lý: những chặng tiến triển tâm lý

Khoa tâm lý tôn giáo đã mô tả những chặng tiến triển của “tín ngưỡng” nơi con người, cũng tương tự như sự tiến triển tâm lý, từ ấu trĩ đến trưởng thành[23]. Chúng tôi không muốn đi sâu vào khía cạnh này, nhưng chỉ dùng một khái niệm rất cơ bản để phân biệt mức độ trưởng thành, đó là từ chỗ nhận lãnh đến chỗ trao ban, giống như các nhi đồng mong chờ được mọi người chú ý săn sóc, và người trưởng thành thì quan tâm đến tha nhân. Một cách tương tự như vậy, trong lãnh vực đức tin, sự trưởng thành có thể nhận thấy ở chỗ trở nên chứng tá và thông đạt niềm tin của mình cho tha nhân, tham gia vào sứ vụ truyền giáo của Hội thánh (tự sắc Porta fidei, số 7).

Một quan điểm khác nhấn mạnh đến sự trưởng thành trong ý thức mối tương quan với Thiên Chúa: từ cảm giác mông lung về Đấng Thiêng Liêng của tín ngưỡng đến sự khám phá Thiên Chúa là Cha do đức Giêsu mạc khải; từ chỗ giữ đạo vì sợ sệt hay vụ lợi, đến chỗ yêu mến phụng thờ Chúa vì Ngài là Đấng Cao cả và đầy yêu thương.

b) Tiếp cận thần học

Thánh Tôma diễn tả sự tiến triển của các nhân đức dựa theo cấu trúc: từ nhân đức đến linh ân (ân huệ Thánh Linh). Trong bước đầu của nhân đức, con người gắng công thực tập; khi tiến đến chặng linh ân, con người để cho Thánh Linh dìu dắt. Đối với đức tin, thánh Tôma chú ý cách riêng đến ơn thâm hiểu (giúp chúng ta hiểu thấu các mầu nhiệm mạc khải) và ơn minh luận (giúp chúng ta đánh giá mọi sự theo viễn tượng của Chúa)[24].

Trong bối cảnh này, chúng ta có thể nói đến “cảm thức đức tin” (sensus fidei) của các tín hữu cũng như của cộng đoàn Dân Chúa[25]. Nhờ cảm thức đức tin, người tín hữu có khả năng phân định tất cả mọi sự theo nhãn giới đức tin: đức tin trở thành như là một thứ “bản năng” hoặc cảm nghiệm về Thiên Chúa (iudicium, cognitio per connaturalitatem)[26]

c) Tiếp cận huyền bí

Theo thánh Tôma, đức tin được thông dự vào sự hiểu biết của Thiên Chúa, vì thế là khởi đầu cho phúc kiến, khi con người được hiểu biết Chúa tường tận. Hành trình đức tin hướng đến đích điểm ấy (x.GLCG 163-165). Đức tin mang chiều kích cánh chung (xc. Dt 11,1). Khi còn trên đường lữ hành, đôi khi linh hồn được phúc cảm nghiệm sự gần gũi với Chúa qua sự chiêm niệm hoặc xuất thần.

Vài nhà huyền bí bên Đông Phương cũng thêm rằng tiến trình này đòi hỏi một sự thanh luyện, không những khỏi những hình ảnh khả giác về Thiên Chúa mà kể cả những ý niệm “loại suy” về Ngài. Thiên Chúa vượt lên trên mọi lối hình dung của trí tuệ con người. Đó là nguồn gốc của thần học “tiêu cực” (theologia negativa) hoặc “vô ngôn” (apophatica).

Cũng trong chiều hướng này mà thánh Gioan Thánh Giá diễn tả học thuyết về “đêm tối đức tin”. Như trên đã nói, đức tin là “ánh sáng” soi đường cho lý trí, nhưng nhìn dưới lăng kính của sự thanh luyện, thì ở giai đoạn này đức tin trở thành đêm tối (“đêm tối đức tin”), tuy rằng đó là “đêm tối sáng rực” hoặc “ánh sáng tối hù”, những thuật ngữ tương phản gặp thấy nơi nhiều nhà huyền bí (Grêgôriô Nyssa, Điônysiô Areopagita, Nicolas Cusanô)[27].

KẾT LUẬN

Như đã nói ở đầu, đức tin bao trùm toàn thể lãnh vực thần học, nhưng trong bài này chúng ta chỉ giới hạn vào một điểm: “những suy tư thần học về đức tin”. Chúng ta có thể so sánh với Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo. Toàn thể cuốn sách nói về đức tin: tuyên xưng đức tin, cử hành đức tin, sống đức tin, cầu nguyện. Tuy nhiên sách GLCG dành ra nhiều đoạn để bàn về đức tin, rải rác trong nhiều phần: 1/ Trong phần Mạc khải, dài nhất (số 142-175). 2/ Trong phần luân lý, khi nói về các nhân đức nói chung (số 1814-1816) và những tội trái nghịch với đức tin khi nói đến điều răn thứ nhất (số 2087-2089). 3/ Đức tin và các bí tích (số 1122-1126), đức tin và sự cầu nguyện (số 2656; 2715; 2716).

Một cách nào đó, có thể nói rằng bài này chú ý đến “đức tin chủ thể” (fides subjectiva, fides qua creditur), còn toàn bộ thần học thì nghiên cứu “đức tin khách thể” (fides objectiva, fides quae creditur, doctrina fidei). Hai khía cạnh liên hệ mật thiết và bổ túc cho nhau.

Để kết thúc, chúng ta cũng có thể thêm rằng: nhìn dưới một phương diện thì đức tin là một trong bảy nhân đức; dưới một phương diện khác, đức tin là “tất cả” (một cách tương tự như là “đức ái là tất cả”). Có lúc thánh Phaolô đã đồng hóa Kitô giáo với “đức tin” (1 Tm 4,1.6), và người Kitô hữu là “người tin” (2Tx 1,10).

 

(Bài này được đăng trên "Thời Sự Thần Học" số 58)

***

THƯ TỊCH

1. Từ điển

      O. Becker - O. Michel, “Fede” in: C. Coenen (cura), Dizionario dei concetti biblici del Nuovo Testamento, EDB Bologna, p. 619-637.

      J. Duplacy, “Fede” in: Xavier Leon Dufour (dir.), Dizionario di Teologia Biblica, Marietti Torino 1971, col.380-385.

      B. Marconcini, “Fede” in: P. Rossano (cura), Nuovo Dizionario di Teologia Biblica, Paoline Cinisello Balsamo 1988, p.536-552.

      G. Langevin, “Fe” in: R.Latourelle - R. Fisichella (dir.), Dictionario de Teologia Fundamental, Paulinas Madrid 1992, p.472-479.

      M. Seckler, “Fe”, in H. Fries (dir),  Conceptos Fundamentales de la Teología, Cristiandad, Madrid, 1967, tomo II, p.128-152

      M. Seckler - C. Berchtold, “Fede” in: P. Eicher (cura), Enciclopedia Teologica, Queriniana, Brescia, 1989, p.355-368.

      J. Alfaro, “Fede”, in: Sacramentum Mundi III, Brescia, Queriniana, 1974, 729-750.

      G. Bof, “Fede” in: G. Barbaglio - S. Dianich (cura), Nuovo Dizionario di Teologia, Paoline Roma 1979, p.508-531.

      A. De Sutter - M. Caprioli, “Fede” in: E. Ancilli (cura), Dizionario enciclopedico di spiritualità, Citta Nuova Roma 1990, 990-998.

2. Sách

      J. Truetsch - J. Pfammatter, “La fe”, in Mysterium salutis. Manual de Teologia como Historia de la salvacion, Volumen I, Tomo II, Cristiandad Madrid 1969, p.877-993.

      H. Fries, Teologia fondamentale, Queriniana Brescia 1987.

      H. Waldenfels, Teologia fondamentale, Paoline Cinisello Balsamo 1988.
                                               

 

[1] Trong tiếng Latinh, ngoài danh từ fides (và những từ cùng gốc fidelis, fidelitas) còn có động từ credere (và những từ ngữ cùng gốc: credibilis, credibilitas). Một cách tương tự như vậy tiếng Pháp có danh từ foi và động từ croire (từ đó: croyance), thêm vào những từ gốc Latinh: crédibilité, fidèle, fidélité. - Trong tiếng Anh, danh từ là faith (với các từ ngữ liên hệ: faithful, faithfulness), còn hành vi được gọi là to believe (từ đó có: belief, believer)ø; ngoài ra còn có những từ gốc Latinh: credit, credentials, fidelity.Trong tiếng Việt, “tin” hoặc “tín” cũng được ghép với nhiều từ khác: tin tưởng, tin cậy, tín ngưỡng, tín thác, trung tín, tín nhiệm, vv.

[2] J. Duplacy, “Fede” in: Xavier Leon Dufour (dir.), Dizionario di Teologia Biblica, Marietti Torino 1971, col.380-385.

[3] Thật ra, batak được chuyển sang tiếng Hy-lạp là elpìs, elpìzo, pèpoitha (và sang tiếng Latinh Vulgata là spes, sperare, confido); còn aman là pistis, pistúein, alétheia (Latinh: fides, credere, veritas). Trong Tân ước danh từ pistis xuất hiện 243 lần và động từ pisteúein 241 lần.

[4] Về ý nghĩa đoạn văn này, xem thông điệp Spe salvi của đức thánh cha Bênêđictô XVI, số 7.

[5] M. Seckler - C. Berchtold, “Fede”, Enciclopedia Teologica , Brescia 1989, 359.

[6] Sermo 43, 7, 9; Epist, 120, 1, 3.

[7] De Trinitate, l. XV, c. 2, n. 2.

[8] “Ego vero evangelio non crederem, nisi me catholicae ecclesiae commoveret auctoritas” Contra. epistolam quam vocant fundamenti, 5,6.

[9] De Trinitate, l. XIII,2.

[10] In Io., 4, lect. 5.

[11] Công đồng Vaticanô I định nghĩa đức tin như là : “một nhân đức đối thần, nhờ đó cùng với ơn soi sáng và giúp đỡ của Chúa mà ta tin thật những điều Chúa đã mạc khải không phải vì lý trí tự nhiên đã nhận ra sự thật nội tại của sự vật, nhưng vì uy thế của chính Thiên Chúa mạc khải là Đấng không thể lầm lẫn cũng không thể lừa dối ai” (“qua, Dei aspirante et adiuvante gratia, ab eo revelata vera esse credimus, non propter intrinsecam rerum veritatem naturali rationis lumine perspectam, sed propter auctoritatem ipsius Dei revelantis, qui nec falli nec fallere potest” (Constitutio Dei Filius : DzSch 3008)

[12] Hiến chế về Mạc khải số 5: Phải bày tỏ sự vâng phục bằng đức tin đối với Thiên Chúa mạc khải (Rm 1,5; 2Cr 10,5-6). Nhờ sự vâng phục đó, con người phó thác toàn thân cho Thiên Chúa một cách tự do “dâng lên Thiên Chúa mạc khải sự quy phục hoàn toàn của lý trí và ý chí” (Vaticanô I), đồng thời sẵn lòng chấp nhận mặïc khải mà Ngài ban cho.
 

[13] Các sách giáo khoa phân biệt bốn chặng: 1/ nhận thức về sự khả tín, credibilitas (tin là điều hợp lý); 2/ nhận thức về việc cần phải tin, credenditas (cần phải tin); 3/ ý chí quyết định tin (tôi muốn tin); 4/ lý trí đồng tình (tôi tin).

[14] Về điểm này, không thể bỏ qua thông điệp Fides et ratio của đức thánh cha Gioan Phaolô II.

[15] Xc. Ủy ban Thần học quốc tế, Thần học ngày nay. Viễn cảnh, nguyên lý và tiêu chuẩn (2011), số 16-19.

[16] “Credere est actus intellectus assentientis veritati divinae ex imperio voluntatis a Deo motae per gratiam” (Summa Theologica II-II, q.2, a.9c).

[17] Từ arete xuất hiện bốn lần trong Tân ước: một lần nơi thánh Phaolô (Pl 4,8) và ba lần nơi thánh Pherô (1Pr 2,9; 2Pr 1,3.5).

[18] Augustinus, Enarr. in Ps 77,8; Tract. in ev. Io. 29,6; Enarr. in Ps.130,1.

[19] Thomas Aquinas, Summa Theologica II-II, q.2, a.2. Nên lưu ý là trong tiếng Anh, credere Deo được dịch là “to believe in God”, vì thế khi dịch credere in Deum, người ta phải tạo ra thuật ngữ mới “to believe unto God”. Khía cạnh “đối thoại, gặp gỡ” của đức tin đã được tái khám phá nhờ tác phẩm của Jean Mouroux, Je crois en toi. La rencontre avec le Dieu vivant, Cerf Paris 1954, 2 éd (xuất bản lần đầu năm 1948).

[20] “Chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó. Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4,16).

[21]  Xem Hiến chế tín lý về Mạc khải số 5, được Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo lặp lại ở số 143.

[22] Ở đây “vô” có nghĩa là không, chứ không phải là gia nhập (đi vô).

[23] James W. Fowler, Stages of Faith: The Psychology of Human Development and the Quest for Meaning. HarperCollins, San Francisco, 1981.

[24] Summa Theologica, II-II, qq. 8-9.

[25] Xc. GLCG số 91-93.99; 250; 785; 889; 904

[26] Summa Theologica, II-II, q.45, a.2.

[27] Xc. Phan Tấn Thành, Đời sống tâm linh, tập IV (Chiều kích huyền bí trong các tôn giáo), trang 341.